Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 289
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH THẬN 
ĐOẠN NGOÀI NHU MÔ Ở NGƯỜI VIỆT NAM 
Nguyễn Phước Vĩnh*, Nguyễn Quang Hiển*, Dương Văn Hải* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đặc điểm giải phẫu động mạch thận, bao gồm cả đoạn đi trong xoang thận, ngoài nhu mô thận, 
có ý nghĩa to lớn trong các phương pháp điều trị bệnh lý thận niệu. Tuy nhiên, hiện nay, tại Việt Nam chưa có 
nhiều nghiên cứu về vấn đề này. 
Mục tiêu: Góp phần mô tả chi tiết một số đặc điểm giải phẫu của các động mạch thận và đặc điểm cấp máu 
cho nhu mô thận. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 40 thận của 20 xác ướp tại bộ môn Giải phẫu 
học – Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, sử dụng phương pháp nạo bỏ nhu mô thận để quan sát các động 
mạch đoạn trong xoang thận. 
Kết quả: Đa số thận có 1 động mạch thận chính (90%), 5% có động mạch cực trên và 2,5% có động mạch 
cực dưới xuất phát từ động mạch chủ bụng. Động mạch thận thường phân nhánh ngoài xoang thận (77,78%). 
Các động mạch thận có thể phân thành 3 nhóm: nhóm I (động mạch thận phân đôi 2 ngành trước sau bể thận, 
52,78%), nhóm II (động mạch thận có nhánh bên và phân đôi 2 ngành trước sau bể thận, 25,00%), nhóm III 
(động mạch thận chia ba hoặc chia tư, 22,22%). Trong nhóm I, ngành động mạch đi trước bể thận có 4 dạng: dạng 
chia đôi (47,37%), dạng chia ba (26,32%), dạng chia tư (10,53%) và dạng trục chính (15,79%); ngành động 
mạch đi sau bể thận có 2 dạng: dạng trục chính (78,95%) và dạng phân đôi (21,05%). Nhìn chung, vùng cấp máu 
của phân nhánh trước rộng hơn phân nhánh sau. 
Kết luận: Sự phân nhánh của động mạch thận rất đa dạng. Các động mạch thận có thể phân thành 3 nhóm. 
Từ khóa: giải phẫu, động mạch thận, nhu mô thận, xoang thận, cấp máu. 
ABSTRACT 
ANATOMICAL CHARACTERISTICS OF HUMAN EXTRA-PARENCHYMA RENAL ARTERIES IN 
VIETNAMESE POPULATION 
Nguyen Phuoc Vinh, Nguyen Quang Hien, Duong Van Hai 
*Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 289 - 297 
Background: The anatomy of renal arteries, especially the intrarenal arteries, has great significance in 
certain urology therapies. However, there have not been many studies in Vietnam of this subject. 
Objectives: Provide additional anatomical information in detail about the renal artery, its branching 
patterns and the characteristics of renal parenchyma’s blood supply. 
Materials and Methods: Forty kidneys from 20 cadavers were obtained. To observe the intrarenal artery, 
we severed the kidney from cadaver and then micro-dissected the parenchyma to reveal the renal artery. 
Results: The majority of kidneys has one main renal artery (90%). The upper renal polar artery, which arises 
from the abdominal aorta, appears in 5% of the observed kidneys and lower renal polar artery appears in 2.5% of 
cases. Renal artery often branches outside the renal sinus (77.78%). The renal artery can be classified into 3 
*Bộ môn Giải phẫu học, Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Phước Vĩnh ĐT: 0938007818 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 290
groups: group I (the main renal artery separates into 2 divisions – anterior and posterior division, 52.78%), group 
II (the main renal artery gives “early” branching arteries before separating into 2 divisions, 25.00%), group III 
(the main renal artery separates into three or four branches, 22.22%). In group I, the anterior division has 4 
branching patterns: difurcating (47.37%), trifurcating (26.32%), quadfurcating (10.53%) and main-axis form 
(15.79%); the posterior division has 2 branching patterns: main-axis form (78.95%) and bifurcating (21.05%). 
Overall, the anterior division supplies blood to a wider area than the posterior division does. 
Conclusion: The branching of human renal artery are diverse and have many variations. The renal artery 
can be classified into 3 groups. 
