Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 136
NĂNG LỰC SỨC KHỎE VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở NGƯỜI BỆNH TỪ 40 TUỔI ĐẾN KHÁM NGOẠI TRÚ 
TẠI BỆNH VIỆN QUẬN THỦ ĐỨC NĂM 2017 
Nguyễn Xuân Dũng*, Lê Thị Sinh*, Đinh Văn Quỳnh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hạn chế năng lực sức khỏe (NLSK) và một số yếu tố liên quan ở người bệnh ≥40 
tuổi đến khám ngoại trú tại bệnh viện Quận Thủ Đức năm 2017. 
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 602 người bệnh từ 40 tuổi trở lên đến khám tại bệnh viện 
Quận Thủ Đức từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2017, hình thức phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi cấu trúc soạn 
sẵn, xây dựng dựa trên bộ câu hỏi của Hội năng lực sức khỏe Châu Á. 
Kết quả: Tỷ lệ người bệnh ngoại trú từ 40 tuổi trở lên đến khám tại bệnh viện Quận Thủ Đức bị hạn chế 
năng lực sức khỏe là 73,1%. Trong đó, tỷ lệ của nữ giới là 75,3% và nam giới 69,1%; nhóm tuổi ≥70 tuổi có tỷ lệ 
hạn chế NLSK cao nhất với 88,1%. Tuổi cao, trình độ học vấn thấp và ít tập thể dục là những yếu tố có ảnh 
hưởng đến năng lực sức khỏe. 
Kết luận: Người bệnh bị hạn chế năng lực sức khỏe chiếm tỷ lệ cao. Các yếu tố có liên quan đến năng lực 
sức khỏe bao gồm: tuổi tác, trình độ học vấn và mức độ tập thể dục. 
Từ khóa: năng lực sức khỏe, bệnh viện Quận Thủ Đức 
ABSTRACT 
HEALTH CAPACITY AND RELATED FACTORS OF OUT PATIENTS FROM 40 YEARS OLD 
AND ABOVE AT THU DUC DISTRICT HOSPITAL IN 2017 
Nguyen Xuan Dung, Le Thi Sinh, Đinh Van Quynh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 136 – 140 
Objective: To determine the level of health capacity and some related factors of outpatients aged from 40 
years old and above at Thu Duc District Hospital in 2017. 
Methods: A cross-sectional study was implemented on 602 patients aged ≥ 40 years who had a medical 
examination at Thu Duc District Hospital from June to December 2017. Patients were interviewed directly with 
pre-structured questionnaires, developed based on the questionnaire of the Asian Health Literacy Association. 
Results: The proportion of outpatients aged ≥ 40 years visiting Thu Duc District hospital who lack of health 
capacity was 73.1%. Those proportions in women and men are 75.3% and 69.1% respectively; the age group 
from 70 years and older has the highest percentage of restricted health capacity with 88.1%. High age, low 
education level, and lack of exercise are factors that affect health capacity. 
Conclusion: Patients with deficient health capacity account for a high proportion. Factors related to health 
capacity included age, education level, and workout frequency. 
Key words: health capacity, Thu Duc District hospital 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Năng lực sức khỏe (NLSK) được định nghĩa 
là sự tiếp cận, hiểu, đánh giá và áp dụng thông 
tin sức khỏe để có thể phán xét và ra quyết định 
của cá nhân liên quan đến chăm sóc sức khỏe, 
phòng chống bệnh tật và nâng cao sức khỏe 
*Đơn vị công tác: Bệnh viện Quận Thủ Đức 
Tác giả liên lạc: CN. Lê Thị Sinh ĐT: 0359125812 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 137
trong cuộc sống hàng ngày nhằm duy trì và cải 
thiện chất lượng cuộc sống(6). Năng lực sức khỏe 
ngày càng được quan tâm như là một vấn đề 
quan trọng trong sức khỏe cộng đồng. Tỷ lệ đối 
tượng có năng lực sức khỏe kém đã được báo 
cáo ở nhiều quốc gia và vùng miền quốc gia như 
60% người Canada(3), 47,6% người dân Châu 
Âu(5), 30,2% người trưởng thành ở Đài Loan(2). 
