Ảnh hưởng của so le chân lên chức năng và chất lượng sống sau thay khớp háng toàn phần

Tài liệu Ảnh hưởng của so le chân lên chức năng và chất lượng sống sau thay khớp háng toàn phần: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 269 ẢNH HƯỞNG CỦA SO LE CHÂN LÊN CHỨC NĂNG VÀ CHẤT LƯỢNG SỐNG SAU THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN Hồ Huy Cường**, Đỗ Phước Hùng*, Hoàng Đức Thái* TÓM TẮT Đặt vấn đề: So le chân sau thay khớp háng toàn phần có thể ảnh hưởng đến chức năng chi dưới và chất lượng sống của bệnh nhân. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ so le chân sau mổ thay khớp háng toàn phần và đánh giá ảnh hưởng của so le chân lên chức năng chi dưới cũng như chất lượng sống bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả cắt ngang 56 trường hợp thay khớp háng toàn phần lần đầu, tổn thương khớp háng một bên, mổ lối sau từ 6/2014 đến 6/2016 tại Bệnh viện CTCH TP. Hồ Chí Minh. Thời điểm đánh giá sau mổ trung bình 20,2 tháng. Kết quả: Tỷ lệ so le chân sau thay khớp háng toàn phần: 82,1%, với mức độ so le chân trung bình: 8,61 mm. Trong đó: nhóm chân mổ dài hơn chiếm 46,4% với mức độ so le chân trung bình 10,38mm...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 179 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của so le chân lên chức năng và chất lượng sống sau thay khớp háng toàn phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 269 ẢNH HƯỞNG CỦA SO LE CHÂN LÊN CHỨC NĂNG VÀ CHẤT LƯỢNG SỐNG SAU THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN Hồ Huy Cường**, Đỗ Phước Hùng*, Hoàng Đức Thái* TÓM TẮT Đặt vấn đề: So le chân sau thay khớp háng toàn phần có thể ảnh hưởng đến chức năng chi dưới và chất lượng sống của bệnh nhân. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ so le chân sau mổ thay khớp háng toàn phần và đánh giá ảnh hưởng của so le chân lên chức năng chi dưới cũng như chất lượng sống bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả cắt ngang 56 trường hợp thay khớp háng toàn phần lần đầu, tổn thương khớp háng một bên, mổ lối sau từ 6/2014 đến 6/2016 tại Bệnh viện CTCH TP. Hồ Chí Minh. Thời điểm đánh giá sau mổ trung bình 20,2 tháng. Kết quả: Tỷ lệ so le chân sau thay khớp háng toàn phần: 82,1%, với mức độ so le chân trung bình: 8,61 mm. Trong đó: nhóm chân mổ dài hơn chiếm 46,4% với mức độ so le chân trung bình 10,38mm; nhóm chân mổ ngắn hơn chiếm 35,7% với mức độ so le chân trung bình 10,60 mm. Chức năng chi dưới: Điểm số Oxford của nhóm chân mổ dài hơn: 43,69 ± 3,16 thấp hơn có ý nghĩa thống kê so nhóm hai chân bằng nhau: 47,50 ± 0,70 với p= 0,002. Điểm số Oxford của nhóm chân mổ ngắn hơn: 43,40 ± 2,96 thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm hai chân bằng nhau: 47,50 ± 0,70 với p=0,001. Chất lượng sống: Điểm số EQ-5D của nhóm chân mổ dài hơn: 0,82 ± 0,07 thấp hơn không có ý nhĩa thống kê so với nhóm hai chân bằng nhau: 0,86 ± 0,05 với p = 0,378; Điểm số EQ- 5D của nhóm chân mổ ngắn hơn: 0,83 ± 0,07 thấp hơn không có ý nhĩa thống kê so với nhóm hai chân bằng nhau: 0,86 ± 0,05 với p = 0,670. Kết luận: So le chân sau thay khớp háng toàn phần phổ biến và mức độ so le chân đáng quan tâm. Chức năng chi dưới của nhóm có so le chân kém hơn nhóm không so le chân. Chất lượng sống của nhóm so le khác với nhóm không so le chân không có ý nghĩa thống