Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao đang điều trị tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2017

Tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao đang điều trị tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2017: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 490 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN LAO ĐANG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH NĂM 2017 Đỗ Phúc Như Nguyện*, Nguyễn Lâm Vương**, Ngô Thanh Bình** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, bệnh lao hiện đang là gánh nặng về kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, bệnh nhân lao phải đối mặt với nhiều vấn đề khác gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống trong quá trình điều trị. Chính vì vậy việc đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao là điều cần thiết. Mục tiêu: Xác định điểm số chất lượng cuộc sống bằng bảng câu hỏi SF-36. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 246 bệnh nhân lao đến khám và điều trị tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được đánh giá thông qua bảng câu hỏi SF-36. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được gợi ý bằng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Kết quả: Điểm chất lượng cuộc s...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 118 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao đang điều trị tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 490 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN LAO ĐANG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH NĂM 2017 Đỗ Phúc Như Nguyện*, Nguyễn Lâm Vương**, Ngô Thanh Bình** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, bệnh lao hiện đang là gánh nặng về kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, bệnh nhân lao phải đối mặt với nhiều vấn đề khác gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống trong quá trình điều trị. Chính vì vậy việc đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao là điều cần thiết. Mục tiêu: Xác định điểm số chất lượng cuộc sống bằng bảng câu hỏi SF-36. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 246 bệnh nhân lao đến khám và điều trị tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được đánh giá thông qua bảng câu hỏi SF-36. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được gợi ý bằng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Kết quả: Điểm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân là 62±20 điểm, phần lớn bệnh nhân có chất lượng cuộc sống trung bình (63,4%), sức khỏe thể chất có điểm số cao hơn sức khỏe tinh thần. Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê (p <0,05) đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao bao gồm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp (nghỉ hưu/nội trợ, thất nghiệp), thời gian điều trị, bệnh nhân có bệnh mãn tính kèm theo và bệnh nhân có chẩn đoán là lao kháng thuốc. Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao tương đối thấp, đặc biệt là sức khỏe tinh thần. Việc đánh giá giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao cần được mở rộng và nghiên cứu cụ thể hơn trên từng nhóm đối tượng để có thể đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao một cách toàn diện. Từ khóa: chất lượng cuộc sống, bệnh nhân lao ABSTRACT QUALITY OF LIFE AMONG TUBERCULOSIS PATIENTS RECEIVED TREATMENT AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL IN 2017 Nguyen Do Phuc Nhu, Vuong Nguyen Lam, Binh Ngo Thanh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 490 – 494 Background: Tuberculosis (TB) is a socio-economic burden in Vietnam. Besides, TB patients have faced many problems which have a significant effect on the quality of life (QoL) in treatment progress. Hence, the