Keywords: anatomy, renal artery, renal parenchyma, intrarenal, blood supply 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiều phương pháp điều trị bệnh lý thận 
niệu (cắt thận bán phần, thuyên tắc động mạch 
thận, lấy sỏi nhu mô thận) cần sự hiểu biết sâu 
sắc về giải phẫu động mạch thận và sự phân 
nhánh của động mạch thận khi đi vào trong 
xoang thận. Trên thế giới, đã có một số công 
trình nghiên cứu về giải phẫu các động mạch 
thận, kể cả đoạn động mạch khi vào trong xoang 
thận, ngoài nhu mô thận. Từ đó, một số tác giả 
đưa ra các cách phân loại sự phân nhánh của 
động mạch thận(4,7,10). Các tác giả cũng đưa ra 
cách phân loại các phân thùy thận dựa vào sự 
phân nhánh của động mạch(5,8). Tuy nhiên, hiện 
nay, tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu 
tương tự nhằm đưa ra các kết quả tương ứng ở 
người Việt Nam. Do đó, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này nhằm góp phần mô tả về mặt 
giải phẫu học sự phân bố và chia nhánh của các 
động mạch thận đoạn ngoài nhu mô thận, đồng 
thời xác định đặc điểm sự cấp máu cho nhu mô 
thận. Nghiên cứu giúp nhà giải phẫu học cũng 
như các bác sĩ thực hành lâm sàng, cận lâm sàng 
có cái nhìn sâu sắc hơn về đặc điểm của các động 
mạch này và từ đó ứng dụng kết quả của nghiên 
cứu trong điều trị các bệnh lý liên quan. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 40 thận 
(20 cặp) của 20 xác ướp được lưu trữ tại bộ môn 
Giải phẫu học – Đại học Y Dược Thành phố Hồ 
Chí Minh. Trong đó, có 12 xác nam (60%) và 8 
xác nữ (40%). Độ tuổi trung bình khi mất của các 
xác là 68,30 ± 13,05 tuổi. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Chúng tôi tiến hành chọn mẫu thuận tiện 
ngẫu nhiên trên các xác ướp tại bộ môn Giải 
phẫu học. Các xác có bất thường giải phẫu bẩm 
sinh hay mắc phải (u thận, chấn thương thận, u 
thượng thận,...), hay do can thiệp phẫu thuật 
trước đây ảnh hưởng đến thận và động mạch 
thận bị loại khỏi nghiên cứu. Các thận bị hư hại 
do quá trình bảo quản và phẫu tích cũng bị loại 
khỏi nghiên cứu. 
Sau khi lựa chọn các xác thỏa tiêu chuẩn, 
chúng tôi tiến hành phẫu tích và thu thập số liệu: 
Trên xác, bộc lộ mạc thận cùng thận, tuyến 
thượng thận, động mạch chủ và các mạch máu 
của thận. Phẫu tích sạch các mạc, mô mỡ quanh 
thận, bộc lộ rõ các mạch máu cấp máu cho thận 
Lấy thận và đài bể thận, niệu quản, động 
mạch, tĩnh mạch thận nguyên khối. 
Nạo mô thận một cách cẩn thận, bộc lộ hệ 
thống động mạch, đài bể thận. 
Quan sát, ghi lại các thông tin cần thu thập. 
Mô tả đặc điểm các động mạch thận và sự phân 
nhánh của động mạch thận trong xoang thận. 
Đo đường kính ngoài của động mạch thận 
và các nhánh bằng cách ép dẹp đoạn động mạch 
muốn đo, đo chiều rộng đoạn động mạch đã kẹp 
(P). Đường kính đoạn động mạch (d) được tính 
bởi công thức: d = 2P/3,14159. 
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm IBM 
SPSS Statistics 22 và Microsoft Excel 2013. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 291
KẾT QUẢ 
Đặc điểm động mạch thận 
Chúng tôi ghi nhận có 36 thận (90%) có 1 
động mạch thận chính và 4 thận (10%) có 2 động 
mạch thận chính; không ghi nhận trường hợp 
nào có 2 động mạch thận chính ở cả 2 bên thận 
của cùng một cặp thận. Không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê về số lượng động mạch thận 
chính ở 2 bên phải trái. 
