Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 129
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP BỆNH CƠ TIM PHÌ ĐẠI TẮC NGHẼN, 
SUY TIM MANG ĐỘT BIẾN TRÊN GEN MYBPC3 
Trần Vũ Minh Thư*, Nguyễn Thụy Vy**, Phạm Nguyễn Vinh*** 
TÓM TẮT 
Bệnh cơ tim phì đại là bệnh di truyền thường do đột biến trên gen mã hóa protein của sarcomere. 
Biểu hiện lâm sàng thay đổi từ không triệu chứng đến suy tim nặng, đột quỵ, đột tử. Biểu hiện đa 
dạng này phản ánh sự liên quan đến tính di truyền không đồng nhất trong BCTPĐ. Vì vậy, việc tìm 
hiểu mối liên quan giữa kiểu gen và kiểu hình nhằm góp phần tiên lượng bệnh là điều cần thiết. Trong 
bài báo này, chúng tôi trình bày một trường hợp bệnh nhân nam 78 tuổi được chẩn đoán bệnh cơ tim 
phì đại. Bệnh nhân có những biến chứng nặng của bệnh cơ tim phì đại bao gồm suy tim, tắc nghẽn 
đường ra thất trái. Bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm di truyền và cho thấy có mang đột biến trên 
gen MYBPC3(c.2504G>T, p.Arg835Leu, dị hợp). Chúng tôi thảo luận về những biểu hiện lâm sàng 
của bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại mang đột biến trên gen MYBPC3. 
Từ khóa: Bệnh cơ tim phì đại, tắc nghẽn đường ra thất trái, suy tim, MYBPC3. 
SUMMARY 
HYPERTROPHIC CARDIOMYOPATHY OBSTRUCTION WITH HEART FAILURE 
HARBORING MUTATION IN THE MYBPC3 GENE: REPORT OF A CASE 
Tran Vu Minh Thu, Nguyen Thuy Vy, Pham Nguyen Vinh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 129 - 134 
Hypertrophic cardiomyopathy is the inherited cardiac disease, generally caused by mutations in 
cardiac sarcomere genes. Variability in clinical presentation ranges from minimal or no symptoms to 
the most serious complications including heart failure and sudden cardiac death. This diversity reflects 
relation to heterogeneous genotype. Hence, finding out genotype – phenotype associations is necessary 
for prognosis. We report a case of 78-year-old man with hypertrophic cardiomyopathy. He has suffered 
from severe complications comprised of heart failure, left ventricular outflow tract obstruction. Gene 
testing was indicated for this patient. The result of that test showed genetic mutation in MYBPC3 
gene (c.2504G>T, p.Arg835Leu, heterozygote). We discuss clinical features in the hypertrphic 
cardiomyopathy patitent with genetic mutation in MYBPC3 gene. 
Key words: hypertrophic cardiomyopathy, left ventricular outflow tract obstruction, heart failure, 
MYBPC3. 
GIỚI THIỆU 
Bệnh cơ tim phì đại (BCTPĐ) là bệnh lý 
cơ tim nguyên phát chủ yếu do đột biến gen 
mã hóa protein trên sarcomere. Về mặt mô 
học, BCTPĐ được đặc trưng bởi sự phì đại 
cơ tim, sự sắp xếp lộn xộn của tế bào cơ tim. 
Những bất thường này dẫn đến nhiều rối 
loạn chức năng(13). 
Bệnh cơ tim phì đại là nguyên nhân 
thường gặp nhất gây đột tử ở người lớn trẻ 
* Bệnh viện tim Tâm Đức, Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh 
** Trường Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch 
*** Bộ môn Di truyền, Khoa Sinh học và Công nghệ sinh học, Trường Đại học khoa học tự nhiên, ĐHQG 
TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS Trần Vũ Minh Thư ĐT: 0918335212 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 130
và là nguyên nhân chính gây bệnh tật và tử 
vong ở người lớn tuổi. 