Hơn nữa, năng lực sức khỏe kém dẫn đến sức 
khỏe kém, tăng việc sử dụng và chi phí cho 
chăm sóc sức khỏe và góp phần tăng tỷ lệ tử 
vong(1). Hiện nay, các nghiên cứu về năng lực 
sức khỏe chủ yếu được tiến hành ở các nước khu 
vực Châu Âu, Mỹ; trong khi đó, tại Châu Á các 
nghiên cứu về lĩnh vực này còn mang tính chất 
nhỏ lẻ, thiếu tính so sánh. Do đó, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu để tài với mục tiêu xác định tỷ 
lệ hạn chế năng lực sức khỏe và một số yếu tố 
liên quan ở người từ 40 tuổi trở lên đến khám tại 
bệnh viện Quận Thủ Đức năm 2017. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Người bệnh đến khám và điều trị ngoại trú 
tại Khoa Khám bệnh Từ tháng 6 đến tháng 12 
năm 2017, bệnh viện Quận Thủ Đức có độ tuổi 
từ 40 trở lên. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 
Cỡ mẫu tối thiểu được tính theo công thức: 
p = 0,68 là tỷ lệ thiếu NLSK (theo nghiên cứu 
của Nguyễn Trung Kiên 2016(4). 
d = 0,04 (sai số cho phép). 
Z1-α/2 = 1,962 (khoảng tin cậy 95%). 
Vậy cỡ mẫu tối thiểu là 522 người bệnh. 
Thực tế nghiên cứu là 602 người bệnh. 
Cách chọn mẫu 
Nghiên cứu thực hiện trong 6 tháng (120 
ngày làm việc), do đó mỗi ngày nghiên cứu chọn 
từ 5-6 người bệnh theo phương pháp thuận tiện 
liên tục. 
Chỉ số nghiên cứu và cách đánh giá 
Đánh giá năng lực sức khỏe gồm 4 mức độ 
tương đương từ 1-4 điểm (1= rất khó, 2 = tương 
đối khó, 3 = tương đối dễ, 4 = rất dễ). 
Số liệu được chuẩn hóa trên một thang đo từ 
0 đến 50, bằng cách sử dụng công thức sau đây: 
TB: trung bình điểm số được tính bằng tổng 
điểm các câu hỏi chia cho tổng số câu hỏi. 
Năng lực sức khỏe được chia làm 4 mức độ 
như sau: 
0-25: Không đủ (inadequate). 
>25-33: Có vấn đề (problematic). 
>33-42: Đầy đủ (sufficient). 
>42-50: Rất đầy đủ (excellent). 
Những người được xem là bị hạn chế về 
năng lực sức khỏe có chỉ số ≤33 điểm (gồm 
những người nằm trong 2 mức độ: không đủ và 
có vấn đề). 
Quản lý và phân tích dữ liệu 
Các dữ liệu được nhập, quản lý và phân tích 
bằng phầm mềm SPSS 22,0. Thống kê mô tả qua 
các chỉ số là tỷ lệ %, trung bình và độ lệch chuẩn, 
sử dụng các kiểm định chi bình phương và hồi 
quy với xác suất sai lầm loại I là = 0,05. 
