Nghiên cứu mối liên quan giữa HS-CRP máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người có hội chứng chuyển hóa

Tài liệu Nghiên cứu mối liên quan giữa HS-CRP máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người có hội chứng chuyển hóa: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 17 NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA HS-CRP MÁU VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở NGƯỜI CÓ HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA Trần Quang Huy*, Trần Quốc Việt**, Lương Cao Đồng**, Phạm Văn Trân** TÓM TẮT Mục tiêu:Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người có hội chứng chuyển hóa (HCCH). Đối tượng: 110 người chia 2 nhóm: Nhóm bệnh gồm 65 bệnh nhân có hội chứng HCCH và nhóm chứng gồm 45 người bình thường khỏe mạnh, có độ tuổi và giới tính tương đương với nhóm bệnh. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng. Bệnh nhân được khám lâm sàng, khai thác tiền sử, bệnh sử, lấy máu tĩnh mạch lúc đói định lượng nồng độ hs-CRP, glucose, cholesterol toàn phần, LDL-C, HDL-C và triglycerid. Chẩn đoán HCCH theo tiêu chuẩn của NCEP ATP III. Kết quả: Nồng độ trung bình hs-CRP máu (mg/l) của nhóm bệnh và nhóm chứng lần lượt là 4,65 ± 3,73 so với 1,63 ± 0,55 (p < 0,0001). Bện...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 82 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mối liên quan giữa HS-CRP máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người có hội chứng chuyển hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 17 NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA HS-CRP MÁU VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở NGƯỜI CÓ HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA Trần Quang Huy*, Trần Quốc Việt**, Lương Cao Đồng**, Phạm Văn Trân** TÓM TẮT Mục tiêu:Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người có hội chứng chuyển hóa (HCCH). Đối tượng: 110 người chia 2 nhóm: Nhóm bệnh gồm 65 bệnh nhân có hội chứng HCCH và nhóm chứng gồm 45 người bình thường khỏe mạnh, có độ tuổi và giới tính tương đương với nhóm bệnh. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng. Bệnh nhân được khám lâm sàng, khai thác tiền sử, bệnh sử, lấy máu tĩnh mạch lúc đói định lượng nồng độ hs-CRP, glucose, cholesterol toàn phần, LDL-C, HDL-C và triglycerid. Chẩn đoán HCCH theo tiêu chuẩn của NCEP ATP III. Kết quả: Nồng độ trung bình hs-CRP máu (mg/l) của nhóm bệnh và nhóm chứng lần lượt là 4,65 ± 3,73 so với 1,63 ± 0,55 (p < 0,0001). Bệnh nhân có nồng độ hs-CRP ở các mức độ nguy cơ cao và nguy cơ trung bình đối với bệnh tim mạch rất phổ biến (93,8%). Trong đó, tỷ lệ phần trăm bệnh nhân ở các mức cao, mức trung bình và mức thấp lần lượt là 52,3; 41,5 và 6,2. Nồng độ hs-CRP máu tương quan thuận mức độ nhẹ với độ tuổi (r = 0,25, p < 0,05). Không có sự liên quan của nồng độ hs-CRP máu với các yếu tố NCTM khác ở người có HCCH như thừa cân, béo phì, ĐTĐ, giới tính, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp (THA). Kết luận: Nồng độ trung bình hs-CRP máu của người có HCCH cao hơn người không có HCCH. Ở người có HCCH, nồng độ hs-CRP máu tương quan thuận mức độ nhẹ với độ tuổi và không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê với các yếu tố nguy cơ tim mạch khác như giới tính, nồng độ glucose máu, rối loạn lipid máu và THA. Từ khóa: Hội chứng chuyển hóa, hs CRP. ABSTRACT RELATIONSHIP BETWEEN BLOOD HS-CRP LEVEL AND SOME CARDIOVASCULAR RISK FACTORS IN METABOLIC SYNDROME PATIENTS Tran Quang Huy, Tran Quoc Viet, Luong Cao Dong, Pham Van Tran * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 