Bệnh xảy ra với tần suất ước tính 1:500 
trong dân số chung(7). Biểu hiện lâm sàng 
của BCTPĐ thay đổi từ không có triệu 
chứng đến có những biểu hiện nặng như 
suy tim, đột quỵ, đột tử. Biểu hiện lâm sàng 
đa dạng của bệnh lý này phản ánh mức độ 
tác động khác nhau của các loại đột biến gây 
bệnh trong BCTPĐ. Đến thời điểm hiện tại 
hơn 1400 đột biến đã được xác định trên hơn 
11 gen liên quan đến sự co cơ(6). Hai gen đột 
biến thường gặp nhất là MYBPC3 – mã hóa 
myosin-binding protein C, và MYH7 – mã 
hóa beta-myosin heavy chain. Hai gen này 
hiện diện xấp xỉ ở 40% bệnh nhân BCTPĐ và 
80% những trường hợp mang đột biến gen 
gây bệnh mã hóa protein trên sarcomere(2,3). 
Việc điều trị BCTPĐ dựa vào đánh giá 
những biểu hiện lâm sàng. Sự hiểu biết về 
khía cạnh di truyền học cho phép chúng ta 
cung cấp thông tin tư vấn di truyền có ích cho 
bệnh nhân và người thân của họ. Phát hiện 
sớm đột biến ở người thân của bệnh nhân 
BCTPĐ giúp thu hẹp đối tượng được theo dõi 
và phát hiện sớm những biến chứng có thể 
xảy ra. Ngoài ra, những người thân của bệnh 
nhân BCTPĐ không mang đột biến tránh được 
việc theo dõi không cần thiết. 
Khả năng tiên lượng của xét nghiệm di 
truyền trong BCTPĐ vẫn chưa được chứng 
minh rõ ràng. Chẳng hạn như, đột biến trên 
gen MYBPC3 được cho là có liên quan đến 
khởi phát bệnh trễ, ít biểu hiện nặng, tiên 
lượng tốt hơn những bệnh nhân mang đột 
biến trên gen MYH7 và các đột biến mã hóa 
cho các protein khác trên sarcomere(1,5,9). Tuy 
nhiên, một số báo cáo lại đề cập đến các rối 
loạn nặng ở những bệnh nhân mang đột 
biến được cho là nhẹ, thậm chí ở những biến 
thể không gây bệnh(12). Vì vậy, việc đánh giá 
đột biến gen trên từng bệnh nhân cụ thể là 
điều cần thiết. Trong bài báo này, chúng tôi 
đề cập đến một bệnh nhân bệnh cơ tim phì 
đại tắc nghẽn có suy tim mang đột biến dị 
hợp và nhầm nghĩa Arg835Leu trên gen 
MYBPC3. 
CA LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nam, Nguyễn Hữu K. 78 tuổi. 
Địa chỉ: 155 Dạ Nam, phường 3, quận 8, 
thành phố Hồ Chí Minh. SNV: 16.2600. 
Bệnh sử: Bệnh nhân được chẩn đoán 
bệnh cơ tim phì đại cách nay 11 năm, tăng 
huyết áp cách nay 9 năm. Trong 9 năm đầu, 
thỉnh thoảng bệnh nhân nhói ngực không 
liên quan gắng sức. 2 năm nay, bệnh nhân 
khó thở, khi gắng sức nặng, giảm khi nghỉ. 
Khó thở ngày càng tăng dần. 1 năm nay 
bệnh nhân khó thở khi gắng sức vừa, giảm 
khi nghỉ. Kèm với khó thở bệnh nhân có đau 
ngực trái khi gắng sức vừa, giảm khi nghỉ. 
Bệnh nhân chưa từng bị ngất. 1 tuần trước 
nhập viện, bệnh nhân khó thở khi gắng sức 
nhẹ kèm hồi hộp, khó thở khi nằm đầu thấp, 
không sốt, không đau ngực, không đau 
bụng, tiêu phân vàng, tiểu trong, nên bệnh 
nhân nhập viện 06/2016. 