KẾT QUẢ 
Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nữ giới 
chiếm 64%. Nhóm tuổi 50-59 tuổi có tỷ lệ cao 
nhất với 38,5%; nhóm 40-49 tuổi là 30,6% và thấp 
nhất là nhóm ≥70 tuổi với 9,8%. Về tôn giáo, 
63,1% bệnh nhân không theo tôn giáo. Về trình 
độ học vấn, THCS và THPT chiếm tỷ lệ cao nhất 
với 61,1%; đại học và sau đại học 13,2%. Nghề 
nghiệp của đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nội 
trợ 43,2%; nghề nghiệp tự do 29,8%; công nhân 
viên chức thấp nhất với 8,6% (Bảng 1). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 138
Bảng 1: Đặc điểm về học vấn, nghề nghiệp của đối 
tượng nghiên cứu 
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ % 
Giới tính 
Nam 217 36,0 
Nữ 285 64,0 
Nhóm tuổi 
40 – 49 tuổi 184 30,6 
50 – 59 tuổi 232 38,5 
60 – 69 tuổi 127 21,1 
≥ 70 tuổi 59 9,8 
Tôn giáo 
Có 222 36,9 
Không 380 63,1 
Trình độ học 
vấn 
Tiểu học trở xuống 155 25,7 
THCS và THPT 368 61,1 
Đại học và sau đại học 79 13,2 
Nghề nghiệp 
Nội trợ 260 43,2 
Nghề nghiệp tự do 179 29,8 
Công nhân 111 18,4 
Công nhân viên chức 52 8,6 
Năng lực sức khỏe của người từ 40 tuổi trở lên 
Bảng 2: Mức độ năng lực sức khỏe của đối tượng 
nghiên cứu 
Năng lực sức khỏe Số lượng Tỷ lệ % 
NLSK hạn chế 440 73,1 
NLSK không hạn chế 162 26,9 
Tổng 602 100 
Năng lực sức khỏe hạn chế chiếm tỷ lệ cao 
với 73,1%; NLSK không hạn chế chiếm 26,9% 
(Bảng 2). 
Một số yếu tố liên quan đến năng lực sức khỏe 
của người từ 40 tuổi trở lên 
Bảng 3: Mối liên quan giữa năng lực sức khỏe và giới 
tính 
Giới 
tính 
NLSK hạn chế NLSK không hạn chế 
p 
SL % SL % 
Nam 150 69,1 67 30,9 
p = 0,1 
Nữ 290 75,3 95 24,7 
Tổng 440 73,1 162 26,9 
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về 
tỷ lệ hạn chế NLSK giữa nam và nữ (p >0,05) 
(Bảng 3). 
Bảng 4: Mối liên quan giữa năng lực sức khỏe và 
nhóm tuổi 
Nhóm 
tuổi 
NLSK hạn chế NLSK không hạn chế 
p 
SL % SL % 
40 – 49 116 63,0 68 37,0 
0,001 50 – 59 179 77,2 53 22,8 
60 – 69 93 73,2 34 26,8 
Nhóm 
tuổi 
NLSK hạn chế NLSK không hạn chế 
p 
SL % SL % 
≥ 70 52 88,1 7 11,9 
Tổng 440 73,1 162 26,9 
Tỷ lệ NLSK hạn chế ở nhóm tuổi ≥70 tuổi 
(88,1%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các 
nhóm tuổi 40 - 49, 50 - 59 tuổi và 60 - 69 tuổi 
(p <0,05) (Bảng 4). 
Bảng 5: Mối liên quan giữa NLSK và trình độ học vấn 
Học vấn 
NLSK hạn 
chế 
NLSK không 
hạn chế p 
SL % SL % 
Tiểu học trở xuống 140 90,3 15 9,7 
0,001 THCS và THPT 263 71,5 105 28,5 
Đại học và sau đại học 37 46,8 42 53,2 
Tổng 440 73,1 162 26,9 
Nhóm bệnh nhân có trình độ học vấn là tiểu 
học trở xuống có tỷ lệ hạn chế NLSK (90,3%) cao 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm THCS và 
THPT, đại học và sau đại học (p <0,05) (Bảng 5). 
Bảng 6: Mối liên quan giữa NLSK và nghề nghiệp 
Nghề nghiệp 
NLSK hạn chế 
NLSK không 
hạn chế p 
SL % SL % 
Nội trợ 192 73,8 68 26,2 
0,001 
Nghề tự do 143 79,9 36 20,1 
Công nhân 82 73,9 29 26,1 
Công nhân viên chức 23 44,2 29 55,8 
Tổng 440 73,1 162 26,9 
Nhóm bệnh nhân có nghề nghiệp là nghề 
tự do có tỷ lệ hạn chế NLSK (79,9%) cao hơn so 
với nhóm bệnh nhân có nghề nghiệp là nội trợ 
(73,8%), công nhân (73,9%), công nhân viên 
chức (44,2%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p <0,05) (Bảng 6). 