3 - 2017: 17 – 22 Objective: To examine the correlation between blood hs-CRP levels and some cardiovascular risk factors in metabolic syndrome patients. Subjects: 110 people divided into two groups: group of 65 metabolic syndrome patients and group of 45 healthy people (control group) having age and gender equivalent to the patient group. Methods: A cross-sectional descriptive study. Patients underwent clinical examination, history abstraction, intravenous blood were measured levels of hs-CRP, glucose, total cholesterol, LDL-C, HDL-C and triglyceride. Diagnose metabolic syndrome according to NCEP ATP III standards. Results: blood hs-CRP (mg/l) in the patient and control groups were 4.65 ± 3.73 compared to 1.63 ± 0.55 (p <0.0001). Patients with high levels of hs-CRP at high and average risk for heart disease were 93.8%. In which, the percentage of patients at high, medium and low levels were 52.3; 41.5 and 6.2 respectively. Blood hs-CRP levels were moderately correlated with age (r = 0.25, p <0.05). There was no correlation between blood hs-CRP with *: Viện y học cổ truyền quân đội **: Học viện Quân y Tác giả liên lạc: BS. Phạm Văn Trân ĐT: 0944030928 Email: phamvantran@yahoo.fr Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 18 other risk factors as overweight, obesity, diabetes, sex, dyslipidemia, hypertension. Conclusions: The blood hs-CRP levels in metabolic syndrome patients were higher than control group. In metabolic syndrome patients, blood hs-CRP levels were moderately correlated with age and were not significantly associated with other cardiovascular risk factors such as sex, blood glucose levels, dyslipidemia and hypertension. Keywords: Metabolic syndrome, hsCRP. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tim mạch là vấn đề sức khoẻ được quan tâm hàng đầu do tỷ lệ tử vong và tàn phế đứng hàng đầu trên thế giới. Yếu tố nguy cơ của các bệnh tim mạch thường liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của xơ vữa động mạch (VXĐM). Mỗi người đều có thể mắc bệnh tim mạch, đặc biệt khi trên 40 tuổi. Do vậy, việc đánh giá nguy cơ bị bệnh tim mạch là rất quan trọng. Hội chứng chuyển hóa được định nghĩa là một nhóm các rối loạn chuyển hóa. Trong đó, mỗi yếu tố nguy cơ riêng biệt có tầm quan trọng riêng, sự kết hợp của chúng như béo bụng, rối loạn chuyển hóa glucose, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp gây ra các hậu quả nghiêm trọng. Protein C phản ứng độ nhậy cao (hs-CRP)là một dấu ấn sinh học hữu ích cho viêm mạch máu liên quan với VXĐM, trong các yếu tố nguy cơ mới đối với bệnh tim mạchhs-CRP được xem là có triển vọng nhất. Nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh tiềm năng hs-CRP là một yếu tố dự báo có giá trị của bệnh tim mạch trong tương lai, hs-CRP có giá trị tiên lượng ngoài các điểm nguy cơ của Framingham.Nhiều nghiên cứu nhóm độc lập đã xác nhận rằng hs-CRP cho biết thêm thông tin tiên lượng trong HCCH và trong dự báo bệnh tiểu đường type 2. Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nhằm mục đích khảo sát mối liên quan của hs- CRP máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người có hội chứng chuyển hóa. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu gồm 110 người được chia làm 2 nhóm: Nhóm bệnh gồm 65 BN có HCCH (theo tiêu chuẩn của NCEP ATP III áp dụng cho người châu Á).Nhóm chứng gồm 45 người bình thường khỏe mạnh, không có HCCH, có độ tuổi và giới tương đương với nhóm bệnh. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng. Bệnh nhân được khám lâm sàng, khai thác tiền sử, bệnh sử, đo huyết áp và đo nhân trắc. Máu tĩnh mạch được lấy vào buổi sáng sau nhịn ăn qua đêm (10-12 giờ) chống đông bằng lithium heparin. Thực hiện các xét nghiệm hóa sinh gồm: hs-CRP, glucose, cholesterol toàn phần, LDL-C, HDL-C và triglycerid theo phương pháp đo quang trên hệ thống Au 5800 của hãng Beckman Coulter. Chẩn đoán HCCH: Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của NCEP ATP III (áp dụng cho người Châu Á). Đánh giá chỉ số BMI: Theo tiêu chuẩn của WPRO (2007) áp dụng trên người Châu Á trưởng thành. * Yếu tố nguy cơ tim mạch được khảo sát: + Nam > 55 tuổi; nữ > 65 tuổi. + Cholesterol > 6,1 mmol/l và/hoặc LDL-C > 4 mmo/l. + HDL-C < 1 mmo/l ở nam và < 1,3 mmol/l ở nữ. + Tăng huyết áp. + Đái tháo đường. Các số liệu thu thập được xử lý theo thuật toán thống kê trên máy vi tính bằng phần mềm SPSS 20.0 dùng cho hệ điều hành Window. KẾT QUẢ Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Tuổi bệnh nhân trong khoảng từ 42 đến 86, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 19 trong đó tuổi trung bình của nhóm bệnh và nhóm chứng tương đương nhau. Tuổi trung bình của nữ nhóm bệnh cao hơn có ý nghĩa so với tuổi trung bình của nữ nhóm chứng (p < 0,01). Bảng 1. Đặc điểm về tuổi và giới Đối tượng Nhóm chứng Nhóm HCCH p n n Nam 24 65,8 ± 12,7 41 63,8 ± 11,9 > 0,05 Nữ 21 57,3 ± 8,0 24 66,6 ± 8,1 < 0,01 Chung 45 61,8 ± 11,5 65 64,8 ± 10,7 > 0,05 Min 40 42 Max 84 86 Bảng 2. Đặc điểm một số yếu tố nguy cơ tim mạch nhóm HCCH Yếu tố nguy cơ Số lượng (n) Tỷ lệ (%) Béo phì 28 43,1 Đái tháo đường 45 69,2 Giảm HDL-C (nam < 1 mmol/l; nữ < 1,3 mmol/l) 44 67,7 Tăng huyết áp 49 75,4 Tăng cholesterol toàn phần (> 6,1 mmol/l) và/hoặc LDL-C (> 4 mmol/l) 15 23,1 Tuổi (nam > 55 tuổi; nữ > 65 tuổi) 43 66,2 Nhận xét: Các yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân mắc HCCH gặp với tỷ lệ khác nhau, trong đó THA chiếm tỷ lệ cao nhất, tăng cholesterol và/hoặc LDL-C chiếm tỷ lệ thấp nhất. Kết quả định lượng hs-CRP Bảng 3. So sánh nồng độ hs-CRP máu giữa hai nhóm nghiên cứu Chỉ số NC Nhóm chứng Nhóm HCCH n (mg/L) n (mg/L) hs-CRP (mg/l) 45 1,63 ± 0,55 65 4,65 ± 3,73 p < 0,0001 Nhận xét: Nồng độ hs-CRP ở BN mắc HCCH cao hơn so với nhóm chứng. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP máu với một sốyếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân HCCH Liên quan giữa hs-CRP máu với tuổi, giới Nồng độ hs-CRP máu có sự tương quan thuận mức độ thấp (r = 0,25; p < 0,05) với nhóm tuổi (Bảng 4). Không có mối liên quan về tỷ lệ tăng nồng độ hs-CRP máu với giới tính trong nhóm HCCH (p > 0,05) (Bảng 5). 1Bảng 4. Tương quan nồng độ hs-CRP với nhóm tuổi Thông số hs-CRP (mg/l) Phương trình hồi quy r p Nhóm tuổi (năm) hs-CRP = 1,435 x Nhóm tuổi + 1,495 0,25 < 0,05 Bảng 5. Liên quan nồng độ hs-CRP máu với giới hs-CRP (mg/l) Giới Không tăng (≤ 2,2) Tăng (> 2,2) p n % n % Nữ (n = 24) 6 25,0 18 75,0 p > 0,05 OR = 0,72 (0,23 – 2,23) Nam (n = 41) 13 31,7 28 68,3 Liên quan giữa hs-CRP với nồng độ glucose máu Không có tương quan của nồng độ hs-CRP máu với nồng độ glucose máu ở nhóm HCCH (p > 0,05) (Bảng 6). 2Bảng 6. Tương quan nồng độ hs-CRP máu với nồng độ glucose máu Chỉ số hs-CRP (mg/l) Phương trình hồi quy r p Glucose (mmol/l) hs-CRP = 0,23 x Glucose + 4,43 0,03 > 0,05 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 20 Liên quan giữa hs-CRP với nguy cơ về lipid máu 3Bảng 7. So sánh nồng độ hs-CRP máu giữa nhóm có tăng TC (> 6,1 mmol/l) và/hoặc tăng LDL-C (> 4 mmol/l) với nhóm không tăng Cholesterol, LDL-C (mmol/l) hs-CRP (mg/l) p n Có tăng 15 4,81 ± 3,99 > 0,05 Không tăng 50 4,61 ± 3,69 Nhận xét: Nồng độ trung bình hs-CRP máu ở nhóm có tăng