Tiền căn: bệnh nhân hút thuốc lá 30 
gói/năm. Ngưng thuốc lá đã 3 năm. Bệnh 
nhân có 5 người con trai. Cả năm người 
không triệu chứng, chưa từng kiểm tra tình 
trạng tim mạch. Cha mẹ ông mất năm 65 và 
75 tuổi, không rõ bệnh lý. Trong gia đình 
ông, thuộc trực hệ hàng thứ nhất, không ghi 
nhận có người đột tử trước 50 tuổi. 
Khám lâm sàng cho thấy bệnh nhân tỉnh, 
tiếp xúc được. Nhịp tim đều 70 lần/phút, 
huyết áp 130/70mmHg, nhịp thở 20l/phút, 
nhiệt độ 37oC. Mỏm tim ở liên sườn 5 đường 
trung đòn trái. Âm thổi tâm thu ở liên sườn 
4 trái dạng phụt 3/6 lan lên cổ. Âm thổi tâm 
thu ở mỏm dạng tràn cường độ 3/6 lan ra 
nách. Không có rung miu. Phổi có ran ẩm 
hai đáy. Mạch tứ chi đều rõ. 
Điện tâm đồ bộc lộ nhịp xoang, lớn thất 
trái theo tiêu chuẩn Sokolow – Lyon, ST 
chênh xuống thứ phát và sóng T hai pha ở 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 131
chuyển đạo DI, avL, V5, V6 (hình 1). X 
Quang ngực thẳng thể hiện bóng tim không 
to, tuần hoàn phổi tăng thụ động (hình 2). 
Holter điện tâm đồ 48 giờ cho thấy nhịp 
xoang, ngoại tâm thu thất hai dạng, ngoại 
tâm thu nhĩ. Kết quả xét nghiệm về huyết 
học không ghi nhận bất thường. NT-proBNP 
tăng: 3938 pg/ml. hs-Troponin cách nhau 3 
giờ tăng không có hiệu giá: 23 – 28 pg/ml. 
Siêu âm tim cho thấy phì đại toàn bộ thất 
trái, phì đại không đồng tâm, vị trí dày nhất 
ở phần đáy vách liên thất 24mm, tỷ lệ vách 
liên thất và thành sau thất trái: 1,4. Dấu 
SAM (systolic anterior motion) (+), chênh áp 
tối đa của dòng máu qua buồng tống thất 
trái 233 mmHg. Hở van hai lá nặng do đứt 
dây chằng lá trước. Áp lực động mạch phổi 
tâm thu 25 mmHg. Nhĩ trái dãn 46mm. Thất 
trái co bóp tốt với phân xuất tống máu 75%. 
Động mạch chủ lên không dãn 30mm (hình 
3). Siêu âm tim qua thực quản xác nhận 
bệnh nhân có hở van hai lá nặng do đứt dây 
chằng lá trước, không có sùi hay abcess. Sau 
những đánh giá ban đầu, bệnh nhân được 
chụp mạch vành để xác định tình trạng 
động mạch vành. Kết quả chụp động mạch 
vành thể hiện hẹp 30 – 40% động mạch liên 
thất trước; nhánh vách thứ nhất có kích 
thước 1,5mm. 
Bệnh nhân được chẩn đoán: Suy tim tâm 
trương NYHA III. Bệnh cơ tim phì đại tắc 
nghẽn. Hở van hai lá nặng do đứt dây chằng 
lá trước. Điều trị suy tim với lợi tiểu. Bệnh 
nhân có chỉ định phẫu thuật cắt bớt vách liên 
thất và sửa van hai lá. Tuy nhiên bệnh nhân 
chưa đồng ý và muốn điều trị nội khoa. Nguy 
cơ đột tử 5 - năm: 2%. Vì vậy, bệnh nhân chưa 
có chỉ định đặt máy phá rung cấy được. Sau 9 
ngày điều trị, tình trạng suy tim đã cải thiện, 
bệnh nhân xuất viện với các thuốc bao gồm ức 
chế bêta, ức chế men chuyển, lợi tiểu, statin. 
Hình 1: Điện tâm đồ với nhịp xoang, trục lệch 
trái, lớn thất trái. 
Hình 2: X-Quang ngực thẳng cho thấy bóng tim 
không to, tuần phổi tăng thụ động. 
