Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 315
TÁI TẠO MẮT CÁ NGOÀI VÀ KHỚP CỔ CHÂN BẰNG VẠT CHỎM 
XƯƠNG MÁC CÓ CUỐNG MẠCH TỰ DO BÊN ĐỐI DIỆN: 
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG 
Võ Thái Trung*, Phạm Văn Long*, Huỳnh Mạnh Nhi** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Cắt bỏ và tái tạo lại mắt cá ngoài là một kỹ thuật ít gặp. Phẫu thuật viên tiến hành cắt bỏ mắt cá 
ngoài trong những trường hợp u xương lớn, viêm xương, dị tật phức tạp, chấn thương nặng... Sau khi loại bỏ 
mắt cá ngoài thì việc ổn định khớp cổ chân là một thách thức. Ở trẻ em, việc sử dụng vạt chỏm xương mác để tái 
tạo khớp cổ chân sau khi cắt bỏ mắt cá ngoài được lựa chọn như một phương pháp thích hợp nhất. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo ca lâm sang. Một bệnh nhân nữ 13 tuổi đã cắt bỏ toàn bộ 
xương mác bên trái do viêm xương mãn tính. Tám tháng sau, bệnh nhân có triệu chứng mỏi cổ chân và biến dạng 
valgus cổ chân. Chúng tôi chọn vạt chỏm xương mác kèm một phần gân cơ nhị đầu đùi bên đối diện với cuống là 
bó mạch mác tự do làm vật liệu thay thế mắt cá ngoài và tái tạo khớp mác sên. 
Kết quả: Bệnh nhân hài lòng với kết quả đạt được. Khớp cổ chân của bệnh nhân vững, không đau trong sinh 
hoạt hàng ngày. 
Kết luận: Có thể chọn vạt chỏm xương mác tự do và gân cơ nhị đầu đùi để tái tạo mắt cá ngoài và các dây 
chằng mác gót, mác sên cho các bệnh nhân là trẻ em cần tái tạo mắt cá ngoài. 
Từ khóa: Vạt xương mác có cuống mạch tự do, tái tạo khớp cổ chân, hàn khớp. 
ABSTRACT 
FREE VASCULARIZED PROXIMAL FIBULAR GRAFT FOR RECONSTRUCTION OF THE LATERAL 
MALLEOLUS AND THE ANKLE JOINT: A CASE REPORT 
Vo Thai Trung, Pham Van Long, Huynh Manh Nhi 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 315 - 319 
Background: Removing and reconstruction of the lateral malleous (LM) was infrequently surgical 
techniques, that was applied for some cases, such as: large bone tumor, osteomyelitis, complex congenital 
deformity, severe trauma. After removing LM, stability of ankle joint is the challenge of surgeon. In the children, 
replacement LM with proximal of fibular graft was the first choice. 
Materials and Methods: A 13-year-old female patient whose entire left fibula was surgically removed for 
the treatment of chronic osteomyelitis. She has her leg fatigue and valgus deformity at her ankle after the removal 
of the lateral malleolus. 
Result: The patient is satisfied with the results achieved. The patient’s ankle joint is stable and painless in 
daily activities. 
Conslusion: Maybe to select the free vascularized contralateral fibular head graft and the biceps femoris 
tendon with the peroneal pedicle to reconstruct the lateral malleolus and the talo-fibular and talo-calcaneal 
ligaments. 
Keywords: free vascularized fibular graft, ankle reconstruction, ankle fusion. 
* Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương. 
**Khoa Chỉnh hình Nhi, Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình TP Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: BSCK1. Võ Thái Trung ĐT: 0983616949 Email:
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 316
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cắt bỏ và tái tạo lại mắt cá ngoài là một kỹ 
thuật rất hiếm gặp. Phẫu thuật viên tiến hành cắt 
bỏ mắt cá ngoài trong những trường hợp u 
xương lớn, viêm xương, dị tật phức tạp, chấn 
thương nặng... Sau khi loại bỏ mắt cá ngoài thì 
việc ổn định khớp cổ chân là một thách thức(7). 