kê. Từ khóa: So le chân, thay khớp háng toàn phần. ABSTRACT IMPACT OF LEG LENGTH DISCREPANCY AFTER TOTAL HIP ARTHROPLASTY ON LOWER EXTREMITY FUNCTION AND PATIENT QUALITY OF LIFE Ho Huy Cuong, Do Phuoc Hung, Hoang Duc Thai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 269 - 275 Background: Leg length discrepancy after total hip arthroplasty may badly affect lower extremity function and patient’s satisfaction. Objectives: To determine the propotion of leg length discrepancy after total hip arthroplasty and evaluate the its impact on lower extremity function and patients quality of life. Materials and method: 56 primary unilateral total hip arthroplasty, were involved in the retrospective research, from 6/2014 to 6/2016 at Hospital for Traumatology and Orthopaedics. Patients were evaluated on the average postoperative time of 20.2 months. Results: The propotion of leg length discrepancy after total hip arthroplasty: 82.1%, with average level of leg * Bộ môn CTCH-PHCN – Đại học Y Dược Tp.HCM ** BVĐK Đồng Tháp Tác giả liên lạc: BsCK2 Hồ Huy Cường, ĐT: 0918436437, Email: cuonghohuy@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Ngoại Khoa 270 length discrepancy: 8.61 mm. In which: propotion of lengthening leg: 46.4% with average level of leg length discrepancy: 10.38mm, propotion of shortening leg: 35.7% with average leg discrepancy level: 10.60 mm. Lower extremity function: Oxford Hip Score (OHS) of the lengthening group: 43.69 ± 3.1, statistically lower than the restoration group: 47.50 ± 0.70 with p = 0.002. OHS of the shortening group: 43.40 ± 2.96, statistically lower than the restoration group: 47.50 ± 0.70 with p=0.001. Quality of life: European Quality of life – 5 Dimensions (EQ-5D) of the lengthening group: 0.82 ± 0.07, non-statistically lower than the restoration group: 0.86 ± 0.05 with p = 0.378; EQ-5D of the shortening group: 0.83 ± 0.07, non-statistically lower than the restoration group: 0.86 ± 0,05 with p = 0.670. Conclusions: The propotion of leg length discrepancy after total hip arthroplasty is popular and leg discrepancy level needs to be concerned. Lower extremity function of the lengthening group is less than that of the restoration gro up and lower extremity function of the shortening group is less than that of the restoration group. Life quality of the shortening group, the lengthening group and the restoration group is non-statistically different. Key word: Leg length discrepancy, total hip arthroplasty ĐẶT VẤN ĐỀ So le chân khá thường gặp sau thay khớp háng toàn phần, có thể lên đến 94%(3). Biến chứng này được cả bác sĩ CTCH và bệnh nhân quan tâm vì nó ảnh hưởng đến chức năng chi dưới và sự hài lòng của bệnh nhân. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng của so le chân lên chức năng chi dưới và chất lượng sống của bệnh nhân sau thay khớp háng toàn phần(1,2). Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định tỷ lệ so le chân sau mổ thay khớp háng toàn phần và đánh giá ảnh hưởng của so le chân lên chức năng chi dưới cũng như chất lượng sống của bệnh nhân. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các trường hợp thay khớp háng toàn phần lần đầu, không xi măng, mổ lối sau tại BV. CTCH TP. HCM từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2016 sau phẫu thuật ít nhất 1 năm. Loại trừ các trường hợp: tổn thương hai khớp háng, viêm đa khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, gãy xương chi dưới, nhiễm trùng vết mổ, liệt chi dưới, trật khớp háng, thoái hóa khớp gối nặng và bệnh nhân bị cụt chi dưới. Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu, mô tả cắt ngang. Đánh giá chức năng chi dưới theo thang điểm Oxford và đánh giá chất lượng sống theo thang điểm EQ-5D tham số Hàn Quốc. Thang điểm Oxford gồm 12 tiêu chí đánh giá tình trạng đau khớp háng, cảm giác khó chịu của bệnh nhân khi đi lại, đi khập khiểng, khả năng đi xuống tầng lầu nhiều nấc thang, khả năng mang tất (vớ), khả năng sử dụng phương tiện giao thông, khả năng tự đi mua sắm, khả năng tự chăm sóc bản thân và khả năng thực hiện công việc hàng ngày của bệnh nhân. Tổng số điểm càng cao thì chức năng chi dưới càng tốt và ngược lại. Thang điểm EQ-5D tham số Hàn Quốc đánh giá sức khỏe thể lực và tinh thần của bệnh nhân bao gồm: sự đi lại, tự chăm sóc, sinh hoạt thường lệ, đau/khó chịu, lo lắng/u sầu. Tổng số điểm càng cao thì chất lượng sống càng tốt và ngược lại. Mức độ so le chân được đo trên phim X- quang khung chậu thẳng theo phương pháp đo của Woolson. Bệnh nhân được chụp X-quang khung chậu thẳng với tư thế: nằm ngửa, hai gối thẳng, hai bàn chân xoay trong 150, chùm tia X tập trung vào khớp mu, tấm cassette X-quang đặt dưới bệnh nhân và cách đầu đèn 115 cm. Trên phim X-quang khung chậu thẳng, xác định “giọt lệ” của ổ cối. “Giọt lệ” trên phim X- quang khung chậu thẳng chính là hố ổ cối. Kẽ 3 đường thẳng: đường thẳng thứ nhất qua điểm thấp nhất của 2 “giọt lệ”; đường thứ hai song song với đường thẳng thứ nhất đi qua điểm nhô nhất của mấu chuyển bé xương đùi; đường thứ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 271 ba song song với đường thứ nhất đi qua điểm nhô nhất của mấu chuyển bé xương đùi còn lại. Hiệu khoảng cách giữa đường thẳng thứ nhất - thứ hai và thứ nhất - thứ ba được xác định là mức độ so le chân. Nếu hiệu khoảng cách này bằng không, bệnh nhân có hai chân bằng nhau (không so le chân). Hình 1: Đo mức độ so le chân theo phương pháp Woolson(5). KẾT QUẢ Nghiên cứu có 56 bệnh nhân, tuổi trung bình là 48,1 tuổi. Thời gian đánh giá trung bình sau mổ là 20,2 tháng. Tỷ lệ so le chân sau thay khớp háng toàn phần Tỷ lệ so le chân sau thay khớp háng toàn phần: 82,1% với mức độ so le chân trung bình: 8,61 mm. Nhóm chân mổ dài hơn chiếm 46,4% (26 bệnh nhân) với mức độ so le chân trung bình: 10,38 mm. Nhóm chân mổ ngắn hơn chiếm 35,7% (20 bệnh nhân) với mức độ so le chân trung bình 10,60 mm. Không so le chân sau mổ 17,9% (10 bệnh nhân). Chức năng chi dưới Điểm số Oxford của 3 nhóm: nhóm chân mổ dài hơn, nhóm chân mổ ngắn hơn và nhóm 2 chân bằng nhau khác nhau có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 (Bảng 1). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm số EQ-5D giữa 3 nhóm: nhóm chân mổ dài hơn, nhóm chân mổ ngắn hơn và nhóm 2 chân bằng nhau với p = 0,378 (Bảng 1). Chất lượng sống Bảng 1. Điểm số Oxford và EQ-5D trung bình của 3 nhóm Nhóm chân mổ dài hơn (n=26) Nhóm chân mổ ngắn hơn (n=20) Nhóm 2 chân bằng nhau (n=10) p Điểm số Oxford 43,69 ± 3,16 43,40 ± 2,96 47,50 ± 0,70 < 0,001 (*) Điểm số EQ-5D 0,82 ± 0,07 0,83 ± 0,07 0,86 ± 0,05 0,378 (*) (*): Kiểm định Kruskal Wallis. Trong đó: nhóm chân mổ dài hơn có điểm số Oxford thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 2 chân bằng nhau với p = 0,002 (Bảng 2), nhóm chân mổ ngắn hơn có điểm số Oxford thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 2 chân bằng nhau với p = 0,001 (Bảng 2) và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm số Oxford giữa nhóm chân mổ dài hơn và chân mổ ngắn hơn với p = 0,930 (Bảng 2). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm số EQ-5D giữa nhóm chân mổ dài hơn và nhóm 2 chân bằng nhau (p = 0,378), giữa nhóm chân mổ ngắn hơn và nhóm 2 chân bằng nhau (p=0,670) và giữa nhóm chân mổ dài hơn và chân mổ ngắn hơn (p=0,838) (Bảng 2). Bảng 2. Sự khác biệt điểm số OHS và điểm số EQ-5D giữa 2 nhóm Điểm số Oxford Điểm số EQ-5D Nhóm chân mổ dài hơn và Nhóm 2 chân bằng nhau p = 0,002 (*) p = 0,378 (*) Nhóm chân mổ ngắn hơn và Nhóm 2 chân bằng nhau p = 0,001 (*) p = 0,670 (*) Nhóm chân mổ dài hơn và Nhóm chân mổ ngắn hơn p = 0,930 (*) p = 0,838 (*) (*): Kiểm định hậu định Tukey HSD. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Ngoại Khoa 272 Tương quan giữa mức độ so le chân (SLC) với điểm số Oxford và điểm số EQ-5D Có sự tương quan nghịch giữa điểm số Oxford và mức độ so le chân với hệ số tương quan r = - 0,48 (p < 0,001) và có sự tương quan nghịch giữa điểm số EQ-5D và mức độ so le chân với hệ số tương quan r = - 0,474 (p < 0,001). BÀN LUẬN So le chân phổ biến sau thay khớp háng toàn phần và mức độ so le chân đáng quan tâm Trong y văn, so le chân sau thay khớp háng toàn phần được báo cáo với tỷ lệ rất khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: phương pháp đo đạc xác định mức độ so le chân, phẫu thuật viên có hay không ướm đo trên X-quang trước mổ và áp dụng các phương pháp hạn chế so le chân trong lúc mổNghiên cứu của chúng tôi: Tỷ lệ so le chân là 82,1%, tương đương với kết quả nghiên cứu của Weng với tỷ lệ so le chân 81,3%(8) và thấp hơn nghiên cứu của Konyves với tỷ lệ so le chân: 94%(3). Một số nghiên cứu khác cũng cho thất tỷ lệ so le chân thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi như nghiên cứu của Djerf: tỷ lệ so le chân 50%(1), nghiên cứu của Sarwar S. Mahmood: tỷ lệ so le chân 42%(4). Nếu ướm đo trên X-quang của bệnh nhân trước mổ và áp dụng các biện pháp hạn chế so le chân thì tỷ lệ so le chân sẽ giảm đi đáng kể như trong nghiên cứu của Jasty, tác giả áp dụng phương pháp kiểm soát so le chân trước mổ và trong mổ thì tỷ lệ so le chân chỉ còn 16%(1). Lý tưởng là sau mổ thay khớp háng toàn phần hai chân dài bằng nhau.Tuy nhiên điều này khó thực hiện, thường là sau mổ chân thay khớp háng dài hơn chân còn lại. Nguyên nhân chân mổ dài hơn có thể do: lúc cắt xương chừa lại cổ xương đùi nhiều quá, cổ chuôi của khớp háng nhân tạo quá dài hoặc tâm xoay của ổ cối bị thay đổi. Ngược lại, chân mổ ngắn hơn chân còn lại có thể do cắt xương cổ xương đùi nhiều quá hay cổ chuôi của khớp nhân tạo ngắn quá. So le chân mức độ nhiều bệnh nhân có thể cảm nhận được khi đứng, khi đi lại. Liệt thần kinh tọa có thể xãy ra nếu chân mổ dài hơn 2,5 cm. Trật khớp háng sau mổ có thể xảy ra nếu chân mổ ngắn hơn chân còn lại mức độ nhiều. So le chân mức độ nhiều sẽ ảnh hưởng đến chức năng chi dưới, sự hài lòng và chất lượng sống của bệnh nhân(2). Mức độ so le trung bình cho 56 trường hợp nghiên cứu của chúng tôi là 8,61 mm, tương đương với nghiên cứu của nghiên