Luận văn Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau

Tài liệu Luận văn Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau: LUẬN VĂN: Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng, trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân tại đơn vị cơ sở. Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt và phải giải quyết liên tục những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo, quản lý tại cơ sở. Nhận thức được điều này, Đảng ta có rất nhiều nghị quyết, chủ trương tăng cường sự lãnh đạo cũng như việc nâng cao trình độ các ...

pdf106 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 976 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng, trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân tại đơn vị cơ sở. Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt và phải giải quyết liên tục những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo, quản lý tại cơ sở. Nhận thức được điều này, Đảng ta có rất nhiều nghị quyết, chủ trương tăng cường sự lãnh đạo cũng như việc nâng cao trình độ các mặt cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Tuy vậy, thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tổng kết vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng ta nhận định rằng, đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập trước yêu cầu đổi mới, thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn. Sự yếu kém đó thể hiện rõ nhất ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau nói riêng. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn thiếu năng lực tư duy biện chứng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổng kết thực tiễn để rút ra những kinh nghiệm bổ ích nhằm điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn trong các giai đoạn tiếp theo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những hạn chế, khuyết điểm trong thời gian qua, điểm chủ yếu là một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau vẫn còn tiếp tục mắc phải những ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo và tổ chức thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu sự “Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau” là yêu cầu cấp thiết để nâng nhận thức lên tầm tư duy khoa học trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà các văn kiện, các nghị quyết của Đảng đã đề cập, đặc biệt là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu vấn đề đổi mới tư duy, trong đó phải kể đến một số công trình có liên quan như: - Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Tạp chí Triết học số 2/1998. - Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo: Từ tư duy lý luận đến tư duy kinh nghiệm, Thông tin lý luận, số 6/1998. - Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long: Chống bệnh kinh nghiệm giáo điều đổi mới tư duy lý luận, Tạp chí Cộng sản số 05/1988 - Tiến sĩ Thiều Quang Đồng: Lôgíc học với việc nâng cao trình độ tư duy lôgíc … “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007. - Tiến sĩ Nguyễn Thị Nga: Vấn đề khắc phục sự lạc hậu của ý thức xã hội ở nước ta hiện nay, “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007… Đến nay, tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư duy con người, nhưng việc nghiên cứu tư duy đặc thù của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng thì hầu như chưa có công trình nào đề cập một cách cụ thể. Do vậy, vấn đề nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức đối với cán bộ ta vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để góp phần cho các cấp lãnh đạo, quản lý nghiên cứu và tổ chức thực tiễn trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Làm rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm và những ảnh hưởng của nó trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Cà Mau. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Phân tích làm rõ bản chất, biểu hiện và những nguyên nhân chủ yếu của tư duy kinh nghiệm; phân tích đánh giá thực trạng và nguyên nhân ảnh hưởng của nó, qua đó trình bày một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục tư duy kinh nghiệm, nâng cao trình độ tư duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở ở Cà Mau nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Nghiên cứu bản chất, biểu hiện và nguyên nhân chủ yếu mang tính đặc thù của tư duy kinh nghiệm ảnh hưởng đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn giới hạn việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở xã, phường, thị trấn nhưng phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu đối với cấp xã gồm: Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân, Trưởng, phó các ngành của xã qua khảo sát thực tế tại tỉnh Cà Mau. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những nguyên lý nhận thức mác xít, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về tư tưởng lý luận, nhận thức, các văn kiện của Đảng bộ Cà Mau (tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn). - Luận văn kế thừa và sử dụng một số kết quả công trình khoa học của tác giả đã nghiên cứu và được công bố trên các sách, báo, tạp chí có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử-lôgíc, điều tra, khảo sát thực tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho lãnh đạo, quản lý nghiên cứu, tổ chức thực tiễn nhằm để khắc phục tư duy kinh nghiệm thiếu cơ sở khoa học và chỉ ra con đường biện chứng duy vật trong nhận thức, lãnh đạo hoạt động thực tiễn. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, các trường cao đẳng và đại học, về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước vững mạnh,… 7. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Lần đầu tiên, tác giả luận văn khái quát một số nét đặc thù của tư duy kinh nghiệm và sự ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau; chỉ ra tác hại của tư duy thiếu cơ sở khoa học, nâng cao năng lực tư duy biện chứng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau. - Tìm ra nguyên nhân và đề ra một số giải pháp chủ yếu mang tính khả thi góp phần cùng Đảng bộ Cà Mau nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 TƯ DUY KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ DUY CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỈNH CÀ MAU 1.1. TƯ DUY KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 1.1.1. Tư duy Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu tư duy ở góc độ khác nhau. Từ xa xưa, con người đã biết suy luận một cách tự nhiên, tự phát. Trong quá trình lao động sản xuất và trong hoạt động thực tiễn của mình, nhu cầu hiểu biết về thế giới khách quan, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, những hiểu biết của mình với người khác ngày một nâng cao. Chính trong quá trình đó đã dần dần tạo cho con người cách suy nghĩ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, tư duy là sản phẩm cao nhất của cái vật chất có tổ chức đặc biệt, đó là bộ não người. Quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan của tư duy được biểu hiện trong các khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh,... Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, phát hiện ra những mối liên hệ bản chất của hiện thực. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơ chế sinh lý học vật chất của tư duy được nghiên cứu trong sinh lý học hoạt động thần kinh cao cấp. Tuy nhiên, mặc dù không tách khỏi bộ não của con người nhưng tư duy vẫn không thể được giải thích một cách hoàn toàn bởi hoạt động của bộ máy sinh lý học. Bởi lẽ, tư duy gắn liền trước hết không phải với sự tiến hóa của sinh học mà còn gắn với sự phát triển của xã hội. Nó là sản phẩm của xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất hiện, cả về phương thức hoạt động, cả về kết quả của nó. Sở dĩ như thế là vì, tư duy chỉ tồn tại trong một mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và lời nói; là hoạt động chỉ tiêu biểu cho xã hội loài người, là hoạt động mang tính tộc loại. Cho nên, tư duy của con người được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ nhất với lời nói và những kết quả của tư duy được ghi nhận trong ngôn ngữ. Tiêu biểu cho tư duy là quá trình trừu tượng hóa, khái quát hóa, quá trình phân tích và tổng hợp, việc nêu lên vấn đề và tìm cách giải quyết chúng, việc đề xuất những giả thiết, những ý niệm, v.v... Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó. Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được biểu hiện ở khả năng của con người có thể xây dựng khái niệm chung. Việc xây dựng khái niệm khoa học là gắn liền với sự trình bày những quy luật tương ứng. Khả năng phản ánh hiện thực một cách gián tiếp của tư duy được biểu hiện ở khả năng suy lý, kết luận logic, chứng minh,... của con người. Xuất phát từ chỗ phân tích các sự kiện có thể tri giác được một cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì không thể tri giác được nhờ các giác quan. Những khái niệm và hệ thống những khái niệm ghi lại kinh nghiệm của loài người là sự tập trung tri thức của con người và là điểm xuất phát để tiếp tục nhận thức thực tại. Chính vì vậy, mỗi ngày con người có thể nhận thức sâu rộng hơn về thế giới. Tư duy, xét về bản chất là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan, bởi vì trong quá trình phản ánh, tư duy không sao chép nguyên xi sự vật mà biết phân loại sự vật, chính bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng trên cơ sở khái quát hóa, trừu tượng hóa, đem đến cho con người những tri thức về bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng khách quan. Sự sáng tạo của tư duy còn thể hiện ở chỗ sự phản ánh không rập khuôn, giáo điều, máy móc và càng xa lạ với thái độ thụ động, ỷ lại, chủ quan duy ý chí, đó là khả năng nắm bắt được bản chất của sự vật, biết phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát từ thực tế sinh động của đời sống hiện thực để rút ra những kết luận khoa học. Nói như Các-Mác, sự sáng tạo đó thể hiện ở “cái vật chất di chuyển vào trong óc và cải biến đi” hay như cách nói của V.I. Lênin, đó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Với bản chất phản ánh sáng tạo, tư duy luôn vươn tới cái mới, cái tiến bộ giúp con người nhận thức thế giới khách quan ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [27, tr.489]. Khi đề cập tư duy, xem nó là vấn cốt lõi của lý luận nhận thức, cũng chính là để giải quyết, tìm ra phương pháp, cách thức đi đến nhận thức bản chất quy luật của các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Nếu không giải quyết một cách thấu đáo, có cơ sở khoa học thì việc lý giải nhận thức của con người chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu. Qua nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy, các nhà triết học trước Mác dù đứng trên quan điểm duy vật hay duy tâm, việc nghiên cứu tư duy của họ chỉ giới hạn ở việc xem xét nghiên cứu tư duy chủ yếu ở mặt nội dung của nó và họ thấy rằng tư duy chỉ là sự phản ánh thụ động thế giới bên ngoài vào óc con người, họ giới hạn ở việc chỉ ra tác động của khách thể đối với chủ thể, coi tư duy chỉ là kết quả của sự tác động đó. Tuy nhiên, họ cũng đã đề cập các dạng nhận thức ở các cấp độ khác nhau giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính và khẳng định được vai trò của cảm giác, kinh nghiệm hoặc là lý tính, tư duy, nhưng họ chưa giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quá trình nhận thức, từ nhận thức cảm tính đến lý tính, chưa thấy được bước chuyển hóa giữa hai quá trình này, chưa giải quyết một cách đúng đắn về nội dung, hình thức, phương pháp và vai trò, tác dụng của quá trình nhận thức… Do đó, các nhà triết học trước Mác chưa xây dựng được phương pháp luận khoa học cho quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ của chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người là thực tiễn” [26, tr.9]. Theo Mác, cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn - lịch sử - xã hội. Vậy, lịch sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ thực tiễn hoạt động của con người trong đó, chính hoạt động lao động sản xuất vật chất là nền tảng cho sự tồn tại, phát triển xã hội, là hoạt động cơ bản nhất và cũng chính hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành các loại quan điểm, tư tưởng, các quan hệ và các thiết chế xã hội khác nhau và cũng là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Nghĩa là, hoạt động sản xuất vật chất ngày càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng phát triển theo cùng với quá trình cải biến tự nhiên của con người. Bởi vì, trong quá trình tác động biến đổi hiện thực, con người luôn tìm tòi, suy nghĩ, dùng những biện pháp, cách thức để tác động vào giới tự nhiên làm cho tự nhiên bộc lộ những đặc điểm, những quy luật, những thuộc tính của nó, qua đó con người nhận biết về chúng trên cơ sở những kinh nghiệm được tích lũy dần dần trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đây là cơ sở cho quá trình nhận thức. Bằng cảm giác, bằng các giác quan của mình dần dần hình thành nên tri thức, biểu tượng về sự vật được tái hiện trong đầu một cách khái quát và dựa trên tài liệu mà nhận thức cảm tính đem lại, trải qua quá trình phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… mà xây dựng các khái niệm, phạm trù, vạch ra bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận thức đáng tin cậy, gắn với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức. Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào óc người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ… và phải trải qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Hai giai đoạn này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tuy chúng có khác nhau về vị trí, mức độ, phạm vi phản ánh, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng phản ánh và chỉ có thể đạt được sự nhận thức khi nó vạch ra mối liên hệ bản chất, tất yếu, vạch ra quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [27, tr.720]. Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức và trên cơ sở thực tiễn các nhà kinh điển duy vật mác-xít đã luận giải một cách khoa học về quá trình nhận thức cũng như sự hình thành tư duy của con người, đồng thời V.I. Lênin cũng đã cảnh báo về khả năng nguy cơ sai lầm khi tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào, giai đoạn nào của quá trình nhận thức. Bởi vì, nhận thức là một quá trình mang tính lịch sử - cụ thể, những tri thức mà con người đạt được ở mỗi giai đoạn nhất định là nấc thang, con đường vô tận mà con người luôn vươn tới để phản ánh. Do đó, nó không phải là cái gì cứng nhắc mà hết sức sống động biến đổi, phát triển trước sự đa dạng muôn vẽ của thực tại khách quan. Ở những trình độ khác nhau, điều kiện lịch sử khác nhau thì tư duy, vốn tri thức của con người cũng không giống nhau, tuy nhiên nó vẫn có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan. Sự xâm nhập trí tuệ con người vào thế giới khách quan đi từ cảm tính đến lý tính, từ kinh nghiệm đến lý luận, đó là sự phản ánh hiện thưc ở cấp độ bản chất, quy luật, cái bên trong, tất yếu của sự vật, hiện tượng. Vì thế, nó gắn liền với tư duy trừu tượng là khái quát cao của nhận thức, nhưng lý luận không phải là kết quả của sự trừu tượng thuần túy mà lý luận xét ở góc độ nhất định là kết quả của sự khái quát từ kinh nghiệm cảm tính. Nói về quá trình nhận thức của con người, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” [18, tr.179]. Đây là quá trình diễn ra rất phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu khác nhau, song đây là con đường biện chứng của nhận thức chân lý. Tư duy, giai đoạn thứ hai của quá trình nhận thức là sự khái quát những cảm giác, tri giác và phản ánh hiện thực khách quan thông qua những biểu tượng, khái niệm, phạm trù, là năng lực của bộ óc người, vì thế, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính, và nếu dừng lại ở tri giác, cảm giác thì không thể nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật. Vậy về bản chất, tư duy là sự vận động tất yếu của quá trình nhận thức, là sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, gắn liền với hoạt động sản xuất xã hội và ngôn ngữ, phản ánh một cách tích cực sáng tạo thế giới khách quan trong các khái niệm, phạm trù, quy luật là trình độ cao của quá trình nhận thức. Quy luật của tư duy là sự phản ánh khái quát các quy luật của thực tại khách quan một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại, đem lại nhận thức mới và định hướng, chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Tư duy phản ánh tồn tại, do tồn tại quy định, song tư duy có tính năng động, sáng tạo, có tính độc lập tương đối so với tồn tại. Điều đó được hiểu theo hai nghĩa: Một là, cái phản ánh và cái được phản ánh không bao giờ trùng khít hoàn toàn. Hai là, quá trình tư duy còn có những quy luật riêng có của nó. Sự chuyển hóa từ tư duy kinh nghiệm lên tư duy lý luận, từ tư duy thông thường lên tư duy khoa học, từ cụ thể đến trừu tượng và ngược lại, từ đơn nhất đến đặc thù, phổ biến và ngược lại, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp thấp đến bản chất cấp cao. Đây là quá trình lịch sử của tư duy và quá trình phát triển của tư duy đang nhận thức. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau của tư duy biện chứng. Ph.Ăngghen viết: Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng nhất quán về lý luận, nó là sự phản ánh uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp, hơn nữa mỗi nhân tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới hình thức cổ điển của nó [28, tr.614-615]. Tư duy cũng như mọi hoạt động có ý thức của con người, bao giờ cũng có sự tham gia của nhiều yếu tố tâm lý xã hội khác nhau như lòng tin, ý chí, trình độ nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử… nếu không dựa trên cơ sở tư duy khoa học đúng đắn thì sẽ làm cho hoạt động của con người thiếu sự chứng minh, thiếu phê phán, phân tích sự vật sẽ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn, không giúp con người có định hướng đúng đắn. Chúng ta biết rằng, tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo và quy luật hoạt động của tư duy luôn vươn tới những nhận thức mới, nắm bắt cái mới, định hướng cho nhận thức hoạt động thực tiễn của con người. Vì thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức và tư duy do động lực của hiện thực khách quan chi phối và quy định. Cho nên, khi còn ở trình độ thấp (nhận thức cảm tính) thì động lực của tư duy chỉ đáp ứng ở mức độ theo trình độ nhận thức đó. Khi hoạt động thực tiễn của con người ngày càng đi sâu vào khám phá, nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì phương pháp và cách thức của tư duy cũng được nâng lên ở trình độ cao hơn (nhận thức lý tính). Vì thế, tư duy của con người không phải là bất biến mà nó có quá trình hình thành và phát triển theo quy luật vốn có của nó. Nghĩa là nó cũng có quá trình hình thành, biến đổi và phát triển để đạt đến trình độ ngày càng cao hơn. Ph.Ăngghen khẳng định, “tư duy, trí tuệ của con người phát triển song song với trình độ cải biến quá trình tự nhiên” [1, tr.357]. Như vậy, tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, là sản phẩm của lịch sử và mục đích của tư duy là hướng tới phục vụ cho thực tiễn. Do đó, tư duy không những là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức mà trong mọi hoạt động của con người đều phải dựa trên cơ sở của tư duy và tùy thuộc vào trình độ năng lực và kết quả nhận thức của chủ thể. 1.1.2. Tư duy kinh nghiệm - Khái niệm: Như đã phân tích các khía cạnh về tư duy, trình độ của tư duy được xem xét ở các cấp độ khác nhau như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm có phương pháp và chức năng khác với tư duy lý luận. Đối tượng nghiên cứu của tư duy kinh nghiệm là những khách thể tồn tại trong không gian và thời gian với sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái đặc thù và cái phổ biến. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, có rất nhiều nhà triết học xem xét tư duy kinh nghiệm ở nhiều góc độ khác nhau. Quan điểm của những nhà cảm giác, kinh nghiệm chủ nghĩa cho rằng, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận rằng, nguồn gốc của kinh nghiệm là ở bên ngoài, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã thể hiện quan niệm về vấn đề này là kinh nghiệm chỉ được coi như kết quả của sự tiếp thu thụ động thế giới bên ngoài, nhưng tự bản thân nó, kinh nghiệm cảm tính không đem lại một tri thức phổ biến và cần thiết, mà chỉ nắm lấy mặt bên ngoài, bề mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Kế thừa những thành tựu triết học trước kia, chủ nghĩa Mác đã khắc phục tính chất trực quan trong việc giải thích kinh nghiệm, thừa nhận kinh nghiệm là cái có sau so với hiện thực khách quan, chủ nghĩa Mác coi kinh nghiệm không phải là một nội dung thụ động của ý thức mà là sự tác động thực tiễn của con người đến thế giới bên ngoài. Trong quá trình tác động đó, con người phát hiện ra những mối liên hệ cần thiết, những đặc tính, những tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, con người tìm kiếm và thử nghiệm những phương pháp và phương tiện hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra. Như vậy, kinh nghiệm được hiểu là sự tác động qua lại của các chủ thể xã hội với thế giới bên ngoài, vừa được hiểu là kết quả của sự tác động đó. Hay “kinh nghiệm được dùng để chỉ sự hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được là nhờ tiếp xúc; từng trải thực tế” [4, tr.948]. Xét về mặt lịch sử, nội dung của kinh nghiệm luôn có tính lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm là cái riêng, nếu so với lý luận là cái chung. Kinh nghiệm cũng phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy, theo quan điểm của triết học mácxit, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan. Về phương diện nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, hiện thực khách quan là tính thứ nhất. Về hình thức, kinh nghiệm là cái thuộc về chủ quan là hình thức của ý thức, của tư duy. Về nội dung, kinh nghiệm mang nội dung khách quan, vì nó phản ánh thế giới khách quan. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan và quá trình hình thành tri thức về hiện thực khách quan trong bộ não người nhờ có nhận thức. Vì vậy, tri thức là kết quả của quá trình nhận thức, không phải giản đơn, thụ động, máy móc mà là một quá trình biện chứng, chủ động, tích cực, sáng tạo để có thể rút ra những kết luận ngày càng chính xác, tiếp cận ngày càng gần hơn chân lý khách quan. Kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn con người, nó được khái quát hóa, trừu tượng hóa thành lý luận. Lý luận là cấp độ phát triển cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất nông đến bản chất sâu sắc hơn và cũng chính những kết quả của quá trình nhận thức làm con người có những tri thức ở những trình độ khác nhau. Có thể nói rằng, tư duy kinh nghiệm được hiểu là sự thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người nhưng còn ở trình độ thấp. Từ kinh nghiệm trong thực tiễn cuộc sống (sản xuất, giao tiếp…), người ta có thể rút ra những kết luận có khi khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái quát được những mối liên hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng và chưa giải quyết được một cách khoa học về những kết luận ấy. C.Mác cho rằng: “Những người kinh nghiệm chủ nghĩa là những người vẫn còn là trừu tượng” [25, tr.278]. Từ đó, có thể thấy rằng, những người kinh nghiệm tưởng mình đã xuất phát từ thực tế khách quan, từ cuộc sống sinh động nhưng cuối cùng lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm trừu tượng, chính vì họ chỉ mới dừng lại ở những kinh nghiệm vụn vặt về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, thiếu sự khái quát sâu sắc nên đã lấy cái cụ thể, cái đơn nhất, cái phiến diện đem áp dụng cho cái phổ biến, cái toàn thể, cái đa dạng do không đủ trình độ năng lực nắm bắt được bản chất, quy luật phổ biến, tất yếu của các sự vật, hiện tượng tồn tại vốn có của hiện thực khách quan. V.I. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ giao tiếp của sự vật đó” [20, tr.364]. - So sánh tư duy kinh nghiệm và những trình độ tư duy khác Tư duy kinh nghiệm là tri thức do con người thu được qua thực tiễn sản xuất, đấu tranh xã hội, tiếp nhận trực tiếp từ quan sát sự vật, hiện tượng cụ thể, khách quan nhưng còn rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, cục bộ, chưa sâu sắc, chưa đi sâu nghiên cứu khái quát về bản chất, tất yếu bên trong vốn có của sự vật, hiện tượng. Triết học duy vật biện chứng một mặt khẳng định, nhận thức là một quá trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trong quá trình đó, con người tích lũy, rèn luyện dần dần phát triển từ trình độ tư duy kinh nghiệm hay (tiền khoa học) tiền lý luận rồi được nâng lên để đạt tới trình độ tư duy khoa học phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong quá trình nhận thức của con người, nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm thì không thể phục vụ tốt cho đời sống hiện thực sinh động đang diễn ra hàng ngày. Ph.Ăngghen viết: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [27,tr.718]. Do đó, nhận thức của con người không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của quá trình nhận thức đồng thời lại thống nhất với nhau, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhau. Bởi vì, trong nhận thức kinh nghiệm, ngoài hoạt động trực quan cảm tính còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Như vậy, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính nhưng khác nhau về trình độ, đối tượng, tính chất phản ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự lịch sử. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen với nhau trong một quá trình nhận thức nhưng chúng có nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của hiện thực khách quan cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát cao lại có thể hiểu được bản chất, quy luật của sự vận động, phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng, giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. Song, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người cũng chỉ mới có được tri thức về đối tượng, còn bản chất những tri thức ấy có chân thực, có đúng đắn và đúng như thế nào thì con người chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức ấy có chân thực hay không thì nhất thiết nhận thức phải trở về với thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo tính chân thực của tri thức đạt được trong quá trình nhận thức. Cũng chính trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Bởi lẽ, những tri thức được thực tiễn trước đây chứng minh có thể là đúng đắn nhưng ở giai đoạn tiếp theo có thể nó không còn phù hợp, không còn đúng, vì vậy phải được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh để tránh những cực đoan sai lầm như: giáo điều, bảo thủ, chủ quan duy ý chí, trì trệ cản trở sự phát triển. Như vậy, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan có tính trực quan cảm tính, nhưng không thể đồng nhất kinh nghiệm với nhận thức cảm tính. Quá trình hình thành tri thức kinh nghiệm là quá trình cải tạo, cải biến những tài liệu cảm tính thông qua sự phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa và khái quát hóa những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Kết quả đó chính là tìm ra những mối quan hệ bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng được lặp đi lặp lại trong hiện thực khách quan. Do đó, kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính nhưng lại khác nhau về trình độ phản ánh hiện thực cũng như trật tự xét về góc độ lịch sử. Nếu như tư duy kinh nghiệm chỉ mới dừng lại ở việc mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài của sự vật thì tư duy lý luận đi sâu phản ánh các thuộc tính, các mối liên hệ của tính quy luật, bản chất của chúng. Với bản chất đó, tri thức lý luận mang tính định hướng, dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; chỉ đạo, dẫn dắt hoạt động thực tiễn của con người vững chắc hơn, chủ động hơn, tự giác hơn, tránh được sự mò mẫm, bế tắc, tự phát trong nhận thức cũng như trong hành động. Kinh nghiệm với tư cách là một dạng tri thức chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, nó chỉ phản ánh được những thuộc tính bề ngoài riêng lẻ, giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện quan sát, miêu tả, thí nghiệm, chưa sâu sắc, chưa chính xác, chưa phản ánh được cái bên trong, tất yếu của thế giới hiện thực. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm là cơ sở, là nguồn tài liệu trực tiếp, quan trọng cho sự khái quát thành lý luận, dựa vào kinh nghiệm để con người bổ sung, phát triển lý luận này càng hoàn thiện hơn, chính xác hơn, khoa học hơn. Nếu không có kinh nghiệm thì khoa học không phát triển được. Kinh nghiệm càng nhiều, càng phong phú thì càng tạo ra cơ sở ban đầu quan trọng cho sự phát triển lý luận. Vì vậy, kinh nghiệm có vai trò hết sức quan trọng. Thiếu kinh nghiệm, không xuất phát từ kinh nghiệm, tách khỏi kinh nghiệm, lý luận sẽ trở thành ảo tưởng, hoang đường, không phục vụ được gì cho hoạt động thực tiễn của con người, có thể dẫn đến sai lầm nghiệm trọng trong đường lối, chủ trương, chính sách của một chế độ xã hội. Khẳng định tầm quan trọng của kinh nghiệm, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận. Rồi đem nó chứng minh trong thực tế” [33, tr.233]. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, không phải mọi lý luận đều được ra đời trực tiếp bằng kinh nghiệm, mà do tính độc lập tương đối của nó, với sức mạnh nội tại đặc thù của mình, lý luận có thể đi trước những dữ liệu kinh nghiệm, vượt trước kinh nghiệm. Bởi vì, ở mọi giai đoạn của lịch sử, cả lý luận và kinh nghiệm đều có những trình độ khác nhau, tức là có kinh nghiệm tiền khoa học và kinh nghiệm khoa học cũng như có lý luận trước khoa học và lý luận khoa học. Còn tư duy khoa học (cả kinh nghiệm và lý luận) là bước phát triển cao nhất của nhận thức. Vì thế, khi đánh giá vai trò của lý luận và kinh nghiệm trước khoa học trong sự hình thành tri thức cũng như trong sự phát triển của khoa học hiện nay, cũng cần thấy rằng, tri thức khoa học phát triển từ kinh nghiệm đồng thời khắc phục những mặt hạn chế của kinh nghiệm. Nếu dừng lại ở tư duy kinh nghiệm thông thường sẽ dẫn đến bế tắc, cục bộ, lúng túng, mò mẫm, tự phát trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên coi thường kinh nghiệm và cũng không nên cường điệu kinh nghiệm, mà cần thấy rằng, phải xuất phát từ kinh nghiệm để nâng lên trình độ lý luận. Vì tri thức lý luận là tri thức khách quan từ kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù quy luật của lý luận nói chung. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, do đó phải coi trọng lý luận nhưng không cường điệu vai trò lý luận coi thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Phải thấy rằng, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, song chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp tài liệu rất phong phú, cụ thể tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn dừng lại ở các sự kiện, những dữ kiện được thu nhận từ quan sát và thí nghiệm trực tiếp, nó chỉ đem lại sự hiểu biết riêng lẻ, bề ngoài, rời rạc chưa phản ánh được bản chất, mối liên hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, do đó tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học thì tất yếu phải trải qua, thông qua khả năng tổng kết trừu tượng, khái quát, nâng lên thành lý luận và lý luận phải được thâm nhập vào thực tiễn để kiểm nghiệm, chứng minh để tiếp tục phát triển, bổ sung làm cho lý luận ngày càng hoàn thiện hơn, chính xác hơn, định hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Vì vậy, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không được tuyệt đối hóa vai trò của lý luận cũng như vai trò của kinh nghiệm. VBàn về vấn đề này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [33, tr.234]. Và V.I. Lênin cũng đã chỉ rõ: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung” [18, tr.220]. Như vậy, bất cứ dạng thức nào của tư duy kinh nghiệm cũng có chung một đặc tính là tính tiền đề và tính định đề. Theo đó, Ph.Ăngghen chia ra hai loại kinh nghiệm: “Bên ngoài, vật chất và bên trong - các quy luật và các hình thức của tư duy” [27, tr.829]. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả của sự trải nghiệm (sự hiểu biết do tiếp xúc với thực tế) của cuộc sống hàng ngày là sự đúc rút từ lao động sản xuất, từ đấu tranh xã hội và hoạt động nghiên cứu khoa học, còn kinh nghiệm bên trong là kinh nghiệm tư duy là sự đúc rút về các quy luật và hình thức của tư duy. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức nhưng chúng lại tác động bổ sung và chuyển hóa cho nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là tiền đề, là cơ sở để hình thành nên lý luận. Lý luận, đến lượt mình, nó định hướng, chỉ đạo, dẫn dắt cho hoạt động thực tiễn. Chính trong hoạt động thực tiễn trên cơ sở tổng kết thực tiễn cung cấp cho lý luận những kinh nghiệm phong phú để hình thành lý luận mới. Do đó, kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả của hoạt động nhận thức và đều phản ánh hiện thực khách quan, tuy kinh nghiệm phản ánh hiện thực còn rời rạc bề ngoài, riêng lẻ, chưa nắm được cái tất yếu những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng nhưng nó lại chứa đựng nội dung khách quan trong quá trình phản ánh. Sự phản ánh đó đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực đều phụ thuộc vào chủ thể nhận thức. Nếu kinh nghiệm không khái quát lên thành lý luận và lý luận không được kiểm nghiệm hoặc kiểm nghiệm chưa đạt tới một trình độ nhất định thì sẽ không có một lý luận thật sự khoa học. Kinh nghiệm có tính chất trực quan dễ nhận biết, có vai trò không thể thiếu trong hoạt động hàng ngày của con người, do đó chúng dễ bị con người tuyệt đối hóa, cường điệu hóa trong việc giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Vì thế, trong hoạt động thực tiễn, con người dễ mắc phải những sai lầm hoặc không lý giải được những vấn đề phong phú, đa dạng, phức tạp do cuộc sống đặt ra. Do đó, chỉ có thể lấy những mặt tích cực của lý luận để khắc phục những mặt hạn chế vốn có của kinh nghiệm và lấy những mặt tích cực của kinh nghiệm để khắc phục khả năng xa rời thực tiễn của lý luận và cứ như vậy mới làm cho lý luận ngày càng hoàn thiện hơn, chính xác hơn và kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thống nhất lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [31, tr.72]. Thực tiễn ở đây là thực tiễn sản xuất vật chất, thực tiễn đấu tranh giai cấp, thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội, thực tiễn hoạt động thực nghiệm khoa học và lý luận ở đây là lý luận khoa học, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là lĩnh vực tinh thần, soi đường, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn. Và theo V.I. Lênin: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [18, tr.230]. Đây là quan điểm xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi chính các ông đã lăn lộn trong phong trào công nhân, theo sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận. Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định rằng, kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở đầu tiên, quan trọng của quá trình nhận thức. Từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận là một quá trình, nhưng quá trình đó không làm mất đi mối liên hệ mật thiết giữa chúng. Mà trong quá trình đó, kinh nghiệm cung cấp những tài liệu, thông tin, tri thức ban đầu về sự vật, hiện tượng. Quá trình hình thành tri thức lý luận là quá trình cải biến các tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại và thông qua các thao tác của tư duy mà nhận thức kinh nghiệm đã tách cái chung ra khỏi cái riêng, cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu nhiên, cái bản chất ra khỏi cái không bản chất để tìm ra quy luật vận động, biến đổi và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Từ đó, ta thấy rằng, kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả hoạt động nhận thức của con người, được hình thành và phát triển thông qua hoạt động thực tiễn, chúng đều phản ánh hiện thực khách quan, tuy sự phản ánh đó ở những cấp độ khác nhau, có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng chúng nương tựa, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình nhận thức. V.I.Lênin viết: “Dòng thác kinh nghiệm không có lý tính, không có trật tự, không có tất cả cái gì phù hợp với quy luật: nhận thức của chúng ta là đưa lý luận vào đó. Những thiên thể kể cả trái đất đều là những tượng trưng của nhận thức của con người” [17, tr.199-200]. Do vậy, cần thấy rằng, khi đề cập tư duy kinh nghiệm, không nên dừng lại ở dạng tư duy thông thường (tiền khoa học) mà còn phải thấy những kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học. Trong sự phát triển của xã hội, hai loại tri thức kinh nghiệm này càng thâm nhập vào nhau, quá trình thâm nhập đó là sự thâm nhập của trí tuệ con người vào thế giới khách quan, đi từ cảm tính đến lý tính, từ nhận thức kinh ngiệm lên nhận thức lý luận. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trong kinh nghiệm cái quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái quan trọng trong sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng” [27, tr.687]. Xét về nguồn gốc và nội dung, phản ánh của kinh nghiệm là phản ánh hiện thực, là thực tiễn hoạt động sản xuất vật chất, đấu tranh xã hội, giao tiếp,… diễn ra trong đời sống hằng ngày của con người. Sở dĩ kinh nghiệm có thể đóng vai trò là cơ sở cho tư duy lý luận là do kinh nghiệm được tích lũy tự nó đã đòi hỏi phải có sự hệ thống hóa và phải tìm ra mối liên hệ bên trong tất yếu của nó. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã chuyển từ giai đoạn kinh nghiệm lên giai đoạn lý luận. Do đó, cũng cần thấy rằng, sự phản ánh của kinh nghiệm có giới hạn của nó, tức là nó chỉ phản ánh dừng lại ở những thời điểm nhất định, cụ thể mà thôi, khi gặp những tình huống mới xuất hiện thì nó trở nên lúng túng, bất cập. Nếu so với nhận thức chủ quan, duy ý chí hay giáo điều thì nhận thức kinh nghiệm cũng từ một mẹ sinh ra, chúng có quan hệ đan xen, gắn bó, liên kết với nhau, quyện thành một khối rất chặt chẽ trong tư duy, hành động của quá trình lãnh đạo, quản lý, tổ chức, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn xây dựng đất nước ta từ sau 1975 đến nay đã chứng minh rất rõ điều đó. Bản thân tư duy kinh nghiệm không phải là một sai lầm trong nhận thức mà sự sai lầm là ở chỗ, coi kinh nghiệm cảm tính là nguốn gốc của mọi tri thức, tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của lý luận, không thấy giữa kinh nghiệm và lý luận thống nhất, chuyển hóa lẫn nhau trong hoạt động nhận thức của con người. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tư duy kinh nghiệm là ý đồ muốn loại bỏ “bệnh kinh nghiệm” giáo điều, máy móc, chủ quan duy ý chí chứ không phủ nhận một cách sạch trơn tri thức kinh nghiệm. Vì rằng, tri thức kinh nghiệm có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, nó là cơ sở để khái quát lên thành lý luận. Nhưng chỉ dùng tri thức kinh nghiệm đơn thuần để xử lý công việc thì không khoa học, hiệu quả kém. Chúng ta biết rằng, đối với những vấn đề đơn giản, con người có thể dùng kinh nghiệm để giải quyết được, nhưng tự nhiên, xã hội và cả tư duy không phải lúc nào cũng như vậy mà thực tế cho thấy, có rất nhiều hiện tượng phức tạp còn ẩn giấu mà từ xưa tới nay con người chưa có đủ trình độ, năng lực và điều kiện để nhận thức, có đủ cơ sở chứng minh bằng lý luận khoa học. Từ sự phân tích, so sánh trên, ta thấy, xét về bản chất, tư duy kinh nghiệm có những đặc trưng chủ yếu sau: Một là, tư duy kinh nghiệm là những tri thức được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn (lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, thực nghiệm khoa học,…) do đó, tri thức kinh nghiệm là hết sức quan trọng trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người kịp thời điều chỉnh hoạt động của mình (giàu kinh nghiệm, rút kinh nghiệm, những bài học kinh nghiệm), từ đó quyết định nhanh chóng và đáng tin cậy trong phạm vi, hoàn cảnh nhất định và thường bị hạn chế trong phạm vi hẹp. Hai là, tư duy kinh nghiệm là cơ sở, là tiền đề cho lý luận. Không có kinh nghiệm thì không có lý luận, không có khoa học. Nếu không xuất phát từ kinh nghiệm thì lý luận sẽ trở thành ảo tưởng, chủ quan và sẽ không có giá trị thực tiễn. Ba là, tư duy kinh nghiệm là một trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người, nhưng còn rời rạc, cục bộ, riêng lẻ, bề ngoài, chưa đi sâu vào bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, chưa tạo thành một hệ thống tri thức chặt chẽ, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo thường bị hạn chế trong phạm vi hẹp, chỉ dừng lại sự miêu tả các sự kiện, thiên về phản ánh mặt hiện tượng. Bốn là, tư duy kinh nghiệm không phải là thể hiện nội dung thụ động của nhận thức, mà là kết quả của sự tác động tích cực của con người đối với thế giới khách quan, là một bước phát triển của nhận thức, phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận thức ở một giai đoạn, một thời điểm lịch sử nhất định. Năm là, tư duy kinh nghiệm có chức năng, đối tượng và phương pháp khác với tư duy lý luận, là một dạng tri thức được thu nhận và tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn của con người, còn mang tính trực quan cảm tính. Tuy vậy, nó cũng đạt tới trình độ khái quát, trừu tượng hóa nhất định (tức là có sự tham gia của lý tính) chứ không phải chỉ dừng lại ở những tập hợp tri giác, biểu tượng của quá trình nhận thức cảm tính. Từ những đặc trưng chủ yếu nói trên, ta thấy, dù quan trọng đến đâu, tư duy kinh nghiệm cũng mới phản ánh được cái bề ngoài chứ chưa phản ánh được cái bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng, mới phản ánh được tổng số giản đơn chứ chưa phản ánh được mối liên hệ tất yếu của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, tư duy kinh nghiệm chưa thể là một hình thức tư duy hoàn chỉnh, khoa học bởi những hạn chế và khuyết tật của nó, nên nhất thiết phải được nâng lên thành tư duy khoa học để phục vụ lợi ích cho con người. Qua nghiên cứu cũng như kế thừa các công trình khoa học của các nhà khoa học trong nước và từ thực tiễn cuộc sống, ta thấy, những người chỉ dừng lại ở tri thức kinh nghiệm sẽ phạm phải những sai lầm, khuyết điểm và đó cũng là chứng bệnh mà chúng ta thường thấy: “bệnh kinh nghiệm”. Căn bệnh này muốn nói tới những sai lầm thực tiễn dẫn tới hậu quả xấu trong hoạt động thực tiễn, cũng như trong hoạt động lý luận. Những người bệnh kinh nghiệm thường tuyệt đối hóa vai trò của tri thức kinh nghiệm, hạ thấp vai trò của tri thức lý luận, được biểu hiện ở tư tưởng không đúng đắn, hạn hẹp trong sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, kinh nghiệm với lý luận. Họ quan niệm rằng, bằng kinh nghiệm có thể giải quyết mọi vấn đề, hạ thấp vai trò của lý luận, nhân danh, đề cao thực tiễn để hạ thấp lý luận, lấy sự từng trải của bản thân làm tiêu chí cao nhất cho hành động. Nhưng chúng ta biết rằng, thực tiễn của họ là thực tiễn của các sự kiện riêng lẻ trong đời thường, vụn vặt, không phản ánh được mối liên hệ mật thiết giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, giữa thực tiễn và lý luận, không đánh giá đúng mức vai trò của kinh nghiệm cảm tính và thực tiễn, không biết phát triển lý luận bằng những luận điểm mới rút ra từ kinh nghiệm đã có trước đó. Vì thế, họ xem xét sự vật, hiện tượng một cách chất phác, giản đơn, thuần túy, từ đó họ rơi vào những mâu thuẫn không thể giải quyết được, mất phương hướng, bế tắc trước những sự kiện, tình huống mới của cuộc sống đặt ra cũng như sự phát triển của tri thức khoa học. Và như vậy, họ rất dễ mắc bệnh chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiễn dẫn đến bệnh giáo điều, rập khuôn, máy móc mà biểu hiện của nó là viện dẫn sách vỡ một cách miễn cưỡng, lý luận suông, suy nghĩ thiếu cơ sở khoa học, lúc “hữu”, lúc “tả”, không kịp thời, thiếu dứt khoát khi những vấn đề mới nảy sinh, thụ động, xuôi chiều, cực đoan,… V.I. Lênin cho rằng: “Trước những phát minh mới có tính cách mạng trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý học nhưng do vẫn bám lấy những quan niệm cũ mà các nhà khoa học đã đi đến những kết luận duy tâm và bất khả tri về mặt nhận thức luận” [17, tr.318-319]. 1.1.3. Biểu hiện của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Cà Mau Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần phải xác định đuợc yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu cần phấn đấu, phải biết đặt mình vào vị trí, địa vị của người khác, phải thông hiểu những thuận lợi, khó khăn, những vấn đề mà cấp dưới đặt ra trước cũng như sau khi thực hiện các mặt công tác ở cơ sở, nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, phát huy năng lực trí tuệ của những thành viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Muốn vậy, không ai khác hơn là đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là người giữ chức vụ quan trọng trong tổ chức, phải am hiểu hơn ai hết để đưa ra các quyết định lãnh đạo, quản lý, đề ra các giải pháp tổ chức thực hiện một cách đúng đắn nhất, triển khai thực hiện có hiệu quả nhất đồng thời tổ chức kiểm tra, rút kinh nghiệm để tạo cơ sở hình thành các quyết định tiếp theo. Qua thực tế khảo sát, nghiên cứu thực tế cấp cơ sở trong tỉnh Cà Mau và qua các báo cáo thống kê của các ngành chức năng thì biểu hiện của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được thông qua các hoạt động sau đây: Thứ nhất, hoạt động ra quyết định. Trước hết, cần phải khẳng định rằng, quyết định là sản phảm sáng tạo và là phương tiện quan trọng để người lãnh đạo, quản lý thực hiện chức trách của mình. Người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở thường ra quyết định và trực tiếp tổ chức thực hiện quyết định. Các nghị quyết của cấp ủy cơ sở cũng phải được thông qua, ký ban hành và tổ chức thực hiện, mặc dù phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước khác nhau. Cho nên, việc suy nghĩ, tìm hiểu, lựa chọn để có một quyết định đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tế không phải là chuyện dễ dàng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bởi vì, thực tiễn luôn vận động, phát triển, phát sinh những vấn đề mới, do đó đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người có đầy đủ năng lực nhận thức, từ đó tổ chức thực hiện sao cho đạt hiệu quả thiết thực. Thông qua các quyết định của họ, nó có tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội tại cơ sở, có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Trên thực tế, chúng ta đều biết, cuộc sống rất phong phú, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ, nhiều khó khăn, phức tạp. Nếu không kiên trì, nhẫn nại vượt qua những khó khăn, phức tạp đó để đạt được mục tiêu đã định thì người lãnh đạo, quản lý sẽ thất vọng, mệt mõi, ngao ngán trước những công việc cũng như ước vọng, mong muốn ban đầu. Đối với người lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, việc ra quyết định đúng đắn, kịp thời và khả thi là một yêu cầu có tính chất bắt buộc. Để đạt được yêu cầu đó, đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải thực hiện đầy đủ các khâu, các bước, tìm tòi, suy nghĩ, đầu tư nghiên cứu, bám sát thực tiễn cơ sở để phát hiện ra những vấn đề mới, từ đó có những biện pháp giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh. Chỉ có bám sát thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn của cơ sở thì các quyết định lãnh đạo, quản lý mới sát hợp, không rơi vào chủ quan, giáo điều, duy ý chí. Muốn tránh được điều đó thì khả năng nắm bắt và xử lý thông tin của cán bộ lãnh đạo, quản lý phải hết sức nhạy bén, tỉnh táo để có thể phân tích, tổng hợp, đánh giá một cách kịp thời, chính xác các vấn đề mà thực tiễn đặt ra; phải am hiểu tường tận địa bàn mình quản lý; phải gần dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phải nắm