Bảng 7: Mối liên quan giữa NLSK và tôn giáo 
Tôn giáo 
NLSK hạn chế NLSK không hạn chế 
p 
SL % SL % 
Có 158 71,2 64 28,8 
0,417 
Không 282 74,2 98 25,8 
Tổng 440 73,1 162 26,9 
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tỷ 
lệ hạn chế NLSK giữa bệnh nhân có tôn giáo và 
không tôn giáo (p >0,05) (Bảng 7). 
Bệnh nhân không bao giờ tập thể dục có tỷ lệ 
hạn chế NLSK (83%) cao hơn có ý nghĩa thống 
kê so với bệnh nhân có mức độ tập thể dục 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 139
thường xuyên (60,2%), thỉnh thoảng (71,6%) và 
hiếm khi (82,5%) (p <0,05) (Bảng 8). 
Bảng 8: Mối liên quan giữa NLSK và mức độ tập thể 
dục 
Mức độ tập 
thể dục 
NLSK hạn chế 
NLSK không 
hạn chế p 
SL % SL % 
Thường xuyên 127 60,2 84 39,8 
0,001 
Thỉnh thoảng 73 71,6 29 28,4 
Hiếm khi 33 82,5 7 17,5 
Không bao giờ 156 83,0 32 17,0 
Tổng 440 73,1 162 26,9 
Bảng 9: Một số yếu tố liên quan đến năng lực sức 
khỏe qua phân tích hồi quy logistic 
Nội dung OR (95%CI) p 
Nhóm tuổi 
40 – 49 tuổi 1 
50 – 59 tuổi 2,28(1,34 – 3,85) 0,002 
60 – 69 tuổi 1,67 (0,84 – 3,34) 0,146 
≥ 70 tuổi 5,61 (1,96 –16,10) 0,001 
Học vấn 
Tiểu học trở xuống 1 
THCS và THPT 0,29 (0,15 – 0,59) 0,001 
Đại học và sau ĐH 0,14 (0,06 – 0,34) 0,001 
Nghề 
nghiệp 
Nội trợ 1 
Nghề tự do 1,20 (0,67 -2,16) 0,534 
Công nhân 1,1 (0,56 – 2,14) 0,78 
Công nhân viên chức 0,65 (0,30 – 1,40) 0,268 
Mức độ 
tập thể 
dục 
Thường xuyên 1 
Thỉnh thoảng 2,08 (1,19 – 3,64) 0,01 
Hiếm khi 3,69 (1,49 – 9,13) 0,005 
Không bao giờ 2,91 (1,72 – 4,93) 0,001 
Sau phân tích đơn biến, một số yếu tố liên 
quan được chúng tôi đưa vào phân tích đa 
biến, kết quả cho thấy sau khi loại bỏ tác động 
của các biến số lẫn nhau, yếu tố thực sự có tác 
động mạnh tới tỷ lệ hạn chế NLSK là tuổi tác, 
trình độ học vấn và mức độ tập thể dục 
(p<0,05). Nhóm tuổi 50 - 59 tuổi và ≥70 tuổi có 
tỷ số chênh (OR) cao gấp 2,3 (1,34–3,85) lần và 
5,6 (1,96–16,10) lần so với nhóm tuổi 40-49. 