evaluation of QoL of TB patient is essential. Objectives: To assess the patients' quality of life during tuberculosis treatment by the SF-36 questionnaire. Methods: A cross-sectional study was conducted among 246 TB patients received examination and treatment at Pham Ngoc Thach Hospital. The QoL of patients was assessed through the SF-36 questionnaire. The multivariate linear regression model was employed to determine factors relating to the patient's QoL. Result: The patient's QoL score was 62±20 points, most patients had an average QoL (63.4%), physical health scores higher than mental health. Factors showed a significant association to the QoL (p <0.05) including age, education level, occupation (retirement/homemaker, unemployment), duration of treatment, patients with chronic conditions attached, the patient had a diagnosis of drug-resistant TB. Conclusion: The QoL of TB patients was relatively low, especially mental health. Assessing the QoL of TB Viện Y tế Công cộng TP. Hồ Chí Minh **Trường Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Phúc Như Nguyện ĐT: 0942341499 Email: nhunguyen126@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 491 patients needs to be expanded and studied more specifically on target groups in order to evaluate the QoL of TB patients comprehensively. Keywords: quality of life, tuberculosis patient ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lao là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây nên, là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới. Việt Nam vẫn xếp thứ 16 trong số 30 quốc gia có số bệnh nhân lao cao nhất thế giới. Tổ chức Y tế thế giới ước tính Việt Nam có khoảng 128.000 ca bệnh lao mỗi năm (137/100.000 dân)(11). Bệnh lao đã đặt ra một số vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (CLCS) của người mắc bệnh như gánh nặng về kinh tế, quá trình điều trị kéo dài, sự kỳ thị trong cộng đồng từ đó gây cản trở việc tuân thủ điều trị và chất lượng điều trị lao(1,2,3,11). Nhiều bộ công cụ đã được nghiên cứu và áp dụng nhằm đánh giá tác động của bệnh liên quan đến sức khỏe như SF-36, WHOQoL-BREF, EQ 5D, SGRQ, BDQ, DUKE, PSE trong đó, SF-36 là bảng câu hỏi được sử dụng phổ biến nhất đối với bệnh lao. Tại Việt Nam, bảng câu hỏi SF-36 đã được sử dụng để đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân trên nhiều tình trạng bệnh mãn tính như Lupus, bệnh mạch vành, suy thận mạn, bệnh suy tim, bệnh tăng huyết áp, bệnh loét dạ dày tá tràng, bệnh ung thư, xơ cơ nguyên phát... nhưng chưa có nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao bằng bảng câu hỏi SF-36. Mục tiêu nghiên cứu Xác định điểm số chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao bằng bảng câu hỏi SF-36. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân lao ≥ 18 tuổi đến khám và điều trị tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cỡ mẫu Dựa trên công thức ước lượng một tỉ lệ: n=[Z2(1-α/2).SD2]/d2 Giá trị Z thu được từ bảng Z, ứng với ɑ = 0,05. Dựa theo kết quả của nghiên cứu của Mamani tiến hành tại Iran năm 2014. Tổng điểm CLCS trung bình của bệnh nhân lao là 54 ± 20(8). Từ đó, chọn SD =20, d =2,5. Kết ước lượng cỡ mẫu là 246 bệnh nhân. Phương pháp thực hiện Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng bộ câu hỏi SF-36 tại thời điểm phỏng vấn. Bộ câu hỏi chất lượng cuộc sống gồm 36 câu hỏi, chia làm 8 phần và hai lĩnh vực chính (sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể chất). Cách cho điểm của bộ câu hỏi SF-36: Điểm càng cao thì xác định tình trạng sức khỏe càng tốt. Mỗi câu trả lời đều có điểm số thay đổi từ 0 đến 100. Sau đó tính điểm trung bình của 8 yếu tố nêu trong bảng dưới đây. Điểm của mỗi bệnh nhân sẽ là trung bình cộng của sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Mức đánh giá chất lượng cuộc sống gồm 4 mức: Kém (0-25 điểm), Trung bình kém (26-50 điểm), Trung bình khá (51-75 điểm), Khá tốt (76-100 điểm). KẾT QUẢ Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trên 246 bệnh nhân lao trên 18 tuổi. Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 44±15, tỉ lệ nam giới tham gia cao hơn nữ giới với tỉ lệ lần lượt là 65,9% và 34,1%. Tỉ lệ đối tượng có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên chiếm 52,1%, nhóm có trình độ học vấn dưới cấp 1 chiếm tỉ lệ thấp nhất với 13,4%. Phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu có việc làm, tỉ lệ nghỉ hưu, nội trợ và thất nghiệp chiếm 21,2% (Bảng 1). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 492 Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu (n=246) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Giới tính Nam 162 65,9 Nữ 84 34,1 Tuổi 44±15 (19 – 83) Trình độ học vấn Mù chữ/Dưới cấp I 33 13,4 Tốt nghiệp cấp I 36 14,6 Tốt nghiệp cấp II 49 19,9 Tốt nghiệp cấp III 58 23,6 TCCN/CĐ/ĐH/sau ĐH 70 28,5 Nghề nghiệp Cán bộ văn phòng 61 24,8 Buôn bán/Nghề tự do 43 17,5 Nghỉ hưu/ Nội trợ 41 16,7 Nông dân 30 12,2 Công nhân 29 11,8 Thất nghiệp 11 4,5 Khác 31 12,6 Bảng 2: Tình trạng bệnh của đối tượng nghiên cứu (n=246) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ(%) Phân loại chẩn đoán Lao tại phổi 175 71,1 Lao ngoài phổi 47 19,1 Lao đa kháng 24 9,8 Tiền căn mắc lao (Có) 43 17,5 Thời gian điều trị (tháng) Mới bắt đầu điều trị 41 16,7 1 39 15,9 2 52 21,1 3 17 6,9 4 20 8,1 5 11 4,5 6 21 8,5 7 21 8,5 8 17 6,9 ≥ 10 tháng 7 2,9 Tình trạng lao AFB+ (Có) 69 28,1 Tình trạng lao kháng thuốc (Có) 36 14,6 Bệnh mãn tính đi kèm (Có) 83 33,7 Đối tượng được chẩn đoán lao tại phổi chiểm tỉ lệ cao nhất với 71,1%. Bệnh nhân lao mới bắt đầu điều trị chiếm 16,7%; đang trong giai đoạn tấn công là 37,0%; đang trong giai đoạn củng cố (thời gian điều trị kéo dài từ 3 đến >10 tháng) chiếm 46,3%. Đối tượng đã từng điều trị/ chẩn đoán lao trước đây chiếm 17,5%; lao có AFB(+) là 28,1% và lao kháng thuốc là 14,6%. Tỉ lệ bệnh nhân lao có mắc các bệnh mãn tính kèm theo chiếm 33,7% (Bảng 2). Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao Bảng 3: Điểm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao Yếu tố đánh giá Điểm SF-36 Hoạt động thể chất 79 ± 25 Hạn chế thể chất 60±39 Mức độ đau 71± 26 Sức khoẻ chung 45±20 Hạn chế tinh thần 67±35 Sinh lực 49±13 Trạng thái tâm lý 53±13 Hoạt động xã hội 68±24 Sức khoẻ thể chất 64±24 Sức khoẻ tinh thần 59±18 Chất lượng cuộc sống 62±2 Điểm trung bình của riêng 8 lĩnh vực sức khỏe của đối tượng nghiên cứu dao động từ 44,7 đến 79 điểm. Trong đó, điểm đánh giá sức khỏe chung là thấp nhất (44,7±19,56) và điểm đánh giá hoạt động thể chất là cao nhất (79±25,27 điểm). Điểm trung bình cho sức khỏe thể chất (SKTC) của các đối tượng nghiên cứu (63,73±23,59 điểm) cao hơn điểm trung bình sức khỏe tinh thần (SKTT) (59,25±17,91 điểm). Điểm trung bình chất lượng cuộc sống chung là 61,49±19,78 điểm (Bảng 3). Bảng 4: Phân loại chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Mức độ Số bệnh nhân Tỉ lệ (%) Kém (SF 36: 0 – 25) 14 5,7 Trung bình kém (SF36: 26 – 50) 50 20,3 Trung bình khá (SF 36: 51 – 75) 106 43,1 Khá tốt (SF 36: 76 – 100) 76 30,9 Phần lớn đối tượng nghiên cứu có chất lượng cuộc sống thuộc nhóm trung bình. trong đó, nhóm chất lượng cuộc sống trung bình khá chiếm tỉ lệ cao nhất với 43,1%. Nhóm chất lượng cuộc sống kém chiếm tỉ lệ thấp nhất với 5,7% (Bảng 4). Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao Mô hình trên giải thích 42,01% sự thay đổi về Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 493 điểm SF-36 trung bình (R2=0,4201); trong đó các yếu tố liên quan bao gồm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, thời gian điều trị, tình trạng bệnh mãn tính đi kèm và phân loại chẩn đoán lao của đối tượng nghiên cứu (Bảng 5). Bảng 5: Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến xác định các yếu tố liên quan đến điểm SF-36 ở bệnh nhân lao (n=246) Đặc điểm Hệ số hồi quy KTC 95% p-value Tuổi -0,2 -0,36 – -0,03 0,022 Học vấn 3,18 1,54 – 4,82 <0,001 Nghề nghiệp Nghỉ hưu/ Nội trợ -12,76 -18,87 – -6,65 <0,001 Thất nghiệp -12,77 -22,77 – -2,77 0,013 Thời gian điều trị 1,24 0,58 – 1,9 <0,001 Bệnh mãn tính đi kèm (Có) -5,63 -10,22 – -1,04 0,016 Phân loại chẩn đoán (Lao kháng thuốc) -11,69 -18,67 – -4,71 0,001 R2=0,4201 BÀN LUẬN Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu Có 246 bệnh nhân được phỏng vấn, nam giới nhiều hơn nữ giới, tỉ lệ là 1,93%, thấp hơn ước tính của Tổ chức y tế thế giới - WHO (nam/nữ=2,67)(11). Bất bình đẳng giới trong phân bố bệnh lao được ghi nhận là 1,9±0,6. Sự khác biệt này có thể là do các yếu tố văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia, cũng như cơ chế sinh học giới tính, thể lực và tính nhạy đối với mắc bệnh lao của giới tại Việt Nam. Tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 43,96±14,97, phù hợp với thống kê của WHO(11). Trong nghiên cứu này bệnh nhân lao tại phổi chiếm tỉ lệ là 71,1%, thấp hơn so với báo cáo chung của WHO - Việt nam là 82%. Tỉ lệ bệnh nhân đã có tiền căn lao là 17,5%, cao hơn thống kê của WHO năm 2016 (8,2%). Tình trạng lao kháng thuốc chiểm 14,6%, thấp hơn thống kê của WHO (25%)(11). Tỉ lệ AFB(+) là 28,1%. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao Kết quả nghiên cứu này là có sự khác nhau về điểm số khi so sánh với các nghiên cứu trên thế giới cùng sử dụng bảng điểm SF-36 như nghiên cứu tại Iran (2014)(8), Thổ nhĩ kỳ (2015)(7) và Ấn độ(10), đây là các quốc gia đang phát triển, có điều kiên kinh tế xã hội thấp, có tỉ lệ bệnh lao lưu hành cao. Hầu hết các yếu tố đánh giá CLCS thuộc sức khỏe thể chất như hoạt động thể chất; Hạn chế thể chất; Mức độ đau của đối tượng nghiên cứu đều có mức điểm cao hơn so với các nghiên cứu khác. Ngược lại các yếu tố thuộc sức khỏe tinh thần chỉ có 2/4 yếu tố là hạn chế tinh thần và hoạt động xã hội là cao hơn các nghiên cứu khác. Còn lại 2 yếu tố sinh lực và trạng thái tâm lý là ở mức đánh giá tương đương. Một cách tổng quát hơn khi so sánh điểm số CLCS của đối tượng nghiên cứu trong nghiên cứu này là cao hơn so với 3 nghiên cứu khác nêu trên (là 62±2 so với 54±20 và 48±30)(7,8,10). Sự khác biệt về điểm số đánh giá CLCS có thể do nhiều yếu tố như đối tượng nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu là thành phố Hồ Chí Minh, nơi có các đặc điểm về kinh tế - xã hội tốt hơn so với các địa phương khác tại Việt nam. Điều này chứng tỏ CLCS của bệnh nhân lao đang điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch có CLCS ở mức trung bình khá, điểm số CLCS cao hơn so với một số nghiên cứu tại Ấn độ và Iran(7,8,10). Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sông của bệnh nhân lao Các yếu tố bao gồm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, thời gian điều trị, tình trạng bệnh mãn tính đi kèm và phân loại chẩn đoán lao của đối tượng nghiên cứu có liên quan đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân lao. Bệnh nhân lao có chất lượng cuộc sống giảm dần theo tuổi. Nhiều nghiên cứu trên thế giới về bệnh lao nói riêng và các bệnh mãn tính nói chung cũng nhận thấy tuổi với chất lượng cuộc sống liên quan có ý nghĩa thống kê(9). Kết quả này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của con người, tuổi càng cao thì SKTC và SKTT càng giảm. Trình độ học vấn có liên quan tỉ lệ thuận với điểm CLCS, kết quả này tương đồng với các Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 494 nghiên cứu khác(4,5). Khi đối tượng có học vấn cao, họ sẽ có kiến thức để chăm sóc sức khỏe của mình nhiều hơn, cũng như sẽ có điều kiện để tiếp cận các dịch vụ y tế tốt hớn, bên cạnh đó sự hiểu biết chung về bệnh tật tốt hơn nên họ có tâm lý dễ thích nghi với bệnh hơn so với những người có trình độ học vấn thấp. Bên cạnh đó việc giao tiếp với môi trường xã hội, mức độ giao tiếp có ảnh hưởng tích cực đến CLCS bệnh nhân lao. Tuy nghiên nghiên cứu này ghi nhận việc thất nghiệp, không có thu nhập, quá trình điều trị kéo có các ảnh hưởng tiêu cực CLCS của bệnh nhân. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới. Một số yếu tố khác có mối tương quan nghịch với CLCS bao gồm tình trạng bệnh mãn tính đi kèm, tiền căn lao, tình trạng kháng thuốc và lao đa kháng. KẾT LUẬN Nghiên cứu chỉ ra rằng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao tại Việt Nam tương đối thấp. Các yếu tố bao gồm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, thời gian điều trị, tình trạng bệnh mãn tính đi kèm và phân loại chẩn đoán lao của đối tượng nghiên cứu có liên quan đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân lao. KIẾN NGHỊ Bệnh nhân lao có điểm trung bình sức khỏe tinh thần thấp hơn sức khỏe thể chất, vì vậy cần đưa ra những giải pháp tuyên truyền, giáo dục thường xuyên, phổ cập, bao phủ và chính sách hỗ trợ tài chính thích hợp để chăm sóc và nâng cao sức khỏe tinh thần, dự phòng cho những hậu quả như lo âu, trầm cảm làm giảm hiệu quả điều trị cho bệnh nhân lao. Những nghiên cứu khác nên mở rộng quy mô nghiên cứu hơn (số lượng mẫu, thời gian nghiên cứu, tất cả các bệnh nhân lao với các tình trạng khác nhau) để có thể đánh giá toàn diện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân lao cần được đánh giá cụ thể hơn, nên có nhưng nghiên cứu riêng biệt cho những nhóm yếu tố lớn như bệnh tật đi kèm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bauer M, Leavens A, Schwartzman K (2013). A systematic review and meta-analysis of the impact of tuberculosis on health-related quality of life. Quality of Life Research, 22(8):2213- 2235. 2. Chang B, et al (2004). Quality of life in tuberculosis: a review of the English language literature. Quality of Life Research, 13(10):1633-1664. 3. Chirinos NEC, Meirelles BHS, Bousfield ABS (2017). Relationship between the social representations of health professionals and people with tuberculosis and treatment abandonment. Texto & Contexto-Enfermagem, 07072017000100307&script=sci_arttext. 4. Devkota J, Devkota N, Lohani SP (2017). Health Related Quality of Life, Anxiety and Depression among Tuberculosis Patients in Kathmandu, Nepal. Janaki Medical College Journal of Medical Science, 4(1):13-18. 5. Duyan V, et al (2005). Relationship between quality of life and characteristics of patients hospitalised with tuberculosis. International Journal of Tuberculosis and Lung Disease, 9(12):1361- 1366. 6. Guo N, Marra F, Marra CA (2009). Measuring health-related quality of life in tuberculosis: a systematic review. Health and Quality of Life Outcomes, 7(1):14. 7. Kibrisli E, et al (2015). High social anxiety and poor quality of life in patients with pulmonary tuberculosis. Medicine, 94(3):e413. 8. Mamani M, et al (2014). Assessment of health-related quality of life among patients with tuberculosis in Hamadan, Western Iran. Oman Medical Journal, 29(2):102. 9. Mercier C, Peladeau N, Tempier R (1998). Age, gender and quality of life. Community Mental Health Journal, 34(5):487-500. 10. Ramkumar S, et al (2017). Health-related quality of life among tuberculosis patients under Revised National Tuberculosis Control Programme in rural and urban Puducherry. Indian Journal of Tuberculosis, 64(1):14-19. 11. World Health Organization (2016). Global tuberculosis report 2016. URL: Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_lao_dang_dieu_tri_tai_ben.pdf
Tài liệu liên quan