TC và/hoặc tăng LDL-C so với nhóm không tăng là tương đương nhau (p > 0,05). Liên quan giữa hs-CRP với mức độ tăng huyết áp 4Bảng 8. So sánh nồng độ hs-CRP máu giữa các mức độ THA Độ THA (mmHg) hs-CRP (mg/l) F p (ANOVA) n Không THA * 16 4,30 ± 3,52 0,095 > 0,05 Độ 1 ** 19 4,72 ± 3,82 Độ 2 & 3 *** 21 4,80 ± 3,90 (*HA < 140 mmHg; **HA: 140 – 159 mmHg; ***HA ≥ 160 mmHg) Nhận xét: Nồng độ trung bình hs-CRP máu của BN ở các mức độ THA đều cao hơn so với BN không THA nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). BÀN LUẬN Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm 110 bệnh nhân và được chia thành 2 nhóm. Sự lựa chọn đối tượng tương đồng giữa hai nhóm đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu so sánh đối chứng. Tỷ lệ phân bố theo tuổi ở nhóm HCCH trong nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng với nghiên cứu của Hoàng Đăng Mịch (2010) (4). Theo Hoàng Đăng Mịch, nhóm HCCH có tuổi từ 50 – 69 chiếm tỷ lệ cao nhất (64,9%) (4). Các tác giả nước ngoài cũng nhận thấy tỷ lệ HCCH tăng theo tuổi. Các tác giả Hoa Kỳ nhận thấy tỷ lệ HCCH gặp cao nhất ở nam giới nhóm 50 - 70 tuổi; ở nữ giới lứa tuổi 60 - 80 tuổi. Nếu lứa tuổi 50 - 60 tuổi có tỷ lệ HCCH khoảng 40% thì lứa tuổi > 60 tỷ lệ là 50%(5). Nghiên cứu về mối liên quan giữa tần suất HCCH và tuổi, các tác giả Alexander C. M. và cộng sự năm 2003 nhận thấy ở lứa tuổi 50 - 60, tỷ lệ HCCH theo tiêu chuẩn NCEP - ATP III khoảng 43,5%; lứa tuổi 60 - 70 tỷ lệ > 50%(3). Như vậy các kết quả nghiên cứu trên đều khẳng định sự gia tăng tuổi gây tăng tỷ lệ HCCH trong cộng đồng nói chung và ở một số đối tượng bệnh nói riêng. Trị số đo HATT và HATTr của nhóm bệnh đều cao hơn so với nhóm chứng. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi THA là một tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu của nhóm HCCH. THA và HCCH có quan hệ với nhau theo 2 chiều thuận nghịch. THA gây tăng nguy cơ xuất hiện HCCH, trị số huyết áp ≥ 130/85 mmHg là một trong những tiêu chí chẩn đoán HCCH. Ngược lại sự xuất hiện của HCCH làm gia tăng đáng kể tình trạng THA. Mối liên quan giữa hs-CRP với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân hội chứng chuyển hóa. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ trung bình hs-CRP ở nhóm HCCH cao hơn so với nhóm không có HCCH. Số BN có nồng độ hs-CRP máu thuộc nhóm nguy cơ cao chiếm tỷ lệ chủ yếu, tiếp đến là nhóm BN có nồng độ hs-CRP máu ở mức nguy cơ trung bình, còn nhóm BN có nồng độ hs-CRP ở mức ít nguy cơ bệnh tim mạch chiếm tỷ lệ thấp nhất. Các yếu tố nguy cơ tim mạch như tăng huyết áp, đái tháo đường và tăng LDL là những yếu tố nguy cơ gây tổn thương nội mạc mạch máu, sự tổn thương này khởi động quá trình viêm mạch máu và hậu quả là gây rối loạn chức năng các cơ quan. Theo nghiên cứu của chúng tôi, sự tăng nồng độ hs-CRP có liên quan ở mức độ lỏng lẻo với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 21 gia tăng độ tuổi ở nhóm HCCH mặc dù tỷ lệ BN ở các phân vị cao của hs-CRP ở nhóm tuổi có NCTM cao hơn so với nhóm tuổi không có nguy cơ tim mạch. Không có sự khác biệt về nồng độ hs-CRP giữa nam và nữ. Tất cả các giai đoạn của quá trình xơ vữa có thể xem là một đáp ứng viêm mà một trong những khâu quan trọng đầu tiên là sự thực bào đối với LDL-C đã bị oxy hóa. Có sự liên kết hoặc cùng tồn tại giữa THA với VXĐM và rối loạn các thành phần lipid máu mà trong đó quá trình viêm chính là cầu nối quan trọng nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở người có HCCH, không cho thấy sự khác biệt về nồng độ trung bình của hs-CRP giữa nhóm có hoặc không có rối loạn lipid máu. Kết