Hình 3: Siêu âm tim qua thành ngực. A,B: vách 
liên thất dày; C hở van hai lá nặng; D: chênh áp qua 
buồng tống thất trái 233 mmHg. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 132
Người khỏe mạnh Bệnh nhân 
Ngoài những xét nghiệm và phương 
pháp chẩn đoán hình ảnh được thực hiện ở 
trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện xét 
nghiệm di truyền cho bệnh nhân. Xét 
nghiệm di truyền được thực hiện sau khi 
bệnh nhân được giải thích về xét nghiệm di 
truyền và ký giấy đồng ý thực hiện xét 
nghiệm này. Nghiên cứu đã được sự chấp 
thuận của hội đồng y đức Đại học y dược 
thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã lấy 
2ml máu tĩnh mạch và tiến hành tách chiết 
DNA bộ gen của tế bào máu bằng bộ kit 
QIAamp DNA Blood Mini Kit (Qiagen). Sau 
đó, chúng tôi sử dụng phương pháp giải 
trình tự thế hệ mới để giải trình tự tất cả các 
exon mang mã và vùng trình tự lận cận của 
23 gen liên quan đến BCTPĐ bao gồm: 
MYH7, MYBPC3, TNNT2, TNNI3, TPM1, 
MYL2, MYL3, ACTC1, TNNC1, MYH6, LDB3, 
CSRP3, TCAP, VCL, ACTN2, MYOZ2, NEXN, 
PLN, JPH2, TTR, GLA, LAMP2, và PRKAG2. 
Việc giải trình tự được thực hiện trên hệ 
thống máy MiSeq sử dụng bộ kit MiSeq 
Reagent Kits v2 300 cycle (Illumina). Các đột 
biến gây bệnh phát hiện được sẽ được xác 
nhận lại bằng phương pháp giải trình tự 
Sanger với cặp mồi chuyên biệt. Kết quả cho 
thấy bệnh nhân mang đột biến nhầm nghĩa 
và dị hợp trêngen MYBPC3 tại codon 835: từ 
CGC mã hóa cho amino acid arginine 
chuyển thành CTT mã hóa cho amino acid 
leucine (Arg835Leu) (Hình 4). 
Hình 4: Kết quả giải trình tự Sanger xác nhận 
đột biến Arg835Leu trên gen MYBPC3 của bệnh 
nhân nghiên cứu. 
BÀN LUẬN 
Đột biến trên gen MYBPC3 là đột biến 
thường gặp nhất ở bệnh nhân BCTPĐ. Nhiều 
báo cáo khác nhau đã cho thấy đột biến trên 
gen MYBPC3 hiện diện 14% - 26% ở Mayo 
clinic, 26% ở Pháp, 18% ở Đức, 21,7% ở Thụy 
Điển, 24% ở Phần Lan, 15% ở Trung 
Quốc(14,15,11). Với sự hiểu biết của chúng tôi, 
hiện chưa có nghiên cứu báo cáo tần suất đột 
biến trên gen MYBPC3 tại Việt Nam. Nhiều 
báo cáo đã cho thấy có sự khác biệt liên quan 
đến tiên lượng bệnh ở những bệnh nhân 
BCTPĐ mang đột biến trên gen MYBPC3. 
Chẳng hạn, nghiên cứu của Li thể hiện biến cố 
lâm sàng bao gồm suy tim, đột quỵ, phẫu 
thuật cắt vách, đột tử tương tự giữa hai nhóm 
bệnh nhân mang đột biến trên gen MYBPC3 
và MYH7(4). Nghiên cứu của Marsiglia đã cho 
thấy đột biến MYH7 là đột biến ác tính với bề 
dày thành tim dày nặng, suy tim nhiều, tắc 
nghẽn nặng và đột tử cao(8). Trong khi đó, 
Richard(10) báo cáo kết quả khác biệt với Li(4), 
đột biến trên gen MYH7 ác tính, đột biến trên 
gen MYBPC3 có tiên lượng trung bình, lành 
tính. Zhang báo cáo hầu hết đột biến trên gen 
MYBPC3 có tiên lượng lành tính, thành tim 
phì đại nhẹ, bệnh khởi phát trễ, tính thấm 
không hoàn toàn(16). 