Đồng thời, 2 thận (5,00%) có 1 động mạch 
cực trên xuất phát từ động mạch chủ bụng và 1 
thận (2,50%) có 1 động mạch cực dưới xuất phát 
từ động mạch chủ bụng. Chúng tôi không ghi 
nhận trường hợp nào có nhiều động mạch cực 
xuất phát từ động mạch chủ bụng. 
Vị trí phân nhánh của động mạch thận 
Chúng tôi khảo sát trên 36 thận có 1 động 
mạch thận chính (Hình 1). 
Hình 1: Vị trí phân nhánh của động mạch thận. 
a. Ngoài xoang thận. b. Trong xoang thận 
Bảng 1: Vị trí phân nhánh của động mạch thận. 
Vị trí phân nhánh Thận phải Thận trái Tính chung 
Ngoài xoang 15(83,33%) 13(72,22%) 28(77,78%) 
Trong xoang 3(16,17%) 5(27,78%) 8(22,22%) 
Tổng 18 18 36 
Vị trí phân nhánh của động mạch thận chính 
ở 2 bên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (phép kiểm chính xác Fisher, p = 0,691). 
Sự phân chia của động mạch thận chính 
Khảo sát trên các tiêu bản đã nạo bỏ nhu mô 
thận, sự phân nhánh của động mạch thận chính 
rất thay đổi giữa các thận. Nhìn chung, các động 
mạch thận chính đều phân thành các ngành đi 
trước đài bể thận và đi sau đài bể thận trong 
xoang thận. Từ các ngành này, các động mạch 
tiếp tục phân chia để cho nhánh đi vào nhu mô 
thận. Đồng thời, ở một số thận, trước khi phân 
thành các ngành tận đi trước và sau bể thận, 
động mạch thận chính đã chia thành một số 
nhánh bên cấp máu cho một phần nhu mô thận. 
Dựa vào các đặc điểm này, chúng tôi chia thận 
có 1 động mạch chính thành các nhóm (hình 2): 
Nhóm I 
19 trường hợp (52,78%): Động mạch thận 
phân đôi 2 ngành, 1 ngành đi trước và 1 ngành 
đi sau đài bể thận. 
Nhóm II 
9 trường hợp (25,00%): Động mạch thận có 
chia “sớm” thành các nhánh bên trước khi phân 
đôi thành 2 ngành tận, 1 ngành đi trước và 1 
ngành đi sau đài bể thận. 
Nhóm III 
8 trường hợp (22,22%): Động mạch thận chia 
ba hoặc chia tư. 
Hình 2: Các nhóm động mạch thận. 
Dấu mũi tên: nhánh bên tách sớm 
Đặc điểm động mạch thận thuộc nhóm I 
Ngành động mạch đi trước bể thận phân 
nhánh trong xoang thận theo các dạng (hình 3): 
Dạng chia đôi (47,37%): ngành trước phân 
thành 2 nhánh trên, dưới với kích thước tương 
đương nhau và các nhánh này tiếp tục phân 
chia thành các nhánh nhỏ hơn để đi vào nhu 
mô thận. 
Dạng chia ba (26,32%): ngành trước phân 
thành 3 nhánh tận. Các nhánh tận này sẽ trực 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 292
tiếp đi vào nhu mô thận hoặc tiếp tục chia thành 
các nhánh nhỏ hơn. 
Dạng chia tư (10,53%). 
Dạng trục chính (15,79%): ngành trước bể 
thận chạy vòng xuống dưới cấp máu cho cực 
dưới, trên đường đi lần lượt tách các nhánh bên 
nhỏ cấp máu cho các vùng nhu mô thận riêng 
biệt. 
Hình 3: Động mạch thận thuộc nhóm I. 
Ngành trước phân nhánh dạng: 
a. Chia đôi b. Chia ba c. Trục chính. 
Ngành động mạch đi sau đài bể thận có 2 
dạng phân nhánh: 
Dạng trục chính (78,95%): động mạch 
thường chạy hướng xuống dưới, đồng thời có 
thể tách nhánh quặt ngược lên trên cấp máu cho 
cực trên thận. Nhánh này có thể vào nhu mô 
thận ở mặt sau đài bể thận hoặc vòng ra trước để 
cấp máu cho mặt trước của cực trên thận. 