cứu của Turula, mức độ so le chân trung bình là 8,7 mm và nghiên cứu của Edeen, mức độ so le trung bình là 9,7 mm(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi, mức độ so le chân trung bình của nhóm chân mổ dài hơn là 10,38 mm (2-25 mm), mức độ so le chân trung bình của nhóm chân mổ ngắn hơn là 10,60 mm (2-24 mm). Mức độ so le này tương đối nhiều hơn so với một số nghiên cứu như: nghiên cứu của Weng, mức độ so le chân trung bình của nhóm chân mổ dài hơn là 9,2 mm (1-22 mm) và của nhóm chân mổ ngắn hơn là 6,4 mm (3-19 mm)(8); nghiên cứu của Konyves, mức độ so le chân trung bình của nhóm chân mổ dài hơn là 9 mm và của nhóm chân mổ ngắn hơn là 6,5 mm(3). So le chân ở mức độ nhiều cũng có thể làm cho kết quả phẫu thuật tốt như giảm đau, phục hồi biên độ cử động và chức năng khớp háng tốt thành kết quả xấu do sự không hài lòng của bệnh nhân(1). Parvizi và cộng sự kết luận rằng so le chân mức độ trầm trọng có thể dẫn đến tàn tật như đau và suy giảm nhanh chức năng khớp háng dẫn đến thay lại khớp háng(7). Để hạn chế nguy cơ so le chân sau mổ thay khớp háng, cần phải ướm đo trên X-quang trước mổ và áp dụng các biện pháp hạn chế so le chân trong lúc mổ. Từ đó, chúng ta sẽ chọn được khớp háng toàn phần thích hợp để ngăn ngừa nguy cơ so le chân sau mổ cho bệnh nhân. Woolson đã báo cáo 84 trường hợp thay khớp háng toàn phần trong nghiên cứu của ông chỉ có 2,5% trường hợp mổ có so le chân với mức so le trung bình 6 mm khi sử dụng các phương pháp trên(9). Knight và Atwater cho rằng kích thước khớp háng toàn phần không thể xác định chính xác bằng cách ướm đo, tuy nhiên khi kết hợp Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 273 ướm đo trước mổ và trong mổ thì 92% bệnh nhân sẽ có so le chân chỉ trong vòng 5 mm. Goodman, Huene và Imrie báo cáo 42 trường hợp thay khớp háng toàn phần của họ kết hợp với sự ướm đo cẩn thận trước và trong mổ thì chỉ so le chân trung bình 3 mm và không trường hợp nào vượt quá 9 mm. Trong y văn, cũng có một số công trình nghiên cứu tác giả đã áp dụng các biện pháp hạn chế so le chân trong lúc mổ làm cho mức độ so le chân giảm đi đáng kể và ít hơn trong nghiên cứu của chúng tôi rất nhiều như: nghiên cứu của Takigami, so le chân trung bình 4,2 mm, nghiên cứu của Papadopoulos, so le chân trung bình 1.58 mm, nghiên cứu của Bose, so le chân trung bình 3,4 mm, nghiên cứu của Ranawat, so le chân trung bình 1,9 mm, nghiên cứu của Matsuda, so le chân trung bình 2 mm. Đặc biệt, nghiên cứu của Licini, có sử dụng hệ thống định vị vi tính trong lúc mổ nên so le chân trung bình 0,3 mm(1). Ảnh hưởng của so le chân lên chức năng chi dưới Ảnh hưởng chung của so le chân lên chức năng Trong 56 trường hợp thay khớp háng trong nghiên cứu của chúng tôi, chức năng chi dưới được đánh giá theo thang điểm Oxford như sau: Điểm số Oxford của nhóm chân mổ dài hơn: 43,69 ± 3,16. Điểm số Oxford của nhóm chân mổ ngắn hơn: 43,40 ± 2,96. Điểm số Oxford của nhóm 2 chân bằng nhau: 47,50 ± 0,70. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết quả này cho thấy, chức năng chi dưới của nhóm chân mổ ngắn hơn kém nhất, kế đến là nhóm chân mổ dài hơn, nhóm 2 chân bằng nhau có chức năng tốt nhất. Điều này khác với nghiên cứu của Weng: chức năng chi dưới của nhóm chân mổ dài hơn kém nhất, kế đến là nhóm chân mổ ngắn hơn, nhóm 2 chân bằng nhau có chức năng tốt nhất (8). Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, có sự tương quan nghịch giữa mức độ so le chân và điểm số Oxford. Điều này cho thấy rằng, khi mức độ so le chân càng lớn thì chức năng chi dưới có xu hướng càng giảm đi. Thang điểm Oxford mặc dù do bệnh nhân tự đánh giá nhưng có nhiều tiêu chí đánh giá chức năng chi dưới như: đi khập khiễng, khả năng đi lại, khả năng xuống lầu nhiều nấc thang, khả năng mang tất (vớ), khả năng sử dụng phương tiện giao thông, khả năng tự đi mua sắm, khả năng tự chăm sóc bản thân và khả năng thực hiện công việc hàng ngày của bệnh nhân. Đây là những nhu cầu cơ bản của bệnh nhân trong cuộc sống hàng ngày. Khi mức độ so le chân càng lớn bệnh nhân đi khập khiễng, mỏi và đau háng là cho khả năng đi lại bị hạn chế, khả năng sử dụng phương tiên giao thông, khả năng đi mua sắm bị giảm đi. Ảnh hưởng của chân mổ dài hơn lên chức năng Trong nghiên cứu của chúng tôi: Điểm số Oxford trung bình của nhóm chân mổ dài hơn: 43,69 ± 3,16 và của nhóm hai chân bằng nhau: 47,50 ± 0,70. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,002. Điều này chứng tỏ chức năng chi dưới của nhóm có chân mổ dài kém hơn nhóm hai chân mổ bằng nhau. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Weng(8). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của Sarwar S. Mahmood(4). Trong nghiên cứu của mình, Sarwar S. Mahmood nhận thấy rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về chức năng chi dưới giữa nhóm chân mổ dài hơn và nhóm được phục hồi. Sự khác biệt này là do tác giả chia nhóm so le chân khác chúng tôi và dùng thang điểm đánh giá chức năng chi dưới khác chúng tôi. Ảnh hưởng của chân mổ ngắn hơn lên chức năng Điểm số Oxford trung bình của nhóm chân mổ ngắn hơn: 43,40 ± 2,96. Điểm số Oxford trung bình của nhóm hai chân bằng nhau: 47,50 ± 0,70. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,001. Điều này cho thấy: Chức năng chi dưới của nhóm chân mổ ngắn kém hơn nhóm hai chân bằng nhau. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Weng, nhóm chân mổ ngắn hơn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Ngoại Khoa 274 có chức năng chi dưới kém hơn nhóm 2 chân bằng nhau không có ý nghĩa thống kê(8). Sự khác biệt này do mức độ so le chân trung bình của nhóm chân mổ ngắn hơn trong nghiên cứu của Weng là 6.4 mm, thấp hơn mức độ so le chân trung bình của nhóm chân mổ ngắn hơn của nghiên cứu của chúng tôi. Ảnh hưởng của so le chân lên chất lượng sống Chất lượng sống (CLS) là sự hài lòng, thỏa mãn của con người trong những lĩnh vực mà họ xem là quan trọng nhất trong cuộc sống như: tình trạng kinh tế, chỗ ở, việc làm, tôn giáo, chính sách trợ cấp xã hội, mà đặc biệt là tình trạng sức khỏe(6). Chất lượng sống khi xem xét trên khía cạnh sức khỏe gọi là chất lượng sống liên quan đến sức khỏe, trong đó lĩnh vực được quan tâm nhất là thể chất, tinh thần và xã hội. Trong nghiên cứu này sử dụng thang điểm EQ- 5D tham số Hàn Quốc để đánh giá chất lượng sống của bệnh nhân, thang điểm này phản ảnh sức khỏe thể lực và tinh thần của bệnh nhân bao gồm: sự đi lại, tự chăm sóc, sinh hoạt thường lệ, đau/khó chịu, lo lắng/u sầu. Điểm số EQ-5D trung bình về chất lượng sống của từng nhóm trong nghiên cứu chúng tôi như sau: Nhóm chân mổ dài hơn: 0,82 ± 0,07; nhóm chân mổ ngắn hơn: 0,83 ± 0,07 và nhóm hai chân bằng nhau: 0,86 ± 0,05. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,378. Điều này cho thấy rằng, chất lượng sống của bệnh nhân ít bị ảnh hưởng của so le chân. Để nghiên cứu về chất lượng sống sau thay khớp háng, nhiều tác giả đã sử dụng nhiều thang điểm khác nhau cho nghiên cứu của mình. Do điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên cùng một thang điểm có thể có nhiều tham số khác nhau để đánh giá cho phù hợp với từng quốc gia, dân tộc. Để đánh giá CLS của bệnh nhân trong nghiên cứu của mình, các tác giả cũng chia nhiều nhóm bệnh nhân sau thay khớp háng để đánh giá và so sánh về chất lượng sống với nhau. Tác giả Sarwar S. Mahmood chia 174 bệnh nhân thay khớp háng toàn phần trong nghiên cứu của mình thành 3 nhóm: Nhóm chân mổ ngắn hơn, nhóm chân mổ dài hơn và nhóm phục hồi. Tác giả dùng thang điểm EQ-5D đánh giá chất lượng sống của bệnh nhân sau thay khớp háng 12-15 tháng. Kết quả cho thấy: Điểm số EQ- 5D trung bình của 3 nhóm như sau: nhóm chân mổ dài hơn: 0,82; nhóm chân mổ ngắn hơn: 0,87; nhóm phục hồi: 0,84. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,50(4). Kết quả này tương tự như nghiên cứu của chúng tôi: CLS ở nhóm chân mổ dài hơn, nhóm chân mổ ngắn hơn và nhóm 2 chân bằng nhau khác nhau không có ý nghĩa thống kê. KẾT LUẬN Tỷ lệ so le chân sau thay khớp háng toàn phần phổ biến và mức độ so le chân đáng quan tâm. Chức năng chi dưới của nhóm có so le chân kém hơn nhóm không so le chân. Chất lượng sống của nhóm so le khác với nhóm không so le chân không có ý nghĩa thống kê. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Desai A S, Dramis A, Board T N (2013), "Leg length discrepancy after total hip arthroplasty: a review of literature", Curr Rev Musculoskelet Med, 6 (4), pp. 336-41. 2. Edeen J, Sharkey P F, Alexander A H. (1995), "Clinical significance of leg-length inequality after total hip arthroplasty", Am J Orthop (Belle Mead NJ), 24 (4), pp. 347-51. 3. Konyves A, Bannister G C (2005), "The importance of leg length discrepancy after total hip arthroplasty", J Bone Joint Surg Br, 87 (2), pp. 155-7. 4. Mahmood S S, Mukka S S, Crnalic S, et al. (2015), "The Influence of Leg Length Discrepancy after Total Hip Arthroplasty on Function and Quality of Life: A Prospective Cohort Study", J Arthroplasty, 30 (9), pp. 1638-42. 5. McWilliams A B, Grainger A J, O'Connor P J, et al. (2013), "A review of symptomatic leg length inequality following total hip arthroplasty", Hip Int, 23 (1), pp. 6-14. 6. Oleson M (1990), "Subjectively perceived quality of life", Image J Nurs Sch, 22 (3), pp. 187-90. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 275 7. Parvizi J, Sharkey P F, Bissett G A, et al. (2003), "Surgical treatment of limb-length discrepancy following total hip arthroplasty", J Bone Joint Surg Am, 85-a (12), pp. 2310-7. 8. Weng W J, Wang F, Zhang H L, et al. (2009), "Leg length discrepancy after total hip arthroplasty: impacts on postoperative function and patients' satisfaction", Zhongguo Gu Shang, 22 (12), pp. 906-8. 9. Woolson S T, Hartford J M, Sawyer A (1999), "Results of a method of leg-length equalization for patients undergoing primary total hip replacement", J Arthroplasty, 14 (2), pp. 159- 64. Ngày nhận bài báo: 06/12/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_so_le_chan_len_chuc_nang_va_chat_luong_song_sa.pdf