Đột biến p.Arg835Leu trên gen MYBPC3 
phát hiện ở bệnh nhân đã được ghi nhận 
trong nghiên cứu của Millat và cs(17) trên 
quần thể 192 bệnh nhân BCTPĐ người Pháp 
và trong nghiên cứu của Otsuka và cs(18)trên 
quần thể 112 bệnh nhân BCTPĐ người Nhật. 
Trong nghiên cứu của Millat(17), đột biến 
MYBPC3-p.Arg835Leu được tìm thấy ở bệnh 
nhân BCTPĐ có mang thêm một đột biến 
nhầm nghĩa khác trên gen MYH7 và được 
chẩn đoán ở tuổi 61. Trong khi đó, nghiên 
cứu của Otsuka(18) đã phát hiện được 1 bệnh 
nhân mang đột biến p.Arg835Leu cùng với 
một đột biến lệch khung khác trên gen 
MYBPC3. Bệnh nhân này được chẩn đoán 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 133
BCTPĐ có nhịp nhanh thất ở tuổi 43 và sau 
đó tiến triển thành BCTPĐ với các buồng 
tim dãn tuổi 61. 
Bệnh nhân của chúng tôi được chẩn 
đoán ở tuổi 67. Điều này phù hợp với nhận 
định từ nghiên cứu của Zhang(16) là bệnh 
nhân BCTPĐ mang đột biến MYBPC3 có 
tuổi phát bệnh trễ. Ở thời điểm nhập viện, 
bệnh nhân 78 tuổi, ông có hai biến chứng 
suy tim và tắc nghẽn đường ra thất trái. Suy 
tim tâm trương được nhận ra bởi triệu 
chứng khó thở khi nằm và khi gắng sức, ran 
ẩm ở phổi, NT-proBNP tăng, thất trái co bóp 
tốt với phân xuất tống máu thất trái 75%. Hở 
van hai lá nặng góp phần làm nặng thêm 
tình trạng suy tim của bệnh nhân. Biến 
chứng tắc nghẽn gây khó thở, đau ngực khi 
gắng sức nhẹ (NYHA 3) và mức độ nghẽn 
nặng được chứng minh với chênh áp tối đa 
qua buồng tống thất trái được đo trên siêu 
âm Doppler là 233 mmHg. Chúng tôi nhận 
thấy những biến chứng nặng xảy ra ở bệnh 
nhân BCTPĐ này phù hợp với nhận xét từ 
nghiên cứu của Li rằng biến cố lâm sàng bao 
gồm suy tim, đột quỵ, phẫu thuật cắt vách, 
đột tử tương tự giữa hai nhóm bệnh nhân 
mang đột biến trên gen MYBPC3 và 
MYH7(4). Điều này có nghĩa là những hiểu 
hiện lâm sàng ở bệnh nhân này không tương 
đồng với những triệu chứng lâm sàng được 
tìm thấy trong nghiên cứu của Zhang và 
Richard(10,16). Như vậy, cần nhiều nghiên cứu 
thêm nữa trên bệnh nhân người Việt Nam 
để làm sáng tỏ mối liên quan kiểu gen – kiểu 
hình ở bệnh nhân BCTPĐ. 
KẾT LUẬN 
Bệnh nhân BCTPĐ của chúng tôi đã cho 
thấy người bệnh BCTPĐ mang đột biến 
MYBPC3 có thể chịu nhiều biến chứng nặng 
như suy tim, tắc nghẽn đường ra thất trái, 
hở van hai lá nặng. Vì vậy, việc đánh giá 
toàn diện bệnh nhân BCTPĐ dù bệnh nhân 
mang đột biến trên gen MYBPC3 hay đột 
biến trên những gen khác là quan trọng và 
cần thiết để phát hiện biến chứng nhằm 
điều trị kịp thời. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Charron P, Dubourg O, Desnos M, et al (1998), 
“Clinical features and prognostic implications of 
familial hypertrophic cardiomyopathy related to the 
cardiac myosin binding protein C gen”, Circulation, 
97:2230–2236. 