được tâm lý của những người sẽ thực hiện quyết định và những người có liên quan đến kết quả thực hiện quyết định của mình đưa ra. Ra quyết định là một dạng hoạt động nhận thức của người lãnh đạo, quản lý. Đó là quá trình tư duy tìm ra những giải pháp, bước đi để nhằm đưa đối tượng quản lý từ trạng thái này sang trạng thái khác, phù hợp với nhiệm vụ quản lý, là sự phát hiện mâu thuẫn giữa tình huống quản lý với đòi hỏi nhiệm vụ phải thực hiện, dựa vào các nguồn lực để lựa chọn và tìm ra phương án tối ưu để giải quyết chúng. Suy cho cùng, hiệu quả của quyết định lãnh đạo, quản lý phụ thuộc vào nhận thức của người lãnh đạo, vào mức độ luận cứ khoa học của nó. Trong thực tế ở cơ sở, việc ra quyết định của người lãnh đạo, quản lý thường xuất phát từ việc phân tích đặc điểm, tình hình một cách sơ sài, lấy những thuận lợi và khó khăn, cái được của cái có trước, thời kỳ trước để áp dụng cho hiện tại và tương lai, bỏ qua hoặc coi nhẹ việc phân tích, xác định rõ những đặc điểm, những biến đổi đang diễn ra của quá trình kinh tế - xã hội, điều đó làm hạn chế chất lượng và tính khả thi của quyết định. Để có một quyết định đúng đắn, người lãnh đạo, quản lý cần thấy hết khả năng của quá trình vận động tiếp theo, cần đánh giá đúng hành động của mình để bố trí con người và các nguồn lực khác một cách hợp lý giúp cấp dưới thực hiện tốt quyết định. Muốn vậy, cần phải cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện, tình huống, hoàn cảnh, đảm bảo tính lý luận đúng đắn của quyết định, nắm bắt và xử lý kịp thời những vấn đề mới, đề ra giải pháp để giải quyết có hiệu quả các mặt công tác của địa phương, đơn vị. Nói đến ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm trong việc ra các quyết định lãnh đạo, quản lý không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp vai trò kinh nghiệm trong chỉ đạo thực tiễn mà sự ảnh hưởng đó muốn đề cập ở đây là chỗ tư duy chỉ mới dừng lại ở trình độ kinh nghiệm mà cụ thể của nó là: “nói một đằng, làm một nẻo”, nói lý luận suông, còn lãnh đạo, quản lý thì chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệm, tầm thường hóa lý luận, cố gọt đẽo cho lý luận vừa với khuôn khổ, “kích thước” của kinh nghiệm, biến lý luận thành công thức cứng nhắc, thành những kinh nghiệm vụn vặt; tiếp thu lý luận bằng tư duy kinh nghiệm; không nắm được bản chất khoa học của lý luận; không kết hợp một cách khoa học giữa lý luận và thực tiễn nên dẫn đến tâm lý coi thường lý luận, không tin vào lý luận, lười nghiên cứu, lười học tập lý luận. Do đó, các quyết định đưa ra thiếu cơ sở khoa học, thiếu tính khái quát, thiếu chính xác, cụ thể, chặt chẽ, thiếu cái nhìn toàn diện vấn đề, được biểu hiện ở sự lúng túng, thiếu sáng tạo trong vận dụng lý luận để cụ thể hóa chủ trương, chính sách, nghị quyết của cấp trên vào thực tế ở cơ sở. Vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có những cán bộ, đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng, nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều” [32, tr.243]. Thứ hai, hoạt động tổ chức thực hiện quyết định. Khi đề ra được quyết định, công việc tiếp theo của người lãnh đạo quản lý là phải tổ chức thực hiện các quyết định đó. Đây là chức năng thể hiện vai trò của người lãnh đạo. Nếu không có năng lực thực hiện chức năng này thì mọi quyết định, mệnh lệnh chỉ là một “mớ giấy lộn”. Muốn thực hiện quyết định, trước hết người lãnh đạo quản lý phải biết tổ chức bộ máy, cán bộ và sử dụng, bố trí cán bộ để thực hiện quyết định, phải có nghệ thuật và kinh nghiệm truyền đạt quyết định để biến quyết tâm của người ra quyết định thành quyết tâm của người thực hiện quyết định - biến khả năng thành hiện thực giữa lời nói và việc làm, do đó người lãnh đạo, quản lý phải dự đoán về diễn biến tự nhiên của những sự kiện, nghĩa là những tình huống nào có thể xảy ra và dự đoán làm thế nào để ngăn chặn sự thay đổi bất lợi của tiến trình. Điều này có liên quan trực tiếp đến việc giao nhiệm vụ cho những người thực hiện cụ thể, điều khiển trực tiếp tổ chức quá trình thực tiễn. Muốn vậy, người lãnh đạo, quản lý phải xuất hiện đúng lúc, đúng nơi cần thiết trong quá trình thực hiện quyết định. Đây là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của quá trình tổ chức thực tiễn. Sự xuất hiện của người lãnh đạo là điều rất quan trọng và cần thiết để giải quyết kịp thời những khó khăn, trở ngại, động viên, khuyến khích kịp thời những thành tích và sáng kiến của những người thực hiện. Trong thực tế, các quyết định ở cơ sở được thực hiện nhanh chóng hay không, chất lượng và hiệu quả đến đâu là nhờ yếu tố này. Không ai có thể thay thế được người lãnh đạo, quản lý trong khả năng nắm bắt nhạy bén, sáng suốt, chu đáo trước sự cảm nhận trực tiếp của người lao động. Hồ Chí Minh từng cho rằng “…một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [30, tr.263]. Tuy nhiên, để đạt được yêu cầu, mục đích, nội dung của việc tổ chức thực hiện quyết định, khâu quan trọng hàng đầu là việc tổ chức bộ máy và con người mà vấn đề ở đây bộ máy là công tác tổ chức và bố trí cán bộ. Chính họ đóng vai trò chủ thể trong quá trình tổ chức thực tiễn. Nếu không có bộ máy và con người tổ chức thực hiện thì sẽ không có quá trình tổ chức thực tiễn, các quyết định sẽ không được thực hiện trong thực tế. Hơn nữa, tính khả thi của quyết định, sự thích ứng của quyết định với các nguồn lực và phương tiện thực hiện có ý nghĩa to lớn đối với hiệu quả của việc ra quyết định. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Cà Mau đã có một sự cố gắng rất lớn trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định, triển khai, vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà Nước, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền vào đời sống của cơ sở. Các khâu, các bước triển khai thực hiện các quyết định được cụ thể hơn, ngăn nắp hơn. Sự thống nhất giữa lãnh đạo và quản lý được chú trọng đúng mức, xây dựng được mối quan hệ giữa đội ngũ cán bộ chủ chốt với quần chúng nhân dân, hướng vào việc phục vụ quần chúng nhân dân ngày càng tốt hơn thông qua các quyết định và tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo quản lý. Trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định, về cơ bản, kết quả đạt được yêu cầu đề ra. Tuy nhiên, về tổ chức bộ máy, sử dụng cán bộ còn thiếu tính khoa học, chưa hợp lý ở nhiều khía cạnh như phân công, bố trí những người trực tiếp tổ chức còn mang tính chủ quan, nóng vội, trình độ năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu, chuyên môn nghiệp vụ, mang tính chắp vá ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Cán bộ trưởng thành ở cấp xã phần lớn từ khóm, ấp. Họ là những người được cấp trên đề bạt, điều động. Hầu hết họ chưa được đào tạo cơ bản, chỉ làm theo kinh nghiệm đơn thuần. Có những cán bộ được điều chuyển từ huyện xuống nhưng đa số cũng chưa đạt yêu cầu. Nhiều trường hợp, cán bộ luân chuyển về làm bí thư, chủ tịch xã nhưng mang tính hình thức, bởi vì họ chuyển xuống xã vài ba tháng lại rút lên huyện bố trí công tác khác. Chính nguồn cán bộ như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tổ chức thực hiện quyết định. Qua khảo sát thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Cà Mau còn ảnh hưởng không nhỏ tư duy kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý, điều đó biểu hiện qua việc ra các quyết định, Nghị quyết của cấp ủy và chính quyền còn sơ sài, thiếu cơ sở khoa học; khi đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, họ chỉ thấy cái lợi trước mắt, ít tính đến vấn đề có tính bền vững, lâu dài, nên những vấn đề khó khăn, phức tạp xảy ra thường lúng túng, giải quyết thiếu kịp thời; các quyết định đưa ra tính khả thi không cao, chưa làm rõ nhiệm vụ cho cấp dưới và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chặt chẽ. Thứ ba, việc kiểm tra thực hiện các quyết định. Việc kiểm tra giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong số nhiều biện pháp bảo đảm việc thực hiện các quyết định. Dù kiểm tra vấn đề nào, dù ai là người tiến hành kiểm tra và người đó có đặt ra cho mình những nhiệm vụ cụ thể nào, trong bất cứ trường hợp nào thì trước khi kiểm tra phải khái quát được tình hình thực tế của công việc. Vì vậy, cơ sở của việc kiểm tra bao giờ cũng phải là hoạt động nhận thức của người lãnh đạo, quản lý. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Cà Mau thực hiện khá tốt sự phân công, phân cấp trong lãnh đạo, quản lý, tránh được sự chồng chéo trong kiểm tra, giám sát, kịp thời đôn đốc các cá nhân và tập thể, uốn nắn những lệch lạc trong việc thực hiện Nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà Nước. Hầu hết các xã trong tỉnh đều có dự án quy hoạch kết cấu hạ tầng và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng thời gian gần đây, nhiều công trình không đạt được hiệu quả, một số nơi trong vùng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra. Điều này cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện quyết định lãnh đạo quản lý thiếu thường xuyên, sâu sát, thiếu kịp thời, còn nhiều hạn chế. Việc nông dân tự phát đưa nước mặn vào vùng ngọt hóa đã làm phá vỡ hệ sinh thái, phá vỡ quy hoạch. Việc chuyển đổi vật nuôi cây trồng, áp dụng tiền bộ của khoa học kỹ thuật, đầu tư vốn chưa đạt hiệu quả thiết thực. Điều này cho thấy, năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa được điều chỉnh kịp thời, tư duy thiếu nhạy bén trong điều hành, đôn đốc việc xây dựng hệ thống trường học, giao thông nông thôn, quản lý đất đai, quản lý rừng, quản lý xã hội,… Nhiều công trình mặc tình xuống cấp, có công trình xuống cấp nghiêm trọng. Trong khi đó, việc kiểm tra, quản lý không thường xuyên, không đồng bộ trong quy hoạch, từ đó có những quyết định lãnh đạo, quản lý được triển khai nhưng việc thực hiện đến đâu thì chậm được tổng kết hoặc tổng kết một cách miễn cưỡng, sơ sài, không đến nơi đến chốn, có trường hợp đổ lỗi cho nhau. Chẳng hạn, người dân bảo rằng, trách nhiệm là của cấp xã, nhưng xã thì nói đó là trách nhiệm của huyện và ngược lại. Nội dung phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, minh bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược lâu dài, nên hiệu quả đem lại chưa đạt yêu cầu trong sự phát triển của một tỉnh được coi là thuận lợi về nhiều mặt để phát triển kinh tế - xã hội. Có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo, quản lý không chỉ là ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định mà kiểm tra còn nhằm hoàn chỉnh quyết định, hoàn thiện quy trình lãnh đạo. Điều từng xảy ra đối với cán bộ cấp cơ sở là trình độ nhận thức và năng lực lãnh đạo của các thành viên không đồng đều, có người nhận thức đúng vấn đề nhưng thiếu tư duy khoa học nên thường lúng túng, bị động. Các quyết định ban hành do họ thông qua thiếu cơ sở khoa học và thiếu nguồn lực để thực hiện, nên hiệu quả không cao, thậm chí không thực hiện được. Chẳng hạn, có nhiều trường hợp, vùng đất chỉ nuôi tôm không thể trồng được lúa nhưng quyết định ban hành là phải nuôi tôm - lúa; một số vùng ngọt hóa quy định trồng mía đường nhưng giá bán quá thấp, phân bón, giá thuê nhân công quá cao, dẫn đến làm không có lãi mà còn thua lỗ. Do đó, để kịp thời phát hiện sai sót trong chủ trương, uốn nắn lệch lạc trong nhận thức và tổ chức thực hiện, phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm thì công tác kiểm ta trở thành công việc thiết yếu trong mỗi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Kiểm tra không chỉ là khâu cuối cùng của quy trình lãnh đạo mà nó đan xen vào tất cả các khâu, vì vậy, mấu chốt của công tác lãnh đạo là công tác kiểm tra. Có thể khẳng định, nếu buông lỏng khâu kiểm tra thì tất cả mệnh lệnh và quyết định ban hành chỉ nằm trên bàn giấy. V.I. Lênin cho rằng: “Điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện” [21, tr.450]. Hoạt động kiểm tra của người lãnh đạo, quản lý nói chung và người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng phải được thực hiện đúng và đầy đủ các quy trình lãnh đạo, quản lý, không để một lĩnh vực nào bị lãng quên khâu kiểm tra. Điều quan trọng của kiểm tra là không chỉ hướng vào những thiếu sót mà chính là nhằm phát hiện ra những nguồn lực còn chưa khai thác hết để thuyết phục, động viên, phát huy tối đa các nguồn lực. Do đó, kiểm tra là một công tác quan trọng và rất cần thiết cho mỗi người lãnh đạo, quản lý. Khi kiểm tra, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết kiểm tra cái gì, kiểm tra ai, kiểm tra như thế nào, kiểm tra thời điểm nào, v.v… Đó là những điều cơ bản, chủ yếu của công tác kiểm tra nhằm đảm bảo cho công tác này đạt hiệu quả cao. Thứ tư, vấn đề tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện quyết định. Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung, ở Cà Mau nói riêng, mặc dù có rất nhiều khâu, nhiều bước, tuy vậy, trong lựa chọn quyết định đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, quản lý phải suy nghĩ, tìm hiểu và đề ra được những quyết định quản lý đúng đắn. Muốn vậy, trước hết, họ phải là người có năng lực thật sự để tổ chức thực hiện thắng lợi quyết định đã ban hành. Như chúng ta đều biết, việc lựa chọn để ra một quyết định đúng đắn không phải là dễ dàng, nhưng vấn đề khó khăn hơn là quyết định đó phải mang tính khả thi trong thực tế trong khi cuộc sống là muôn vẻ, đa dạng, luôn biến đổi hàng ngày, hàng giờ, nhất là trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay. Tất cả những yếu tố đó có tác động rất lớn đến các cấp lãnh đạo trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn chỉ mới là điều kiện cần. Bởi vì, việc thực hiện các đường lối, chủ trương đó còn phụ thuộc và được quyết định bởi chất lượng của đội ngũ cán bộ cơ sở. Thực tế cho thấy, trình độ và năng lực cán bộ ở cơ sở còn nhiều bất cập, hạn chế, cụ thể là chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới. Do đó, có những quyết định mất tính khả thi và chìm trong quên lãng, gây mất lòng tin với nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng mà nguyên nhân là do năng lực cán bộ. Cho nên, người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay đòi hỏi phải có sự phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Họ cần phải đầu tư suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới, từ đó có những biện pháp giải quyết kịp thời trước những vấn đề do thực tiễn đặt ra trong qua trình tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý. Do hoạt động đặc thù của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là tiếp thu chủ trương, nghị quyết của cấp trên, cụ thể hóa, triển khai và tổ chức thực hiện tại cơ sở một cách đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu quả, do đó họ phải là người chủ động, sáng tạo, linh hoạt. Để làm được điều đó, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải am hiểu một cách tường tận cơ sở mình, phải gần dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, làm tốt công tác vận động nhân dân để nhân dân, tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị cơ sở. Nghị quyết đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, đảm bảo phát huy trí tuệ tập thể có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc của Đảng, khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân [10, tr.134]. Trong bất kỳ tình huống nào, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải bám sát phong trào, theo dõi quá trình diễn biến của thực tiễn để kịp thời phát hiện ra những việc làm tốt và chưa tốt, chưa phù hợp để điều chỉnh, bổ sung vào các quyết định lãnh đạo, quản lý cho phù hợp, đồng thời cần khai thác các khía cạnh trong chủ trương, đường lối của cấp trên nhằm triển khai, vận dụng một cách đầy đủ, hiệu quả hơn vào thực tiễn tại cơ sở. Để thực hiện tốt những vấn đề này, đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý ở cơ sở phải thường xuyên và kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm đầy đủ các vấn đề mà mình tổ chức triển khai, nhìn nhận đánh giá từng vấn đề làm được và chưa được hoặc những sai lầm, thiếu sót một cách công tâm, khách quan, quán triệt đầy đủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì, có tổng kết rút kinh nghiệm mới có thể rút ra được những bài học bổ ích trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Thực tế cho thấy, không phải mọi cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nào cũng tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn một cách có hiệu quả và có thể khái quát thành lý luận, mà chỉ có những cán bộ chủ chốt có năng lực thật sự mới có thể rút ra được những tổng kết mang tính khái quát cao, có giá trị trong hoạt động thực tiễn. Từ đó, có thể nói rằng, sự hình thành và nâng cao tri thức là nhân tố quyết định đến năng lực, trí tuệ, phẩm chất của người cán bộ. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn phải có một trình độ lý luận nhất định, đặc biệt là tư duy lý luận, bởi vì, khi tri thức lý luận chưa hình thành thì tri thức kinh nghiệm giữ vai trò chủ đạo, nhưng khi tri thức lý luận hình thành thì vai trò của nó càng lớn đối với những hoạt động có tầm chiến lược, có quy mô lớn, đòi hỏi phải có tri thức lý luận cao. Tri thức lý luận càng cao thì tầm nhìn của con người càng rộng, hoạt động của con người càng sáng tạo, càng linh hoạt và càng đi đến kết quả cao. Tuy nhiên, ngay trong khi tri thức lý luận mới hình thành thì vai trò của tri thức kinh nghiệm cũng không thể thiếu. Vì vậy, hoạt động của con người cần phải có sự trải nghiệm, phải có sự đúc kết thông qua thực tiễn hàng ngày. Trình độ lý luận và tư duy lý luận là kết quả của đào tạo, bồi dưỡng mà có, do đó trình độ lý luận và tư duy lý luận ảnh hưởng tới tất cả các bước trong quá trình tổ chức thực tiễn, nhất là khâu ra quyết định và tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm. Do yếu kém về năng lực tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định nên phần lớn cán bộ chủ chốt cơ sở khi tổng kết rút kinh nghiệm chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm, mang tính hình thức bên ngoài, chưa đạt được ở tầm lý luận. Trong đánh giá việc tổng kết, chưa thật sự nhìn thẳng vào sự thật, không dám nói ra khuyết điểm của mình và cũng chính vì hạn chế về trình độ và năng lực nên việc tổng kết rút kinh nghiệm còn sơ sài, đại khái, qua loa, chứ chưa tìm ra được vấn đề trọng tâm để chỉ đạo thực tiễn trong các giai đoạn tiếp theo, chưa đánh giá một cách đúng đắn sự phát triển trong từng lĩnh vực cụ thể tại cơ sở. Trong tổng kết rút kinh nghiệm, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm có giá trị khoa học về mặt lý luận, làm cơ sở cho quá trình nhận thức, chỉ đạo, định hướng hoạt động trong các giai đoạn tiếp theo. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ DUY CỦA CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TỈNH CÀ MAU Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy của con người thì không thể không nghiên cứu sự ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ nhận thức và học vấn của con người, bởi vì, nó có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến những điều kiện sinh sống hàng ngày của họ. Tuy nhiên, luận văn này chỉ đề cập một số nhân tố chủ yếu, cơ bản nhất của sự ảnh hưởng của các điều kiện đã nói để góp phần làm sáng tỏ tư duy của cán bộ đến quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu trong việc lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. 1.2.1. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội Cà Mau là tỉnh cực Nam cuối cùng của Tổ quốc Việt Nam. Với điều kiện địa lý vốn có, Cà Mau có những nét đặc thù của mình và đã tác động không nhỏ đến quá trình nhận thức và phương pháp tư duy con người ở nơi đây. Điều kiện tự nhiên của Cà Mau chủ yếu là đồng bằng, dân cư sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, do thiên nhiên ưu đãi, nên ngay từ buổi đầu, người dân ở đây ít hoặc không phải nghĩ đến việc áp dụng khoa học - kỹ thuật và sức sáng tạo của con người. Họ có lối sống giản dị, không cầu kỳ, lao động sản xuất theo kinh nghiệm là chủ yếu. Truyền thống và ý thức cộng đồng được hình thành cùng với dòng người đi mở đất, nơi hội tụ của những người từ nhiều vùng quê khác nhau mà chủ yếu là người Kinh từ miền Bắc, miền Trung khao khát sống tự do, không chịu khuất phục cường quyền, bạo lực, muốn tìm mảnh đất để sống yên thân. Họ vào Nam để khai hoang, lập ấp. Cùng với người Kinh còn có người Hoa, người Khơmer lưu lạc, dừng chân lại ở Cà Mau. Tất cả những con người này bất chấp khó khăn, băng ngàn vượt biển vào Nam sinh cơ lập nghiệp, đứng trước đầu sóng ngọn gió, cần cù lao động, biến những khu rừng âm u ngập mặn, nhiều phèn thành cánh đồng ruộng lúa phì nhiêu “cò bay thẳng cánh”. Những người đặt bước chân đầu tiên đến đây đã kiên trì vật lộn với thiên nhiên, thú dữ, muỗi, vắt, đổ bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu để tạo thành nơi sinh sống lý tưởng như ngày nay. Họ sống trong vùng sông nước mênh mông, sông ngòi chằng chịt, rừng rậm âm u “dưới sông cá sấu, trên rừng cọp đua”, với phương thức sản xuất lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp kém, lối tư duy đơn giản, mộc mạc nhưng mang đậm bản sắc con người Việt Nam. Là vùng đất đầy tiềm năng được thiên nhiên ưu đãi, nguồn tài nguyên phong phú, dân cư thưa thớt nên cuộc sống của người dân nơi đây cũng thật dễ chịu và hình thành thói quen “ăn đến đâu, lo đến đó”. Họ nghĩ rằng, con người “ăn nhiều, ở bao nhiêu”. Trước mắt họ là sông, sau lưng là rừng, thả chân xuống nước là có cái ăn, quay lưng vào rừng là có chỗ ở. Nhiều công trình nghiên cứu, sách báo nói về tư chất và tính cách của người Cà Mau đã ghi nhận những tính chất can đảm, kiên cường, yêu nước nồng nàn, bất khuất trong đấu tranh chống áp bức bất công, trọng nhân nghĩa, khẳng khái, khoáng đạt, thủy chung, yêu chuộng cái mới, giàu óc sáng tạo. Tuy buổi đầu có sự khác biệt về phong tục, tập quán với những miền, vùng khác, nhưng do cùng sinh sống trên một địa bàn, theo thời gian, sự giao thoa giữa con người với thiên nhiên và con người với con người nên dần dần người dân ở đây đã hình thành những tính cách chung. Để tồn tại, những con người “tha phương, cầu thực” này phải có sự đổi mới về chất trong tư duy và hành động, phát huy truyền thống cần lao, dũng cảm, trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên. Ngoài ra, người dân Cà Mau còn phải đương đầu với cuộc đấu tranh mới, đó là cuộc đấu tranh với thực dân Pháp, sau này là đế quốc Mỹ xâm lược. Như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã phát biểu tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Minh Hải lần thứ III tháng 7/1983: “Là một tỉnh có nhiều bè bạn. Mảnh đất hào hiệp và phóng khoáng này đã tiếp hàng vạn người phiêu bạt đi tìm cuộc sống trước đây. Trong 2 cuộc kháng chiến hàng vạn người khắp nơi về đây chiến đấu và ngã xuống tại đây, để lại nơi đây biết bao là kỷ niệm”. Người dân nơi đây từ ý thức cộng đồng, đoàn kết, trung thực, giàu tình người, chất phác, trọng nghĩa tình, mến khách, hết lòng giúp đỡ nhau, thích làm điều thiện của những người xa quê, hội tụ nơi đất khách quê người. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, hầu hết các xã, thị trấn ở Cà Mau là vùng sâu, vùng xa, kết cấu hạ tầng chậm phát triển, giao thông đi lại từ tỉnh xuống huyện, từ huyện xuống các xã chủ yếu bằng đường thủy. Dân cư sống không tập trung, chủ yếu rải rác bên các bờ sông, kênh rạch. Do hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nên cán bộ xã, phường, thị trấn trong tỉnh không có điều kiện để học tập, do đó họ thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tư duy. Tuy nhiên, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Cà Mau là vùng căn cứ kháng chiến, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã bám trụ tại đây, lãnh đạo quần chúng đấu tranh để giành lại độc lập, tự do, nhiều đồng bào và chiến sỹ đã ngã xuống trên mảnh đất thân yêu này. Hiện tại, Cà Mau được Nhà nước phong tặng cho 45 tập thể, 21 cá nhân danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang”, 507 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trên 11.000 thương binh và 16.000 liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ghi nhận những đóng góp to lớn đó, Nhà nước tặng thưởng cho Đảng bộ và quân dân Cà Mau Huân chương Sao Vàng. Đặc trưng văn hóa Cà Mau là có sự dung hòa đa dạng và phong phú do được giao lưu, tiếp xúc với nhiều miền văn hóa, nhiều nền văn hóa, nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau. Những tập quán, thuần phong mỹ tục của người Kinh (chủ đạo) có ảnh hưởng qua lại với người Hoa, người Khơmer, tạo nên sự hài hòa cho nhiều dân tộc. Do đặc điểm sống ở vùng sông nước, rừng, biển nên loại hình đờn ca tài tử trở thành nếp sinh hoạt phổ biến trong nhân dân. Miền đất này còn có truyện cười dân gian của Bác Ba Phi đầy huyền thoại, có giọng thơ Bạc Liêu trữ tình, mộc mạc. Hằng năm, người dân Cà Mau tổ chức Lễ hội Nghinh Ông ở Sông Đốc và các Lễ hội dân gian khác. Cà Mau có những địa danh lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh có sức thu hút du khách như: Mũi Cà Mau, Đảo Hòn Khoai, Hòn Đá Bạc, Rừng Đước Năm Căn, Rừng Tràm U Minh Hạ, Bãi Khai Long, Giá Lồng Đèn, Đầm Thị Tường, sân chim nằm ngay trong lòng thành phố Cà Mau,… Tên tuổi của những danh nhân văn hóa như nhà giáo Phan Ngọc Hiển, nhà báo Nguyễn Mai, Bác Ba Phi,… đã để lại trong lòng mọi người sự yêu mến, ngưỡng mộ về cảnh vật hữu tình, con người dũng khí của đất Cà Mau. Sự phát triển của đất và người Cà Mau là sự kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, những phẩm chất tính cách đó sẽ được phát huy tích cực vào công cuộc phát triển Cà Mau như hôm nay. Vì thế, khi về thăm xã Đất Mũi - Cà Mau ngày 26-12- 2004, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã phát biểu: “Những con người ở mảnh đất này được hun đúc, kết tinh từ truyền thống văn hóa tuyệt với tốt đẹp, tạo nên cốt cách người Việt Nam nói chung, con người Đất Mũi nói riêng, thể hiện đầy đủ tinh hoa văn hóa tốt đẹp của Việt Nam, với ý chí kiên cường chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn từng tấc đất. Do đó, sứ mệnh và trách nhiệm của đảng bộ, chính quyền ở đây phải chăm lo, xây dựng và phát triển mãnh đất này …”. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, Cà Mau đã tổ chức lại sản xuất, khắc phục một bước về sự thiếu hụt về cán bộ, cũng như tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã trưởng thành trong kháng chiến; xây dựng các cơ sở vật chất - kỹ thuật, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế để khắc phục sự chênh lệch về các mặt giữa vùng sâu, vùng xa, nông thôn và thành thị. Tuy vậy, do ảnh hưởng của tư duy cũ nên trong việc làm của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở đây không tránh khỏi những vấp váp, sai lầm, khuyết điểm trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như trong tổ chức thực hiện, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, … Sự ảnh hưởng đó được biểu hiện qua tâm lý trông chờ, ỷ lại hoặc giáo điều, chủ quan trong quá trình lãnh đạo, quản lý của cán bộ. Do ảnh hưởng tâm lý “làm chơi, ăn thật” có từ lâu đời nên nhiều người vẫn còn ỷ lại, trông chờ, không cần học hỏi vẫn có thể kiếm sống dễ dàng. Tuy nhiên, trong thời gian 5 năm trở lại đây, sau các vụ mùa năng suất thấp, do lao động ở trình độ thấp, khoa học kỹ thuật phát triển chậm nên cuộc sống của một bộ phận nhân dân và cán bộ gặp không ít khó khăn. Nông dân chỉ quen lao động giản đơn với những công cụ thô sơ, phương thức sản xuất theo lối cổ truyền là dùng cơ bắp để làm ra của cải là chính, những yếu tố này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức sáng tạo, tìm tòi những cái mới, nâng cao năng suất lao động. Hầu hết các xã của Cà Mau nằm ở vùng sâu, vùng xa và phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý trưởng thành tại chỗ nên họ vừa là cán bộ, vừa là nông dân, vừa tham gia công tác ở cơ sở, vừa cùng với gia đình gắn bó với ruộng đồng tham gia sản xuất nên bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tâm lý những người nông dân sản xuất nhỏ, nghĩ sao làm vậy, ngại học hỏi, trau dồi, phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt. Hơn nữa, do môi trường kinh tế khá thuận lợi nên nhu cầu và động lực phấn đấu học tập và rèn luyện của cán bộ cơ sở chưa phải là tiêu chí chủ yếu để họ phấn đấu vươn lên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Và cũng trong những điều kiện như vậy, ngày qua ngày càng làm cho đội ngũ cán bộ cơ sở thiếu nhạy bén, thiếu sáng kiến, rất ngại va chạm, tiếp xúc với cái mới, cái mà theo suy nghĩ của họ làm được chừng nào hay chừng ấy. Nhận định về vấn đề này, đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh viết: Có nhận thức đúng và sâu mới làm đúng và làm có hiệu quả. Do đó, muốn đổi mới trong cuộc sống trước hết phải đổi mới tư duy. Nói đến tư duy là nói đến trình độ nắm bắt các quy luật khách quan, nói đến việc suy nghĩ theo đòi hòi của các quy luật đó và áp dụng phù hợp với điều kiện của đất nước, nói đến quá trình sáng tạo và đề xuất các ý kiến mới, nói đến việc tìm tòi các biện pháp có hiệu quả cho hành động. Điều này phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm, hời hợt trong nhận thức, chống suy nghĩ chủ quan, bảo thủ, giáo điều, chống tách rời giữa lý luận và thực tiễn [22, tr.10]. 1.2.2. Ảnh hưởng về trình độ lý luận Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Công cuộc đổi mới hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở nói riêng không chỉ có trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý mà phải được đào tạo về trình độ lý luận chính trị để có đủ bản lĩnh đảm nhiệm những trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó. Có thể nói, lý luận chính trị trang bị cho cán bộ hiểu biết về nhiều vấn đề trong nước và thế giới. Có lý luận mới biết phân tích, đánh giá, nhận xét, tổng kết những vấn đề diễn ra trong thực tiễn cuộc sống, vận dụng đường lối quan điểm của Đảng phù hợp với hoàn cảnh điều kiện của đất nước, của địa phương mà đặc biệt là sự vận dụng đó có phù hợp hay không là tùy thuộc vào trình độ lý luận của cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng. Thực tế cho thấy, trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở Cà Mau còn nhiều yếu kém và bất cập, bởi lẽ, trình độ lý luận yếu kém sẽ làm cho cán bộ chỉ dừng lại ở tư duy kinh nghiệm, không vượt qua được sự mô tả, hời hợt các hiện tượng bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu nhiên, thứ yếu, nên trong tổ chức hoạt động thực tiễn chỉ nghiêng về sự vụ, sự việc, thấy đâu làm đó, thiếu chương trình kế hoạch, thiếu cơ sở khoa học. Trong xử lý công việc còn tùy tiện, do vậy hậu quả của nó là việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhất quán, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tất nhiên, cán bộ ở cơ sở, bằng những kinh nghiệm, họ có thể giải quyết được một số công việc hằng ngày, một số tình huống cụ thể, nhưng kết quả đật được sẽ rất hạn chế. Trước những tình huống khó khăn, phức tạp, nhất là những tình huống công tác Đảng, tình huống trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội thì họ tỏ ra lúng túng. Nhiều vấn đề mới nảy sinh họ không có khả năng giải quyết tốt, điều đó được chứng minh ở tư duy lý luận của họ là không đủ khả năng phân tích, đánh giá và giải quyết dứt điểm các vấn đề đặt ra, thiếu sự quyết đoán một cách tự tin, nhanh chóng. Nói tóm lại, bằng tư duy kinh nghiệm, họ không thể giải quyết những vấn đề mới, tình huống mới, vượt ra khỏi kinh nghiệm mà họ trải nghiệm. Có thể nói, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến tư duy lý luận của cán bộ. Bởi vì, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra con người thực tiễn như thế ấy. Cà Mau là một tỉnh được thiên nhiên ban tặng về tài nguyên “rừng vàng, biển bạc”, ruộng đồng phì nhiêu “cò bay thẳng cánh” cùng với cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên làm cho con người Cà Mau gắn bó rất chặt chẽ với điều kiện sinh sống nơi ruộng, vườn, rừng, biển. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ cơ sở ở Cà Mau phần đông xuất thân từ hoàn cảnh như vậy. Họ trưởng thành từ khóm, ấp, do đó họ vẫn mang nặng và chịu ảnh hưởng trực tiếp với cách nghĩ, cách làm theo tập quán, thói quen ruộng, vườn. Miệng nói, tay làm chứ họ chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi. Ít hoặc chưa thấy họ đặt vấn đề nghiên cứu, bàn luận để nâng tầm tư duy lý luận. Cho nên, trong điều kiện mới, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng phải có trình độ lý luận. Trình độ lý luận của người lãnh đạo, quản lý được hình thành một cách tự giác thông qua con đường học ở trường, học ở cuộc sống trên cơ sở hiểu biết một cách căn bản về đối tượng, công việc mà mình lãnh đạo, quản lý. Chính sự yếu kém và lạc hậu về trình độ lý luận, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, nó sẽ trực tiếp làm nảy sinh các căn bệnh kinh nghiệm, chủ quan, rập khuôn, máy móc và các loại bệnh khác trong đội ngũ cán bộ. Chính vì yếu về trình độ nói trên, nên đứng trước tình hình, nhiệm vụ mới, họ không thể tránh khỏi sự lúng túng, sai lầm, khuyết điểm, mất phương hướng, giải quyết vấn đề theo cảm tính, cá nhân, kinh nghiệm, chủ quan hoặc nóng vội. Đúng như cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ: “Cuộc sống ngày càng phức tạp, nhiệm vụ càng khó khăn, thời đại càng diễn biến nhanh chóng thì lý luận trở thành thiết yếu như cơm ăn nước uống hàng ngày. Chúng ta từ một nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội thì càng phải quán triệt điều này” [22, tr.32]. Có thể nói rằng, trình độ lý luận của con người nói chung, cán bộ cấp cơ sở Cà Mau nói riêng chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy của họ và cũng chính sự ảnh hưởng này làm cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở Cà Mau có biểu hiện còn ngại nghiên cứu, tìm tòi, học tập suy nghĩ để nâng trình độ của mình lên ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 1.2.3. Ảnh hưởng của trình độ học vấn và thực tiễn công tác Bên cạnh những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy của cán bộ cấp cơ sở nói trên, trình độ học vấn và thực tiễn công tác của người lãnh đạo, quản lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tư duy của họ. Trên thực tế đội ngũ cán bộ cấp cơ sở Cà Mau chịu ảnh hưởng của cả hai yếu tố: hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và phải thường xuyên chống lại đói nghèo. Do chiến tranh tàn phá, hủy diệt đã để lại hậu quả quá nặng nề về nhiều mặt. Do vậy, người dân Cà Mau phải tham gia xây dựng lại quê hương như cải tạo lại ruộng, vườn, ổn định cuộc sống, nên họ ít có thời gian và điều kiện để học tập nâng cao trình độ. Chúng ta biết rằng, quá trình học tập, rèn luyện của con người trước hết phải là quá trình tự giác để nâng cao trình độ nhận thức. Có học thức mới có tri thức, trí tuệ. Điều đó có ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến quá trình tư duy, là điều kiện tiên quyết để con người phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Để có năng lực và trí tuệ thì không có con đường nào khác là phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự đào tạo. Cũng chính quá trình này đã mang lại cho con người không chỉ về nội dung các tri thức mà còn là phương pháp tư duy khoa học ngày càng được hoàn thiện hơn, là cơ sở, nền tảng để con người đạt đến khả năng tư duy khoa học. Nếu năng lực tư duy yếu hoặc bị hạn chế thì không thể nói đến khả năng trở thành người lãnh đạo, quản lý giỏi. Cho đến nay, một bộ phận cán bộ và nhân dân ở Cà Mau vẫn còn quan niệm: “cái táo đong lúa chứ ai đong chữ bao giờ”. Cho nên, các thế hệ kế tiếp nhau luôn bị ảnh hưởng bởi quan niệm như vậy. Hiện nay, nếu so với mặt bằng chung của Tây Nam bộ thì trình độ dân trí ở Cà Mau còn rất thấp. Năm 2006, theo số liệu báo cáo của UBND tỉnh về chất lượng giáo dục phổ thông, tỷ lệ học sinh xếp loại học lực yếu và kém còn cao, bậc trung học cơ sở là 13,48%, bậc trung học phổ thông là 30,43%, tỷ lệ học sinh bỏ học trên 6%. Mặc dù có nhiều lý do khác nhau nhưng các học sinh vẫn bị ảnh hưởng của quan niệm cũ “không cần học vẫn kiếm sống dễ dàng”. Đây là vấn đề thực sự đáng lo ngại. Bởi vì, sau này, nếu trong số các em có người trưởng thành và trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý. Có thể nói rằng, cán bộ lãnh đạo, quản lý muốn đạt được một rình độ tư duy lý luận khoa học thì tất yếu phải trải qua quá trình giáo dục - đào tạo. Đây là con đường ngắn nhất để trang bị cho mình những kiến thức nhất định. Nếu không được trải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng thì cán bộ, lãnh đạo, quản lý sẽ thiếu kiến thức khoa học, từ đó sẽ rơi vào tư duy kinh nghiệm, chủ quan, dẫn đến sự thất bại trong hoạt động thực tiễn là điều khó có thể tránh khỏi. Như Đảng ta đã chỉ rõ: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [6, tr.21]. Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ lý luận, trình độ học vấn, thực tiễn công tác cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính thông qua thực tiễn công tác, bằng hoạt động thực tiễn mà người lãnh đạo, quản lý ngày càng tích lũy tri thức trong nhiều lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực mà mình tham gia hoạt động. Cũng chính trong quá trình đó, người lãnh đạo, quản lý không những tích lũy được những hiểu biết mà còn đúc rút được những kinh nghiệm quý báu trong qúa trình tổ chức thực tiễn. Những kinh nghiệm này rất quan trọng. Nó không những là nhân tố định hướng mà còn là những nhân tố giúp cho họ tránh được những sai lầm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý tiếp theo. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Nghĩa là, nó luôn đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi người cán bộ phải luôn tìm tòi, suy nghĩ để đưa ra các quyết định đúng đắn, trên cơ sở phát hiện quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, công tác thực tiễn của cán bộ không chỉ có một trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tư duy lý luận nhất định mà còn phải có kinh nghiệm thực tiễn, kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý. Tất nhiên, chúng ta không được tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là tất cả. Bởi lẽ, nếu như vậy, chúng ta sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm, máy móc, rập khuôn, giáo điều. Cần phải thấy rằng, kinh nghiệm sẽ được phát huy khi nó kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học, với năng lực và phẩm chất của cán bộ trong quá trình công tác thực tiễn. Thực tế đội ngũ cán bộ, quản lý cấp cơ sở ở Cà Mau được tham gia công tác thực tiễn rất phong phú ở địa bàn nông thôn. Họ tham gia tổ chức các phong trào hành động cách mạng, được chứng kiến sự thay đổi của quê hương qua các giai đoạn lịch sử, qua đó rút ra những kinh nghiệm xử lý công việc, đáp đứng được yêu cầu của cơ sở. Họ có thể đánh giá được những thuận lợi, khó khăn đồng thời tìm ra những giải pháp và hướng đi thích hợp thông qua tổng kết thực tiễn, chỉ ra những cái đã làm được và chưa làm được, đánh giá những nguyên nhân tồn tại, yếu kém. Do điều kiện môi trường công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở Cà Mau gắn với vùng sâu, vùng xa, cách xa các trung tâm đô thị, khó khăn về giao thông, thông tin tuyên truyền chậm phát triển nên họ ít có điều kiện học tập, trao đổi, giao lưu văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nắm bắt kịp thời thông tin mới trong nước cũng như ngoài nước. Điều đó dễ dẫn đến tâm lý thỏa mản, bằng lòng với những kiến thức và kinh nghiệm đã đạt được, ít quan tâm, học tập nâng cao trình độ tri thức, năng lực tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo, quản lý. Hơn nữa, trong quan hệ công tác hằng ngày, họ thường xuyên tiếp xúc với bà con, anh em, bạn bè quen biết, xóm, làng nên thường dẫn đến hiện tượng duy tình trong giải quyết công việc. Những nét tính cách này đã thấm vào nếp nghĩ, tâm hồn, tình cảm, phong cách của con người con người Cà Mau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đúng như các nhà nghiên cứu đã nhận định: “Quan hệ huyết thống tự nhiên, biến xã hội thành một gia đình, ở đâu cũng là bà con, quan hệ huyết thống là tác nhân vừa để kháng chống lại những luận điệu chia rẽ dân tộc vừa kéo con người lại gần nhau hơn” [29, tr.12]. Chính những yếu tố trên đã làm cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ cấp xã ở Cà Mau nói riêng coi trọng yếu tố kinh nghiệm, yếu tố tình cảm mà xem nhẹ yếu tố lý luận. Chương 2 ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 2.1. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỈNH CÀ MAU 2.1.1. Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm trong việc tiếp thu, vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn tại cơ sở Như ở chương 1 đã trình bày, tư duy kinh nghiệm được hiểu là sự thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người nhưng còn ở trình độ thấp. Từ kinh nghiệm trong cuộc sống (sản xuất, giao tiếp, v.v…), con người có thể rút ra những kết luận khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẽ, nhưng chưa thể khái quát được mối liên hệ căn bản giữa chúng và chưa giải quyết được một cách khoa học về những kết luận ấy. Thật vậy, tư duy kinh nghiệm là vốn quý của con người, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, con người sẽ gặp khó khăn trong quá trình nắm bắt, vận dụng và xử lý các vấn đề đặt ra trong công tác cũng như cuộc sống. Chúng ta đều biết, Cà Mau được thừa nhận là miền đất trẻ nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên 5.329 km2, gồm 8 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh như: Ngọc Hiển, Năm Căn, Đầm Dơi, Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình, Cái Nước, Phú Tân và thành phố Cà Mau. Cà Mau có 97 xã, phường, thị trấn. Trong đó, có 81 xã, 8 phường, 8 thị trấn; gồm 860 ấp, khóm. Cà Mau có 3 mặt giáp biển. Địa hình bằng phẳng, thuần nhất là đồng bằng, đất đai phì nhiêu, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện. Tổng độ dài của các sông, rạch khoảng 7.000 km, chiếm 3,02% diện tích toàn tỉnh. Cà Mau có các cửa sông lớn đổ ra biển. Vùng biển Cà Mau rộng trên 71.000 km2, khí hậu ôn hòa thuộc vùng cận xích đạo, có 2 mùa mưa, nắng rõ rệt. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Cà Mau không bị ảnh hưởng lũ lụt của hệ thống sông Cửu Long, ít khi có bão. Cơn bão số 5 diễn ra năm 1997 là một hiện tượng đặc biệt suốt 100 năm qua ở đồng bằng sông Cửu Long. Dân số Cà Mau trên 1,2 triệu người, phân bố không đồng đều. Họ sống chủ yếu trên các bờ sông, con kênh, trung bình 230 người/km2, người Kinh chiếm trên 97%, còn lại là người Khơmer, người Hoa và một số dân tộc ít người khác. Thành phố Cà Mau là trung tâm kinh tế, văn hóa, hành chính của tỉnh, cách xa các trung tâm kinh tế, văn hóa lớn như thành phố Hồ Chí Minh 370 km, thành phố Cần Thơ 180 km. Do đó, người Cà Mau ít có cơ hội được tiếp cận nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật, văn hóa mới từ các các trung tâm này. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng - 1975, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, Cà Mau đã có những chuyển biến tích cực về kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, nông dân Cà Mau vẫn độc canh cây lúa 1 vụ. Trên cơ sở lợi thế của vùng đất giàu tiềm năng, Cà Mau mạnh dạn thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông - Lâm - Ngư nghiệp sang Ngư - Nông - Lâm nghiệp từ năm 2000 theo Nghị quyết 09 của Chính phủ. Phần lớn diện tích trồng lúa kém hiệu quả đã được chuyển sang nuôi tôm và thời gian qua đã phát huy được lợi thế tiềm năng đồng thời giải phóng sức sản xuất của đại bộ phận nông dân. Từ khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế đến nay, Cà Mau đã có 275.195 ha đất nuôi trồng thuỷ sản và trở thành tỉnh có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất cả nước. Sản xuất nông nghiệp từng bước đi vào ổn định, diện tích lúa 2 vụ tăng lên ở vùng ngọt hoá và một vụ lúa - một vụ tôm ở những khu vực nuôi tôm có điều kiện thuận lợi. Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, lĩnh vực văn hoá có nhiều tiến bộ, đời sống phần lớn dân cư không ngừng được cải thiện, hộ khá, hộ giàu ngày càng tăng, trung bình mỗi năm có 1,5% hộ thoát nghèo. Năm 2006, Cà Mau có 17% hộ nghèo. Năm 2007, Cà Mau còn 15,5% và năm 2008 giảm còn 13% hộ nghèo. Cà Mau phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn 10%. Nhiều trường học đã được xây dựng kiên cố hoá, có 86% số xã đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, 60% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, trên 70% khóm, ấp đạt chuẩn văn hoá. Những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nói trên đã có ảnh hưởng rất lớn đến cách nghĩ, cách làm của người dân Cà Mau, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Cà Mau. Sự ảnh hưởng của cung cách sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc ngay từ buổi sơ khai đã kéo dài cách nghĩ, cách làm của những người dân ở đây. Hơn nữa, 81 xã của Cà Mau chỉ có 1 xã nằm ở cửa ngõ thành phố Cà Mau, số còn lại đều nằm ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại, học tập, giao lưu văn hóa hết sức khó khăn. Hơn 90% nông dân tập trung ở nông thôn. Trong khi đó, cán bộ cơ sở chủ yếu xuất thân từ nông dân, sinh ra, lớn lên học tập ở trường ấp, trường xã rồi lại trở về ấp, khóm công tác và được bố trí làm cán bộ chủ chốt ở cơ sở, nên lối tư duy cũ, tư duy kinh nghiệm, thiếu cơ sở khoa học có ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả lãnh đạo, quản lý cũng là một tất yếu. Chính tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội như hiện nay đòi hỏi cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt không chỉ nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý mà còn phải thường xuyên học tập, đổi mới tư duy, trau dồi trí tuệ để tiếp nhận những thành tựu khoa học hiện đại. “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú thêm những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin” [7, tr.9]. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng bộ Cà Mau luôn coi trọng vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ ở cơ sở, luôn củng cố và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Về lý luận cũng như về mặt thực tiễn đều cho thấy, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vững, có mạnh thì địa phương mới mạnh. Song, trên thực tế, theo báo cáo tham luận tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng bộ tỉnh năm 2005 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Cà Mau về xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có nêu: Việc tạo nguồn cán bộ cơ sở gặp nhiều khó khăn, do một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nên con em của họ ít được học hành đến nơi đến chốn, số em tốt nghiệp đại học không muốn trở về quê công tác, do chính sách không đảm bảo thu hút cán bộ trẻ về cơ sở nên việc bố trí sử dụng cán bộ ở cơ sở còn chắp vá, thiếu và yếu [5, tr.138,139]. Trình độ năng lực cán bộ cơ sở rất hạn chế cả về học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước. Trong tổng số 1.720 cán bộ chuyên trách và công chức xã, phường, thị trấn thì học vấn từ trung học phổ thông trở lên chỉ chiếm 59,2%, số còn lại có trình độ học vấn tiểu học và trung học cơ sở. Về trình độ chuyên môn, có 30,34% được đào tạo từ sơ cấp đến đại học, còn 69,66% chưa qua đào tạo, bồi dưỡng. Về lý luận chính trị, số cán bộ có trình độ cao cấp chính trị chỉ có 4,5%, trung cấp 42%, sơ cấp 31%, còn 22,5% chưa qua đào tạo. Về quản lý nhà nước còn 79,77% cán bộ chưa qua đào tạo. Thực trạng này cho thấy, đội ngũ cán bộ ở Cà Mau vẫn còn hụt hẫng về trình độ các mặt và không thể vượt ra khỏi những kinh nghiệm trong quá trình công tác tại cơ sở mà muốn khắc phục tình trạng này không cách nào khác là phải tiến hành một cách tích cực, đồng bộ bằng những giải pháp thiết thực, coi đây là nhiệm vụ quan trọng và bức xúc nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng - an ninh. Qua 2 năm thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau.pdf
Tài liệu liên quan