Luận văn Đóng góp của tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng

Tài liệu Luận văn Đóng góp của tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng: Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ===========O0O=========== LẠI THỊ THÚY VÂN ĐểNG GểP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thỏi Nguyờn, năm 2009 Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ===========O0O=========== LẠI THỊ THÚY VÂN ĐểNG GểP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG Chuyờn ngành: Văn học Việt Nam Mó số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGễ VĂN THƯ Thỏi Nguyờn, năm 2009 Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn MỤC LỤC Trang mở đầu .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ...............................................

pdf121 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đóng góp của tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ===========O0O=========== LẠI THỊ THÚY VÂN ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ===========O0O=========== LẠI THỊ THÚY VÂN ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGÔ VĂN THƯ Thái Nguyên, năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang më ®Çu .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .....................................................10 3.1. Đối tượng ......................................................................................10 3.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................11 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................11 5. Đóng góp của luận văn ........................................................................11 6. Cấu trúc luận văn ................................................................................12 NỘI DUNG ......................................................................................................... 13 Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM. ............................................ 13 1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn đoàn ..........................................................................................................13 1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. ....................13 1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn ................................................17 1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn ........................................20 1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn......................................................................20 1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng ...................24 1.3. Vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc ...............................................................................................30 1.3.1. Cổ vũ cho phong trào thơ mới ..................................................32 1.3.2. Hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết .............................................33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH VÀ KHÁI HƯNG ...... 36 2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ...................................................................................................36 2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong nghiên cứu văn học .....................................................................................................36 2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ............................................................................................39 2.2. Con người theo mô hình đạo đức lễ giáo phong kiến ......................42 2.2.1. Mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong kiến ....................................................................................................42 2.2.2. Nhân vật đại diện cho nền luân lý phong kiến cũ ....................46 2.3. Con người theo mô hình phương Tây hiện đại ...............................53 2. 3.1. Nhân vật trí thức Tây học .......................................................53 2.3.2. Nhân vật phụ nữ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân ................60 Chương 3: NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TUYỆT VÀ NỬA CHỪNG XUÂN .................................................................................... 72 3.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện và kết cấu ........................................72 3.1.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện: .................................................73 3.1.2. Hiện đại hóa trong kết cấu .......................................................78 3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................84 3.2.1. Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại ......................86 3.2.2. Miêu tả tâm lý qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm: ....................92 3.3. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ và giọng điệu ....................................96 3.3.1. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ ...................................................96 3.3.2. Hiện đại hóa trong giọng điệu ............................................... 102 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi phương diện. Hòa chung vào dòng chảy của xã hội, văn học Việt Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học phương Tây hiện đại nên đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Những ảnh hưởng ấy đã nhanh chóng đưa văn học tiến gần và tiến nhanh hơn đến “quỹ đạo” của quá trình hiện đại hóa. Một nền văn học mới ra đời với những quan niệm thẩm mĩ mới đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự cách tân, để văn học phát triển phù hợp với thời đại. Trước những yêu cầu trên, nhiều nhóm phái văn học đã ra đời đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của tầng lớp độc giả mới. Trong đó Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng vươn lên chiếm giữ vị trí “chủ soái” trên văn đàn trong suốt những năm 30 của thế kỉ XX: “Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [24, 550 - 551]. Với khoảng 10 năm hoạt động của mình, Tự lực văn đoàn đã có nhiều đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. Trong sự tồn tại phát triển của nhóm, chúng ta không thể không nhắc đến hai cây bút trụ cột Nhất Linh và Khái Hưng. Bằng tài năng nghệ thuật và sức sáng tạo không mệt mỏi, hai ông đã có những đóng góp quan trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, góp phần làm rạng danh tên tuổi của nhóm. Là những cây bút tài năng, tâm huyết với cuộc sống và nghệ thuật, Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn mà những sáng tác của hai ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 thanh niên trí thức Việt Nam những năm 30 và tạo được sự ngưỡng mộ đối với độc giả yêu mến văn học. Cả Nhất Linh và Khái Hưng đều sáng tác ở nhiều thể loại, song có lẽ thành công nhất vẫn là thể loại tiểu thuyết, trước hết là tiểu thuyết luận đề, và sau đó là tiểu thuyết tâm lý. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, giờ đây đã quá quen thuộc với độc giả yêu văn học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của hai ông ngày càng được khẳng định vững chắc. Số lượng lớn các bài viết và những công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của hai ông là minh chứng hùng hồn khẳng định điều đó. Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng đã góp phần quan trọng dần từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết luận đề vừa là mở đầu, vừa là có giá trị nhất, góp tiếng nói tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh vực quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của con người. Trong tác phẩm của mình, hai nhà văn đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người phụ nữ trong chế độ đại gia đình phong kiến. Hai ông đã xây dựng khá thành công hình tượng những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại nền giáo lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân Việt Nam hàng ngàn năm qua. Đó là những cô gái tân thời có học hành, được tiếp xúc với văn minh phương Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công trong xã hội mà bản thân họ là những nạn nhân phải gánh chịu. Vì thế khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh mẽ hơn ai hết, và hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn hợp với quy luật khách quan của tiến bộ xã hội. Tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng chính là những tiên báo cho sự phát triển tất yếu của xã hội. Đây chính là đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện đại văn học dân tộc. Đến với tiểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 thuyết của Tự lực văn đoàn, chúng tôi muốn góp một tiếng nói khẳng định vai trò của văn đoàn này trong lĩnh vực đổi mới trên cả phương diện: nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết. 2. Lịch sử vấn đề Nói về các hiện tượng văn học, không phải bất cứ nhà văn hay tác phẩm nào cũng may mắn trở thành đối tượng được giới phê bình quan tâm nghiên cứu. Ngay từ lúc mới xuất hiện trên văn đàn Việt Nam, Tự lực văn đoàn đã thu hút được sự chú ý của độc giả yêu văn chương. Trong một khoảng thời gian không phải dài hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, Tự lực văn đoàn, nhất là hai tác giả Nhất Linh và Khái Hưng đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, đây cũng là hiện tượng gây nhiều tranh cãi trong lịch sử văn học nước nhà. Công việc nghiên cứu, đánh giá các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung khá phức tạp. Mỗi một thời kỳ lại có những quan điểm trái ngược nhau. Thậm chí sự bất đồng trong ý kiến đánh giá còn xảy ra ngay trong một thời kỳ giữa hai miền Nam - Bắc. Hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết đã mang lại tên tuổi cho hai cây bút trụ cột của nhóm. Song đây cũng là hai cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi và làm tốn giấy mực của giới nghiên cứu phê bình nhất. Chúng tôi tạm chia những ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai tác giả trên theo 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (trước 1945): Đây là giai đoạn mà Tự lực văn đoàn đang hoạt động và thu hút được nhiều sự chú ý của độc giả. Trong đó, Nhất Linh và Khái Hưng là những tác giả tiêu biểu. Đây chính là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của hai cây bút này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Có nhiều bài phê bình của các tác giả như: Trương Tửu, Mộng Sơn, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại… được đăng trên các báo: Loa, Sông Hương, Ngày nay, Thời thế, Hà Nội Tân văn, Phụ nữ Thời đàm… Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu khác đều có mối quan tâm tới tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng. Trong bài viết “Dưới mắt tôi”, nhà nghiên cứu Trương Chính đã có đánh giá khá xác đáng về Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh và Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng. Ông viết: “Đoạn tuyệt là một kiệt tác trong văn học hiện đại Việt Nam. Vì Đoạn tuyệt không chỉ có giá trị xã hội. Nó còn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được” [24, 629]. Năm 1941, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn học sử yếu đã nhận xét các tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng như sau: “Hầu hết các tác phẩm của ông (Nhất Linh) là những luận đề tiểu thuyết” [18, 454]. Khi nhận xét về Khái Hưng, ông viết: “Tuy vẫn có khuynh hướng xã hội nhưng lại thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng… Khái Hưng có một cách tả người và tả cảnh xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng thanh tú khiến cho người đọc thấy cảm” [18. 455]. Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ ngọc Phan đã nhận ra sự tiến bộ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng: “Nếu đọc tiểu thuyết của Nhất Linh từ Nho phong cho tới những tác phẩm gần đây nhất của ông, người ta thấy tiểu thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình cảm, qua những tiểu thuyết luận đề, tiến đến tiểu thuyết tâm lý” [55, 324]. Với Khái Hưng, ông nhận xét: “Nhưng dù ở tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lý, cái đặc sắc… là sự xét nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam” [ 55, 780]. Tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng trong thời kỳ này được đánh giá cao về mặt nội dung tư tưởng: chống chế độ đại gia đình phong kiến, giải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 phóng cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi cánh cửa ngục thất của chế độ đại gia đình phong kiến. Người ta xem Đoạn tuyệt của Nhất Linh như một thứ “vũ khí” bắn thẳng vào thành trì kiên cố và bảo thủ của xã hội phong kiến. Trên báo Loa (1935), Trương Tửu nhận xét: “Đoạn tuyệt là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu của chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái tin tưởng ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng phấn đấu nghĩa là vui mà sống”. Trương Chính còn cho rằng: “Đoạn tuyệt đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi tiến hóa của xã hội An Nam. Nó công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt cường tráng” [23, 293]. Còn “Nửa chừng xuân là cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan hệ nhân sinh mới và công bố sự bất hợp thời của những tập quán do nền luân lý cổ truyền tạo ra” [14, 313]. Nhìn một cách tổng quát, giới phê bình trước 1945 đánh giá cao Tự lực văn đoàn. Nội dung tư tưởng với chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải phóng cá nhân được chú ý quan tâm. Tuy nhiên, các công trình này còn rất chung chung và có phần giản đơn. Đó mới chỉ là những bước gợi mở chứ chưa đi sâu khám phá những đóng góp về phương diện nghệ thuật. Giai đoạn thứ 2 (từ 1946 – 1986): Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nên việc đánh giá một số hiện tượng văn học trong đó có Tự lực văn đoàn ở giai đoạn này bị tạm gác lại. Thời kỳ này, người ta nhìn nhận và đánh giá văn học dưới góc nhìn chính trị, các tiêu chí đánh giá một tác phẩm văn học đều xuất phát từ lập trường và quan điểm giai cấp. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn giai đoạn này bị đánh giá chưa thỏa đáng, thậm chí còn có phần khắt khe. Tuy nhiên, cũng có những ý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 kiến khẳng định những đóng góp của Tự lực văn đoàn. Đồng chí Trường Chinh trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam được nêu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948) vừa nêu những hạn chế của văn đoàn này nhưng đồng thời cũng đã khẳng định: “Dẫu sao, hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới”. Có một điểm rất đáng lưu ý là sự khác nhau trong quan điểm và thái độ đánh giá về Tự Lực văn đoàn ở hai miền Nam - Bắc. ở miền Bắc, không kể các bài viết, có các công trình nghiên cứu của nhóm Lê Quý Đôn với Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957); Văn học Việt Nam 1930 – 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo văn học Việt Nam (1964) của Viện Văn học; Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự Đệ, tập 1 (1974)… đều nhắc tới Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng. Nhưng nhìn chung, quan điểm của các công trình này tỏ ra hết sức khắt khe đối với đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nguyên nhân là do các nhà phê bình đã căn cứ vào những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các giá trị cho văn học lãng mạn mà quên mất rằng, văn học lãng mạn có những đặc trưng riêng của nó. Thêm vào đó các nhà phê bình lại quá coi trọng việc phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh được đời sống cực khổ của nhân dân do bị địa chủ, thực dân áp bức bóc lột mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day dứt của thế hệ thanh niên trí thức cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Chính vì vậy mà Tự lực văn đoàn bị đánh giá là xa rời thực tiễn. Có thể nói, những nhận định về Tự lực văn đoàn còn dè dặt, mới chỉ khen ngợi một chút về nội dung chống phong kiến và phương diện nghệ thuật “Về phương diện văn học sử, công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hưng là đã có những đóng góp trong việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 [10, 87]. Còn chủ yếu là phê phán khá mạnh mẽ các tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng. Trái ngược với miền Bắc, ở miền Nam, Tự lực văn đoàn lại được đề cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được in lại và phổ biến rộng rãi. Bên cạnh các bài viết đăng trên các tạp chí, còn có các công trình văn học sử được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Có nhiều công trình khảo cứu và nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu Tường (1964); Nhất Linh, văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn của Phạm Thế Ngũ (1965); Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng của Bùi Xuân Bào (1972)… Nhiều công trình văn học sử được dùng trong nhà trường như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn Xung; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự lực văn đoàn (1960) của Doãn Quốc Sỹ; Văn học thế hệ 1932 (1972) của Thanh Lãng; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1972) của Bùi Xuân Bào; Lược sử văn học Việt Nam - Nhà văn tiền chiến (1974) của Thế Phong. Đặc biệt, sau khi Nhất Linh qua đời, xuất hiện một loạt các bài viết tưởng nhớ về ông của các tác giả Đặng Tiến, Tường Hùng, Doãn Quốc Sỹ, Trương Bảo Sơn, Thế Uyên, Nguyễn Văn Trung… Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng không có gì mới so với thời kỳ trước 1945. Chẳng hạn Thế Phong đã khen Khái Hưng: “Đi sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết trưởng thành”. Hay Nguyễn Văn Xung trong Bình giảng về Tự lực văn đoàn viết: “Không phải tả cảnh như Khái Hưng nhưng là để móc vào đấy những biến chuyển trong tình cảm nhân vật” [71, 32]. Một vài ý kiến ghi nhận sự đóng góp của Nhất Linh, Khái Hưng nhưng còn mờ nhạt. Bên cạnh đó, xu hướng đề cao vẫn là cơ bản. Như vậy, ở thời kỳ này, các ý kiến vẫn tập trung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 đề cao tiểu thuyết của hai ông. Sự đối cực giữa các ý kiến không làm rõ được những đóng góp cũng như hạn chế của Tự lực văn đoàn. Đôi khi sự đóng góp cũng được ghi nhận song còn rất mờ nhạt. Trong khi đó, các giá trị đích thực của văn chương lại không hề được đề cập tới. Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986): Công cuộc đổi mới đất nước đã thực sự mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của văn học nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung trong phạm vi cả nước. Với tư duy nghệ thuật đổi mới, các nhà nghệ sĩ đã được “cởi trói” và thoát khỏi sự nhìn nhận đánh giá nghệ thuật theo quan điểm chính trị. Những sự “hàm oan” của văn học trong quá khứ đã được các nhà khoa học nhìn nhận lại một cách khách quan hơn, trả lại cho văn học những giá trị đích thực mà nó vốn có. Hầu hết tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng đã được tái bản, một số cuốn được tái bản nhiều lần với số lượng lớn. Các hội nghị khoa học được mở ra nhằm xem xét, đánh giá lại các tác phẩm văn chương của Tự lực văn đoàn. Tháng 5 năm 1989, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp phối hợp với Đại học Tổng hợp và các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học danh tiếng như: Tô Hoài; Huy Cận, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình Hượu, Phong Lê … đã tổ chức cuộc Hội thảo văn chương về Tự lực văn đoàn. Tại đây, các nhà nghiên cứu tập trung khẳng định lại vai trò và những đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Tiếp sau hội thảo này, xuất hiện hàng loạt các công trình, các bài viết có giá trị nghiên cứu về văn chương của Tự lực văn đoàn như: Về Tự Lực văn đoàn (1989) - Nguyễn Hữu Trác, Đái Xuân Ninh; Tự lực văn đoàn, con người và văn chương (1990) - Phan Cự Đệ; Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông (1991) - Trần Đình Hượu; Thêm mấy ý kiến về Tự lực văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 đoàn (1991) - Lê Thị Đức Hạnh… Ngoài ra còn một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Tiểu thuyết Nhất Linh trước Cách mạng Tháng Tám (1997) của Vũ Thị Khánh Dần; Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn (1997) của Lê Thị Dục Tú; Mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn (2003) của Nguyễn Thị Tuyến… ở các bài viết và những công trình nghiên cứu này, các tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng đã được ghi nhận và đánh giá công bằng theo những giá trị văn học đích thực. Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương đã có những đánh giá hết sức công bằng và giàu sức thuyết phục: “So với tiểu thuyết trước năm 1930, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào thế giới nội tâm phong phú của con người… Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín đáo và ý nhị” [9, 370]. Dù vậy, GS cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, ở những tác phẩm thời kỳ cuối Khái Hưng, Nhất Linh không những không đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, mà còn có xu hướng đẩy con người vào chủ nghĩa duy tâm và định mệnh” [9. 330]. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều công nhận nội dung tiến bộ của tiểu thuyết Nhất Linh là thể hiện khát vọng giải phóng con người cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi những giáo lý khắc nghiệt của xã hội phong kiến và lên tiếng đòi quyền được hưởng hạnh phúc cho con người. Nhà nghiên cứu Vu Gia trong cuốn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học đã viết: “Đoạn tuyệt là cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, và là cuốn tiểu thuyết mà Nhất Linh muốn đem đến cho người đọc thời bấy giờ thấy được tiếng Việt cũng đủ khả năng diễn đạt mọi ngóc ngách tình cảm của con người, thấy được đâu là cái mới, cái cũ, đâu là tiến bộ văn minh, đâu là lạc hậu lỗi thời, và để người đọc hôm nay thấy được sự gian truân của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 buổi đầu chống lại chế độ đại gia đình phong kiến” [17, 153]. Giáo sư Hà Minh Đức trong lời giới thiệu Nửa chừng xuân đã viết: “Nửa chừng xuân là cuộc tiến công vào lễ giáo phong kiến đã khẳng định quyền tự do hôn nhân của lớp thanh niên trí thức đang được phát triển về quyền sống và ý thức cá nhân” [25, 10]. Thời kỳ này các nhà nghiên cứu phê bình đã khai thác giá trị văn chương của Tự lực văn đoàn khá hợp lý với thái độ công bằng và khách quan. Đã nhiều năm qua đi, việc nghiên cứu và đánh giá về hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng ngày càng có những khám phá mới mẻ và xác đáng. Tuy nhiên việc đi sâu vào nghiên cứu hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân trong sự đối sánh với nhau thì lại ít người để ý tới. Đứng trước thực trạng đó, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu hai tác phẩm Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân để chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt trong tác phẩm của hai nhà văn. Trong luận văn của mình, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu một cách có hệ thống tư tưởng nghệ thuật của Nhất Linh, Khái Hưng cùng những cách thức xây dựng hệ thống nhân vật của hai nhà văn này và những đóng góp cho quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Qua luận văn, chúng tôi mong muốn được góp một tiếng nói nhỏ bé của mình vào việc khẳng định và tôn vinh những giá trị nghệ thuật mà Tự lực văn đoàn nói chung và hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng đã đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đối tượng khảo sát chính là hai cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng: Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân. Để hiểu rõ hơn về hai tác giả này, chúng tôi đi vào nghiên cứu thêm một số tiểu thuyết khác nhằm bổ trợ cho những nhận thức và hiểu biết sâu sắc hơn về quan niệm nghệ thuật của Nhất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Linh, Khái Hưng như: Nho phong, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng của Nhất Linh; Hồn bướm mơ tiên, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự của Khái Hưng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề chống lễ giáo phong kiến, giải phóng cá nhân trong hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân. Đặc biệt chú ý nhấn mạnh tới hai hệ thống nhân vật nữ đối lập nhau. Một bên là những người con gái tân thời có học, được tiếp xúc với văn minh phương Tây, đại diện cho cái mới. Một bên là người phụ nữ mang nặng tư tưởng phong kiến, đại diện cho cái cũ. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu tâm lý và hành động của những nhân vật phụ nữ có quan niệm sống hiện đại trong quá trình đấu tranh giải phóng cá nhân. Về phương diện nghệ thuật, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới sự hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp thống kê phân loại - Phương pháp văn học sử 5. Đóng góp của luận văn Viết luận văn này, chúng tôi mong muốn được góp tiếng nói nhỏ bé vào việc tiếp tục khẳng định và tôn vinh vị trí, vai trò cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh Khái Hưng nói riêng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn đi vào khảo sát cụ thể hai tác phẩm Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng để thấy được những cách tân về mặt thể loại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Nghiên cứu tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng chúng tôi nhằm chỉ ra sự đóng góp của hai nhà văn trong công cuộc đấu tranh bênh vực cho cái mới, lên tiếng đòi phá bỏ những cái cũ đã lạc hậu, lỗi thời, đòi quyền tự do cá nhân cho con người. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được triển khai ở 3 chương: Chương 1: Đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Chương 2: Bước chuyển trong quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Nhất Linh và Khái Hưng. Chương 3: Những cách tân nghệ thuật trong Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 NỘI DUNG Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM. 1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn đoàn 1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Cùng với sự đổi thay có tính chất bước ngoặt của dân tộc, văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX cũng có một bước “chuyển mình” mang tầm vóc thế kỉ. Từ một nền văn học trung đại mang đậm tính chất cổ điển kéo dài trong suốt hơn mười thế kỷ, đến nay văn học Việt Nam đã nhanh chóng gia nhập vào tiến trình văn học thế giới. Diện mạo nền văn học nước nhà giờ đây đang dần thay đổi và vận động theo hướng hiện đại hóa. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là một nước thắng trận nhưng vẫn phải gánh chịu nhiều tổn thất kinh tế nặng nề. Để khôi phục lại nền kinh tế của mình, thực dân Pháp đã tăng cường khai thác thuộc địa. Chúng ra sức vơ vét, bóc lột tài nguyên thiên nhiên của nước ta. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa và thực hiện những chính sách kinh tế mới, xã hội Việt Nam đã biến đổi một cách sâu sắc và toàn diện. Từ một mô hình xã hội phong kiến phương Đông, Việt Nam đã căn bản chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Giờ đây chính quyền bản xứ nằm trong tay thực dân Pháp, bộ máy cai trị được tổ chức lại theo hướng hiện đại hơn và chi phối toàn diện mọi mặt đời sống xã hội. Kết quả của việc đưa ra một loạt các chính sách kinh tế mới là chế độ nửa phong kiến thuộc địa được hình thành. Xã hội lúc này xuất hiện nhiều đô thị với các nhà máy, đồn điền mọc lên nhanh chóng. Việc phát triển kinh tế hàng hóa đã tạo ra một thị trường sôi động chưa từng có ở Việt Nam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 từ trước tới nay. Cũng chính từ đây trong xã hội đã hình thành nhiều giai cấp, tầng lớp mới. Nếu như trước đây xã hội Việt Nam chỉ có hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ thì nay có thêm các giai cấp khác như: tư sản, tiểu tư sản, vô sản… Với những chính sách kinh tế của mình, thực dân Pháp đã phá vỡ chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn và đưa Việt Nam tiếp xúc với bên ngoài, với văn minh nhân loại và nhanh chóng hòa nhập vào “guồng quay” hiện đại của thế giới. Từ sự thay đổi về mô hình xã hội đã kéo theo sự biến động trong kết cấu xã hội Việt Nam. Để nắm vững thuộc địa, thực dân Pháp phải tìm mọi cách để nắm chắc chính quyền các cấp và kiểm soát được nhân dân. Vì vậy chúng phải xây dựng một bộ máy cai trị trung thành và một cơ sở xã hội thích hợp với chế độ của chúng. Nhằm thay thế tầng lớp Nho sĩ, thân sĩ - tầng lớp có cội nguồn và được tín nhiệm lớn ở nông thôn Việt Nam, Pháp đã mở ra các trường hậu bổ, trường Pháp – Việt, trường Cao đẳng đào tạo những thế hệ Tây học để thay thế cho những văn thân xuất thân từ Nho học. Về cơ bản, những chính sách của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam “chuyển mình” bước sang xã hội tư sản, một hướng tư sản kém lành mạnh nhất. Nhưng công bằng mà nói thì chính điều đó lại tạo điều kiện cho các mặt khác phát triển. Đó là sự thay đổi bộ mặt thành thị, biến nó thành những trung tâm kinh tế mới; làm mất đi thế lực của nhiều lực lượng bảo thủ, trì trệ; tạo điều kiện cho cái mới du nhập vào đời sống của người nông dân ở thôn quê, giúp thay đổi nhận thức lạc hậu của họ. Xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành qua quá trình đấu tranh giữa ta và địch, giữa sự tranh chấp của cái cũ và cái mới. Tương ứng với các hiện tượng đó là cuộc cạnh tranh Đông - Tây trong văn học. Đội quân xâm lược đã tìm mọi cách để du nhập văn hóa Pháp vào Việt Nam nhằm đẩy lùi, chiếm chỗ, thay thế văn hóa cổ truyền của ta. Sự đổi thay về mặt chính trị - kinh tế - Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 xã hội đã tác động tới cuộc sống tinh thần, tâm lý và cách suy nghĩ của người dân Việt Nam. Sự thâm nhập của cái mới đã làm thay đổi nhận thức của con người về xã hội, đồng thời tạo ra những con người mới với quan niệm sống và cách nhìn khác trước. Trong xã hội xuất hiện những vấn đề mới và đòi hỏi bổ sung những cách giải quyết mới đem lại những chuyển đổi căn bản trong đề tài, chủ đề, đó chính là điều kiện cho nhân vật văn học hiện đại xuất hiện thay thế cho những kiểu nhân vật đã quá quen thuộc trong văn học trung đại. Mỗi một giai cấp, tầng lớp lại có nhu cầu thưởng thức văn hóa khác nhau. Trong xã hội Việt Nam, có bao nhiêu giai cấp, tầng lớp thì đòi hỏi phải có bấy nhiêu “món ăn” tinh thần cần phải đáp ứng. Đây chính là nguyên nhân khiến cho đời sống văn học của ta ngày càng phát triển phong phú và phức tạp, kéo theo sự xuất hiện của một lượng công chúng đa dạng. Cũng chính từ đây đã hình thành nên một đội ngũ những người sáng tác văn chương tương ứng với tính chất xã hội. Thời kỳ đầu, những nhà văn này là một lớp người có vốn kiến thức sâu rộng về văn hóa phương Đông nhưng cũng không còn hoàn toàn xa lạ với văn hóa phương Tây. Về sau, họ là một lớp sáng tác trẻ hơn, hiện đại hơn. Đó là lớp trí thức trẻ được đào tạo ở các trường hậu bổ, trường Pháp – Việt, trường cao đẳng. Họ là lớp Tây học đầu tiên ít nhiều có vốn Nho học. Tư tưởng của họ được đổi mới và đi theo hướng hiện đại. Dần dần đội ngũ này hướng hẳn về phía Tây học, tìm đến với chủ nghĩa cá nhân và con đường giải phóng cá nhân trong chủ nghĩa lãng mạn Pháp thế kỉ XIX. Các nhà văn này, với một phong cách chuyên nghiệp đã nhanh chóng vươn lên trở thành lực lượng sáng tác chính. Văn chương giờ đây đã trở thành một “nghề” kiếm sống chứ không đơn thuần viết ra chỉ để thưởng thức, để “tri âm”, để “tải đạo” giáo huấn như văn chương thời trung đại. Có thể nói văn chương đã thực sự trở thành một thứ “hàng hóa” trong xã hội. Người viết văn hiện đại do sự thúc bách của công việc mưu sinh nên sức sáng tạo của những cây bút trở nên dồi dào, phóng khoáng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Đó là điều kiện tạo nên một cuộc cách mạng trong văn chương. Những nhà văn chuyên nghiệp – họ là những trí thức hiện đại, được trưởng thành từ nhà trường Tây học. Vì vậy từ tư tưởng cho đến cách thức, phương pháp sáng tác, quan niệm của họ đều chịu ảnh hưởng của phương Tây và mang tính chất hiện đại. Với lượng công chúng độc giả ngày càng đông đảo và đa dạng thì nhu cầu đổi mới văn học càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Sự thâm nhập của văn hóa phương Tây đã nhanh chóng tác động mạnh mẽ vào quá trình hình thành và hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Một nhân tố quan trọng tạo nên bước đột phá trong quá trình hiện đại hóa văn học thời kì này là sự xuất hiện và “lên ngôi” của chữ Quốc ngữ, nhằm thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Điều này tạo cơ hội để mở rộng lượng công chúng độc giả mới. Rõ ràng chữ Quốc ngữ, kể từ lúc mà cả dân tộc Việt Nam có ý thức sử dụng, đã đảm nhiệm được một khối lượng công việc rất lớn, nó vừa có ý nghĩa “phục hưng” các giá trị truyền thống, vừa là tiền đề để vươn tới các giá trị mới giúp văn học Việt Nam từng bước hội nhập với nhân loại, với thời đại. Đặc biệt là báo chí thời kì này rất phát triển, chỉ trong khoảng một thời gian rất ngắn đã xuất hiện hàng trăm tờ báo lớn nhỏ khác nhau. Sự bùng nổ của báo chí là phương tiện hữu hiệu nhất đưa văn học đến với công chúng độc giả mọi tầng lớp một cách nhanh nhất. Có những tờ báo chuyên đăng tải những sáng tác văn học. Nếu không có sự “trợ giúp’ đắc lực của báo chí thì độc giả không thể tiếp cận nhanh chóng với các tác phẩm văn học. Sẽ thật là thiếu sót nếu không kể đến công nghệ in ấn hiện đại đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Nếu như trước đây công việc xuất bản chỉ mang tính chất là một hoạt động mang tính tiểu thủ công, manh mún, lặt vặt thì nay xuất bản mang tính công nghệ hiện đại đã cho ra đời các tác phẩm văn học “tràn ngập” thị trường và đến với công chúng một cách dễ dàng nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Khác với văn học trung đại, văn học hiện đại được hình thành và phát triển trên cơ sở xã hội thuộc địa. Sự xâm nhập của văn minh phương Tây đã kéo theo những nhu cầu văn hoá có tính thương mại. Văn học giờ đây đã trở thành một nghề kiếm sống. Lúc này, công chúng văn học đã đông đảo hơn về mặt số lượng, đa dạng hơn về mặt thành phần. Người sáng tác văn học là tầng lớp trí thức Tây học đang dần thay thế cho nhà Nho làm chủ văn đàn. Cùng với sự bùng nổ của công nghệ in ấn và báo chí là những điều kiện để hình thành một nền văn học mới tuy ban đầu còn rất mỏng manh. Sự chuyển đổi từ văn học trung đại sang văn học hiện đại ở nước ta diễn ra với nhịp độ nhanh chóng và gấp gáp. Điều đáng nói nhất là nền văn học của ta được hiện đại hoá ngay chính trong lòng xã hội thuộc địa. Những cơ sở lịch sử, văn hóa, xã hội trên đây chính là những tiền đề quan trọng quyết định quá trình hiện đại hóa của nền văn học Việt Nam. 1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn Sự ra đời Nhắc đến Tự lực văn đoàn, người ta không thể không nhắc tới Nhất Linh, ông là người sáng lập đồng thời cũng là vị thủ lĩnh lãnh đạo văn đoàn. Tháng 3 năm 1933, Tự lực văn đoàn chính thức công bố thành lập trên báo Phong hóa với 7 thành viên chính thức (thất tinh) gồm: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu). Ngoài 7 thành viên chính thức, Tự lực văn đoàn đã tập hợp được một đội ngũ cộng tác viên đông đảo bao gồm các nhà thơ của phong trào Thơ mới như: Huy Cận, Anh Thơ, Lưu Trọng Lư, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh; các nhà văn như: Nguyên Hồng, Đỗ Đức Thu, Phan Văn Dật, Mạnh Phú Tư, Vi Huyền Đắc…; các họa sĩ nổi tiếng như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Nhóm hoạt động với tư cách độc lập không tuân theo một chỉ thị nào ngoài đường lối do chính họ vạch ra. Nhờ tinh thần đoàn kết, niềm say mê văn chương, Tự lực văn đoàn đã gặt hái được nhiều thành công vang dội, hoạt động của nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nền văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỉ XX. Mục đích của Tự lực văn đoàn gồm 4 điểm: 1. Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới. Người trong đoàn đến với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc văn chương. 2. Người trong đoàn có quyền đề dưới tên mình chữ Tự lực văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu. 3. Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo gửi đến để văn đoàn xét, nếu 2/3 người trong đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của đoàn và sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự lực văn đoàn không phải là một hội buôn bán sách. 4. Sau này, nếu có thể được, văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là Giải thưởng Tự lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của văn đoàn. Tháng 6 năm 1934, tôn chỉ của Tự lực văn đoàn được chính thức công bố trên Phong hóa gồm 10 điểm: 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi. Mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước. 2. Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn lên. 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính chất bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 4. Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam. 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca ngợi những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quý phái. 7. Trọng tự do cá nhân. 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa. 9. Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam. 10. Theo một điều trong 9 điều trên đây cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác. Với mục đích và tôn chỉ đã đề ra, Tự lực văn đoàn đã mở ra một quan niệm văn chương hết sức tiến bộ, thể hiện khát vọng xây dựng một nền văn học dân tộc theo xu hướng hiện đại và niềm mong mỏi được đấu tranh cho sự giải phóng cái tôi cá nhân, giải phóng sự ràng buộc con người khỏi hệ tư tưởng phong kiến, đồng thời muốn đem lại sự trong sáng cho ngôn ngữ tiếng Việt và hiện đại hóa các thể loại văn học, nhất là thể loại tiểu thuyết. Cơ quan ngôn luận của nhóm là hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Ngay từ khi mới ra đời, tuần báo Phong hóa đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của độc giả: “Tờ báo nổ ra như một trái bom, mang lại cho xã hội Việt Nam khi đó một món quà người ta chưa hề được thưởng thức: Cái cười” [24, 22]. Phong hóa đã chinh phục độc giả mọi tầng lớp bằng tiếng cười trào phúng sảng khoái, đả phá những tục lệ cổ, những nhân vật tai to mặt lớn thời bấy giờ. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc năm 1935 tờ báo bị đình bản trong suốt 3 tháng. Đến năm 1936, tờ báo bị đóng cửa và được thay thế bằng Ngày nay. Trên cơ sở sáp nhập và đổi tên một số nội dung của Phong hóa, Ngày nay đã hạn chế bớt nội dung trào phúng và đi sâu vào các mặt của đời sống xã hội. Thông qua Phong hóa và Ngày nay, Tự lực văn đoàn đả kích bọn địa chủ và quan lại phong kiến, phơi bày và phê phán những hủ tục lạc hậu và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 lố bịch của xã hội phong kiến. Đồng thời lên tiếng ủng hộ, tuyên truyền cho một đời sống tiến bộ. 1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn 1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn Khái niệm tiểu thuyết Tiểu thuyết xuất hiện sớm ở Châu Âu, vào thời kì cá nhân con người không còn cảm thấy ích lợi và nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại. Nhưng phải tới thế kỉ XIX với sự xuất hiện của những cây bút “đại thụ” như Xtăngđan, Banzăc, L. Tônxtôi, Đôxtôiepxki… thể loại tiểu thuyết mới đạt tới sự hoàn thiện. Nhà nghiên cứu M. Bakhtin cho rằng: tiểu thuyết là loại văn chương duy nhất luôn luôn biến đổi bởi nó phản ánh được một cách sâu sắc, cơ bản và nhạy bén hơn sự chuyển biến của bản thân hiện thực. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa tiểu thuyết là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [19, 328]. Đây là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương hiện đại “Tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại ấy” [2, 21]. ở Việt Nam, thể loại tiểu thuyết phát triển muộn. Mãi tới đầu thế kỉ XVIII với sự xuất hiện của Nam Triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, nước ta mới có tác phẩm có quy mô tiểu thuyết. Tuy nhiên những tác phẩm này vẫn thuộc loại hình cổ điển phương Đông. Phải sang đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết Việt Nam mới mang tinh thần của thời đại mới, thời đại từ xã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Với sự giao lưu và tiếp nhận những tinh hoa của nền văn hóa phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam mới thực sự trở thành tiểu thuyết hiện đại. Tiểu thuyết luận đề Tiểu thuyết luận đề được hiểu là tiểu thuyết mà cốt truyện và số phận nhân vật được dùng để chứng minh cho một vấn đề triết học, đạo đức, xã hội (tức luận đề) có trước. Cần phải phân biệt tiểu thuyết luận đề với luận đề của tiểu thuyết. Luận đề của tiểu thuyết chính là chủ đề, là vấn đề: “Triết lý xã hội, đạo đức và các loại hình tư tưởng khác được đặt ra trong tác phẩm” [1, 46]. Chủ đề được hình thành từ hiện thực cuộc sống thông qua sự khái quát hóa của nhà văn, chủ đề toát ra từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm. Với tiểu thuyết luận đề, luận đề là cái có trước. Cốt truyện và nhân vật được tác giả sử dụng nhằm chứng minh cho luận đề. Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Tiểu thuyết luận đề là tiếng để dịch thành ngữ Pháp Roman à thèse. Luận đề đây là chỉ cái chủ trương, cái quan niệm có hệ thống của một tác giả về một vấn đề trọng đại của tư tưởng và liên quan đến xã hội nhân sinh. Nhà văn viết ra một câu chuyện với chủ ý trình bày những nhân vật, dẫn dắt các tình tiết để đi đến một kết cục, tất cả nhằm bênh vực cái quan niệm riêng của mình… Người ta nhận ra tiểu thuyết luận đề ở chỗ, tác giả đã rõ rệt chủ ý bênh vực một quan niệm, để chống lại một quan niệm khác và rõ rệt uốn nắn câu chuyện, khuôn đúc nhân vật, phục vụ cho chủ ý của mình” [53, 244]. Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai thác nhân vật và cốt truyện. ở đó, người đọc dễ dàng nhận ra sự can thiệp của tác giả. Nhà văn luôn luôn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập, có mâu thuẫn, xung đột gay gắt với nhau, trong đó nhân vật chính diện luôn là “phát ngôn viên” cho tư tưởng của chính tác giả. Nhân vật cũng thường được khai thác ở những bình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 diện có lợi cho luận đề. Kết thúc của Tiểu thuyết luận đề thường là kết thúc có hậu. Vì thế tiểu thuyết luận đề thường mang màu sắc đạo đức và duy lý. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn Đầu thế kỉ XX, tầng lớp trí thức Tây học ở nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ. Họ tiếp nhận và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây hiện đại. Vì thế ý thức cá nhân trong họ trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi đó chế độ gia đình phong kiến vẫn đầy rẫy những tập tục phong kiến lạc hậu. Cuộc đối đầu giữa hai phe Cũ - Mới ngày càng căng thẳng và quyết liệt, khó có thể dung hòa. Trước thực trạng trên của xã hội, Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng nắm bắt tình hình và cho ra mắt độc giả nhiều tác phẩm có nội dung chống lễ giáo phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân. Những tác phẩm ấy ngay từ khi mới ra đời đã nhận được sự ủng hộ và lòng yêu mến của đại đa số những người trẻ tuổi đang khát khao được sống cuộc đời tự do, được hưởng hạnh phúc cá nhân. Mở đầu cho cuộc chiến chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân là cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Mặc dù luận đề chống lễ giáo phong kiến chưa được đặt ra trực tiếp ở tiểu thuyết này, nhưng thông qua những hành động, suy nghĩ của các nhân vật, nhà văn đã gián tiếp phê phán lễ giáo phong kiến với những tập tục lạc hậu đã kìm hãm quyền được yêu, được tự do lựa chọn hạnh phúc lứa đôi của tuổi trẻ. Sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả là minh chứng cho luận đề chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân. Tự lực văn đoàn đã nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía bạn đọc nói chung và của tầng lớp thanh niên nói riêng. Đây chính là nguồn động lực thúc đẩy, cổ vũ nhóm tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết có luận đề chống lễ giáo phong kiến. Tiếp sau Hồn bướm mơ tiên, các tiểu thuyết: Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân, Lạnh lùng, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự đã trực tiếp tấn công vào thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 trì bảo thủ của lễ giáo phong kiến. Các tiểu thuyết này đã phơi bày mặt trái của nền luân lý bảo thủ - cái mà phái cũ gọi đó là truyền thống, là gia phong nền nếp. Đó là chế độ đa thê với quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt; là mâu thuẫn muôn đời giữa mẹ chồng với nàng dâu với quan niệm nghiệt ngã “mất tiền mua mâm bà đâm cho thủng” trong Đoạn tuyệt; là chế độ hôn nhân gả bán và quan niệm môn đăng hộ đối trong Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân; là nghĩa vụ tam tòng và bổn phận thủ tiết của người đàn bà theo quan niệm “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã kìm hãm hạnh phúc của biết bao người phụ nữ trẻ bất hạnh trong Lạnh lùng. Trong các tiểu thuyết luận đề, Tự lực văn đoàn đã dụng công xây dựng nên những nhân vật lý tưởng nhằm chứng minh cho luận đề của mình, cho tôn chỉ, mục đích hoạt động văn chương của nhóm. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn nhận xét Tự lực văn đoàn là tập hợp những cây bút “thấm nhuần văn hóa Pháp”. Các sáng tác của văn đoàn này chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây mới mẻ, họ là lớp nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới tư duy nghệ thuật thời bấy giờ, họ ca ngợi và cổ vũ cho cái mới. Nhanh chóng nắm bắt và phản ánh được những xung đột giữa mới - cũ trong xã hội, họ đã dùng văn chương như một thứ vũ khí đấu tranh chống lại các nền nếp, ý thức, tư tưởng đã lỗi thời. Vì vậy tiểu thuyết luận đề đã nhanh chóng trở thành một hình thức văn chương có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu đấu tranh của Tự lực văn đoàn. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn thường đi theo hai hướng: Thứ nhất là đấu tranh chống lễ giáo phong kiến và giải phóng con người cá nhân. Thể hiện những khát vọng về cuộc sống tự do, được hưởng hạnh phúc cá nhân, được quyền tự do yêu đương. Trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn, chúng ta nhận ra cái tôi cá nhân mạnh mẽ, luôn khát khao được sống, được yêu, luôn muốn bứt phá khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 với những hủ tục, luật lệ quá khắt khe kìm hãm hạnh phúc cá nhân. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai phe cũ – mới đã diễn ra. Một bên là những thanh niên trí thức đại diện cho những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Một bên là những nhân vật đại diện cho nền luân lý truyền thống với những quan niệm đã quá cũ kĩ, lạc hậu luôn khăng khăng giữ lấy quan điểm của mình. Thông qua các tác phẩm, tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn phê phán mạnh mẽ lễ giáo phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân chính đáng của con người. Thứ hai là cải cách xã hội: các tiểu thuyết luận đề mang nội dung cải cách xã hội của Tự lực văn đoàn mang đậm màu sắc cải lương tư sản. Những tiểu thuyết luận đề theo hướng này gồm: Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Đạo. Trong Gia đình, Khái Hưng đã ca ngợi những địa chủ tân học có tấm lòng nhân ái, quan tâm tới cuộc sống khổ cực của người nông dân. Họ làm nhà Ánh sáng, đào giếng, mở trường học nhằm khai sáng cuộc sống của người nông dân. ở tiểu thuyết Con đường sáng, Hoàng Đạo lại vẽ lên bức tranh đẹp đẽ về một cuộc sống mới của người nông dân: có sân vận động, có thư viện… Địa chủ và nông dân cùng nhau liên hoan vui vẻ mỗi khi được mùa. Tất cả chỉ là một hiện thực giả tạo, những viễn cảnh không bao giờ có thật. Hiện thực được vẽ lên trong tác phẩm qua lăng kính của các nhà văn là một hiện thực không có thật, mà nó được vẽ lên bởi trí tưởng tượng quá ngây thơ của các nhà văn. Vì thế mà tiểu thuyết luận đề đi theo hướng này không thu được thành công. Bởi cốt truyện và nhân vật được xây dựng một cách quá khiên cưỡng và gượng ép nhằm chứng minh cho luận đề mà nhà văn đã đưa ra. 1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Tiểu thuyết luận đề thường không mở rộng diện phản ánh mà thường khái quát từ chiều cao với rất ít sự kiện và nhân vật. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá: lối tiểu thuyết luận đề là lối rất mới ở nước ta. Mà trong thể loại này thì tiểu thuyết của Nhất Linh là “những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả”. Bản thân nhà văn Nhất Linh cũng nhận xét: “Viết tiểu thuyết luận đề nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương tuyên truyền một cái gì đó mà tác giả cho là đẹp, để đả đảo một cái gì mà tác giả cho là xấu xa” [65, 147]. Các tác phẩm của Nhất Linh bao gồm: tiểu thuyết Nho phong (1926), Người quay tơ (1927), Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng – 1934), Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng – 1934), Đoạn tuyệt (1935), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937), Bướm trắng (1939). Truyện ngắn: Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng - 1933), Tối tăm (1936)… Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh thể hiện được những tư tưởng tiến bộ của lớp thanh niên trẻ có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương Tây hiện đại. Nhà văn đã xây dựng nên những nhân vật lý tưởng đại diện cho những tư tưởng mới. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh luôn có hai tuyến nhân vật đối nghịch nhau gay gắt. Một bên đại diện cho những tư tưởng tiến bộ. Đó thường là những trí thức Tây học được học hành, được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây hiện đại. Họ có ý thức sâu sắc về sự biến chuyển của thời đại, họ cảm nhận cuộc sống thật ngột ngạt, tù túng trong các ràng buộc của chế độ đại gia đình và hệ ý thức phong kiến cổ hủ. Vì thế họ khao khát có được cuộc sống tự do. Những người phụ nữ trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh luôn là những người phụ nữ được học hành, có sự hiểu biết. Họ khát khao một cuộc sống bình đẳng. Loan trong Đoạn tuyệt luôn có ước muốn “Mình phải tạo ra một hoàn cảnh mới hợp với quan niệm mới của mình”, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Loan luôn khẳng định rằng “Em có quyền tự lập thân em”. Trong suy nghĩ của Loan luôn có những ý tưởng đi ngược lại xã hội phong kiến. Trong tác phẩm của ông thường xuất hiện mâu thuẫn giữa mẹ chồng với nàng dâu. Nhưng vượt lên trên mối xung đột cá nhân ấy là xung đột mang tính xã hội rộng lớn. Đó là sự xung đột khốc liệt giữa hai phe cũ – mới, giữa hai luồng tư tưởng trái ngược nhau của hai thế hệ. Sự xung đột giữa hai lối sống, hai quan niệm sống. Cha mẹ Dũng trong Đôi bạn muốn chàng trở thành địa chủ, nhưng chàng không thể chấp nhận cuộc sống ấy. Với Dũng một cuộc sống nhàn nhã, hưởng thụ dựa trên sự bóc lột người khác là điều chàng không thể làm được. Với Đoạn tuyệt đó là cuộc đấu tranh cho quyền sống, cho quyền tự do yêu đương của con người, chống lại gia đình phong kiến với những hủ tục lạc hậu vùi dập hạnh phúc cá nhân. Vì thế ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã được đánh giá là “Một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá nhân”. Tiếp sau đó là sự xuất hiện của Lạnh lùng, tác phẩm là sự tiếp nối mạch cảm hứng khẳng định quyền được sống, được yêu của người phụ nữ. Nhất Linh đã miêu tả một cuộc giằng xé dữ dội và quyết liệt trong tâm hồn của Nhung - một góa phụ trẻ luôn sống trong sự phân vân, giằng xé giữa việc giữ lấy danh tiếng hay lựa chọn tình yêu đích thực. Không chỉ có Nhung mà cả đại gia đình phong kiến đều giả dối để bảo vệ “tiếng thơm” của mình. Ngày giỗ chồng dù không thương nhớ gì nhiều nhưng nàng cũng tỏ vẻ “Cố ý lau qua loa để mọi người biết nàng mới khóc”. Ngay cả bà Án - mẹ chồng nàng cũng khóc nhưng bà “khóc chẳng qua vì cái khóc đối với bà rất hay lây chứ không vì thương con dâu hay vì nhằm ngày dỗ bà nhớ đến con”. Khi viết Lạnh lùng, Nhất Linh đã nhằm thẳng vào đạo Khổng mà lên án. Vì cái bảng “Tiết hạnh khả phong”, Nhung không chỉ sống giả dối với mọi người mà nàng còn giả dối với chính lòng mình. Có lẽ đây là tấn bi kịch lớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 nhất của cuộc đời nàng. Hạnh phúc ở ngay trong tầm tay mà nàng không đủ can đảm “hái” lấy trái ngọt của hạnh phúc. Bởi những quy tắc đạo đức theo tư tưởng Khổng giáo đã trói buộc, đã bóp chết bao ước mơ và quyền được hưởng hạnh phúc chính đáng của con người nói chung và người phụ nữ nói riêng. Một người phụ nữ còn trẻ không yêu chồng mà vẫn phải hi sinh tuổi thanh xuân, hi sinh cả tình yêu hạnh phúc của mình để ở vậy thờ chồng, để giữ tiếng thơm cho gia đình. Đây là một điều vô lý, trái với lẽ tự nhiên. Nhung chính là một nạn nhân đáng thương của những luân lý khắt khe của xã hội phong kiến. Qua tác phẩm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo mạnh mẽ chế độ đại gia đình phong kiến với quyền uy lạnh lùng của cộng đồng đã ràng buộc, thúc ép mọi cá nhân phải sống theo khuôn phép đã quy định. Một xã hội mà không ai đếm xỉa và ý thức về cái được gọi là hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ. Hạnh phúc cá nhân là thứ mà người ta không quen nhắc tới nên nó bị coi rẻ, con người phải sống cam chịu, héo mòn dần theo năm tháng cho tới khi mà “Cùng với hai hàm răng long, mái tóc bạc, cái phần thưởng quý hóa ấy sẽ đến để kết liễu đời nàng, đời một người đàn bà góa trẻ, ở vậy thờ chồng, giữ được vẹn toàn tiếng thơm”. [42, 268]. So với Khái Hưng, tính luận đề trong tiểu thuyết của Nhất Linh rõ ràng hơn, và sự đấu tranh của các nhân vật trong tác phẩm của ông cũng mạnh mẽ quyết liệt hơn: “Nhất Linh cho rằng cái khí giới ôn hòa của Khái Hưng chưa đủ hiệu lực để đánh đổ kẻ thù còn đang mạnh lắm. Ông chủ trương phải tuyên chiến đánh thẳng vào địch, hạ cho nó nằm xuống thì mới hòng cứu vãn được” [34, 723]. Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng Khái Hưng sáng tác ở nhiều thể loại: kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết. Kịch gồm: Tục lụy (1937), Đồng bệnh (1942). Truyện ngắn gồm: Dọc đường gió bụi (1936), Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Đội mũ lệch (1941). Tiểu thuyết gồm: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Gia Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 đình (1935), Trống mái (1936), Thoát ly (1936), Thừa tự (1940), Hạnh (1940), Những ngày vui (1941), Đẹp (1941); Chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân là cảm hứng chủ đạo và cũng là cảm hứng dồi dào nhất trong suốt chặng đường sáng tạo nghệ thuật của Khái Hưng. Với hai cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã trở thành người mở đầu cho những tiểu thuyết chống lễ giáo phong kiến của Tự lực văn đoàn. Nếu như trong Hồn bướm mơ tiên mới chỉ là sự hé mở về một cuộc chiến chống lại tư tưởng bảo thủ của chế độ đại gia đình phong kiến thì đến Nửa chừng xuân, ngòi bút của nhà văn đã trực diện tấn công vào những quy tắc nghiệt ngã mà chế độ đại gia đình đã kìm hãm cuộc sống hạnh phúc cá nhân của con người. Qua tác phẩm, Khái Hưng đã khẳng định quyền tự do kết hôn của thế hệ thanh niên tiến bộ có nhận thức mới về quyền sống cá nhân, về hạnh phúc lứa đôi. ở các tiểu thuyết tiếp theo: Gia đình, Thoát ly, Thừa tự, Khái Hưng tiếp tục chĩa mũi nhọn vào thành trì của lễ giáo phong kiến. Mỗi tác phẩm, nhà văn đi sâu khai thác một khía cạnh, nhưng tất cả đều tập trung thể hiện tinh thần phản phong quyết liệt, mạnh mẽ. Trong tiểu thuyết Gia đình, tác giả đi vào mô tả sự rạn nứt của đại gia đình phong kiến do tác động của trào lưu xã hội tiến bộ. ở Thoát ly, nhà văn đã mô tả rất chân thật và sinh động sự vô nhân đạo của chế độ đa thê, cảnh mẹ ghẻ áp bức, hành hạ con chồng. Thừa tự lại dựng lên một bức tranh với những mảng màu đen tối về cuộc sống gia đình quyền thế toàn những kẻ hám lợi, ghen ghét thù oán lẫn nhau. Vẫn dựa trên mạch cảm hứng phê phán chế độ đa thê, nhưng ngòi bút của Khái Hưng tập trung vào mối quan hệ giữa dì ghẻ – con chồng xoay quanh vấn đề thừa tự. Miếng mồi “thừa tự” được trưng ra gây nên mối bất hòa, sự thù hận giữa những người ruột thịt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Trong tiểu thuyết luận đề, Khái Hưng không chỉ tấn công vào lễ giáo phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân, nhà văn còn gửi gắm vào đó ước mơ cải cách xã hội, mong muốn đem đến cuộc sống mới tốt đẹp hơn cho người dân quê nghèo khổ. Những nhân vật tân địa chủ trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng không chỉ có ý thức về quyền sống cá nhân, có lối sống mới, mà họ đặc biệt quan tâm đến đời sống của người nông dân. Họ gần gũi, giúp đỡ những người nghèo khổ, đói rách, ước muốn của họ là cải cách xã hội và cuộc sống của người dân quê. Ở tiểu thuyết Gia đình, Khái Hưng đã ca ngợi những địa chủ tân học có tấm lòng nhân ái đã làm nhà Ánh sáng, đào giếng, mở trường học mang đến một cuộc sống văn minh cho người nông dân. Tuy nhiên, tiểu thuyết luận đề theo hướng cải cách xã hội của Khái Hưng mang đậm màu sắc cải lương tư sản, thiên về dung hòa mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ. Đây chính là điểm hạn chế trong tiểu thuyết luận đề của ông. Trong tác phẩm của mình, Khái Hưng tập trung thể hiện xung đột giữa mới và cũ. Lớp thanh niên thấm nhuần tư tưởng hiện đại của phương Tây, họ coi trọng tự do yêu đương, tự do kết hôn. Trong khi đó, các bậc phụ huynh đại diện cho gia đình truyền thống thì quan niệm lấy vợ là phải tìm nơi môn đăng hộ đối để sau này còn nhờ cậy để tiến thân và coi đó như một nấc thang danh vọng. Trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã đả phá mạnh mẽ quan niệm môn đăng hộ đối, những tập tục đã không còn hợp thời của chế độ phong kiến đang từng ngày từng giờ phong tỏa cuộc sống tự do của con người. Qua đó, ông tố cáo chế độ đại gia đình phong kiến hàng ngàn năm qua đã đặt quy tắc lên trên tự do, hạnh phúc của con người; đã đặt luân thường lên trên nhân đạo. Đánh giá về tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng, các nhà nghiên cứu phê bình có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều thiên về khen ngợi. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét: “Đến Thừa tự, Gia đình, Thoát ly, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Khái Hưng bộc lộ mặt mạnh của ngòi bút khi đi sâu vào cảnh ngộ của những gia đình giàu có, phát hiện ra những mâu thuẫn, những rạn nứt khó hàn gắn do tính chất lỗi thời của lễ giáo phong kiến và quyền lực của đồng tiền gây ra”. Có thể nói rằng, văn chương của Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng đã tạo nên những giá trị mới cho văn học. Bởi nó đã tìm được hướng đi, có mục tiêu tranh đấu, lại mở ra những khát vọng và quyền sống cá nhân cho con người. Đây chính là điểm cách tân và cũng là đóng góp tích cực của Tự lực văn đoàn cho sự đổi mới của văn chương Việt Nam những năm 30 đầu thế kỉ XX. 1.3. Vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc Trong khoảng 10 năm hoạt động, Tự lực văn đoàn đã có nhiều đóng góp quan trọng cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam hiện đại: “Nhờ tiếp thu được những ảnh hưởng của nền văn học phương Tây, Tự lực văn đoàn đã đẩy các thể loại như báo chí, tiểu thuyết, thơ, kịch, truyện ngắn tiến lên một bước về phía trước” [9, 367]. Đây là văn đoàn đầu tiên có tổ chức chặt chẽ, có tôn chỉ, mục đích hoạt động rõ ràng, có cơ quan ngôn luận và nhà in riêng. Tự lực văn đoàn đã quy tụ được nhiều tài năng trẻ, truyền bá được nhiều tác phẩm văn chương có giá trị, chiếm được sự yêu mến của một số lượng lớn công chúng độc giả. Với những hoạt động tích cực, Tự lực văn đoàn không chỉ có công trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của nền văn học nước nhà, mà họ còn góp tiếng nói quan trọng vào việc cổ vũ cải cách xã hội thông qua cơ quan ngôn luận của mình. Trên báo Phong hóa, tiếng cười đả kích được sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén tấn công vào bọn điạ chủ, quan lại phong kiến chuyên hà hiếp bóc lột những người nông dân nghèo khổ, lương thiện. Đôi khi tiếng cười đả kích còn kín đáo hướng vào thực dân Pháp và biểu lộ sự cảm thông chân thành đối với cuộc sống nghèo khổ của người dân quê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Tự lực văn đoàn chủ trương Âu hóa mọi mặt đời sống xã hội, dương cao ngọn cờ chống lễ giáo phong kiến, đề cao chủ nghĩa cá nhân, đả phá mọi sự ràng buộc tự do cá nhân. Họ mong muốn thay đổi những quan niệm sống gắn với những tập tục, lễ nghi phong kiến của người dân quê, từ đó tiến hành những cuộc cải cách làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam: “Các nhà văn, nhà báo trong Tự lực văn đoàn với Nhất Linh đứng đầu có một chủ trương duy tân và cấp tiến. Họ muốn đả phá cái xã hội nho phong với tập tục, lễ giáo mà thế hệ cũ gọi là quốc túy, quốc hồn, đả phá nhất là những hủ tục của người dân quê sau lũy tre xanh, đả phá cái không khí sầu bi, cái phong thái đạo mạo, những thành kiến chán đời của lớp người đứng tuổi trong xã hội khi ấy. Và để thế vào, họ đưa ra một quan niệm sống Âu hóa, cải cách phong tục dân chúng nhất là dân quê, những tư tưởng tin theo lẽ phải, tự do cá nhân, hạnh phúc vật chất, chủ nghĩa yêu đời của lớp người trẻ” [53, 434]. Thực hiện đúng tôn chỉ của mình, Phong hóa và Ngày nay đã đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thời cuộc, nên được độc giả nhiệt liệt đón nhận, nhất là tầng lớp thanh niên trí thức. Với việc thành lập “Hội Ánh sáng” năm 1936 – một tổ chức từ thiện mang tính chất cải lương tư sản, có mục đích khai sáng cho những cuộc đời tăm tối, cứu vớt những cuộc đời quá nghèo khổ, Nhất Linh mong muốn: “Tôi vẫn tha thiết mong cho đám dân thiệt thòi và thấp kém trong xã hội có những quyền sống mà họ thiếu thốn. Lấy trách nhiệm là một nhà văn cùng với những đồng chí khác, tay cầm tay đứng trong hàng ngũ, tôi xin hết sức giúp một phần nhỏ mọn vào công cuộc đòi quyền sống của hết thảy anh em bị thiệt: Mặt trận bình dân” [9, 21]. Tất cả những hoạt động, tâm sức của họ đều dồn vào mục đích duy nhất là phụng sự lý tưởng cải cách xã hội. Những hoạt động ấy được thực hiện thông qua hai hình thức là tuyên truyền bằng báo chí, văn chương và tiến hành các hoạt động cụ thể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Với những giải thưởng đã trao, Tự lực văn đoàn đã khích lệ phong trào sáng tác văn học phát triển. Giải thưởng Tự lực văn đoàn đã trở thành điểm sáng trong đời sống văn học Việt Nam những năm 1930, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà văn, nhà thơ và góp phần đẩy mạnh phong trào sáng tác văn học khắp cả nước. Sự hoạt động tích cực của nhà xuất bản Đời nay đã “mở ra một kỉ nguyên mới cho cuốn sách trong lịch sử văn học Việt Nam, đồng thời giúp văn đoàn họ truyền bá rộng rãi những tác phẩm cùng tư tưởng quan niệm văn đoàn” [24, 25]. Không chỉ có giá trị văn chương mà sách Đời nay còn được trình bày rất mĩ thuật. Đánh giá về vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, Giáo sư Phong Lê đã nhận xét: “Khi đã có cái nhìn xuyên suốt một thế kỉ, làm gắn nối công cuộc canh tân đất nước đầu thế kỉ đến sự nghiệp đổi mới đất nước vào cuối thế kỉ, thì mới là lúc ta có hoàn cảnh để nhận ra hai đóng góp lớn của Tự lực văn đoàn cho đời sống văn học, và đời sống văn hóa – tinh thần dân tộc. Đó là: góp công đầu vào việc đấu tranh giải phóng cá nhân ra khỏi mọi kiềm tỏa của lễ giáo phong kiến và ý thức hệ phong kiến đè nặng lên đời sống tinh thần của dân tộc trong hàng nghìn năm… Công lớn thứ hai của Tự lực văn đoàn, đồng thời với việc đặt ra và trả lời một yêu cầu lịch sử như đã nêu trên, đó là việc thực hiện yêu cầu hiện đại hóa, với vai trò tiên phong của nó trong văn chương dân tộc” [38, 7]. 1.3.1. Cổ vũ cho phong trào thơ mới Phong hóa và Ngày nay là diễn đàn cổ vũ, bênh vực thơ mới, góp phần đáng kể vào sự toàn thắng của thơ mới. Bằng những lí lẽ chặt chẽ, Tự lực văn đoàn đã tích cực tham gia tranh luận về vấn đề thơ mới – cũ. Họ hô hào trên Phong hóa: bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm lại đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng. Tự lực văn đoàn đứng hẳn về phía cái mới trong cuộc đấu tranh giữa cái mới và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 cái cũ, cho việc giải phóng cá nhân ra khỏi sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Phong hóa và Ngày nay là một trong những trung tâm quan trọng của công cuộc đổi mới nền văn học, của phong trào thơ mới “Là vườn ươm, là nơi giới thiệu, nâng đỡ hàng loạt tài năng mới (Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyên Hồng, Thanh Tịnh, Tế Hanh, Đỗ Đức Thu, Đoàn Phú Tứ, Anh Thơ, Bùi Hiển…) [52, 554]. Các nhà thơ mới trong Tự lực văn đoàn đã “góp công làm phong phú hơn thế giới nội tâm của con người, mở ra trước bạn đọc một thiên nhiên, một đất nước quê hương đầy cảm xúc và thanh sắc, mang đến một cái tôi cá thể hóa trong cách cảm thụ thế giới của thi ca” [52, 553]. Vì vậy mà Hoài Thanh đã trân trọng xếp hai thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn vào vị trí đầu bảng của phong trào thơ mới “Thế Lữ là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời thơ mới giai đoạn đầu” và “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong phong trào thơ mới”. 1.3.2. Hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã góp phần quan trọng vào việc cách tân văn học, xây dựng một nền văn học Việt Nam hiện đại. Hoàng Xuân Hãn đánh giá rất cao những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho quá trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà: “Nhóm Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [52, 554]. Ngay từ lúc mới ra đời, Tự lực văn đoàn đã góp phần làm thay đổi diện mạo của nền văn học, đặc biệt có nhiều công lớn trong việc hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết. Tiểu thuyết của họ đã dần từ bỏ kết cấu theo trình tự thời gian, chương hồi mà đi vào kết cấu theo diễn biến tâm lý. Đã đi sâu vào việc miêu tả những diễn biến trong nội tâm nhân vật với lối văn giản dị và trong sáng. Họ là nhóm đi đầu trong công cuộc hiện đại hóa tiểu thuyết: “Tự lực văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 đoàn đã kết hợp được khá nhuần nhị truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Ngôn ngữ văn học cũng trở nên giản dị, trong sáng, giàu khả năng diễn đạt hơn và đặc biệt rất gần gũi với tâm hồn dân tộc” [52, 554]. Thậm chí, nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ còn cho rằng phải đến Tự lực văn đoàn, mới bắt đầu có tiểu thuyết Việt Nam: “Song nhất là ở thể loại tiểu thuyết mà họ đã gây được thành tích vẻ vang hơn cả. Có thể nói chỉ với Tự lực văn đoàn, chúng ta mới bắt đầu có tiểu thuyết Việt Nam” [24, 28]. Với nhiều hình thức và hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau, Tự lực văn đoàn thực sự đã có nhiều đóng góp rất hiệu quả cho hoạt động xã hội và văn học nước nhà những năm 30 của thế kỉ XX: “Nhờ tiếp thu được những ảnh hưởng của nền văn học hiện đại phương Tây, Tự lực văn đoàn đã đẩy các thể loại như: báo chí, tiểu thuyết, thơ, kịch, truyện ngắn tiến lên một bước về phía trước” [9, 377]. Khi đánh giá về vai trò của Tự lực văn đoàn, GS Phong Lê trong bài “Tiếp tục nhìn lại Tự lực văn đoàn” đã nhận định: “Tự lực văn đoàn đã góp phần quan trọng đưa tiểu thuyết Việt Nam vào quỹ đạo hiện đại, trên tất cả các phương diện của cấu trúc tự sự, kiểu loại nhân vật, tư duy nghệ thuật và ngôn ngữ, giọng điệu… sau khi dứt bỏ mọi dấu ấn trung đại; và cùng với tiểu thuyết còn là truyện ngắn, bút ký và tiểu luận phê bình góp phần làm nên diện mạo của văn xuôi thời kì 1930 – 1945” [38, 7]. Mặc dù còn nhiều hạn chế về mặt tư tưởng, nhưng những đóng góp của Tự lực văn đoàn trong công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc là không thể phủ nhận: “Ta đã có đủ thời gian để đánh giá sự đóng góp của Tự lực văn đoàn. Có thể nói Tự lực văn đoàn đã đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam. Họ có hoài bão về văn hóa dân tộc. Họ có điều kiện nhưng không thích con đường làm quan, làm giàu mà đi vào chuyện văn chương. Đáng phê phán nhất của Tự lực văn đoàn cũng như ở Khái Hưng, Nhất Linh là chặng cuối đời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 Nhưng cũng đừng vì lăng kính đó mà đánh giá họ… Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết, vào tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói và câu văn của dân tộc, của lối văn trong sáng và rất Việt Nam”. [52, 556]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Chương 2 BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH VÀ KHÁI HƯNG 2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn 2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong nghiên cứu văn học Cũng giống như các ngành khoa học khác, mục đích cuối cùng của văn học là góp phần làm cho cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn. Văn học lấy con người làm “đối tượng nhận thức trung tâm” [19, 402] và đây cũng chính là cái đích quan trọng mà các nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật luôn hướng tới. Con người, với tư cách là đối tượng nhận thức và thể hiện của văn học luôn thay đổi và quan niệm nghệ thuật về con người qua mỗi thời kỳ cũng có sự đổi thay, làm cho khả năng chiếm lĩnh con người trong văn học ngày càng sâu sắc và phong phú. Tuy nhiên quan niệm này ở mỗi nơi, vào mỗi thời kỳ và ở mỗi nhà văn lại có sự khác nhau. Chính sự khác biệt đó đã làm nên gương mặt đa diện và phong phú cho nền văn học. Mặc dù có sự khác nhau nhưng cái đích cuối cùng là phải tạo ra được những cảm nhận hết sức tinh tế về con người trong vô vàn những mối quan hệ xã hội phức tạp. Giá trị của một tác phẩm văn học là ở chỗ thấu hiểu và đồng cảm tận cùng những ngõ ngách sâu thẳm trong tâm hồn con người. Vì vậy, muốn định giá được giá trị của bất kỳ một tác phẩm văn học nào, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề con người được đề cập trong đó. Với ý nghĩa như vậy, vấn đề con người đã trở thành một trong những vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Con người, theo quan niệm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học phương Tây là một phương tiện quan trọng để thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Dưới cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, con người trong tác phẩm văn học được biểu đạt qua hệ thống nhân vật. B. Brech cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc họa phù hợp với ý tưởng của tác giả” [4, 213]. Khi nhận xét về nhân vật và lập trường của tác giả đối với nhân vật trong sáng tác của Đôxtôiepxki, nhà nghiên cứu Bakhtin viết: “Nhân vật làm cho Đôxtôiepxki quan tâm chỉ như một quan điểm đặc biệt đối với thế giới và đối với chính nó, như một lập trường ý nghĩa và lập trường đánh giá của con người đối với bản thân và đối với thế giới xung quanh nó” [3, 36]. Do vậy nhân vật đã trở thành đối tượng của sự tự ý thức và thực tại đã trở thành yếu tố tự ý thức của nhân vật. Trước đây, khi phân tích nhân vật văn học, người ta thường đem nhân vật đối chiếu với một loại người nào đó trong xã hội mà quên mất rằng: Thế giới nghệ thuật có những điểm khác biệt với thế giới hiện thực, dù rằng thế giới nghệ thuật có nguồn gốc từ thế giới hiện thực. Khi nói về vấn đề này, Poxpêlôp diễn đạt một cách đơn giản hơn: “Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả con người cá nhân với hành vi bề ngoài và cách hiểu thế giới của chúng… gọi là nhân vật được miêu tả một cách nghệ thuật trong tác phẩm” [54, 17]. Theo Poxpêlôp thì nhân vật không bộc lộ bản thân mình qua hành động, việc làm mà bộc lộ thông qua “cảm xúc đối với xung quanh và các suy nghĩ về những điều trông thấy” [54, 180]. Như vậy, con người đối với giới nghiên cứu và phê bình văn học phương Tây chính là “Phương tiện tất yếu quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng trong tác phẩm” [54, 18] và là “đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của tác giả, trong trường nhìn của tác giả” [3, 37]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Còn ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều cho rằng quan niệm nghệ thuật về con người là cơ sở quan trọng để xem xét nét độc đáo trong sáng tạo của nhà văn. Vậy thế nào là quan niệm nghệ thuật? Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì quan niệm nghệ thuật là “Nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [19, 273]. Và quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người được “Thể hiện ở điểm nhìn nghệ thuật, ở chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số tâm lý của chủ thể, ở kiểu nhân vật và biến cố mà tác phẩm cung cấp, ở cách xử lý các biến cố và quan hệ nhân vật” [19, 274]. Để tạo được tính chỉnh thể và sắc diện đa dạng của mình “quan niệm nghệ thuật của văn học có liên hệ mật thiết với quan niệm về thế giới và con người về mặt triết học, khoa học, tôn giáo, đạo đức, chính trị vốn có của thời đại mình” [19, 275]. Nói về quan niệm nghệ thuật, Giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn Một số vấn đề thi pháp học hiện đại nhận xét: “Phạm trù quan niệm nghệ thuật thuộc phạm vi ý thức của văn học, gắn liền với ý thức về chức năng, nhiệm vụ, khả năng của văn học. Nó là cách cắt nghĩa của văn học đối với con người” [60, 30]. Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu thi pháp đã trở nên khá phổ biến và được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thi pháp học xem toàn bộ sự miêu tả về nhân vật như là một cách biểu đạt, sự biểu hiện trình độ cảm nhận về con người. Từ đó đi vào phân tích nhân vật để tìm hiểu quan niệm về con người trong ý thức của người sáng tác. Nhưng đối tượng trung tâm mà thi pháp học quan tâm không phải là nhân vật trong tác phẩm mà là con người được cảm nhận thông qua các nhân vật này: “Việc phân tích thi pháp theo quan niệm chúng tôi là khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật. Chúng tôi ít quan tâm tới nhân vật này, mà quan tâm tới con người được cảm nhận qua các nhân vật loại này”. [60, 29]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Khi nhắc tới quan niệm nghệ thuật là nhắc tới tính năng động của chủ thể nghệ thuật “Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề năng động của chủ thể nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lý giải con người bằng các phương tiện nghệ thuật, là vấn đề giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc đời” [59, 117]. Dựa trên những ý kiến đánh giá trên, chúng tôi đi đến nhận xét rằng các nhà nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam đều có chung quan điểm khi đánh giá về quan niệm nghệ thuật. Họ cho rằng đây là cơ sở cho quá trình nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật. Khi tìm hiểu khái niệm “Quan niệm nghệ thuật về con người”, chúng ta cần phải lưu ý cuộc sống cũng như con người có những biểu hiện hết sức phong phú, phức tạp và “Chừng nào chưa có những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người thì sự tái hiện các hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng lượng trên cùng một chiều sâu” [59, 118]. Mỗi một nhà văn trong quá trình sáng tác luôn chịu sự tác động của thời đại nhưng điều quan trọng là người nghệ sĩ ấy phải tìm được hướng đi riêng cho mình. Bởi thế nên không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu lại khẳng định: quan niệm nghệ thuật về con người là cơ sở quan trọng để xem xét nét độc đáo trong sáng tạo của nhà văn. Dựa trên sự đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình văn học và quá trình tìm hiểu các sáng tác của các nhà văn, chúng tôi đi tới nhận định quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố trung tâm và là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học. Trong quan niệm ấy có cái chung của thời đại, của dân tộc, của truyền thống. Nhưng điều cốt yếu là người nghệ sĩ phải thể hiện được cá tính sáng tạo độc đáo của riêng mình. 2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Quan niệm về con người chính là cách hiểu, cách cắt nghĩa về con người. Quan niệm đó quyết định chiều sâu của việc miêu tả cũng như việc giải quyết chủ đề, đề tài trong sáng tác. Quan niệm về con người đồng thời cũng là một sản phẩm của lịch sử. Vì thế, nó chịu sự chi phối của truyền thống văn hóa dân tộc, chịu sự ảnh hưởng của các mối giao lưu văn hóa quốc tế đồng thời chịu sự quy định của cá tính sáng tạo của nhà văn. ở mỗi giai đoạn, mỗi trào lưu văn học đều có quan niệm riêng về con người. So với văn học trung đại, quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã có nhiều sự cách tân, đổi mới. Các tác phẩm của văn đoàn đã thể hiện một cách nhìn, cách hiểu mới về con người. Sự cách tân ấy trước hết được thể hiện trong tư tưởng của nhà văn, ở việc đấu tranh cho sự giải phóng cái tôi cá nhân khỏi sự kìm kẹp của lễ giáo phong kiến và hướng tới quyền tự do quyết định hạnh phúc. Con người cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thường được gắn với vấn đề tư tưởng, chính trị: “Con người cá nhân trên bình diện xã hội được gắn với vấn đề tư tưởng, chính trị (đấu tranh giải phóng cá nhân, chống đối lễ giáo phong kiến) hay vấn đề đạo đức (vô luân, trụy lạc, suy đồi)’’ [63, 16]. Sự xâm nhập của văn minh công nghiệp đã tác động mạnh mẽ vào đời sống xã hội và làm rạn nứt dần những nguyên tắc cứng nhắc của xã hội Việt Nam cổ truyền. Sự thức tỉnh về ý thức cá nhân xuất hiện trước hết ở tầng lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản. Thực ra ý thức về cái tôi cá nhân đã xuất hiện trong văn học Việt Nam từ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX với niềm khát khao được hưởng trọn vẹn cuộc sống hạnh phúc lứa đôi. Nhưng đó mới chỉ là ước muốn thầm kín của người phụ nữ trong khuôn khổ của xã hội phong kiến với những lễ nghi bó buộc quyền tự chủ của con người. Đó là niềm mong nhớ chồng đang ở nơi chiến trường xa xôi của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm; là nỗi ngậm ngùi chua xót của người cung nữ trong tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 phẩm Cung oán ngâm; là nỗi tức giận vì phải chịu kiếp chồng chung lạnh lùng trong sáng tác của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Sang đầu thế kỉ XX, cái tôi cá nhân của Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu đã bước vào văn học trong tư thế đường hoàng và tự tin. Nhưng cái tôi ấy vẫn còn rụt rè, bỡ ngỡ. Khi Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách xuất hiện, thì con người cá nhân lúc này đã bắt đầu thể hiện được ý thức độc lập về quyền tự do tự chủ của mình, về quyền được hưởng hạnh phúc nhưng còn rất mỏng manh. Đến phong trào Thơ mới và tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn thì ý thức về con người cá nhân đã có một vị thế hoàn toàn mới, đã có tiếng nói mạnh mẽ hơn, tự tin hơn: “Với một tư thế mới, con người cá nhân đã được ý thức trong một cấp độ mới hẳn: không còn chỉ là một nhu cầu tình cảm mà là một vấn đề xã hội, một vấn đề triết lý nhân sinh, một lập trường, quan điểm. Có thể nói tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn là một đỉnh cao của hành trình tự ý thức của con người cá nhân trong xã hội hiện đại” [63, 30]. Con người trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng luôn có ý thức hướng tới một cuộc đời mới với những quan niệm về cuộc sống hết sức tiến bộ. Các nhân vật đại diện cho quan niệm sống hiện đại, họ thường là những thanh niên trẻ tuổi đang khát khao quyền sống tự do, khát khao hạnh phúc cá nhân như nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt luôn “Ao ước được sống cái đời tự do rộng rãi, không gì bó buộc”. Trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, con người thường được xây dựng theo mô hình con người cá nhân luôn phải sống trong sự đè nén của đạo đức lễ giáo phong kiến: “Xung đột của con người cá nhân với gia đình truyền thống là dấu hiệu đầu tiên, trực tiếp nhất cho sự hiện diện của con người cá nhân Tự lực văn đoàn” [63, 37]. Xung đột được miêu tả trong các tác phẩm thường là xung đột giữa hai thế hệ với hai quan niệm sống hoàn toàn trái ngược nhau. Mâu thuẫn của họ chủ yếu là mâu thuẫn giữa cá nhân với truyền thống, giữa cũ và mới. Các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 thường xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau. Một bên là các bậc cha mẹ, họ là đại diện và bảo vệ cho những tư tưởng cũ kĩ, lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào trong tiềm thức, trong suy nghĩ của đại bộ phận người dân Việt Nam hàng ngàn năm qua. Một bên là những thanh niên trí thức trẻ tuổi có học, được tiếp cận với nền văn minh hiện đại, họ mang trong mình những tư tưởng mới mẻ và tiến bộ. Những suy nghĩ và hành động của lớp người này đã thể hiện những nhận thức tiến bộ của con người trong vấn đề tình yêu và hôn nhân, khẳng định quyền tự do cá nhân của con người trong xã hội. Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có nhiều biến động lớn về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay đổi ấy là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện con người cá nhân và ý thức mới về con người cá nhân. Con người trong văn học chính là con người trong xã hội. Sự vận động của thực tế mới làm nảy sinh con người mới và việc miêu tả, phản ánh những con người thực tế ấy sẽ làm cho văn học đổi mới. Con người trong Tự lực văn đoàn luôn hướng tới cuộc sống mới, quan niệm sống mới. Để đạt được điều đó, họ đã đấu tranh quyết liệt để giành được thế chủ động. Con người luôn được đặt trong những hoàn cảnh thử thách quyết liệt như: Mai (Nửa chừng xuân), Loan (Đoạn tuyệt), Nhung (Lạnh lùng), Hồng (Thoát ly)… Con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn luôn tự tin vào mình, tin tưởng vào những quyền mà con người xứng đáng được hưởng. Nhưng tiếc rằng, niềm lạc quan tin tưởng ấy lại mang tính chất ảo tưởng đậm màu sắc lãng mạn. Tuy nhiên cái lãng mạn của họ là một bước tiến so với cái lãng mạn ảo não sướt mướt của Tố Tâm. Bởi cái lãng mạn của Tự lực văn đoàn luôn hướng tới những giá trị tinh thần mới mẻ với mong muốn đem đến cuộc sống tự do, hạnh phúc cho con người. 2.2. Con người theo mô hình đạo đức lễ giáo phong kiến 2.2.1. Mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong kiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 Nền luân lý cũ đã không còn hợp thời, chế độ đại gia đình với vô số mối quan hệ và những bổn phận đã ràng buộc, kìm hãm hạnh phúc của con người. Trước thực trạng đó, thế hệ trẻ với tư tưởng tiến bộ đòi đoạn tuyệt với tư tưởng Nho giáo, giải phóng con người khỏi xiềng xích của chế độ đại gia đình phong kiến, hướng tới quyền sống tự do và hạnh phúc cho cá nhân. Trước mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa hai phe cũ – mới, các nhà văn thuộc thế hệ trẻ nhiễm tư tưởng tiến bộ đã cùng nhau hướng tới mục đích chung là: thay đổi xã hội cũ, phá bỏ chế độ đại gia đình phong kiến với những hủ tục lạc hậu như bài trừ mê tín dị đoan trong cuộc sống… Qua các tác phẩm, các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mong muốn thiết lập những quan niệm sống mới, theo mới một cách triệt để và dứt khoát. Để bảo vệ quyền tự do cá nhân, các nhà văn đã chọn việc công phá vào đại gia đình phong kiến. Họ đóng vai trò vừa là nhóm khởi xướng trong chặng đầu của cuộc đấu tranh cho cái mới tồn tại và phát triển, vừa là động lực mới thúc đẩy những cây bút khác tiếp tục phát huy và hoàn thiện. Trước thực trạng xã hội đang có nhiều biến đổi, cái tôi cá nhân trong mỗi con người cũng trỗi dậy một cách mạnh mẽ, những khát vọng mong ước về cuộc sống tự do đã thúc đẩy con người tìm mọi cách bứt phá vượt qua “hàng rào” của lễ giáo phong kiến, kiếm tìm tự do và hạnh phúc cho bản thân. Mở màn cho những mong ước ấy là sự ra đời của tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên. Tuy nhiên, Hồn bướm mơ tiên mới chỉ là khúc dạo đầu cho tư tưởng chống lễ giáo phong kiến. Phải đến Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân thì xung đột giữa cái tôi cá nhân với chế độ đại đình phong kiến mới diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Mỗi tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn lại là một câu chuyện xoáy vào những nguyên tắc cơ bản của lễ giáo phong kiến như: chuyện dì ghẻ con chồng với quan niệm “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng” trong Thoát ly, là nghĩa vụ tam tòng và bổn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 phận thủ tiết thờ chồng nuôi con của người đàn bà trẻ góa chồng trong Lạnh lùng; là chuyện mẹ chồng nàng dâu với quan niệm “mất tiền mua mâm bà đâm cho thủng” trong Đoạn tuyệt; là quan niệm “môn đăng hộ đối” trong Nửa chừng xuân… Nhất Linh, Khái Hưng trong hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân đã rất dụng công trong việc xây dựng các nhân vật chống lễ giáo phong kiến và đưa họ trở thành những nhân vật kiểu mẫu nhằm thể hiện luận đề của tác phẩm. Các nhân vật ấy thường là những trí thức có học, là con cưng của đại gia đình phong kiến chính thống, được thừa hưởng những điều kiện vật chất đầy đủ, có cuộc sống an nhàn phú quý. Nhưng bản thân họ lại không hề cảm thấy