quả của chúng tôi tương tự kết quả của Lê Thị Hương Lan và cộng sự (2014) ở bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định và NMCT cũng đã nhận xét thấy không có mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP với các chỉ số lipid máu(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ glucose máu nhóm HCCH cao hơn so với nhóm chứng. Tuy nhiên, khi phân tích mối liên quan ở nhóm HCCH, chúng tôi không thấy sự tương quan giữa nồng độ hs-CRP với glucose máu (p > 0,05) và cũng không có mối liên quan về tỷ lệ tăng nồng độ hs-CRP với tình trạng rối loạn glucose. Nồng độ hs-CRP ở các nhóm có THA cao hơn so với nhóm không THA nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Không có sự liên quan giữa tăng nồng độ hs-CRP máu với mức độ nặng của THA (p > 0,05). Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa hs-CRP với tỷ lệ mắc cũng như mức độ nặng của THA. Theo King D.E và cộng sự (2004), 27,4% người tiền THA và 36,3% người THA không được chẩn đoán có nồng độ hs-CRP máu > 3 mg/l, trong khi ở người không THA tỷ lệ này chỉ là 19,8%(1). Theo Sung K.C và cộng sự (2003) thì cả HATT và HATr tương quan thuận với nồng độ CRP(6). Nghiên cứu của Lê Thị Thu Trang (2012) cho thấy nồng độ hs-CRP tăng dần theo mức tăng của huyết áp(7). Nhận xét của các nhóm nghiên cứu trên cho thấy, mức độ THA càng nặng thì biểu hiện mức độ viêm càng rõ. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu nồng độ hs-CRP ở 65 bệnh nhân hội chứng chuyển hóa, chúng tôi rút ra các kết luận như sau: Nồng độ trung bình hs-CRP máu (mg/l) của người mắc HCCH cao hơn người không mắc HCCH (4,65 ± 3,73 so với 1,63 ± 0,55; p < 0,0001). Nồng độ hs-CRP máu tương quan thuận với độ tuổi mức độ lỏng lẻo (r = 0,25, p < 0,05). Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ hs-CRP máu với các yếu tố NCTM khác ở người có HCCH như giới tính, nồng độ glucose máu, rối loạn lipid máu, THA. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. King D. E., Egan B. M., Mainous A. G., 3rd et al. (2004), "Elevation of C-reactive protein in people with prehypertension". J Clin Hypertens (Greenwich),6(10): pp. 562-8. 2. Lê Thị Hương Lan, Dương Hồng Thái, Trần Văn Tuấn (2014), "Nghiên cứu nồng độ hs-CRP và một số chỉ số hóa sinh ở bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên". Tạp chí Y học Việt Nam, Số 421 (tháng 8/2014): pp. tr. 29-35. 3. Luc G, Bard JM, Juhan-Vague I et al. (2003), "C-reactive protein, interleukin-6, and fibrinogen as predictors of coronary heart disease: the PRIME Study". Arterioscler Thromb Vasc Biol,23(7): pp. 1255-61. 4. Hoàng Đăng Mịch (2010), "Nghiên cứu HCCH ở nội thành Hải Phòng". Tạp chí Y học Việt Nam,Số 1 (Tháng 6): pp. tr. 32- 35. 5. Park YW, Zhu S, Palaniappan L et al. (2003), "The metabolic syndrome: prevalence and associated risk factor findings in the US population from the Third National Health and Nutrition Examination Survey, 1988-1994". Arch Intern Med,163(4): pp. 427-36. 6. Sung KC, Suh JY, Kim BS et al. (2003), "High sensitivity C- reactive protein as an independent risk factor for essential hypertension". Am J Hypertens,16(6): pp. 429-433. 7. Lê Thị Thu Trang (2012), "Nghiên cứu sự biến đổi hs-CRP, IL- 6 ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát trước va sau điều trị băng Irbesartan". Luân án tiến sỹ y học, Học viện quân y. Ngày nhận bài báo: 07/04/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/04/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/05/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_moi_lien_quan_giua_hs_crp_mau_voi_mot_so_yeu_to_n.pdf
Tài liệu liên quan