Dạng phân đôi (21,05%): có hình ảnh tương 
tự dạng phân đôi của ngành trước. 
Đặc điểm động mạch thận thuộc nhóm II 
Trong 9 trường hợp động mạch thận thuộc 
nhóm II, 8 trường hợp (88,89%) có 1 nhánh bên 
và 1 trường hợp (11,11%) có 2 nhánh bên tách 
sớm, trước khi chia thành 2 ngành động mạch đi 
trước và sau đài bể thận. 
Trong các trường hợp có 1 nhánh bên, đa số 
nhánh động mạch này đi trước đài bể thận khi 
vào trong xoang thận (7 trường hợp), chỉ có 1 
trường hợp nhánh tách sớm đi sau đài bể thận. 
Phạm vi cấp máu của những nhánh bên rất 
thay đổi, có thể chỉ chiếm một phần nhỏ một 
cực thận hay chiếm đến một nửa mặt trước 
nhu mô thận. Trong 7 trường hợp có 1 nhánh 
bên đi trước đài bể thận, có 6 trường hợp 
nhánh bên cấp máu cho vùng trước trên của 
thận và 1 trường hợp cấp máu cho vùng trước 
dưới của thận. 
Hình 4: Động mạch thận thuộc nhóm II. 
Nhánh tách sớm (dấu mũi tên) cấp máu cho 1/2 trước 
dưới của thận. 
Trong 1 trường hợp có 2 nhánh bên được ghi 
nhận, 1 nhánh bên đi trước bể thận, cấp máu 
nhu mô thận vùng giữa trước và 1 nhánh đi phía 
sau đài bể thận, cấp máu cho cực dưới thận. 
Đặc điểm động mạch thận thuộc nhóm III 
Trong 8 thận thuộc nhóm này, có 7 thận có 
động mạch thận chia ba và 1 thận có động mạch 
thận chia tư. 
Trong dạng động mạch thận chia ba, 85,71% 
số trường hợp có 2 nhánh động mạch đi trước và 
1 nhánh động mạch đi sau đài bể thận; 14,29% số 
trường hợp có 1 nhánh động mạch đi trước và 2 
nhánh động mạch đi sau đài bể thận. Đồng thời, 
trong 2 trường hợp, động mạch đã chia sớm 
thành các nhánh bên nhỏ trước khi phân thành 3 
nhánh tận này. 
Trường hợp động mạch thận chính chia tư 
có 2 nhánh đi trước đài bể thận và phân nhánh 
kiểu chia đôi, 1 nhánh đi sau đài bể thận phân 
nhánh kiểu trục chính, 1 nhánh đi ở bờ trên, hơi 
chếch ra sau, cấp máu cho cực trên thận tương 
ứng (Hình 5). 
Trường hợp có nhiều động mạch thận chính: 
Chúng tôi ghi nhận 4 trường hợp thận có 2 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 293
động mạch thận chính. Khi vào rốn thận, trong 
xoang thận, 1 động mạch sẽ đi trước và 1 động 
mạch đi sau đài bể thận. Do đó, có thể xem dạng 
động mạch này có phần tương tự dạng 1 động 
mạch thận chính với vị trí chia đôi 2 ngành trước 
sau rất sớm (tại động mạch chủ bụng). 
Hình 5: Động mạch thận thuộc nhóm III. 
a. ĐM thận chia ba. b. ĐM thận chia tư. 
Đặc biệt, tuy chỉ có 4 trường hợp, động mạch 
thận đi trước bể thận có 4 dạng phân chia: dạng 
chia đôi, chia ba, chia tư và dạng trục chính (mỗi 
thận có 1 dạng riêng). Động mạch đi sau đài bể 
thận có 2 trường hợp phân chia theo dạng phân 
đôi và 2 trường hợp theo dạng trục chính. 
Sự cấp máu cho nhu mô thận 
Chúng tôi chia thận thành 4 phân vùng: cực 
trên, vùng giữa trước, cực dưới, vùng giữa sau 
(Hình 7). 
Hình 7: Sơ đồ phân vùng cấp máu cho thận. 