Nhóm đối tượng có học vấn THCS và THPT có 
tỷ số chênh bằng 0,3 (0,15–0,59) lần so với 
nhóm tiểu học, nhóm đại học và sau đại học có 
tỷ số chênh bằng 0,14 (0,06–0,34) lần so với 
nhóm học vấn tiểu học. Nhóm đối tượng có 
mức độ tập thể dục thỉnh thoảng, hiếm khi và 
không bao giờ có tỷ số chênh cao gấp 2-3 lần 
so với nhóm tập thể dục thường xuyên. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân từ 40 
tuổi trở lên đến khám tại bệnh viện Quận Thủ 
Đức bị hạn chế NLSK là 73,1%. Theo nghiên cứu 
trên thế giới điều này ảnh hưởng đến kiểm soát 
khả năng mắc bệnh và tỷ lệ tử vong(1). Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu 
của Nguyễn Trung Kiên trên một số nhóm dân 
cư tại Chí Linh, Hải Dương và Hà Nội với tỷ lệ 
67,9%(4). Sở dĩ có sự khác biệt này là bởi vì, đối 
tượng nghiên cứu của chúng tôi là những người 
đang có bệnh đến khám tại bệnh viện, nên tỷ lệ 
hạn chế NLSK thường sẽ cao hơn nhóm dân cư 
ngoài cộng đồng. Nghiên cứu còn cho thấy, các 
yếu tố có liên quan đến NLSK bao gồm: tuổi tác, 
trình độ học vấn và mức độ tập thể dục. Thực tế 
cho thấy, tuổi càng cao thì thể lực càng yếu và 
không tránh khỏi được việc mắc các bệnh tuổi 
già. Trong nghiên cứu, không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê về NLSK ở giới tính hay tôn 
giáo, nhưng có sự khác biệt rõ ràng về năng lực 
sức khỏe trong nhóm trình độ học vấn. Những 
người có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống 
có tỷ lệ hạn chế NLSK cao hơn nhiều so với 
nhóm học vấn từ THCS trở lên. Vì vậy, để nâng 
cao năng lực sức khỏe của đối tượng yếu tố giáo 
dục là yếu tố cần phải chú trọng trong các 
chương trình nâng cao sức khỏe. Bên cạnh yếu tố 
giáo dục, yếu tố tập thể dục có liên quan chặt chẽ 
tới năng lực sức khỏe của họ. Những người có 
mức độ tập thể dục thỉnh thoảng, hiếm khi và 
không bao giờ có tỷ lệ NLSK hạn chế cao hơn 
nhóm tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục 
thực tế mang lại cho cơ thể vô vàn lợi ích thiết 
thực như hạn chế các bệnh liên quan đến béo 
phì, cải thiện chức năng của não, tăng cường hệ 
miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính 
và phòng ngừa một số bệnh ung thư. 
KẾT LUẬN 
Người bệnh từ 40 tuổi trở lên đến khám tại 
bệnh viện Quận Thủ Đức bị hạn chế năng lực 
sức khỏe chiếm tỷ lệ cao với 73,1%. Các yếu tố có 
liên quan đến năng lực sức khỏe bao gồm: tuổi 
tác, trình độ học vấn và mức độ tập thể dục. Vì 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 140
vậy, để nâng cao năng lực sức khỏe của đối 
tượng thì yếu tố giáo dục là yếu tố cần phải chú 
trọng trong các chương trình nâng cao sức khỏe. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baker DW, Wolf MS, Feinglass J, et al (2007). "Health literacy 
and mortality among elderly persons". Archives of Internal 
Medicine, 167(14):1503-1509. 
2. Lee SYD, Tsai TI, Tsai YW, et al (2010). "Health literacy, health 
status, and healthcare utilization of Taiwanese adults: results 
from a national survey". BMC Public Health, 10(1):614. 
3. Murray T, Hagey J, Willms D, et al (2008). "Health literacy in 
Canada: a healthy understanding". Escholarship, 
https://escholarship.org/uc/item/890661nm. 
4. Nguyễn Trung Kiên, Nguyễn Thị Nga, Trương Quang Tiến 
(2016). "Thực trạng năng lực sức khỏe của một số nhóm dân cư 
tại Chí Linh, Hải Dương và Hà Nội, Việt Nam". Tạp chí Y tế Công 
cộng, 40:39-44. 
5. Sørensen K, Pelikan JM, Röthlin F, et al (2015). "Health literacy in 
Europe: comparative results of the European health literacy 
survey (HLS-EU)". European Journal of Public Health, 25(6):1053-
1058. 
6. Sørensen K, Van den Broucke S, Fullam J, et al (2012). "Health 
literacy and public health: a systematic review and integration of 
definitions and models". BMC Public Health, 12(1):80. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019