Luận văn Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay

Tài liệu Luận văn Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay: LUẬN VĂN: Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. T...

pdf100 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật hợp tác xã mới (Luật HTX năm 2003), và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Đó là căn cứ thực tiễn và pháp lý quan trọng để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Do vậy, việc nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Do vậy, phải quan tâm phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp. Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX (ban hành 1996), HTX kiểu mới nói chung và HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình có bước phát triển mới, đã đáp ứng được một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh hiện nay còn yếu kém nhiều mặt, một số lớn HTX chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho các thành viên chưa nhiều, HTXNN kiểu mới phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó. Những hạn chế, yếu kém của HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cả về khách quan, chủ quan; cả về kinh tế, chính trị, xã hội; đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới HTXNN cả về nội dung và phương thức hoạt động theo Luật HTX năm 2003 cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của tỉnh. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài "Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay" làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTXNN là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, vấn đề HTXNN là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Trong đó, có những công trình tiêu biểu được công bố như: - Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: "Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đây đến khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, phác họa một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX. - Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: "Kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. - Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ: "Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các tác giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về "Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp". Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác ở Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về "Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp". Tác giả trình bày vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ thực tiễn" của Nguyễn Văn Tuất, Tạp chí Khoa học về chính trị, số 3, 2002. - "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta" của PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1, 2002. Một số bài viết của tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa, Hoàng Việt... Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu trên nhiều khía cạnh của kinh tế HTXNN. Trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình HTX kiểu cũ, luận giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mô hình HTX theo Luật HTX (1996); các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể nói chung theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng IX. Cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình trên, vận dụng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và cập nhật những điểm mới của Luật HTX năm 2003 vào nghiên cứu, đánh giá hoạt động của các HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX 1996) ở Thái Bình, để từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Khảo sát, đánh giá hoạt động của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ năm 1997 (khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Khái quát lại những vấn đề cơ bản về HTXNN kiểu mới: nội dung, phương thức hoạt động và tính cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX năm 2003) ở Thái Bình hiện nay; - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ 1997 đến nay; - Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996 và năm 2003). - Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 1997 (khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài. - Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút ra kết luận. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về HTXNN kiểu mới; trên cơ sở đó, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, xác định nguyên nhân những yếu kém tồn tại; từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở đánh giá HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, luận văn rút ra những vấn đề phù hợp và chưa phù hợp của mô hình HTXNN kiểu mới hiện nay; từ đó, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện chúng. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy ở trường chính trị tỉnh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới và sự cần thiết phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới 1.1. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới 1.1.1. Khái niệm Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới * Hợp tác: Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện kém hiệu quả so với hợp tác [7, tr. 11]. Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung, của lao động sản xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự phát triển của hợp tác gắn liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và hoạt động kinh tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát triển của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Hợp tác lao động được thực hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày càng phát triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, nhu cầu về hợp tác lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương, trong một nước, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Hợp tác có nhiều hình thức với đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau: hợp tác ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác lao động như Mác đã phân tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp; hợp tác giữa các đơn vị, các ngành v.v... * Kinh tế hợp tác: Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp của hợp tác, phản ánh một phạm vi hợp tác - hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên. Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, thì kinh tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế tự chủ có điều kiện phát triển. Như vậy, quan hệ kinh tế hợp tác phải được xây dựng trên nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và tính tự chủ, độc lập của các thành viên tham gia. Hợp tác trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan. Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì quá trình hợp tác mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp ứng nhu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như: phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Đặc điểm cơ bản của hợp tác kiểu này là hợp tác theo thời vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác ở trình độ thấp. Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó, nảy sinh nhu cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày công, giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành hợp tác xã. Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng. Do đó, tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn, từ kinh tế hợp tác giản đơn như các tổ, hội nghề nghiệp; các tổ, nhóm hợp tác, đến các tổ kinh tế hợp tác và hợp tác phát triển ở trình độ cao là hợp tác xã. * Hợp tác xã: Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại hình kinh tế hợp tác giản đơn. ở nhiều nước trên thế giới, HTX đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn 100 năm. Trong luật HTX của nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế đều có các định nghĩa về HTX. Liên minh HTX quốc tế (International Covperatise Alliance - ICA) được thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa HTX như sau: "Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ". Năm 1995, định nghĩa này được hoàn thiện: "Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác" [1]. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác, phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung v.v... Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác nhau về đặc điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động v.v. của các mô hình HTX ở các nước trên thế giới, song các loại hình HTX đều có một số đặc điểm chung sau đây: - HTX là một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức hình thành. Hoạt động của HTX chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau (cũng là giúp đỡ chính mình). Ngoài ra, hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng xã hội - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng. Do vậy, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX. - Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. ở các nước tư bản, kinh tế hợp tác mặc dù chỉ là dòng "Kinh tế phụ", nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với nông dân. HTX giúp đỡ các trang trại, hộ nông dân tồn tại trước những tác động của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của các tổ chức độc quyền lớn. Do vậy, ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn là loại hình kinh tế mang tính chất xã hội - nhân đạo. * Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới: ở nước ta, trong quá trình cải tạo kinh tế XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, phát triển. Thời kỳ 1958 - 1980, kinh tế HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp to lớn trong xây dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Song, trong một thời gian dài, do nhận thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, chúng ta đã đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, hợp tác hóa với cải tạo XHCN; xây dựng các HTX không hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mà thực hiện bằng các biện pháp hành chính, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi thường các bước quá độ trung gian trong cải tạo XHCN. ở thời kỳ này, vẫn có các hình thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, HTX bậc thấp, nhưng cũng chỉ là tạm thời, xu hướng chung là chuyển nhanh lên trình độ tập thể hóa bậc cao. Do vậy, chúng ta đã vi phạm nghiêm trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các HTX càng tập thể hóa ở trình độ cao, càng hoạt động kém hiệu quả; đã đẩy kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, trì trệ. Khi đất nước đổi mới, mở cửa, chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền kinh tế, hàng loạt các HTX bị đổ vỡ, giải thể, đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các biện pháp chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ, sản xuất nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ; kinh tế tập thể trong nông nghiệp cũng xuất hiện nhiều hình thức hợp tác, liên kết mới, song chưa được định hình về tổ chức. ở một số địa phương, các HTX đã tìm tòi, thử nghiệm mô hình HTX kiểu mới cho phù hợp với thực tế kinh tế. Tổng kết thực tiễn đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần. Tháng 3-1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những HTX được thành lập và hoạt động theo Luật này được gọi là HTX kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTX trước đổi mới). Theo luật này, HTX được định nghĩa: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 7, tr. 5]. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11- 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX năm 2003). Luật này định nghĩa: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật 8, tr. 7]. Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX năm 1996 và Luật HTX năm 2003 được gọi chung là HTXNN kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTXNN trước đổi mới). HTXNN kiểu mới là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập lên nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa hoạt động. HTXNN kiểu mới ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ nông dân. Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, HTXNN kiểu mới có thể tổ chức theo các hình thức sau: - HTXNN làm dịch vụ: về mặt hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp được tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào (các HTX cung ứng vật tư), dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp (các HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…), dịch vụ quá trình tiếp theo của sản xuất nông nghiệp (các HTX bảo quản và tiêu thụ sản phẩm). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của từng ngành, từng mức độ, yêu cầu của hợp tác và phân công lao động để lựa chọn các hình thức HTX cho thích hợp. Bởi vì, ngay mô hình HTX dịch vụ cũng được phân thành nhiều hình thức: HTX dịch vụ chuyên khâu và HTX dịch vụ tổng hợp. - HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ: các HTXNN loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX dịch vụ chuyên ngành gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Trong đó, trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa… - HTX sản xuất nông nghiệp thuần túy: HTX loại này giống như các HTXNN ở nước ta trước khi đổi mới. Tức là, những người sản xuất liên kết với nhau ở khâu sinh học của sản xuất nông nghiệp với mục đích tạo ra quy mô sản xuất thích hợp, nhằm chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo ra những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng như chăn nuôi cá ở các hồ, đầm lớn… Căn cứ vào những hình thức HTXNN nêu trên, cần lựa chọn mô hình HTX phù hợp với đặc điểm của từng ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân và đặc thù từng địa phương - mô hình đó hoạt động sẽ có hiệu quả. Từ khái niệm và các hình thức HTXNN kiểu mới, có thể thấy được các đặc điểm đặc thù của chúng như sau: - HTXNN là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển, do đó, có ưu thế về số lượng lao động. Lực lượng lao động ở HTXNN nếu được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công nghệ, sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn. - HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người còn nhiều hạn chế về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Điều này được biểu hiện ở các nước đang phát triển. Đây là hạn chế lớn nhất về kinh doanh của loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó, vai trò của Nhà nước đối với HTXNN là tất yếu về các mặt: quản lý nhà nước, giúp đỡ, hỗ trợ và quản lý HTX, HTXNN cũng không thể không liên kết, kinh doanh với các tổ chức kinh tế, xã hội khác trong quá trình phát triển. - Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm này thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tích lũy ít. Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và HTXNN năng động, sáng tạo thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng hóa đặc sản có chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như thực hiện chuyên môn hóa, đa dạng hóa sản phẩm. 1.1.2. Mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới 1.1.2.1. Đặc trưng và ưu thế của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới Qua nội dung Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật HTX năm 2003, đã thể hiện những đặc điểm cơ bản của mô hình HTXNN kiểu mới và ưu thế của nó, đó là: Thứ nhất, HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân góp sức, góp vốn lập ra, hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình và được bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Bản chất của HTX là tổ chức kinh tế tập thể mang tính xã hội cao bao gồm cả thể nhân, pháp nhân (các tổ chức kinh tế - xã hội), cán bộ công chức, cả người ít vốn lẫn người nhiều vốn, nhưng phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ về gia nhập và ra khỏi, về tổ chức quản lý HTX theo luật định. Mặt khác, HTX là tổ chức kinh tế tự nguyện, có quyền tự chủ, bình đẳng với các loại hình kinh doanh khác trong quá trình hoạt động. Chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của mình đối với các tổ chức kinh tế khác theo thỏa thuận, hợp đồng đã kí kết. Điều này đã khắc phục được tư tưởng HTX nặng về tổ chức xã hội và là công cụ của chính quyền cơ sở như mô hình HTX trước đổi mới. Thứ hai, HTX tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX. xã viên có quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX. Nguyện vọng của họ được tôn trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động viên được sự nhiệt tình của các đối tượng tham gia. - Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX; những vấn để lớn trong sản xuất, kinh doanh của HTX đều phải được đại hội xã viên thảo luận dân chủ và thông qua; các xã viên đều có quyền ngang nhau trong biểu quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu như nhau, không phụ thuộc vào mức vốn góp; đồng thời, HTX phải thực hiện tốt việc công khai cho xã viên biết theo định kỳ về phương thức, kế hoạch sản xuất - kinh doanh, công khai tài chính, phân phối, thu nhập của HTX. Đây là nguyên tắc then chốt, liên quan đến sự tồn tại và phương hướng phát triển lành mạnh của HTX. - Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX là tổ chức kinh tế, hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời, coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Trong thành lập và hoạt động, HTX có quyền được lựa chọn ngành nghề sản xuất - kinh doanh phù hợp mà pháp luật không cấm, theo ý chí, nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường; liên doanh liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong phân phối lợi ích và giải quyết những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi, phải tuân thủ nguyên tắc cùng có lợi, hài hòa giữa xã viên và xã viên, giữa xã viên và HTX, HTX với lợi ích cộng đồng. Nguyên tắc này đã xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển của HTX chính là ở vai trò, trách nhiệm làm chủ của các xã viên đối với HTX; chủ động phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực sẵn có của xã viên; HTX năng động tìm kiếm cơ hội kinh doanh và cạnh tranh để tồn tại và phát triển. - Hợp tác và phát triển cộng đồng: Là nguyên tắc và tiêu chí mang tính đặc trưng của HTX kiểu mới, gắn kết lợi ích kinh tế của các thành viên HTX với lợi ích xã hội và phát triển cộng đồng. HTX là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua khó khăn; tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên tham gia. Trên cơ sở đó, không ngừng nâng cao vai trò, tính chất xã hội của HTX để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần tích cực thực hiện chủ trương giải quyết công ăn, việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng kết cầu hạ tầng xã hội, tăng cường tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng, đó là nhân tố quan trọng để HTX phát triển bền vững. Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX. - Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX kiểu cũ, một đặc điểm quan trọng nhất quyết định các quan hệ khác là chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Người nông dân khi vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu; xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, sở hữu cá nhân không được thừa nhận. Chính điều này đã làm nảy sinh tình trạng vô chủ và sự thiếu trách nhiệm của nhiều xã viên đối với tài sản của HTX. Trong HTX kiểu mới, sở hữu của HTX là sở hữu đan xen, đa dạng và linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, "dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể" [3, tr. 34]. Sở hữu của tập thể xã viên (sở hữu của HTX) là nguồn vốn tích lũy tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX và các quỹ không chia. Những vốn, quỹ, tài sản thuộc sở hữu tập thể được khuyến khích tăng thêm cùng với sự phát triển của HTX nhằm tạo điều kiện củng cố, phát triển HTX. Sở hữu thuộc cá nhân xã viên được tôn trọng, xã viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản xuất - kinh doanh. Nếu HTX có nhu cầu sử dụng các tư liệu sản xuất đó, thì phải thuê của xã viên. Vốn góp của xã viên khi vào HTX được sử dụng cho hoạt động chung của HTX và sẽ trả lại cho xã viên khi ra khỏi HTX. Như vậy, HTX không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, tôn trọng sở hữu của các thành viên. HTX kiểu mới làm cho xã viên thực sự là chủ nhân của HTX thông qua quy định về góp vốn, góp sức xây dựng HTX; quyền lợi, trách nhiệm của xã viên gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX. - Về quan hệ quản lý: Trong cơ chế quản lý của HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc, xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, thiếu chủ động sáng tạo. Đặc trưng của HTX kiểu mới là hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh của xã viên, mà chỉ diễn ra ở từng công đoạn, khâu công việc nhằm bổ trợ, phát huy thế mạnh của từng xã viên. Do đó, HTX kiểu mới phát huy được quyền làm chủ của họ. Xã viên trực tiếp tham gia quản lý, giám sát hoạt động của HTX theo nguyên tắc quản lý dân chủ, xã viên quyết định các công việc quan trọng của HTX một cách bình đẳng, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX được tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả, tách rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu trình độ phát triển của HTX mà có thể thành lập bộ máy vừa quản lý, vừa điều hành hoặc thành lập riêng bộ máy quản lý với bộ máy điều hành. Ban quản trị HTX là bộ máy quản lý HTX do đại hội xã viên bầu trực tiếp. Trường hợp HTX không tổ chức riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý và bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX, đồng thời là trưởng ban quản trị và phải là xã viên HTX, do đại hội xã viên bầu. Trường hợp HTX tổ chức riêng bộ máy quản lý và điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý là trưởng ban quản trị và người đứng đầu bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX; ở trường hợp này, chủ nhiệm HTX có thể là người được thuê ngoài HTX, không phải là xã viên. - Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích xã viên tích cực, hăng say lao động; xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế gia đình. HTX kiểu mới "thực hiện phân phối theo nguyên tắc công bằng, cùng có lợi", người lao động ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo mức độ tham gia dịch vụ và lợi tức cổ phần theo vốn góp. Lợi nhuận HTX càng cao, lợi tức cổ phần càng lớn, thu nhập của xã viên càng nhiều. Đây là động lực khuyến khích xã viên hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, HTX còn tạo ra các quỹ không chia; một mặt, để mở rộng sản xuất; mặt khác, tạo lên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX; kết hợp chặt chẽ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thứ tư, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với mô hình linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm từng ngành, từng vùng, với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến cao. Có những HTX chỉ hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu chung về một hay một số dịch vụ đầu vào đầu ra, dịch vụ chuyên ngành, dịch vụ tổng hợp đa chức năng; HTX sản xuất kết hợp dịch vụ, HTX sản xuất kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện; từ HTX phát triển thành các liên hiệp HTX. Thứ năm, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó, tác động tương hỗ, cùng nhau phát triển. Nếu như trong HTX kiểu cũ, kinh tế cá thể, hộ gia đình không được chấp nhận hoặc chỉ được coi là kinh tế phụ và bị hạn chế trong một giới hạn nhất định, thì HTX kiểu mới được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ. HTX kiểu mới không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất - kinh doanh của các thành viên, HTX chỉ làm những gì mà mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Trong nông nghiệp, hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, vừa là người chủ của HTX, là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán sản phẩm cho HTX; do đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề kinh tế thuận lợi cho sự phát triển HTX; ngược lại, HTX phát triển để hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh. Có thể khái quát đặc trưng mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới so với HTX nông nghiệp thời kỳ trước đổi mới (bảng 1.1). Bảng 1.1: So sánh HTXNN trước đổi mới và HTXNN kiểu mới HTXNN trước đổi mới HTXNN kiểu mới Cách thức thành lập áp đặt, "Từ trên xuống" Tự nguyện, "Từ dưới lên" Tính chất của tổ chức Vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ chức xã hội ở địa phương. Trước hết là tổ chức kinh tế vì sự phát triển của kinh tế hộ xã viên HTX. Cơ chế hoạt động của HTX HTX hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh, hành chính, tập Môi trường hoạt động đã khác hẳn, quan hệ hành chính, độc trung bao cấp. Các quan hệ giải quyết đầu vào, đầu ra trong hoạt động kinh tế của HTX chủ yếu thông qua các tổ chức kinh tế nhà nước (công ty vật tư nông nghiệp, công ty lương thực, công ty giống…) tức là được độc quyền hóa và hành chính hóa. quyền được thay bằng quan hệ kinh tế đa phương, tự nguyện. HTX phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự bù đắp, bảo toàn và phát triển vốn, phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nhiều thành phần, giao lưu kinh tế, từng bước phát triển trên cơ sở luật pháp của nhà nước. Thành viên tham gia Thể nhân Thể nhân, pháp nhân. Sở hữu Sở hữu tập thể trên cơ sở tập thể hóa tư liệu sản xuất. Sở hữu chung trên cơ sở góp vốn, đan xen giữa sở hữu tập thể và sở hữu cá thể của xã viên Tổ chức bộ máy quản lý HTX Chức năng quản lý và điều hành trong HTX được lồng ghép. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm: Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng ban quản trị kiêm chủ nhiệm HTX. Công tác cán bộ HTX được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy và chính quyền địa phương, các chức danh chủ chốt của HTX do Đảng ủy chỉ định và người trong nội bộ Chức năng quản lý và điều hành được tách biệt, rõ ràng. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, Ban chủ nhiệm. Chủ nhiệm HTX có thể do Trưởng ban quản trị kiêm nhiệm hoặc là người do HTX thuê. HTX được quyền tự chủ trong công tác cán bộ của mình, các chức danh chủ chốt không nhất thiết phải do đảng viên hay người HTX nắm giữ. trong nội bộ HTX nắm giữ. Phân phối Bình quân, bao cấp Theo vốn, lao động và mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. Nội dung hoạt động Trực tiếp tổ chức sản xuất, lao động tập trung, thủ tiêu sự độc lập của kinh tế hộ. Nội dung hoạt động đa dạng có thể làm dịch vụ, hoặc vừa làm dịch vụ vừa sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, song đều hướng vào hỗ trợ kinh tế hộ tự chủ phát triển. Phạm vi hoạt động Theo địa giới hành chính Không bị giới hạn bởi địa giới hành chính. Thực hiện các nguyên tắc HTX Các nguyên tắc HTX bị vi phạm Các nguyên tắc HTX được tôn trọng. Nguồn: [51]. Biểu đồ 1.1: Mối quan hệ giữa HTXNN với xã viên và các tổ chức Nhà nước Các cơ quan nhà nước HTXNN Các tổ chức kinh tế nhà nước Nhà nước Các cơ quan nhà nước HTXNN Các tổ chức kinh tế nhà nước Các tổ chức kinh tế phi nhà nước HTXNN kiểu mới HTXNN trước đổi mới Nguồn: [51]. 1.1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của HTXNN kiểu mới. Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế nông hộ tự chủ theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, HTX thành lập dựa trên chế độ sở hữu tập thể về tư liêu sản xuất, xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, xóa bỏ sản xuất theo hộ; xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, ỷ lại thiếu chủ động sáng tạo; dẫn đến HTX làm ăn ngày càng sa sút, kém hiệu quả, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Bước vào thời kỳ đổi mới, trong nông nghiệp thực hiện "Chính sách khoán" (theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 05- 04-1988, về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp), hộ nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn được giải phóng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế nông hộ lại nảy sinh nhu cầu hợp tác để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sức cạnh tranh trên thị trường. Vì trong nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt có nhiều hoạt động chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở có sự liên kết chung như: công tác thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh… Đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mở cửa hội nhập, kinh tế hộ tự chủ đứng trước yêu cầu cơ khí hóa, từng bước ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) mới vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; tổ chức bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản… dẫn đến nhu cầu hợp tác kinh tế và phát triển HTXNN kiểu mới ngày càng mạnh mẽ. Như vậy, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại. HTX kiểu mới hình thành và phát triển trên cơ sở hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, phục vụ lợi ích cho các hộ. Hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, lại vừa là người chủ trong HTX; là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán các sản phẩm nông nghiệp cho HTX. Do đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển HTXNN kiểu mới. Đồng thời, HTXNN kiểu mới là môi trường quan trọng để bổ sung, hỗ trợ cho kinh tế hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh. Thứ hai, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khuyến khích phát triển HTXNN kiểu mới. Sự chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đã làm cho phần lớn các HTX tổ chức theo mô hình cũ lâm vào tình trạng khó khăn, lúng túng, mất phương hướng hoạt động. Kinh tế HTX suy giảm cả về số lượng và vai trò trong nền kinh tế, đòi hỏi phải có sự đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Trong suốt quá trình tìm tòi thử nghiệm, đặc biệt từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986), đã diễn ra quá trình đổi mới từng phần đến đổi mới toàn bộ, căn bản mô hình HTX cùng với cơ chế quản lý theo mô hình cũ. Trong từng bước thay đổi, Đảng ta luôn chú ý tổng kết, đánh giá và kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp, tạo bước ngoặt quyết định cho sự phát triển nông nghiệp và sự hình thành mô hình HTX kiểu mới. Sự ra đời và đi vào thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương (ban hành ngày 13- 01-1981), đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới mô hình HTX "tập thể hóa" trước đây. Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 05- 04-1988), về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (năm 1993), kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn định lâu dài với năm quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê). Điều này thực sự đã tạo lên bước đột phá cho quá trình phát triển nông nghiệp nước ta. Đồng thời, nó cũng đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình HTX kiểu mới trên phạm vi toàn quốc (giai đoạn 1986 - 1996). Đây là bước chuẩn bị quan trọng cho sự ra đời Luật HTX được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 1-1997. Từ sau đó, đã có 9 Nghị định dưới luật được ban hành hướng dẫn việc thi hành Luật HTX. Cùng với các văn bản nói trên là hàng loạt các Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, thứ tư, thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương khóa VI; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu (lần 1) của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. Hiến pháp, luật dân sự, luật đất đai, chỉ thị số 68/BBT ngày 24-5-1996 về phát triển kinh tế HTX trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế v.v... Thực tế cho thấy, mặc dù các văn bản nói trên chưa thật sự đầy đủ, đặc biệt trong khâu hướng dẫn thi hành; song đây là lần đầu tiên kinh tế HTX ở nước ta có được khuôn khổ pháp lý rất cơ bản, tạo điều kiện cho sự vận động, phát triển của hình thức kinh tế này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã đưa ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26- 11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX 2003) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Luật HTX mới đã hoàn thiện căn bản khuôn khổ pháp lý để HTX hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường, nên đã thúc đẩy kinh tế HTX phát triển ngày càng mạnh mẽ. Như vậy, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là nhân tố tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển và hiệu quả kinh tế - xã hội của kinh tế hợp tác và HTX nói chung, trong đó có HTXNN. Đồng thời, đây cũng là nhân tố tạo lên bước ngoặt quan trọng cho quá trình chuyển đổi, xây dựng HTX kiểu mới trong điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hóa, tiến lên sản xuất lớn, hiện đại với sự tác động của cơ chế thị trường, hội nhập và "mở cửa" trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý HTX nhiệt tình, có trách nhiệm, có trình độ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệt tình, có trách nhiệm, có trình độ, có tinh thần vì lợi ích của nhân dân lao động, hăng hái đi tiên phong trong phong trào hợp tác, là những người sáng lập và lãnh đạo HTX là nhân tố hết sức quan trọng đối với sự phát triển của HTX. Thực tiễn đã chỉ rõ, ở đâu cán bộ tốt, có trình độ, tâm huyết, nhiệt tình và biết phát huy dân chủ, ở đó HTX ăn lên, làm ra, xã viên phấn khởi, gắn bó với HTX. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, trình độ học vấn và quản lý của cán bộ HTXNN còn thấp, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Theo báo cáo của Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, trình độ ban quản lý HTX nông nghiệp (số liệu điều tra tháng 6/2001): Chủ nhiệm HTX có 70,26% là đảng viên và 49,53% cán bộ chưa qua đào tạo; kế toán trưởng có 53,98% là đảng viên và 42,34% cán bộ chưa qua đào tạo; trưởng ban kiểm soát có 62,52% là đảng viên và 71,84% cán bộ chưa qua đào tạo. Đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện chủ trương phát triển HTX nông nghiệp trong điều kiện hiện nay. Thứ tư, nhận thức của hộ nông dân về HTXNN kiểu mới. Thực tiễn phát triển HTXNN kiểu mới trong thời gian qua ở cả nước nói chung và ở Thái Bình nói riêng cho thấy, có nhiều HTXNN sau chuyển đổi đã vươn lên, phát triển ngày càng mạnh mẽ; nhiều HTXNN thành lập mới hoạt động hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; nhưng cũng có những HTXNN kiểu mới hoạt động chỉ mang tính hình thức. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt động yếu kém của HTXNN là do người nông dân nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ của về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển HTXNN kiểu mới; chưa phân biệt rõ giữa HTXNN kiểu cũ và HTXNN kiểu mới; dẫn đến tâm lý hoài nghi, thờ ơ, không ủng hộ. Sở dĩ người nông dân nhận thức chưa tốt về HTXNN kiểu mới là do: - Trình độ học vấn của người nông dân nói chung là thấp (có một bộ phận nông dân không biết chữ), do vậy, khả năng nhận thức của họ rất hạn chế. - Quan điểm, chủ trương của Đảng; pháp luật, chính sách của Nhà nước về chuyển đổi và phát triển HTXNN kiểu mới chưa được phổ biến rộng rãi ở nông thôn, chưa biến thành nhận thức và hành động của người nông dân. - Đa số các hộ nông dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa thường thiếu các thông tin có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, đến kinh nghiệm phát triển HTX và các mô hình HTXNN có hiệu quả. - Do sự thiếu quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ các HTXNN phát triển. - Một bộ phận nông dân thiếu niềm tin vào HTXNN do bị ảnh hưởng của phong trào hợp tác hóa trước đây, họ sợ vào HTXNN sẽ bị tập thể hóa về tư liệu sản xuất… HTXNN có thể ra đời, tồn tại và phát triển được hay không là do các hộ nông dân quyết định. Do đó, muốn thúc đẩy HTXNN phát triển, phải làm tốt việc tuyên truyền; phải hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để người nông dân hiểu và thấy được những ưu thế của HTXNN kiểu mới trong việc khắc phục những hạn chế của sản xuất cá thể, nhỏ lẻ; những tác động xấu của cơ chế thị trường. Những nhân tố cơ bản nêu trên có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của HTXNN. Ngày nay, những nhân tố kinh tế - xã hội khác cũng có ảnh hưởng rất quan trọng. Đó là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, trình độ dân trí, trình độ lao động thấp, sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp chưa phát triển, lượng vốn đầu tư ít; nến kinh tế đất nước tăng cường mở cửa hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt v.v... Tất cả những yếu tố đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của HTXNN. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta phải tác động tổng hợp nhiều biện pháp mới có thể làm cho HTXNN phát triển nhanh và vững chắc. 1.1.2.3. Xu hướng vận động của HTXNN kiểu mới ở nước ta đến năm 2020 * Số lượng HTXNN kiểu mới ngày càng tăng Phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp đặt ra yêu cầu phải tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, muốn vậy, sản xuất phải đi vào chiều sâu, ứng dụng các tiến bộ KHCN vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư nông nghiệp. Những yêu cầu đó, từng hộ nông dân cá thể không thể tự giải quyết một cách tự phát, riêng lẻ mà nhất thiết phải có sự liên kết kinh tế với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp nhà nước, kể cả về tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Dịch cúm gia cầm đầu năm 2004 đã bộc lộ những yếu kém, hạn chế của chăn nuôi gia cầm phân tán theo quy mô từng hộ gia đình, không có sự hỗ trợ của HTXNN về dịch vụ thú y, bảo hiểm. Trong tiêu thụ thóc, trái cây và các nông sản khác, các hộ nông dân cá thể cũng không có các thông tin thị trường nên rất khó khăn, có năm được mùa thì giá lại giảm. Vì vậy, muốn liên kết kinh tế giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, tất yếu phải thông qua tổ chức có tư cách pháp nhân đại diện cho kinh tế hộ. Thực tế liên kết kinh tế và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản theo Quyết định 87/2002 của Thủ tướng Chính phủ trong 3 năm qua (2002 - 2004) đã cho thấy vai trò không thể thiếu của các HTXNN trong các hợp đồng kinh tế. Như vậy, cùng với sự phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, thì nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ kinh tế ngày càng tăng và HTXNN sẽ ngày càng phát triển cả về số lượng, quy mô và trình độ. * Về mô hình Hợp tác xã nông nghiệp Phân tích thực trạng các HTXNN kiểu mới hiện nay, chúng ta thấy có hai mô hình chủ yếu đang tồn tại và phát triển theo hai hướng khác nhau. Mô hình thứ nhất, HTX kinh doanh đơn thuần dịch vụ nông nghiệp cho kinh tế hộ nông dân, bao gồm: thủy nông, bảo vệ thực vật, giống cây trồng, cung ứng vật tư, làm đất, khuyến nông… Nói chung, các HTXNN loại này không có các chức năng quản lý, điều hành sản xuất của hộ nông dân, kể cả trồng trọt và chăn nuôi. Do phạm vi hoạt động dịch vụ hẹp, một số yếu tố đầu vào và đầu ra bị khống chế (như thủy nông bị khống chế về giá điện, làm đất bị khống chế giá xăng dầu, bảo vệ thực vật bị khống chế giá thuốc trừ sâu…), nhu cầu dịch vụ của xã viên không lớn và không ổn định do quy mô ruộng đất của hộ nông dân ít, lao động dư thừa nhiều nên doanh thu dịch vụ của HTXNN vừa thấp, lại không ổn định. Mặt khác, đang xuất hiện xu hướng ngành điện sẽ tiến tới trực tiếp quản lý điện ở nông thôn, thành phần kinh tế tư nhân có thể thay thế HTX đảm nhiệm một số dịch vụ như: cung ứng vật tư, làm đất v.v... Đó là những nguyên nhân dẫn đến thu nhập của HTXNN thấp, xã viên không gắn bó với HTX ở nhiều vùng. Do vậy, dự báo trong 15 năm tới, mô hình này có khả năng thu hẹp và đến năm 2020 sẽ còn ít, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, những vùng có quy mô sản xuất hàng hóa nông nghiệp còn hạn chế. Mô hình thứ hai, HTXNN tổng hợp với nội dung hoạt động bao gồm các hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân nói chung và một số hoạt động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản. Mô hình này đã khắc phục được hạn chế của mô hình HTX dịch vụ đơn thuần, mở rộng phạm vi dịch vụ cho cả các hộ phi nông nghiệp ở nông thôn và một số hoạt động sản xuất. Do vậy, nội dung hoạt động phong phú, lao động HTX có nhiều việc làm, doanh thu của HTX và thu nhập của xã viên cao và ổn định hơn, tạo sự gắn kết giữa xã viên với HTX hơn. Dự báo đến năm 2020, mô hình này có triển vọng phát triển nhanh, nhất là các tỉnh Nam bộ - nơi sản xuất hàng hóa phát triển, kiến thức kinh tế thị trường của cán bộ HTX và xã viên cao hơn các vùng khác ở phía Bắc. Có hai yếu tố quyết định tốc độ tăng của mô hình này là nhu cầu liên kết kinh tế trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa của hộ nông dân và năng lực của cán bộ HTXNN được nâng lên. Ngoài hai mô hình chính trên đây, từ nay đến năm 2020, trong nông nghiệp và nông thôn nước ta sẽ xuất hiện một số hình thức tổ chức HTX khác với quy mô và nội dung hoạt động đa dạng, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hộ nông dân từng vùng. Đó là các HTX chuyên môn hóa cao ở một số hoạt động dịch vụ như: chuyên làm đất, chuyên thủy nông, chuyên tiêu thụ nông sản hàng hóa, v.v... Tiền thân của các HTX này là các tổ chức kinh tế hợp tác có tính chuyên môn hóa như: tổ làm đất, tổ đường nước, tổ bảo vệ thực vật, tổ khuyến nông v.v... ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế là năm 2003 cả nước đã có trên 1000 HTXNN chuyên môn hóa kinh doanh một dịch vụ, riêng đồng bằng sông Cửu Long có 354 HTX, trong đó có 309 HTX thủy nông. * Về mô hình tổ chức HTXNN Trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hai thập niên đầu thế kỷ XXI, thực hiện Luật HTX năm 2003, dự báo mô hình tổ chức HTXNN ở nước ta sẽ phát triển đa dạng. Ngoài mô hình mà các xã viên là các hộ sản xuất nông nghiệp thuần túy, sẽ xuất hiện thêm nhiều mô hình khác như mô hình các xã viên bao gồm cả doanh nghiệp không trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, mô hình HTXNN mà các xã viên của nó làm nông nghiệp còn lại rất ít, đại bộ phận sẽ chuyển sang các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Dự báo đến năm 2020, các HTXNN ở nước ta sẽ có bước phát triển mới cả về số lượng, loại hình, quy mô và chất lượng, phù hợp với yêu cầu CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. 1.2. Phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là yêu cầu cấp thiết ở Thái Bình hiện nay 1.2.1. Vài nét về vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của Thái Bình - Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam. Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. - Tọa độ địa lý: vĩ độ Bắc 20017 - 20044; kinh độ đông 106006 - 106039. - Diện tích đất tự nhiên: 1542,24 km2 chiếm 0,5% diện tích đất đai cả nước. Từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km. - Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thành phố, trong đó có 284 xã, phường, thị trấn. - Là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1 - 2m so với mực nước biển, thấp dần từ Bắc xuống Đông Nam [5]. Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có bờ biển dài trên 50 km và có 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: phía Bắc và Đông Bắc có sông Hóa, dài 35,3 km; phía Bắc và Tây Bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km; phía Tây và Nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km; sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ Tây sang Đông dài 65 km. Đồng thời có 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm Điền, Ba lạt, Trà Lý, Lân). Các sông này đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao; mùa đông lưu lượng giảm nhiều, lượng phù sa không đáng kể. Nước mặn ảnh hưởng xấu vào đất liền (15 - 20 km). - Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 - 240C (thấp nhất là 40C, cao nhất là 380C) lượng mưa trung bình 1.400mm - 1.800mm. Số giờ nắng trong năm là 1.600 - 1.800 giờ, lượng bốc hơi 728mm/năm. Độ ẩm trung bình khoảng 80 - 90% [5]. - Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng "bờ xôi, ruộng mật", do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thủy lợi tưới, tiêu thuận lợi góp phần làm nên cánh đồng lúa 14 - 15 tấn/ha và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp để xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha trở lên. - Tổng diện tích tự nhiên 153.596 ha; trong đó, diện tích cây hàng năm là 94.187 ha; ao hồ đã đưa vào sử dụng là 6.018 ha. Hầu hết đất đai được cải tạo hàng năm có thể trồng được 3 - 4 vụ, diện tích có khả năng làm vụ đông khoảng 40.000 ha [5]. Ngoài diện tích cấy lúa, đất đai Thái Bình rất thích hợp cho các loại cây: cây thực phẩm (khoai tây, dưa chuột, sa lát, hành, tỏi, lạc, đậu tương, ớt xuất khẩu v.v...); cây công nghiệp ngắn ngày (cây đay, cây dâu, cây cói v.v...); cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, ổi Bo, vải thiều, nhãn, chuối v.v...); trồng hoa, cây cảnh v.v... - Ngoài ra, tiềm năng và nguồn lợi thủy sản là một trong những thế mạnh của tỉnh Thái Bình cả về nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Có thể nói, điều kiện tự nhiên ở Thái Bình rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Chính vì vậy, Thái Bình đã sớm trở thành vựa lúa của Đồng bằng sông Hồng, là tỉnh nông nghiệp với 94.2% dân số hiện đang sống và làm việc tại khu vực nông thôn, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp chiếm 74,3% lực lượng lao động của tỉnh [5]. 1.2.2. Những yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu hình thành, phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể sống nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại cảnh, bên cạnh các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp còn gặp phải không ít khó khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố sâu bệnh, thiên tai phá hoại v.v... Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cấp, tự túc thì quá trình hợp tác mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp ứng yêu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như phòng chống thiên tai, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Quá trình hợp tác này còn mang đặc điểm tình cảm, tâm lý truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn trong sản xuất theo vụ, việc, hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác còn ở trình độ thấp. Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự phát theo quy mô từng hộ gia đình riêng lẻ với kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm thấp đã mâu thuẫn với yêu cầu của sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao để tăng sức cạnh tranh trên thị trường và xuất khẩu. Từng hộ nông dân cá thể không thể tự giải quyết được mâu thuẫn đó một cách cơ bản. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng xóa độc canh cây lúa, đa dạng hóa sản xuất gắn với chuyên môn hóa và liên kết sản xuất - chế biến và tiêu thụ nông sản đã làm xuất hiện những yêu cầu mới mà từng hộ gia đình nông dân riêng lẻ không thể thực hiện được. Tình trạng tự phát trong chuyển đất lúa năng suất và hiệu quả thấp sang nuôi tôm ở nhiều địa phương ven biển, bên cạnh một số lợi ích kinh tế cục bộ, đã xuất hiện những bất cập về môi trường sinh thái và tính bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Nhiều quy hoạch tổng thể và cụ thể bị phá vỡ do tình trạng các hộ nông dân tự phát chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Vấn đề trồng cây gì, nuôi con gì để có thu nhập cao và ổn định phù hợp với quy hoạch chung của từng vùng và địa phương không thể do từng hộ nông dân riêng lẻ tiến hành tự phát, vô tổ chức, mà nhất thiết phải do Nhà nước định hướng và các HTXNN tổ chức, hướng dẫn hộ nông dân thực hiện. Do vậy, phát triển kinh tế hợp tác, nhất là HTXNN kiểu mới là đòi hỏi khách quan của các hộ nông dân trong thời kỳ CNH, HĐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sau khi ruộng đất được giao cho hộ sử dụng lâu dài và hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. 1.2.3. Đặc điểm về tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình hiện nay và nhu cầu tham gia hợp tác xã của người lao động, hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức quản lý trong sản xuất nông nghiệp, Thái Bình đã thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII (1993), hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn định, lâu dài và hưởng 5 quyền gắn với ruộng đất, đó là: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê. Các tư liêu sản xuất khác mà tập thể quản lý sử dụng không hiệu quả, đã được hóa giá, bán lại cho hộ xã viên. HTXNN từ chỗ hỗ trợ chỉ đạo, điều hành trực tiếp kế hoạch sản xuất, chuyển sang hướng dẫn sản xuất, làm dịch vụ cho hộ xã viên. Hộ xã viên tự bố trí sản xuất, kinh doanh, tự do lao động, mua vật tư, thuê dịch vụ, bán sản phẩm và quan hệ với HTXNN bình đẳng thông qua hợp đồng kinh tế. Do vậy, đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của kinh tế hộ. Theo số liệu thống kê năm 2004, Thái Bình có 476.225 hộ sản xuất nông nghiệp. Kinh tế hộ có xu hướng phát triển mạnh mẽ và tương đối đồng đều, đời sống nhân dân được cải thiện nhanh. Theo thống kê phong trào làm kinh tế VAC của tỉnh từ năm 2000 đến nay, toàn tỉnh đã tập trung cải tạo được 4.574 ha vườn, phá bỏ cây tạp đưa vào trồng các giống cây mới thích hợp có năng suất và chất lượng tốt hơn. Một số cây trồng đã thực sự phát huy hiệu quả như nhãn, vải, xoài, cam… Từ năm 2000 đến nay, toàn tỉnh đã trồng được 6 triệu cây ăn quả các loại, tổng giá trị thu nhập từ kinh tế vườn năm 2005 đạt 249,402 tỷ đồng, tăng 43,8% so với năm 2000, bình quân đạt trên 33 triệu đồng/ha vườn/năm. Năm 2005 thu của kinh tế hộ từ làm vườn chiếm tỷ trọng 20% tổng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của kinh tế hộ gia đình. Kết quả sản xuất kinh doanh làm giàu của kinh tế hộ trong những năm qua đã xuất hiện nhiều hộ giỏi trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Toàn tỉnh đã có 158.889 hộ (bằng 33,36% tổng số hộ) đăng ký phấn đấu kinh doanh sản xuất giỏi; số được công nhận để suy tôn: hộ sản xuất kinh doanh giỏi từ cấp xã trở lên là 85.548 hộ, bằng 53,8% tổng số hộ đăng ký, trong đó: - Giỏi về kinh tế đồng ruộng: 51.380 hộ (bằng 60% số hộ giỏi); - Giỏi về kinh tế VAC: 32.422 hộ (bằng 37%); - Giỏi về kinh tế tiểu thủ CN và dịch vụ:v1.476 hộ (bằng 2,1%) [34]. Nâm 1993, Nhà nước có Luật đất đai, thực hiện Nghị định 64/CP về giao đất ổn định lâu dài, nhiều hộ nhân dân đã chuyển sang sản xuất theo hình thức kinh tế trang trại. Qua khảo sát điều tra 120 trang trại (theo tư liệu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) trong đó: - Trang trại trồng trọt có 14, bình quân diện tích mỗi trang trại là 1,54 ha, trong đó trang trại lớn nhất là 7 ha. - Trang trại chăn nuôi có 43, bình quân số đầu con một trang trại nuôi lợn là 92 con, trang trại có số đầu con lớn nhất là 142 con, trang trại gia cầm (nuôi gà công nghiệp) số đầu con bình quân là 1.480 con. Bình quân vốn của một trang trại là 95 triệu đồng. Trong đó vốn cố định là: 54 triệu đồng, vốn lưu động là 41 triệu đồng, vốn đi vay là 17 triệu đồng (vốn vay chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh). Lao động của trang trại bình quân là 13 người; trong đó, lao động thường xuyên là 5 người, lao động thời vụ là 7 người [34]. Thu nhập bình quân một lao động là 462.000đ/tháng. Hiện nay hình thức kinh tế trang trại đang tiếp tục phát triển về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhưng chủ yếu vẫn là kinh tế trang trại hộ nông dân đang là xã viên HTXNN. Hầu hết các trang trại có quy mô diện tích đất đai dưới mức hạn điền, lao động trong gia đình là chủ yếu. Sự phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác nguồn vốn trong nông dân, mở rộng đất đai, mặt nước đưa vào sản xuất, nhất là đất ven biển, ven sông lớn…, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thêm nông sản hàng hóa, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển nông nghiệp bền vững, khuyến khích làm giàu, xây dựng nông thôn mới. Kinh tế trang trại phát triển sẽ tạo ra mô hình HTX dịch vụ tiêu thụ sản phẩm ra đời. Như vậy, từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương xác định hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, được trao quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh; tồn tại, phát triển lâu dài trong quá trình CNH, HĐH đất nước; kinh tế hộ đang trở thành những chủ thể kinh tế chủ yếu, có vai trò quyết định đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tỉnh. Tuy nhiên, do quá trình xã hội hóa sản xuất diễn ra ngày càng sâu rộng, kinh tế hộ đã dần dần bộc lộ những hạn chế làm cản trở sự phát triển; đó là: + Nguồn lực sản xuất như đất đai, vốn hạn hẹp, quy mô sản xuất nhỏ bé, manh mún. Theo số liệu thống kê năm 2001, diện tích đất nông nghiệp tính bình quân cho một nhân khẩu ở Thái Bình là 590 m2/người. Vốn tự có đầu tư vào sản xuất rất hạn hẹp, phần lớn nông hộ mới chỉ đầu tư theo chiều rộng, chưa có khả năng thâm canh, chuyên canh, nâng cao chất lượng sản phẩm. + Lao động thủ công vẫn là phổ biến, năng suất lao động thấp. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng gây lên nghèo đói ở nông thôn. Nguồn lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng nên nạn thiếu việc làm cũng tăng. Việc thuê mướn lao động chủ yếu theo thỏa thuận riêng giữa người làm thuê và người đi thuê, nhưng do cung về lao động lớn hơn cầu, nên người làm thuê thường bị trả công thấp. + Quy mô thị trường địa phương hạn hẹp, hệ thống thông tin thị trường kém phát triển, phần lớn hộ nông dân chưa nắm được kịp thời thông tin, chưa tiếp cận được thị trường trong và ngoài nước, sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, nên còn chịu thua thiệt do biến động bất thường của giá cả hàng hóa trên thị trường và bị các đầu nậu, thương nhân chèn ép. + Trình độ văn hóa của đa số nông dân còn thấp, chậm tiếp thu các thành tựu của KHCN và kinh tế thị trường. Hiện nay, lao động trong tỉnh mới có 23,5% qua đào tạo, 76,5% lao động chưa qua đào tạo chủ yếu là lao động nông nghiệp tập trung ở khu vực nông thôn [5, tr. 14]. Từ những hạn chế phân tích trên, kinh tế nông hộ cả nước nói chung và Thái Bình nói riêng đòi hỏi phải có những hình thức hợp tác nhất định phù hợp với kinh tế thị trường. Kinh tế hộ tùy theo từng ngành nghề mà có yêu cầu mức độ dịch vụ khác nhau, nhưng đều có nhu cầu cơ bản về các hình thức dịch vụ như: cung ứng vật tư, điện, nước, phòng trừ sâu bệnh, tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ bản, sửa chữa máy móc thiết bị, bao tiêu sản phẩm, tìm kiếm thị trường… có thể khẳng định kinh tế hộ là cơ sở tồn tại cho các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay. Theo số liệu điều tra 536 hộ nông dân ở 22 HTXNN thuộc 8 huyện, thành phố về nhu cầu của nông dân với HTX có 536/536 ý kiến (100%) số người được hỏi đề nghị HTX phải làm dịch vụ tưới tiêu nước; 534 ý kiến (99,6%) đề nghị HTX làm dịch vụ BVTV; 384 ý kiến (71,64%) đề nghị công tác tiêm phòng gia súc, gia cầm giao cho ủy ban nhân dân (UBND) xã vì đã có ban chăn nuôi thú y trực thuộc UBND xã; 529 ý kiến (98,6%) đề nghị HTX làm dịch vụ khoa học kỹ thuật; 466 ý kiến (86,9%) đề nghị HTX làm dịch vụ bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho xã