Chúng tôi quy ước: 
Vùng nhu mô được cấp máu từ nhánh trước 
bể thận. Đây là những vùng nhu mô được cấp 
máu từ các ngành động mạch hay nhánh bên 
tách sớmcủa động mạch thận khi vào xoang thận 
đi trước đài bể thận. Với thận có 2 động mạch 
thận chính, đây là vùng nhu mô được cấp máu 
từ động mạch đi trước đài bể thận. 
Vùng nhu mô thận được cấp máu từ nhánh 
sau bể thận được định nghĩa tương tự như trên. 
Vùng nhu mô thận được cấp máu từ cả 2: 
nhánh trước và nhánh sau bể thận. 
Với các thận có động mạch cực trên hay cực 
dưới, động mạch cực này chỉ cấp máu cho một 
phần nhu mô khá nhỏ của thận tương ứng, cực 
trên hay cực dưới của các thận này vẫn được cấp 
máu từ các nhánh của động mạch thận chính. Do 
đó, chúng tôi chỉ mô tả đặc điểm cấp máu của 
động mạch thận chính (Bảng 2). 
Bảng 2: Sự cấp máu cho nhu mô thận 
Vùng nhu mô Nguồn cấp máu Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
Cực trên 
Nhánh trước 23 57,50 
Nhánh sau 7 17,50 
Cả hai 10 25,50 
Cực dưới 
Nhánh trước 19 47,50 
Nhánh sau 10 25,00 
Cả hai 11 27,50 
Giữa trước 
Nhánh trước 39 97,50 
Cả hai 1 2,50 
Giữa sau 
Nhánh sau 39 97,50 
Cả hai 1 2,50 
Kích thước động mạch thận và phân nhánh. 
Các trường hợp có 1 động mạch thận chính: 
Đường kính của động mạch thận chính 
(được đo tại vị trí ngay trước khi phân nhánh 
tận) là 5,39 ± 0,80 mm, lớn nhất là 8,71 mm và 
nhỏ nhất là 4,28 mm; không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa bên phải và bên trái, 
p = 0,310. 
Trong nhóm I, đường kính ngành trước 
(được đo tại gốc động mạch) là 4,50 ± 0,90 mm, 
dao động từ 3,12 mm đến 7,13 mm; đường kính 
ngành sau là 3,92 ± 0,74 mm, dao động từ 1,99 
mm đến 5,09 mm. Đường kính ngành trước lớn 
hơn đường kính ngành sau có ý nghĩa thống kê, 
p = 0,017. 
Trong nhóm II, đường kính nhánh cấp 1 của 
động mạch thận chia ba là 5,30 ± 1,07 mm, dao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 294
động từ 2,70 mm đến 7,56 mm; đường kính 
nhánh cấp 1 của động mạch thận chia tư là 6,79 ± 
0,36 mm, dao động từ 6,32 mm đến 7,24 mm. 
Các trường hợp có 2 động mạch thận chính 
Đường kính của động mạch thận chính đi 
trước đài bể thận là 6,30 ± 0,79 mm, lớn nhất là 
7,01 mm và nhỏ nhất là 5,01 mm. Đường kính 
của động mạch thận chính đi sau đài bể thận là 
3,10 ± 0,92 mm, lớn nhất là 6,78 mm và nhỏ nhất 
là 4,52 mm. Tính chung, đường kính động mạch 
thận là 6,21 ± 0,87 mm. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm động mạch thận 
Bảng 3: So sánh các dạng ĐM thận chính. 
Tác giả 
1 ĐM 
(%) 
2 ĐM 
(%) 
Hơn 2 ĐM 
(%) 
Chúng tôi 90,00 10,00 _ 
Võ Văn Hải và Dương Văn 
Hải
(15)
93,75 4,69 1,56 
Trịnh Xuân Đàn
(142)
 68,52 20,37 11,11 
Trịnh Xuân Đàn và Lê Gia 
Vinh
(13)
66,6 26,7 6,7 
Trịnh Xuân Đàn và Lê Văn 
Minh
(14)
65,8 26,8 7,4 
Bùi Văn Mạnh
(2)
 83,85 14,91 1,24 
Sampaio và Passos
(9)
 84,2 13,5 2,3 
Kyle J. W. và cs
(6)
 87,7 12,3 _ 
Rocco và cs
(7)
 86,6 11,43 1,96 
0
5
10
15
20
25
5,00
10,94
4,80
7,00
9,59
2,50 1,56
20,8
5,50
15,07
T
ần
 s
ố
ĐM cực trên ĐM cực dưới
Biểu đồ 1: So sánh tỷ lệ các động mạch cực xuất phát 
từ ĐM chủ bụng. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi định nghĩa 
động mạch thận chính là các động mạch thận có 
nguyên ủy từ động mạch chủ bụng, đi vào thận 
ở rốn thận, có kích thước tương đối lớn và cấp 
máu cho một vùng lớn nhu mô thận. 