Do sự hiếm có, và thậm chí ít trường hợp báo 
cáo, nhiều phương pháp hoàn toàn khác nhau đã 
được mô tả. 
Một số tác giả chỉ phẫu thuật cắt bỏ xương 
mác xa mà không cần tái tạo phía bên mắt cá 
ngoài(4,11). Durak (1996) chỉ đơn giản là gắn các 
dây chằng còn lại bên mác vào xương chày(8). Tái 
tạo dây chằng khớp cổ chân bằng gân cơ mác 
ngắn cũng được báo cáo(11). Hàn khớp chày 
sên(7,13), chuyển ghép chỏm xương mác có cuống 
mạch(2,3,5,6), mỗi phương pháp đều có những hạn 
chế nhất định(4,7,8,13). 
Ở trẻ em, việc sử dụng vạt chỏm xương mác 
để tái tạo khớp cổ chân sau khi cắt bỏ mắt cá 
ngoài được lựa chọn như một phương pháp 
thích hợp nhất. Giúp ngăn biến dạng valgus ở cổ 
chân (biến dạng xương chày do mắt cá trong tiếp 
tục tăng trưởng). Và giữ khớp cổ chân vững với 
chức năng vận động tuyệt vời(3,5,6). 
Trường hợp của chúng tôi là bệnh nhi 13 
tuổi, phải cắt bỏ toàn bộ xương mác do viêm 
xương mãn tính. Được tái tạo lại mắt cá ngoài 
và khớp cổ chân bằng vạt chỏm xương mác tự 
do lấy từ bên đối diện. Mục tiêu của chúng tôi 
là xem phương pháp này có giúp phục hồi 
chức năng vận động khớp cổ chân và các hạn 
chế của nó. 
CA LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nữ 13 tuổi, được chẩn đoán viêm 
xương mãn tính dọc chiều dài xương mác trái. 
Đồng nghiệp của chúng tôi đã cắt bỏ xương hư, 
cố gắng giữ lại 8cm đầu xa và cố định với xương 
chày bằng vít (hình 1A). 
Chúng tôi tiếp nhận bệnh nhân ở thời điểm 3 
tháng sau mổ, với tình trạng nhiễm trùng vết mổ 
và viêm xương tiến triển phần xương mác còn 
lại. Chúng tôi cắt lọc vết thương và loại bỏ toàn 
bộ phần xương viêm mà không thực hiện thêm 
kỹ thuật tái tạo khớp cổ chân nào khác (hình 1B). 
Sau mổ bệnh nhân được điều trị lành vết 
thương, không còn nhiễm trùng cẳng chân. Bệnh 
nhân than phiền đau mỏi cổ chân khi đi lại. Ban 
đầu khám không thấy dấu hiệu thay đổi dáng đi, 
sức cơ và dị cảm. Tiếp tục theo dõi trong 8 tháng 
thì tình trạng đau mỏi gia tăng, biến dạng valgus 
xuất hiện (hình 1C, D). 
Hình 1. Trước (A) và sau khi (B) cắt bỏ 8 cm đầu xa 
xương mác viêm. Khe khớp cổ chân trong trước khi 
lấy bỏ mắt các ngoài (C) và 8 tháng sau (D). 
Chúng tôi tiến hành tái tạo mắt cá ngoài và 
khớp cổ chân trái bằng vạt chỏm xương mác tự 
do lấy từ chân phải. 
KỸ THUẬT PHẪU THUẬT 
Lấy vạt chỏm xương mác bên phải tự do dài 
16 cm với cuống là bó mạch mác, lấy kèm bán 
phần gân cơ nhị đầu đùi dài 4 cm và đảo da 2 cm 
x 6 cm (hình 2A,B). Sau khi lấy vạt, khâu đính 
phần còn lại của gân nhị đầu đùi và dây chằng 
A B 
C D 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 317
bên ngoài khớp gối vào xương chày để ổn định 
khớp (hình 2C,D,E). 