viên; 439 ý kiến (81,9%) đề nghị HTX làm dịch vụ tín dụng nội bộ để huy động vốn và cho xã viên vay vốn; 351 ý kiến (65,4%) đề nghị HTX mở thêm dịch vụ làm đất; 514 ý kiến (95,9%) đề nghị HTX làm dịch vụ cung ứng đạm, lân, kali, thuốc bảo vệ thực vật cho nông dân…[35]. Qua phân tích đặc điểm về tổ chức sản xuất nông nghiệp và kết quả điều tra cho chúng ta thấy, Thái Bình muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiêp theo hướng sản xuất hàng hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thì tất yếu phải phát triển mạnh HTXNN kiểu mới. Kết luận chương 1 Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Tuy nhiên, tùy từng lĩnh vực hoạt động và trình độ phát triển mà xác định hình thức và trình độ hợp tác tương ứng. Đặc trưng của lĩnh vực nông nghiệp là sản xuất gắn liền với cơ thể sống mà sự tồn tại và phát triển của nó tuân theo các quy luật sinh học. Do vậy, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, diễn ra ngoài trời trên không gian rộng lớn, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên; quá trình sản xuất trong nông nghiệp được phân chia làm nhiều khâu trong đó có những khâu cần thiết phải có sự hợp tác lao động song cũng có khâu từng người làm riêng rẽ sẽ hiệu quả hơn. Vì vậy, hợp tác trong nông nghiệp là hợp tác từng khâu, từng công việc, từng thời kỳ và tùy vào điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sản xuất - kinh doanh. Đó là cơ sở kinh tế - kỹ thuật để lựa chọn và xây dựng mô hình HTXNN kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996) và Luật HTX sửa đổi bổ sung (năm 2003). Khi kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ thì việc phát triển HTXNN là tất yếu khách quan để phát huy tính chủ động sáng tạo, khai thác tối đa tiềm năng phát triển của nông nghiệp, nông dân và nông thôn; giúp kinh tế hộ nông dân giải quyết có hiệu quả các nhu cầu của sản xuất kinh doanh và đời sống để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, việc tổ chức lại sản xuất, củng cố, nâng cao chất lượng và tạo điều kiện hơn nữa cho HTXNN kiểu mới ở Thái Bình phát triển và phát huy tác dụng là yêu cầu vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, làm rõ nguyên nhân của nhưng yếu kém tồn tại để có các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy HTXNN phát triển. Chương 2 Thực trạng Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình từ 1997 đến 2005 2.1. Tình hình chuyển đổi và phát triển hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã (1996) và Luật hợp tác xã sửa đổi (năm 2003) ở Thái Bình Sau khi có Chỉ thị 68-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 24-5-1996 về phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã có Thông báo số 03, ngày 20-7-1996 về "đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp". Tỉnh thành lập Ban chỉ đạo, giao cho Ban Kinh tế Tỉnh ủy, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng một số ban, ngành liên quan làm thí điểm chuyển đổi 14 HTXNN trên phạm vi toàn tỉnh. Như vậy, việc chuyển đổi 14 HTX nói trên được tiến hành trước khi có Luật HTX, nhưng trong quá trình thực hiện đã điều chỉnh theo luật, nghị định và các hướng dẫn của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương. Tháng 7 năm 2000, UBND tỉnh Thái Bình đã tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả thí điểm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của HTXNN và chuyển đổi HTXNN theo Luật HTX. Từ kết quả thí điểm ở 14 HTX đối chiếu với Luật HTX, Nghị định 16/CP, Nghị định 43/CP của Chính phủ thì mô hình HTXNN ở Thái Bình là: HTX dịch vụ nông nghiệp, xóa bỏ thu quỹ theo đầu sào, bầu Ban quản trị, xã viên tự nguyện gia nhập và góp cổ phần; HTX tổ chức dịch vụ khâu nào thì thanh toán theo khâu đó trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật [46]. Trên cơ sở kết quả thí điểm, UBND tỉnh Thái Bình đã có chủ trương, xây dựng kế hoạch chuyển đổi toàn bộ các HTXNN theo Luật HTX. Sau 5 năm chuyển đổi và phát triển HTXNN theo Luật HTX (1996) và Luật HTX sửa đổi (năm 2003), ở Thái Bình hiện nay có 321 HTXNN, trong đó có 315 HTX đã chuyển đổi theo luật, 3 HTX mới thành lập (HTX chăn nuôi Đông Kinh, HTX giống cây trồng Vũ Chính, hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm), 3 HTX chưa chuyển đổi: HTX Thụy Việt (huyệnThái Thụy), HTX Chi Lăng, HTX Hòa Bình (huyện Hưng Hà). Trong 315 HTX đã chuyển đổi theo luật: - Phân loại theo quy mô có: + 250 HTX quy mô xã; + 17 HTX quy mô liên thôn; + 48 HTX quy mô thôn. - Phân loại theo lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh có: + HTX dịch vụ nông nghiệp: 305 HTX; + Sản xuất kinh doanh tổng hợp: 6 HTX; + Sản xuất chuyên ngành: 4 HTX [35]. 2.1.1. Hợp tác xã chuyển đổi theo luật * Xã viên HTX: Tất cả các HTX chuyển đổi đã xác định xã viên là hộ gia đình, hộ cử người đại diện đăng ký là xã viên HTX. Tổng số hộ nông dân trên địa bàn HTX là 476.225 hộ, số hộ xã viên bình quân 1 HTX là 1.512 hộ/1 HTX. Toàn tỉnh, số hộ xã viên đăng ký lại đạt 98,9% (huyện Quỳnh Phụ 99,8%, Vũ Thư 99,4%, Đông Hưng 99,2%; các huyện khác tỷ lệ đăng ký đạt 95 - 97%, thành phố đạt tỷ lệ 89,98%). * Tổ chức trong các HTX: - Cán bộ HTX quy mô xã có từ 4 - 8 người; HTX quy mô thôn, liên thôn có 4 người: chủ nhiệm, cán bộ kiểm soát, kế toán, thủ kho kiêm thủ quỹ. HTX quy mô diện tích trên 300 ha và có 6 dịch vụ trở lên, bộ máy cán bộ HTX có 7 người gồm: chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, ủy viên ban quản trị, kế toán trưởng, kế toán viên (1 người), thủ kho kiêm thủ quỹ, 1 đến 2 cán bộ kiểm soát. Có 37/315 HTX thành lập hội đồng quản trị. Phần lớn số HTX cán bộ có 5 người, gồm: chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, cán bộ kiểm soát, kế toán trưởng, thủ kho kiêm thủ quỹ. - Góp vốn trách nhiệm: chủ nhiệm HTX góp vốn từ 1- 2 triệu đồng; phó chủ nhiệm, cán bộ kiểm soát, kế toán trưởng HTX góp từ 0,7 - 1,5 triệu đồng; cán bộ chuyên môn góp từ 0,5 - 1 triệu đồng; người lao động trong các tổ chức dịch vụ góp từ 200 - 700 ngàn đồng (HTX Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, chủ nhiệm HTX góp 5 triệu đồng; phó chủ nhiệm, trưởng ban kiểm soát, kế toán trưởng góp 4 triệu đồng). Cá biệt còn một số HTX, cán bộ và người làm dịch vụ chưa góp vốn trách nhiệm. - Vốn điều lệ bình quân 1 HTX là 462.208 ngàn đồng. Vốn góp tối thiểu bình quân xã viên là 389 ngàn đồng. Vốn góp lớn nhất bình quân xã viên là 1.413 ngàn đồng (số liệu được tính bình quân theo từng huyện, thành phố). * Vốn, quỹ của HTX đến 31/12/2005 (tài sản, vốn, quỹ, công nợ trong HTX đã được kiểm kê, đánh giá theo giá trị thực tế): - Tổng số vốn hoạt động bình quân 1 HTX có:1.043.487 ngàn đồng. - Nguồn vốn tự có của HTX: 804.179 ngàn đồng. Trong đó: + Nguồn vốn kinh doanh: 702.117 ngàn đồng; + Quỹ HTX: 92.004 ngàn đồng; + Lãi chưa phân phối: 10.058 ngàn đồng; + Các khoản phải trả bình quân 1 HTX: 239.308 ngàn đồng. Sau 5 năm chuyển đổi, vốn, quỹ bình quân của 1 HTX tăng 39,59% (tăng 240.087 ngàn đồng). Trong đó, vốn cố định tăng 49,1% vốn lưu động tăng 10,77% [34]. Vốn cố định tăng chủ yếu là vốn Nhà nước hỗ trợ cứng hóa kênh mương và giá trị tài sản điện sáng do UBND xã chuyển sang (Nhà nước hỗ trợ tiền cứng hóa kênh mương do UBND xã làm chủ đầu tư. Khi công trình hoàn thành, UBND xã bàn giao cho HTX đưa vào sử dụng. Nhưng một số xã không bàn giao giá trị tài sản cho HTX quản lý nên số tiền tăng trên không thể hiện đúng thực tế về tổng số vốn Nhà nước đã hỗ trợ về cứng hóa kênh mương). Số phải thu bình quân 1 HTX tăng 19,26% so với năm 2001 (năm 2001, bình quân nợ phải thu của HTX là 296.000 nghìn đồng, đến 31/12/2005 là 352.005 nghìn đồng). Các khoản phải trả bình quân 1 HTX tăng 15,59% so với năm 2001 (năm 2001, các khoản phải trả = 207.020 ngàn đồng, năm 2005 = 239.308 ngàn đồng). Doanh thu bình quân 1 HTX đạt 878.660 ngàn đồng (toàn tỉnh có 6 HTX doanh thu đạt trên 2 tỷ đồng; doanh thu từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ đồng có 26 HTX; doanh thu từ 1 đến 1,5 tỷ có 66 HTX; có 7 HTX ở huyện Thái Thụy doanh thu dưới 100 triệu đồng). Bình quân 1 HTX thực lãi 28.619 ngàn đồng. Có 4 HTX lãi trên 100 triệu đồng (HTX Thái Thịnh - Thái Thụy lãi 138 triệu đồng, HTX Nguyên Xá - Vũ Thư lãi 124 triệu đồng, HTX An Ninh - Tiền Hải lãi 120 triệu đồng, HTX Thống Nhất, An Khê - Quỳnh Phụ lãi 105 triệu đồng, có 9 HTX lãi trên 40 triệu đồng). Toàn tỉnh có 34 HTX bị lỗ (HTX Vĩnh Thắng - Thành phố lỗ 39.618 ngàn đồng, HTX Dũng Nghĩa - Vũ Thư lỗ 17.058 ngàn đồng, HTX Vũ Thắng - Kiến Xương lỗ 17.797 ngàn đồng) [34]. * Kết quả hoạt động của các khâu dịch vụ: Toàn tỉnh có 15 HTX làm được 8 khâu dịch vụ (chiếm 5,6% số HTX kinh doanh tổng hợp), 53 HTX làm được 7 khâu dịch vụ (chiếm 19,78%), 103 HTX làm được 6 khâu dịch vụ (chiếm 38,43%), 68 HTX làm được 5 khâu dịch vụ (chiếm 25,37%), 22 HTX làm được 4 khâu dịch vụ (chiếm 8,21%), 6 HTX làm được 3 khâu dịch vụ, 1 HTX làm được 2 khâu dịch vụ [34]. - Dịch vụ tưới, tiêu nước: Có 309/315 HTX(98,1%) làm dịch vụ tưới, tiêu nước. Các HTX đã xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật, từ việc bảo quản máy, vận hành, sửa chữa tài sản cố định (kể cả phụ tùng thay thế), khấu hao tài sản cố định, chi phí điện năng, nhiên liệu, sửa chữa kênh mương, dẫn nước, giữ nước, tiêu nước khi úng… cho cả chu kỳ sinh trưởng của cây trồng. Bình quân toàn tỉnh, định mức thu dịch vụ tưới, tiêu nước là 17,06 kg/sào/năm. Huyện có mức thu bình quân cao là Đông Hưng: 18,84 kg, Hưng Hà: 18,21 kg (HTX có mức thu cao là Đô Lương - Đông Hưng: 24,36kg/sào/năm). Huyện có mức thu bình quân thấp là Kiến Xương 15,19 kg/sào (HTX có mức thu thấp là Tu Trình - Thái Thụy: 6,72 kg; Đức Long - Vũ Thư: 6,2 kg). Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật, các HTX đã giao khoán cho tổ thủy nông trên cơ sở nội quy hoạt động cụ thể: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong tổ; quy định rõ trách nhiệm của hộ xã viên và ban quản lý HTX. Doanh số hoạt động dịch vụ thủy nông bình quân 1 HTX đạt 270.460 ngàn đồng; có 185/309 HTX (59,87%) tiết kiệm được chi phí; bình quân 1 HTX tiết kiệm được 3.142 ngàn đồng (HTX có mức tiết kiệm chi phí cao là Thụy Sơn - Thái Thụy: 42 triệu đồng, Nam Thịnh - Tiền Hải: 40 triệu đồng, Trà Giang - Kiến Xương: 34,9 triệu đồng) [34]. Toàn tỉnh có 81 HTX (chiếm 26,2% số HTX làm dịch vụ tưới tiêu nước) do lên định mức kinh tế kỹ thuật thấp, dẫn đến thu không đủ chi phí và không trích được khấu hao tài sản cố định. Định mức trả công cho người làm dịch vụ thủy nông thấp, nhất là phần nạo vét kênh mương (thu 3 - 4 kg thóc/công) nên khi thực hiện trả công theo định mức không có người làm; HTX phải căn cứ vào số tiền thu được để điều công làm theo giá thỏa thuận nên việc sửa chữa, tu bổ hệ thống kênh tưới tiêu nước không đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Đầu năm 2006, đa số các HTX tổ chức đại hội đại biểu xã viên đều điều chỉnh định mức kinh tế kỹ thuật trên cơ sở tính đúng, tính đủ các khoản chi phí cho các khâu dịch vụ. - Dịch vụ bảo vệ thực vật và khoa học kỹ thuật: Có 313/315 (99,4%) HTX thành lập tổ dịch vụ bảo vệ thực vật gắn với công tác k. Tổ dịch vụ bảo vệ thực vật - khoa học kỹ thuật làm nhiệm vụ điều tra, phát hiện sâu bệnh, hướng dẫn xã viên phòng trừ, tập huấn về khoa học kỹ thuật, quy trình công nghệ trồng trọt, chân nuôi, nuôi trồng thủy sản cho hộ xã viên. Hiện nay đã có 230 HTX làm tốt khâu dịch vụ bảo vệ thực vật, 236 HTX làm tốt dịch vụ khoa học kỹ thuật nên năng suất cây trồng được ổn định và phát triển. Còn 5 HTX chi quá định mức về dịch vụ khoa học kỹ thuật, bình quân 1 HTX chi quá 2.533 ngàn đồng (HTX Thái Thuần - Thái Thụy chi quá 24.394 ngàn đồng, Thái Hà - Thái Thụy là 23.146 ngàn đồng, Tây Giang - Tiền Hải là 16.491 ngàn đồng) [34]. - Dịch vụ thú y: Có 263 HTX (83,5%) làm dịch vụ thú y, nhưng phần lớn các HTX chưa làm tốt dịch vụ này; có tới 69 HTX phải lấy quỹ bù vào dịch vụ thú y. Nguyên nhân chính là hộ chăn nuôi không tiêm phòng, vì họ không hiểu về tác dụng của tiêm phòng và tác hại khi gia súc, gia cầm mắc bệnh; họ cho rằng tiêm phòng chưa có tác dụng mà phải trả tiền trực tiếp theo đầu gia súc, gia cầm. Trong khi đó, việc tuyên truyền, hướng dẫn về công tác tiêm phòng rất hạn chế; nhân viên thú y không có phụ cấp trách nhiệm; UBND xã phó mặc cho ban thú y và HTX thực hiện nên việc tiêm phòng đạt kết quả thấp. HTX thường chỉ tiến hành tuyên truyền, khuyến cáo công tác tiêm phòng gia súc, gia cầm là chính, tỷ lệ tiêm phòng thấp. UBND xã không nhắc nhở, xử phạt hộ gia đình chăn nuôi nhưng không tiêm phòng theo quy định của Pháp lệnh thú y. Công tác tiêm phòng chưa được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng ở cơ sở nên nhiều hộ đảng viên có tham gia chăn nuôi nhưng cũng không gương mẫu chấp hành. Qua khảo sát, điều tra thực tế cho thấy, những nơi HTX làm dịch vụ tiêm phòng tốt đều có sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, mọi đảng viên gương mẫu chấp hành và có sự chỉ đạo trực tiếp của UBND xã theo quy định của Pháp lệnh thú y. Tháng 2/2005, UBND tỉnh đã có quyết định thành lập Ban chăn nuôi thú y xã, các xã đang tổ chức thực hiện để khắc phục những hạn chế của công tác thú y đã nêu trên, nhưng đến nay vẫn chưa thấy có chuyển biến tích cực. Dịch vụ này nên giao cho Ban chăn nuôi thú y xã thực hiện gắn với việc mở rộng chức năng, nhiệm vụ của UBND xã theo quy định của Pháp lệnh thú y. - Dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp: Có 252/315 HTX dịch vụ tổng hợp (chiếm 80%) cung ứng được 35% đến 80% nhu cầu về thuốc bảo vệ thực vật và từ 25% - 60% nhu cầu về đạm, lân, kali cho hộ xã viên. Phần lớn số HTX đã ký hợp đồng với các công ty theo hình thức trả chậm, một phần vì không có vốn, phần khác vì muốn gắn trách nhiệm giữa công ty, HTX với hộ xã viên. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tiền Hải đã tổ chức cho các HTX ký hợp đồng trực tiếp với công ty sản xuất chế biến phân bón, cung ứng và tổ chức tập huấn cho xã viên kỹ thuật bón phân cho từng loại cây trồng, tạo ra tập quán bón phân đa sinh dưỡng thay cho phân bón đơn. Toàn tỉnh có 141 HTX làm dịch vụ cung ứng giống lúa cho xã viên; trong đó có 19 HTX ký hợp đồng sản xuất giống cho Công ty Giống cây trồng của tỉnh với khối lượng hàng năm khoảng 4.200 tấn lúa giống, 350 tấn giống mầu. Công ty chịu trách nhiệm về đầu tư giống và trực tiếp phụ trách kỹ thuật nhân giống, chọn giống và mua sản phẩm giống của HTX. Một số HTX ký hợp đồng với Công ty giống để cung ứng giống cho xã viên. Theo kết quả điều tra, có 250 HTX làm dịch vụ cung ứng vật tư có lãi, chỉ có 2 HTX bị lỗ 3,5 triệu đồng, HTX phải trích quỹ ra bù [34]. - Dịch vụ điện sáng: Trước tháng 8/2003, có 15 HTX đã tổ chức dịch vụ cung ứng điện sáng cho hộ nông dân. Thực hiện Quyết định của UBND tỉnh về việc chuyển giao công tác quản lý, kinh doanh điện sáng của UBND xã cho các HTXNN, đến nay toàn tỉnh đã có 225 HTX(71,4%) làm dịch vụ điện sáng. HTX thành lập tổ dịch vụ điện sáng, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật có khấu hao tài sản, sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn hệ thống đường điện. Phần lớn số HTX lên giá thu thấp hơn giá chỉ đạo của điện lực tỉnh. Theo báo cáo của Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện, thành phố, HTX làm dịch vụ điện năng đã quản lý và điều hành tốt, bảo đảm an toàn về điện. Ngoài việc trả công lao động theo hợp đồng, mỗi năm HTX còn lãi từ 25 - 40 triệu đồng, những HTX có lãi cao như HTX Tây Giang (Tiền Hải), Phú Sơn (Hưng Hà) [34]. - Dịch vụ huy động vốn và cho xã viên vay vốn (dịch vụ tín dụng nội bộ HTX): Có 11 HTX đã huy động vốn của xã viên và vốn tự có của HTX cho hộ xã viên vay để phát triển sản xuất với lãi suất hợp lý, được xã viên chấp nhận như HTX Bình Định, Vũ An (Kiến Xương), HTX Kim Chung (Hưng Hà)… - Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm: Có 49 HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm đã đầu tư kho lạnh, cửa hàng... để phục vụ cho việc cung ứng giống chất lượng cao và tiêu thụ sản phẩm cho hộ xã viên. Trong đó, có 37 HTX làm Dịch vụ có lãi, bình quân 1 HTX lãi 10 triệu đồng (HTX Thái Giang (Thái Thụy) lãi 87.608 ngàn đồng, HTX Quang Trung (Kiến Xương) lãi 12.087 ngàn đồng, HTX Thanh Tân (Kiến Xương) lãi 6.976 ngàn đồng, HTX Thống Nhất (Quỳnh Phụ) lãi 49 triệu đồng, HTX An Ninh (Tiền Hải) lãi 21 triệu đồng, HTX Nguyên Xá (Vũ Thư) lãi 31 triệu đồng). Các HTX tổ chức dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, đã tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho hộ xã viên, khuyến khích họ mở rộng, phát triển sản xuất; HTX có thêm lãi để trích quỹ, tăng vốn sản xuất kinh doanh, tăng tiền công cho cán bộ HTX [34]. - Dịch vụ làm đất: Toàn tỉnh có 20 HTX mở thêm dịch vụ làm đất như HTX Vũ An, HTX Quang Bình (Kiến Xương); Vũ Vinh (Vũ Thư); Phong châu, Đông Phương (Đông Hưng); Quỳnh Ngọc, Quỳnh Nguyên, Quỳnh Bảo, An Đồng, An Vinh (Quỳnh Phụ) bảo đảm chất lượng, kịp thời vụ và mức thu giảm so với các hộ có máy làm đất từ 10 - 15%, được xã viên đồng tình ủng hộ. 2.1.2. Hình thành mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo Luật Hợp tác xã * HTX chăn nuôi Đông Kinh: Đã tổ chức hội nghị thành lập tháng 10-2002. HTX gồm 70 hộ chăn nuôi trang trại, gia trại tự nguyện góp vốn, góp sức để thực hiện các dịch vụ phục vụ phát triển chăn nuôi gồm: dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật, thức ăn chăn nuôi; dịch vụ kỹ thuật nuôi dưỡng phòng trừ dịch bệnh; dịch vụ tiêu thụ sản phẩm. Tuy bước đầu thành lập, cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn còn nhiều khó khăn nhưng HTX đã cố gắng đáp ứng nhu cầu của kinh tế hộ, tạo thuận lợi cho hộ nông dân phát triển chăn nuôi lợn. Do hạn chế về năng lực cán bộ, thiếu vốn, không có cơ sở vật chất kỹ thuật nên HTX hầu như không phát triển. * HTX giống cây trồng xã Vũ Chính: Quy mô HTX lúc đầu có trên 200 hộ nông dân tham gia. Trong quá trình thực hiện, các xã viên rút dần, đến nay còn 25 xã viên. HTX đã thuê 1 vùng đất để sản xuất giống, 1 vùng đất để sản xuất hoa. HTX tổ chức sản xuất, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm giống lúa, rau, khoai tây và trồng hoa. HTX bảo đảm các điều kiện về vật tư cho sản xuất, là cầu nối giữa sản xuất với thị trường, bảo quản giống, hướng dẫn biện pháp kỹ thuật sản xuất, cung ứng giống, kỹ thuật, vật tư phân bón, tiêu thụ nông sản cho xã viên. * HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình: HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình là HTX chuyên ngành có quy mô toàn tỉnh, nội dung dịch vụ của HTX bao gồm: + Dịch vụ cung ứng con giống; + Dịch vụ cung ứng thức ăn chăn nuôi; + Dịch vụ cung cấp thuốc thú y; + Dịch vụ kỹ thuật; + Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Tuy mới thành lập từ tháng 10-2004, nhưng bước đầu HTX hoạt động có hiệu quả; mỗi tháng cung ứng cho xã viên trong HTX từ 100 - 150 tấn thức ăn, tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi từ 120 đến 150 tấn/tháng. Năm 2006, HTX xây dựng phương án mở rộng đối tượng phục vụ, mở rộng dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho tất cả các hộ chăn nuôi trong tỉnh, phấn đấu cung ứng 3.000 - 3.500 tấn thức ăn/năm cho hộ chăn nuôi. Từng bước xây dựng xí nghiệp giết mổ, chế biến thịt lợn với thương hiệu "thịt lợn sạch Thái Bình" để cung cấp cho siêu thị, nhà hàng, trường học, khu công nghiệp ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… [34]. 2.2. Những ưu điểm và hạn chế cần khắc phục của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp tác xã sửa đổi (2003) ở Thái Bình 2.2.1. Những ưu điểm của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp tác xã (2003) ở Thái Bình Thứ nhất, các HTXNN chuyển đổi hoặc thành lập đã thể hiện được các nguyên tắc cơ bản của HTX theo Luật. Các HTXNN đã chuyển từ điều hành sản xuất tập trung sang hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân tự chủ; bước đầu đã đảm bảo nguyên tắc thu đủ bù chi, kinh doanh có lãi hợp lý, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế hộ xã viên, tăng trưởng kinh tế chung của địa phương, cộng đồng, không chỉ thuần túy thu lợi nhuận cho HTX; quyền lợi và nghĩa vụ của xã viên và HTX được cụ thể hóa; mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền địa phương và HTX được đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn. Bên cạnh chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu, nhiều HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động sang sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới. Thứ hai, ổn định tổ chức bộ máy. Sau khi chuyển đổi, các HTXNN đã tổ chức lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giản số lượng các ban gián tiếp, tăng cường về chất lượng đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu hoạt động dịch vụ, tạo lập tư cách pháp nhân để tiến hành sản xuất - kinh doanh, kịp thời cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho kinh tế hộ. Vốn, quỹ và cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTXNN được tăng cường về số lượng và được quản lý chặt chẽ hơn. Vốn của HTX được hình thành từ nhiều nguồn: từ các HTX cũ chuyển sang, từ sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, từ huy động vốn góp của xã viên, từ vay ngân hàng…Tuy còn rất hạn chế, song các HTX đã có vốn ban đầu để hoạt động dịch vụ. Thứ ba, về định hướng hoạt động. Tuy có sự khác nhau về tên gọi, hình thức, quy mô và phạm vi hoạt động nhưng tất cả các HTXNN đã chuyển đổi và thành lập mới trong tỉnh đều lấy nội dung hoạt động chính là làm dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, phù hợp với cơ chế thị trường và Luật HTX. Nhiều HTXNN đã bước đầu xây dựng mô hình hoạt động và các phương án sản xuất - kinh doanh đa dạng, phù hợp với các điều kiện thực tế về trình độ và đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng vùng; về kết cấu hạ tầng như hệ thống thủy nông, đường sá…; về máy móc, lao động, vốn… nhằm đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khác nhau một cách tốt nhất trong điều kiện hiện có của mình. Các HTX đã tiến hành kiểm kê vốn quỹ, làm rõ công nợ, bước đầu thực hiện quy chế dân chủ, công khai kinh tế nội bộ, xóa bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán độc lập, lấy thu từ hoạt động dịch vụ sản xuất và kinh doanh ngành nghề để chi cho bộ máy quản lý. Các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá các khâu dịch vụ được các HTX xác định lại hợp lý hơn. Nét mới trong hoạt động kinh doanh của nhiều HTXNN là vừa bảo đảm nguyên tắc lấy thu bù chi vừa tạo nền tảng phục vụ tăng trưởng chung của cộng đồng chứ không chỉ kinh doanh thuần túy vì lợi nhuận của HTX. Vì vậy, sau vài năm chuyển đổi hoặc thành lập mới theo Luật, mặc dù tỷ trọng kinh tế của các HTX hiện còn nhỏ và không còn giữ vai trò trực tiếp tổ chức và điều hành sản xuất tập trung mà chuyển sang chức năng làm dịch vụ, nhưng những tác động tích cực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển đã chứng minh tính đúng đắn trong định hướng hoạt động của các HTXNN. Thứ tư, nội dung hoạt động của các HTXNN đa dạng, phạm vi hoạt động được mở rộng, chất lượng dịch vụ có tiến bộ. Hầu hết các HTXNN đã đảm nhiệm những dịch vụ nông nghiệp có tính cộng đồng, trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Cùng với việc cung ứng các dịch vụ, một số HTXNN kiểu mới đã mở rộng phạm vi hoạt động, kinh doanh tổng hợp, trong đó có các hoạt động sản xuất như sản xuất giống, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, nuôi trồng thủy sản… Ví dụ: HTX chăn nuôi Đông Kinh (Đông Hưng); HTX giống cây trồng Vũ Chính (thành phố); HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình. Hầu hết các hoạt động dịch vụ do HTXNN kiểu mới đảm nhiệm đã thể hiện được tính ưu việt của kinh tế tập thể như thủy nông, bảo vệ thực vật, khoa học kỹ thuật, giống cho hộ xã viên. Kết quả khảo sát thực tế tại các HTXNN chuyển đổi và thành lập mới cho thấy, phương thức và giá cả dịch vụ do HTXNN điều hành thuận tiện và thấp hơn dịch vụ của tư nhân trên cùng địa bàn. Phỏng vấn 536 hộ nông dân ở 22 HTX thuộc 8 huyện, thành phố năm 2005 cho thấy: 65% số người được hỏi cho rằng việc cung ứng giống cây trồng, con vật nuôi, vốn phục vụ sản xuất, làm đất, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm của HTX tốt hơn tư nhân, doanh nghiệp. Chỉ có 31 hộ (chiếm 5,78%) tự làm được một số khâu dịch vụ; số hộ còn lại đề nghị cần phải có các thành phần kinh tế khác phục vụ [35]. Thứ năm, tỷ lệ HTXNN kinh doanh có lãi đã tăng dần. Tính chung cả tỉnh, năm 2005 có 266/315 (84,4%) HTX có lãi, bình quân 1 HTX lãi 28.619 nghìn đồng. Số HTX lỗ là 34 HTX (10,7%), lỗ bình quân 1 HTX là 8.061 nghìn đồng [35]. Một số HTXNN có vốn lớn, có đội ngũ cán bộ quản lý khá, am hiểu kinh tế thị trường đã mạnh dạn đầu tư mở rộng phạm vi kinh doanh sang các địa phương và dịch vụ khác ở nông thôn như điện, tín dụng, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, dịch vụ tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư, hàng hóa… vừa phục vụ tốt nhu cầu kinh tế hộ vừa tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho HTX. Tính đến năm 2005, doanh thu bình quân 1 HTX đạt 878.660 ngàn đồng; có 6 HTX doanh thu đạt trên 2 tỷ đồng; 21 HTX doanh thu đạt từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ đồng; 66 HTX doanh thu đạt từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ đồng, cao hơn các năm trước [35]. Thứ sáu, thông qua hình thức cung cấp dịch vụ, các HTXNN thực sự đã bắt đầu phát huy được vai trò "bà đỡ" cho kinh tế hộ phát triển. Tuy tỷ trọng kinh tế HTXNN còn bé, vai trò tổ chức điều hành trực tiếp sản xuất nông nghiệp không còn nhiều, nhưng vai trò "hậu cần" cho kinh tế hộ lại nổi lên khá rõ nét. Thực tế là ở địa phương nào HTXNN phát triển thì các dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo về thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, cung ứng vật tư nông nghiệp và đặc biệt là ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp được thực hiện có tổ chức, đồng bộ và hiệu quả cao hơn so với những nơi không có HTX. Tính tự phát, manh mún, mạnh ai lấy làm, cạnh tranh không lành mạnh, chi phí dịch vụ cao, chất lượng giống cây trồng không đảm bảo, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp do làm ăn cá thể tạo ra được khắc phục hoặc hạn chế. Nhờ làm tốt dịch vụ cho kinh tế hộ nên các HTXNN đã góp phần quan trọng trong phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới theo hường CNH, HĐH. Thứ bảy, HTXNN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp theo hướng tích cực. Mặc dù vị thế kinh tế còn yếu nhưng các HTXNN đã đóng góp trực tiếp cũng như gián tiếp vào tăng trưởng chung về kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đóng vai trò tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên. HTXNN bước đầu đáp ứng được nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp, đổi mới phương thức kinh doanh, củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn. Các HTXNN đã từng bước tổ chức cho hộ xã viên sản xuất theo quy hoạch và yêu cầu của thị trường, hướng dẫn hộ nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí, từ đó tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; qua đó đã hạn chế được việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách tự phát. Nhiều HTXNN đã góp phần tích cực chỉ đạo phong trào "dồn điền, đổi thửa" để tiện lợi cho khâu cơ giới hóa, thủy lợi hóa và chuyên canh cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Sản xuất nông nghiệp ở các xã có HTXNN kiểu mới hoạt động tốt đã bước đầu được chuyên môn hóa kết hợp thâm canh cao, tiện lợi cho các khâu canh tác và tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch. Ngoài ra, các HTXNN cũng đã góp phần khai thác được tiềm năng, thế mạnh của các xã về nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường, huy động vốn nhàn rỗi trong dân…để tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Thứ tám, mở rộng liên kết kinh tế trong nông nghiệp. Hầu hết các HTXNN kiểu mới đã và đang định hình những mối liên kết kinh tế mới, chủ yếu làm cầu nối, liên kết giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp nhà nước (Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình, Công ty cổ phần giống chăn nuôi, Trung tâm khảo nghiệm - khuyến nông, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân…), cũng như liên kết kinh tế giữa các trang trại, gia trại và các HTXNN với nhau để mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dịch vụ nông nghiệp. Sau khi có Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về liên kết 4 nhà trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho hộ nông dân, vai trò và thế mạnh của HTXNN càng thể hiện rõ và bước đầu đã được phát huy ở những vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung. HTX trở thành cầu nối giữa hộ nông dân sản xuất hàng hóa với các doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp. Thứ chín, HTXNN góp phần tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn. Đóng góp của HTXNN kiểu mới trong lĩnh vực xã hội là rõ nét, thể hiện trên các mặt sau: - HTX đã phát huy được tinh thần tương thân tương ái trong việc giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, góp phần giải quyết vấn đề mang tính kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Nhiều HTXNN đã ứng trước không lấy lãi cho hộ xã viên nghèo khó khăn một số vật tư chủ yếu như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, để họ phát triển sản xuất và đến vụ thu hoạch mới phải trả. Nhiều hộ nghèo, hộ chính sách được ưu tiên vay vốn hoặc bố trí lao động tham gia các hoạt động dịch vụ phù hợp với khả năng của họ để tăng thu nhập, đảm bảo đời sống ở mức trung bình. - Góp phần tạo thêm việc làm mới, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao trình độ tay nghề cho lao động nông nghiệp; thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo. - Góp phần xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn như điện, đường, tr- ường, trạm, nước sinh hoạt, nhà trẻ và các công trình phúc lợi khác. - Xây dựng và phát triển các dịch vụ sinh hoạt cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hóa, thôn làng văn hóa, tăng cường đoàn kết tình làng, nghĩa xóm, phát huy dân chủ cơ sở… Tất cả những việc làm đó của các HTXNN thời gian qua đã góp phần tích cực làm đổi mới bộ mặt nông thôn Thái Bình. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn về doanh thu và lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ còn nhỏ nhưng nhiều HTXNN đã phát huy vai trò của kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới. HTXNN không dừng lại ở chủ trương, hô hào hoặc dựa vào bao cấp của Nhà nước như trước đây mà thể hiện bằng việc làm cụ thể trên cơ sở phát huy nội lực tại chỗ của HTX và bà con xã viên. Nguồn kinh phí chủ yếu đ- ược trích từ thu nhập của các hoạt động dịch vụ của HTXNN, nguồn lao động do xã viên đóng góp tự nguyện. Các phương thức cũ "bổ đầu sào", "đầu người" như trước đây đã đ- ược khắc phục. Do vậy, ở những xã có HTXNN hoạt động hiệu quả, bộ mặt nông thôn đổi mới nhanh, tình làng nghĩa xóm đậm đà và thắm thiết hơn nhiều so với làm ăn cá thể "đèn nhà ai rạng nhà ấy". Thứ mười, HTXNN kiểu mới góp phần củng cố chính quyền cơ sở ở nông thôn. Việc chuyển đổi hoặc thành lập mới các HTXNN theo Luật đã góp phần phân định rõ ràng hơn chức năng quản lý nhà nước của chính quyền xã, thôn, với các chức năng quản lý, điều hành sản xuất - kinh doanh của các HTX. Chính quyền cơ sở có điều kiện tập trung nhiều hơn cho công tác quản lý nhà nước trên địa bàn, đồng thời vai trò của Ban chủ nhiệm và xã viên trong hoạt động của HTX đều được nâng cao, góp phần giữ vững ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Tóm lại, những kết quả khởi sắc của HTXNN sau 5 năm thực hiện Luật HTX, tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng đã khẳng định được vai trò và vị trí tất yếu của nó trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn Thái Bình thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các HTXNN chuyển đổi, thành lập mới đã thể hiện được các nguyên tắc cơ bản của HTX theo Luật. Chuyển từ điều hành sản xuất sang hoạt động dịch vụ là sự chuyển đổi khó khăn, nhưng đến nay hầu hết các HTXNN đã vượt qua khó khăn, mò mẫm, trở thành những đơn vị kinh doanh dịch vụ độc lập, thích ứng với cơ chế thị trường và bước đầu làm ăn có hiệu quả. Bên cạnh chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu, nhiều HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động sang sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới. Nhiều mô hình mới, tiến bộ đã và đang xuất hiện và nhân rộng, trở thành những hạt nhân tích cực góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tiến bộ. 2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp tác xã ở Thái Bình và nguyên nhân 2.2.2.1. Những hạn chế, yếu kém Bên cạnh những thành tựu là chủ yếu, sau khi chuyển đổi hoặc thành lập theo Luật, nhiều mô hình HTXNN kiểu mới đã bộc lộ những khó khăn và hạn chế trong hoạt động. Dưới đây là những biểu hiện cụ thể: Thứ nhất, hầu hết các HTXNN kiểu mới đều thiếu vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật để triển khai các hoạt động dịch vụ. Theo kết qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay (2).pdf
Tài liệu liên quan