2. Charron P, Arad M, Arbustini E, et al (2010), 
“Genetic counselling and testing in 
cardiomyopathies”, Eur Heart J, 31:2715–2726. 
3. Elliott PM, Anastasakis A, Borger MA, et al (2014), 
“ESC Guidelines on diagnosis and management of 
hypertrophic cardiomyopathy”, Eur Heart J, 35:2733–
2779. 
4. Li Q, Gruner C, Chan RH (2014), “Genotype-Positive 
Status in Patients With Hypertrophic 
Cardiomyopathy Is Associated With Higher Rates of 
Heart Failure Events”, Circ Cardiovasc Genet, 7:416-
422. 
5. Konno T, Shimizu M, Ino HT, et al (2003), “A novel 
missense mutation in the myosin binding protein-C 
gene is responsible for hypertrophic cardiomyopathy 
with left ventricular dysfunction and dilation in 
elderly patients”, J Am Coll Cardiol, 41:781–786. 
6. Maron BJ, Maron MS, Semsarian C (2012), “Genetics 
of Hypertrophic Cardiomyopathy After 20 Years”, J 
Am Coll Cardiol, 60:705–1. 
7. Maron BJ, Maron MS (2013), “Hypertrophic 
cardiomyopathy”, Lancet, 381:242–255. 
8. Marsiglia JDC, Credidio FL, Oliveira TGM, et al 
(2013), “Screening of MYH7, MYBPC3, and TNNT2 
genes in Brazilian patients with hypertrophic 
cardiomyopathy”, Am Heart J, 166:775-82. 
9. Niimura H, Bachinski LL, Sangwatanaroj S, et al 
(1998), “Mutation in the gene for cardiac myosin- 
binding protein C and late-onset familial 
hypertrophic cardiomyopathy”, N Engl Jmed, 
338:1248–1257. 
10. Richard P, Charron P, Carrier L, et al (2003), 
“Hypertrophic cardiomyopathy: distribution of 
disease genes, spectrum of mutations, and 
implications for a molecular diagnosis strategy”, 
Circulation. 107, 2227-32. 
11. Richard P, Villard E, Charron P, et al (2006), “The 
genetic bases of cardiomyopathies”, J Am Coll 
Cardiol, 48(9 Suppl A), A79-89. 
12. Rodrıguez-Garcıa MI, Monserrat LM, Ortiz X et al 
(2010), “Screening ~ mutations in myosin binding 
protein C3 gene in a cohort of patients with 
Hypertrophic Cardiomyopathy”, BMC Med Genet, 
11:67. 
13. Teare D (1958), “Asymmetrical hypertrophy of the 
heart in young adults”, BrHeartJ, 20:1-18. 
14. Van Driest SL, Ommen SR, Tajik AJ et al (2005), 
“Sarcomeric genotyping in hypertrophic cardio-
myopathy”, Mayo Clin Proc, 80: 463-469. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 134
15. Zhao B, Wang S, Chen J, et al (2017), 
“Echocardiographic characterization of hypertrophic 
cardiomyopathy in Chinese patients with myosin-
binding protein C3 mutations”, Experimental and 
therapeutic medicine,13: 995-1002. 
16. Zhang X, Xie J, Zhu S et al (2017), “Next-generation 
sequencing identifies pathogenic and modifier 
mutations in a consanguineous Chinese family with 
hypertrophic cardiomyopathy”, Medicine, 
96:24(e7010). 
17. Millat G, Bouvagnet P, Chevalier P et al (2010), 
“Prevalence and spectrum of mutations in a cohort 
of 192 unrelated patients with hypertrophic 
cardiomyopathy”, European Journal of Medical 
Genetics, 53: 261-267. 
18. Otsuka H, Arimura T, Abe T et al (2012), 
“Prevalence and Distribution of Sarcomeric Gene 
Mutations in Japanese Patients With Familial 
Hypertrophic Cardiomyopathy”, Circulation Journal, 
76: 453-461. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018