Vạt xương dài 16 cm được cắt đi một đoạn 
dài 2 cm ở phía đầu xa để làm miếng chêm. 
 A B C D E 
Hình 2. Thiết kế và bóc tách vạt xương mác và ổn định khớp gối sau lấy chỏm xương mác. 
Ghép vạt xương dài 14 cm vào cổ chân trái 
thay thế mắt cá ngoài. Mặt trong chỏm mác 
được gặm bớt một phần xương cho phù hợp 
với diện khớp của xương chày và xương sên. 
Cố định xương bằng hai vít AO. Khi cố định 
vạt xương mác; chúng tôi tiến hành khóa gọng 
chày mác, đồng thời sử dụng đoạn xương dài 
2 cm chêm giữa đầu trên mảnh ghép và xương 
chày để tăng độ vững. Nơi tiếp xúc của xương 
chày và hai đầu mảnh ghép xương mác đều 
được làm sạch màng xương, khoan lỗ để tăng 
khả năng liền xương. 
Phần gân nhị đầu đùi ở chỏm xương mác 
được chia thành hai bó. Một bó khâu đính vào 
gốc tàn dư của dây chằng mác sên trước và 
một bó khâu đính vào gốc tàn dư của dây 
chằng mác gót để tạo hai dây chằng mới. 
Ban đầu chúng tôi dự định nối đầu xa 
động mạch mác trái cho cuống vạt. Tuy nhiên 
khi bóc tách thấy sẹo hai lần mổ cũ gây khó 
khăn và bó mạch mác trái rất nhỏ nên chúng 
tôi quyết định sử dụng đầu xa của bó mạch 
chày trước trái thay thế, khâu nối mạch máu 
bằng chỉ nylon 8-0 mũi rời. 
Trong mổ dùng Heparin bơm rửa mạch 
máu, sau mổ 6 giờ bắt đầu dùng Lovenox với 
liều dự phòng 40mg/0,4 ml/24 giờ liên tục 10 
ngày. Nẹp bột tăng cường 6 tuần, sau 12 tuần 
chống chân và tập đi chịu trọng lực. Tái khám và 
theo dõi được 9 tháng ghi nhận hết triệu chứng 
đau, vận động khớp cổ chân dễ dàng với gập 
lưng được 100, gập lòng được 350 (Hình 3). Vận 
động khớp gối hai bên trong giới hạn bình 
thường và không đau. Bệnh nhân có thể đứng 
nhón gót chịu lực bằng một chân phía bên tái 
tạo, chạy và chơi nhảy dây (hình 4C). X quang 
không còn biến dạng valgus so với trước tái 
tạo (hình 4A, B). 
Hình 3. Kết quả sau 9 tháng, bệnh nhân vận động khớp cổ chân tốt. 
B C D E 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 318
Hình 4A,B,C. Khớp cổ chân trước (A) và sau (B) khi tái tạo. 
BÀN LUẬN 
Chúng tôi không thể áp dụng kỹ thuật tái tạo 
như Concannon et al(5) hoặc Sales de Gauzy(6) đã 
thực hiện. Vì bệnh nhân của chúng tôi đã phải 
cắt bỏ toàn bộ xương mác. Lựa chọn vạt chỏm 
xương mác tự do bên đối diện với cuống là động 
mạch mác là một trải nghiệm lớn. Bệnh nhân của 
chúng tôi lúc được chuyển ghép đã 13 tuổi, sụn 
tiếp hợp đã gần đóng nên sự tăng trưởng theo 
chiều dọc của chi cũng không còn nhiều. Theo 
Concannon(5) và Sales de Gauzy(6) thì cuống 
mạch mác vẫn đủ đảm bảo cho sự tăng trưởng 
tiếp theo của chỏm xương mác. 