thoải mái với cuộc sống mà rất nhiều người mơ ước. Ngược lại, những con người này luôn cảm thấy tù túng và bức bối khi phải sống trong một bối cảnh toàn những luật lệ hà khắc cổ hủ và bất công. Vì thế, họ tìm mọi cách mong thoát khỏi gia đình, thoát khỏi những cổ tục lạc hậu trái ngược với quan niệm sống phóng khoáng của họ. Dù vấp phải nhiều cản trở nhưng họ không đầu hàng số phận, không chấp nhận hoàn cảnh, không chấp nhận kiếp làm “con rối” cho người khác sai bảo. Để đạt được mục đích và lẽ sống của mình, lớp thanh niên trẻ sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang phú quý, thậm chí đối đầu với gia đình, với cha mẹ và bị xã hội coi là những “nghịch tử” trong gia đình phong kiến. Những suy nghĩ và quan niệm sống của họ so với thời bấy giờ là hết sức tiến bộ. Quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” của bà Án đã bị Mai coi là ích kỉ vô nhân đạo; Nhung trong Lạnh lùng coi cái bảng “Tiết hạnh khả phong” vua ban cho từ thời bà tổ mẫu chỉ là một sự mỉa mai, đầy đọa tuổi xuân của mình một cách vô lý, tàn nhẫn; Loan nhìn người vợ bé sụp xuống lạy mình thì băn khoăn tự hỏi không biết đó là người hay vật. Còn Dũng coi việc cha mẹ từ con đơn giản chỉ là việc không chia của cải cho nữa: “Thầy mẹ tôi dẫu đăng báo hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 nói khắp nước Nam rằng không nhận tôi là con, tôi cũng vẫn là con, vì đã đẻ tức là con rồi, không nhận cũng vô lý như khi mới đẻ lại bảo rằng không đẻ. Vậy từ con chỉ là không chia của cho nữa” [41, 30]. Trong cuộc xung đột giữa cũ và mới, mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong kiến là vấn đề mà các nhà văn tập trung khắc họa. Đó là mâu thuẫn giữa quyền cá nhân với những nguyên tắc lễ giáo của xã hội phong kiến. Mâu thuẫn đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh nhằm giải phóng cá nhân, thực hiện quyền con người. Trong khi phái cũ cố gắng bảo vệ và duy trì chế độ đại gia đình thì phái mới chiếm lực lượng đông đảo hơn, gồm những trí thức Tây học hấp thụ tư tưởng văn hóa phương Tây hiện đại, ý thức cá nhân được thức tỉnh sâu sắc. Họ dứt khoát chống đối và đòi phá bỏ những nề nếp phong kiến hủ bại. Những người mới, họ đấu tranh một cách bền bỉ và kiên trì khiến cho phe cũ không khỏi có phần lo lắng và nao núng: “Ông Hai, bà Hai tuy thấy con nói có lý, nhưng không khỏi ngạc nhiên, lo sợ. Ông bà mang máng thấy con mình xa cách hẳn mình, thành người ở xã hội khác hẳn cái xã hội Việt Nam bình thường… Đến nay, trước một việc quan trọng ông bà càng cảm thấy rõ mà lo sợ nhận ra rằng con mình không cùng một quan niệm về cuộc đời như mình nữa, cách biệt xa lắm” [41, 40]. Các bậc cha mẹ đã nhận ra sự đối nghịch trong quan niệm sống giữa mình và con cái. Vì vậy họ tìm cách ép buộc con phải làm theo sự sắp đặt của mình với mong muốn con cái họ sẽ tiếp tục nếp sống mà bao năm qua các thế hệ cha anh họ đã sống. Nhưng càng tìm cách ép buộc thì mâu thuẫn càng thêm căng thẳng. Xung đột giữa con người cá nhân với đại gia đình phong kiến giờ đây không thể dung hòa. Vì thế sự ra đời của Đoạn tuyệt đã được đánh giá là một bước tiến hóa của xã hội An Nam: “Đoạn tuyệt đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi trong lịch sử tiến hóa của xã hội An Nam. Nó công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết bao hi vọng, đè bẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh kiệt, cường tráng” [23, 293]. 2.2.2. Nhân vật đại diện cho nền luân lý phong kiến cũ Đối lập với tầng lớp thanh niên trẻ tuổi luôn mang trong mình khát khao về một cuộc sống mới tự do, bình đẳng, được làm chủ số phận của mình là lớp người nệ cổ, lạc hậu. Đó thường là những bậc cha mẹ chuyên quyền áp chế con cái, buộc con cái phải nghe theo sự sắp đặt của mình. Nổi bật nhất trong hệ thống nhân vật này là những bà mẹ chồng gia trưởng như bà Phán Lợi (Đoạn tuyệt), bà Án (Nửa chừng xuân), các bà cô chồng, những cô em gái chồng mà dân gian vẫn có câu đùa: “giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”. Ngôn ngữ và hành vi của các bậc cha mẹ luôn bộc lộ tính cách chuyên quyền, độc đoán. Đối với con cái, họ là những người cha người mẹ độc đoán gia trưởng, đối với kẻ ăn người ở thì họ là những ông bà chủ cay nghiệt độc ác. Họ chính là sản phẩm của chế độ phong kiến. Sự cổ hủ, lạc hậu đã biến họ thành những con người tàn nhẫn. Quan niệm sống của họ hoàn toàn trái ngược với quan niệm sống tự do cá nhân, tự do yêu đương làm chủ cuộc sống của lớp thanh niên có học. Chìm sâu trong khuân mẫu đại gia đình phong kiến, họ trở thành đại diện cho cái ta chung khắc nghiệt, luôn luôn đối lập với tư tưởng mới, lối sống mới. Đặt bên cạnh những nhân vật tiến bộ như: Mai, Loan, Nhung… thì những bà Án, bà Phán Lợi, bà huyện Tịch… càng bộc lộ rõ tính chất cổ hủ, sự quy phạm tới mức nghiệt ngã của mình. Trong gia đình phong kiến, con người không có quyền sống theo ý thích cá nhân. Từ trong gia đình ra ngoài xã hội, con người luôn phải tuân theo những quy tắc đã định sẵn từ ngàn đời xưa. Con người phải sống trong vòng bế tắc, luẩn quẩn và tự làm khổ lẫn nhau. Người phụ nữ luôn là nạn nhân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 đáng thương nhất trong xã hội phong kiến và phận làm dâu lại là quãng đời cực nhục nhất của họ. Người đọc khó có thể quên được hình ảnh bà Phán Lợi - đại diện tiêu biểu cho những bà mẹ chồng độc ác, chuyên quyền với tư tưởng “mất tiền mua mâm bà đâm cho thủng”. Nhất Linh đã xây dựng rất thành công chân dung người đàn bà chuyên quyền độc ác này. Bà Phán Lợi cai quản mọi việc lớn nhỏ trong gia đình rất chu toàn theo ý bà, từ việc thờ cúng, giỗ tết, cưới vợ cho con rồi cả việc lấy vợ lẽ cho con trai và rèn rũa nàng dâu theo ý mình. Không bao giờ bỏ qua bất cứ cơ hội nào để tìm cớ hành hạ con dâu, lúc thì bà ngọt nhạt mỉa mai: “Mợ đi chơi mát về?” [41, 83], lúc thì nghi ngờ Loan khuân của về nhà mẹ đẻ, bà mát mẻ nhắc nhở: “Tôi chỉ nói để cô biết, từ rày cô có đi đâu thì cô cho tôi hay, kẻo nhà này có kẻ ra người vào lỡ mất cái gì thì một mất mười ngờ, người ta nói ra, nói vào thêm khó khăn” [41, 85]. Ngẫm nghĩ một lát sau bà lại nói tiếp: “Chốc nữa mợ soát lại hòm xiểng, vòng hột xem có thiếu thốn cái gì không, kẻo mợ đi vắng lỡ mất mát lại thêm phiền cho người nhà” [41, 85]. Bà ta luôn than phiền rằng: “Nhà tôi vô phúc nên mới lấy phải một nàng dâu như thế” [41, 86]. Hành hạ nàng dâu chưa đủ, bà còn kích bác con trai: “Này anh, anh xem vợ anh đấy. Tôi cưới nó về cho anh để làm vương làm tướng ở cái nhà này à?” [41, 84]. Chính sự lạc hậu mê tín của bà đã giết chết đứa cháu nhỏ tội nghiệp mà bà ta không hề biết. Không những thế bà Phán Lợi còn đổ tội giết con, giết cháu bà cho Loan. Khi Loan sinh con trai, bà mững rỡ vỗ ngực tự phụ cho rằng: “Cái lão thầy bói nói thế mà đúng, nếu mình không biết đền ấy thiêng mà lại cầu khẩn thì thánh đâu có ban phúc như thế này” [41, 101]. Bà ta luôn tin vào thánh thần bùa ngải, sự mê muội mù quáng của bà là nguyên nhân dẫn đến cái chết của đứa trẻ vô tội khi bà ta đem đứa bé tới giao cho lão thầy bùa chuyên chữa bệnh bằng tàn nhang và nước thải. Đứa bé ngày càng yếu đi là do lỗi của bà nhưng bà riết róng xỉa xói và đổ tội cho Loan: “Ai hành hạ nó, ai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 giết nó hả con kia?” [41, 119]. Không chỉ dừng lại ở đó, bà còn lôi cả thông gia vào để xúc phạm con dâu: “Ra mợ lại đổ cho tôi giết nó. Con mợ nhưng nó là cháu tôi, mợ có giỏi, mợ cứ đi kiện. à, ra bà Hai dạy con gái như thế, dạy con ăn nói hỗn xược với mẹ chồng. Mẹ nào con nấy… tôi bảo cái con mẹ ấy không biết dạy con. Đứa nào làm gì tôi thì làm đi, tôi xem nào.’’[41, 119]. Độc ác hơn, bà còn bắt con trai phải đánh vợ: “Nó nói hỗn với mẹ anh mà anh không tát cho nó được một cái hay sao. Anh tát nó cho tôi một cái xem nó còn nỏ mồm nữa hay không” [41, 120]. Những cổ tục lạc hậu đã ăn quá sâu vào nếp nghĩ của bà Phán Lợi. Bà cho rằng trai năm thê bảy thiếp là sự thường tình và bà mới là người có quyền quyết định việc lấy vợ lẽ cho Thân: “Tôi cho phép anh lấy. Quyền đâu ở vợ anh mà anh sợ. Vả lại anh vừa bảo mợ ấy không sinh đẻ gì được nữa. Nếu việc này không xảy ra thì tôi cũng phải nghĩ đến việc lấy vợ bé cho anh kia mà” [41, 124]. Bà Phán Lợi là đại tiêu biểu nhất cho những bà mẹ chồng độc ác trong đại gia đình phong kiến. Đối với con dâu, bà là người mẹ chồng cay nghiệt ghê gớm. Đối với kẻ ăn người ở thì bà là bà chủ vô lương tâm tàn nhẫn, bà thẳng tay đánh con sen chỉ vì Loan cho nó đi ngủ: “Con sen lúc đó đương đứng nép vào góc bếp, trên má còn in lằn mấy ngón tay” [41, 136], bà ta lạnh lùng không tình người: “ngủ gật thì đập vào xác nó ấy” [41, 136]. Bà Phán Lợi luôn nhằm vào nỗi đau của Loan để đay nghiến, chỉ vì một món ăn bị hỏng mà bà mỉa mai riết róng: “Bà trưởng ơi là bà trưởng ơi! khéo sao mà khéo thế” [41, 139]. Bà cho rằng Loan định tâm hại người: “Lỡ tay! Mợ bỏ đấy đi đến nửa giờ đồng hồ, mợ định tâm làm khê của nó, mợ lại còn cãi. Điêu ngoa vừa vừa chứ” [41, 139]. Dường như nói vậy chưa đủ, bà còn dí ngón tay vào trán Loan, quệt mạnh một cái rồi nhiếc móc nàng: “Ác như thế… không trách tuyệt đường sinh đẻ” [41, 140]. Mỉa mai, khích bác, đay nghiến và xúc phạm chưa đủ, bà còn xông vào đánh con dâu trong một cuộc xô xát: “Bà thử Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 đánh mày một cái tát, xem mày bảo là hèn nhát nữa không?” [41, 143]. Mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu đã lên tới đỉnh điểm trong đêm xảy ra cái chết của Thân. Nhất Linh đã miêu tả hình ảnh bà Phán Lợi thật dữ tợn, ghê gớm: “Bà nhảy chồm lên, hai mắt tròn xoe rồi sấn tới nắm lấy Loan tát túi bụi” [41, 143]. Bà ta đánh Loan nhưng lại nằm vật xuống giường kêu khóc ăn vạ: “Trời ơi! Nó đánh chết tôi rồi!… Đánh chết nó đi cho tôi. Chết đã có tôi chịu tội” [41, 144]. Là tín đồ trung thành của đạo Khổng, bà Án trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân của nhà văn Khái Hưng luôn miệng nhắc tới ngũ luân ngũ thường, bà đề cao lễ nghi cổ với quan niệm cứng nhắc: “Sự quý nhất của ta là lễ nghi, là ngũ luân ngũ thường, là cái đức tam tòng của đàn bà” [25, 130]. Sống trong xã hội phong kiến, bà chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Nho nên trí suy nghĩ của bà cho rằng tự do yêu đương, tự do kết hôn là bất hiếu, vượt quyền cha mẹ là không biết ngũ luân ngũ thường. Bà không bao giờ chấp nhận quyền tự do yêu đương của thanh niên nam nữ bởi theo bà dựng vợ gả chồng là phải tìm chốn môn đăng hộ đối, phải có cheo có hỏi đàng hoàng: “à, mày giở văn minh ra nói với tao à? Tự do kết hôn à? Mày không bằng lòng nhưng tao bằng lòng. Mày phải biết lấy vợ gả chồng thì phải tìm chỗ môn đăng hộ đối, chứ mày định bắt tao thông gia với bọn nhà quê à? Mày làm mất thể diện tao, mất danh giá tổ tiên, mày là một thằng con bất hiếu, nghe chưa” [25, 84]. Khái Hưng đã rất thành công khi miêu tả nhân vật bà Án, hình ảnh người phụ nữ này hiện lên trong tác phẩm hết sức sinh động với tính cách đa dạng phức tạp. Bà ta có ý thức sâu sắc về quyền hành của một kẻ giàu có, quyền quý. Bà tìm chỗ môn đăng hộ đối cho con không chỉ nhằm mục đích tôn thêm phần danh giá cho gia đình bà mà còn cần nó như một chốn nương tựa vững chắc cho con đường tiến thân của con trai. Bà đã tính toán rất kĩ lưỡng và chu tất khi hỏi con gái quan tuần cho con trai mình là Lộc: “Con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 đường tương lai của thằng Lộc còn dài. Thế nào nó cũng xuất chính nay mai. Tôi hỏi con quan tuần tỉnh kia là người có thế lực cho nó, là tôi đã xét kĩ lưỡng lắm. Quan tuần còn trẻ, bước hoạn đồ còn dài, sau này con tôi tất phải nương tựa vào bố vợ mới mong chóng thăng quan tiến chức được. Nếu trái lại tôi để nó tự do kết hôn với cô, thì không những nó mất chỗ nương tựa mà nó lại mang tiếng chơi bời bậy bạ, lấy người không xứng đáng, tránh sao được nốt xấu trong lý lịch” [25, 133]. Cũng độc đoán, gia trưởng như bà Phán Lợi, song bà Án khôn ngoan hơn rất nhiều bởi bà biết tùy cơ ứng biến nhằm đạt được mục đích của mình. Khái Hưng đã miêu tả nhân vật bà Án không hề đơn giản sơ lược: “Con người với ý thức đầy đủ về quyền hành của một kẻ giàu có, quyền chức, với thế lực tuyệt đối của một người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG.pdf
Tài liệu liên quan