Chúng tôi sử dụng phần gân cơ nhị đầu đùi 
lấy kèm chỏm mác rồi tách thành hai bó để tạo 
dây chằng mác sên trước và dây chằng mác gót 
mới mà không sử dụng thêm các kỹ thuật 
chuyển gân hỗ trợ. 
Với thời gian theo dõi chỉ trong 9 tháng, 
bệnh nhân của chúng tôi có khớp cổ chân vững 
và không đau. Bệnh nhân có thể thực hiện các 
vận động đầy đủ của khớp cổ chân trong sinh 
hoạt bình thường. X quang không còn biến dạng 
valgus so với trước khi tái tạo. Khớp gối hai bên 
ổn định. Bệnh nhân hài lòng với kết quả đạt 
được. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi, đánh giá 
đầy đủ và báo cáo kết quả xa trong thời gian tới. 
KẾT LUẬN 
Có thể chọn vạt chỏm xương mác tự do và 
gân cơ nhị đầu đùi để tái tạo mắt cá ngoài và các 
dây chằng mác gót, mác sên cho các bệnh nhân 
là trẻ em cần tái tạo mắt cá ngoài. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adam B, Wallace, Sean M and et all (2016). Free 
Vascularized Fibular Graft for Distal Tibia and Ankle 
Arthrodesis. J Reconstr Microsurg Open; 01(02): 111–116. 
2. Adani R, Delcroix L, Innocenti M et al (2004). 
Reconstruction of large posttraumatic skeletal defects of the 
forearm by vascularized free fibular graft. Microsurgery; 24: 
423–429. 
3. Carell W (1938). Transplantation of fibula in the same leg. J 
Bone Joint Surg; 20: 627–634. 
4. Carnesale P. General principals of tumors (1998). In: Canale 
ST, editor. Campbell’s Operative Orthopaedics. 10. St 
Louis, MO, USA: Mosby, pp: 647–648. 
5. Concannon MJ, Croll GH, Boschert MT, Gaines RW, 
Puckett CL (1993). Free fibular transfer in a growing 
individual (long-term results). Microsurgery; 14 : 624–7. 
6. De GJS, Kany J, Cahuzac JP (2002). Distal fibular 
reconstruction with pedicled vascularized fibular head 
graft: a reconstruction with pedicled vascularized fibular 
head graft: a case report. J Pediatr Orthop B; 11: 176–180. 
7. Dieckmann R, Ahrens H, Streitburger A, Budny TB, 
Henrichs MP, Vieth V, Gebert C, Hardes J (2011). 
Reconstruction after wide resection of the entire distal 
fibula in malignant bone tumours. Int Orthop; 35: 87–92. 
8. Durak K, Bilgen O, Kaleli T, Aydinli U (1996). Distal fibula 
resection in osteochondroma. J Int Med Res; 24: 381–386. 
9. Eger W, Schorle C, Zeiler G (2004). Giant cell tumor of the 
distal fibula: fifteen-year result after en bloc resection and 
fibula reconstruction. Arch Orthop Trauma Surg; 124: 56–59. 
10. Herring CL Jr, Hall RL, Goldner JL (1997). Replacement of 
the lateral malleolus of the ankle joint with a reversed 
proximal fibular bone graft. Foot Ankle Int; 18(6): 317–323. 
C A B 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 319
11. Monson DK (2014). Lateral ankle stabilization after distal 
fibular resection using a novel approach: a surgical 
technique. Clin Orthop Relat Res; 472(4): 1262–1270. 
12. Norman-Taylor FH, Sweetnam DI, Fixsen JA (1994). Distal 
fibulectomy for Ewing's sarcoma. J Bone Joint Surg Br; 76: 
559–562. 
13. Pickering R. Arthrodesis of ankle, knee, and hip (2003). In: 
Pickering RM, editor. Campbells's operative 
orthopaedics. 10. St. Louis: Mosby. 
Ngày nhận bài báo: 15/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018