Sự đa dạng về số lượng động mạch thận tại 
rốn thận cũng như sự xuất hiện của các động 
mạch cực đã được nhiều tác giả đề cập. Sampaio 
và cộng sự đã mô tả đến 12 dạng động mạch rốn 
thận và động mạch cực(8). Điểm thống nhất của 
tất cả các nghiên cứu là trường hợp thận với 1 
động mạch thận chính là phổ biến nhất. Sự khác 
biệt về số lượng động mạch thận chính cũng như 
động mạch cực có thể được giải thích phần nào 
bởi số lượng mẫu được quan sát. 
Vị trí phân nhánh của động mạch thận 
Daescu và cộng sự nhận thấy 81,67% động 
mạch thận chia nhánh trước khi đi vào rốn thận, 
10% tại rốn thận và 8,33% trong xoang thận(3). 
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương tự 
với đa số động mạch thận phân nhánh ngoài 
xoang thận (77,78%). Trường hợp động mạch 
phân nhánh khi đi vào xoang thận tuy ít hơn 
nhưng vẫn chiếm tỷ lệ tương đối cao (22,22%). 
Trong các phẫu thuật cần bộc lộ động mạch thận 
hoặc một phân nhánh cần chú ý điều này. 
Sự phân chia của động mạch thận 
Trước hết, chúng tôi nhận thấy động mạch 
thận phân chia dạng phân nhánh tận, nghĩa là 
không có nhánh nối giữa các động mạch sau khi 
đã phân chia. Điều này phù hợp với các mô tả 
giải phẫu kinh điển. Do đó, trên lâm sàng, nếu 
làm tổn thương hay gây tắc một nhánh động 
mạch của thận sẽ gây hoại tử vùng nhu mô 
tương ứng. 
Đã có một số nghiên cứu mô tả về các dạng 
phân nhánh của động mạch thận trước khi đi 
vào nhu mô thận(1,4,6,10,14). Tuy nhiên, các nghiên 
cứu này đều có cách phân loại và mô tả các dạng 
phân nhánh của động mạch thận theo phương 
pháp riêng. Điều này cho thấy sự đa dạng trong 
cách phân nhánh của động mạch thận và chưa 
có một phương pháp thống nhất trong việc phân 
loại hay mô tả sự phân nhánh này. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 295
Trong nghiên cứu này, chúng tôi dựa vào số 
lượng nhánh cấp 1 của động mạch thận chính, 
các nhánh chia sớm và đặc điểm vùng cấp máu 
của chúng để xếp các động mạch thận vào các 
nhóm riêng. 
Nhìn chung, các nghiên cứu đều cho thấy 
dạng động mạch thận chia đôi là phổ biến nhất, 
các dạng chia ba hay chia tư là ít gặp hơn (bảng 
4). Điều này cũng được thể hiện trong nghiên 
cứu của Fine và Keen(4). 
Bảng 4: So sánh tỷ lệ các dạng phân nhánh của động 
mạch thận. 
Tác giả Nhóm I (%) Nhóm II (%) Nhóm III (%) Cỡ mẫu 
Chúng tôi 52,78 25,00 22,22 36 
Daescu
(3)
 70,00 30,00 60 
Đặc điểm các phân nhánh của động mạch thận 
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Ngành trước Ngành sau
47,37
21,05
26,32 78,95
10,53
15,79
T
ỷ
 lệ
Chia đôi Trục chính Chia ba Chia tư
Biểu đồ 2: So sánh các dạng phân nhánh của ngành 
trước và sau của ĐM thận thuộc nhóm I. 
Trong nhóm I, ngành động mạch trước bể 
thận phân chia ưu thế theo dạng chia đôi 
(47,37%), các dạng chia ba, chia tư hay dạng trục 
chính ít gặp hơn. Đối với ngành động mạch đi 
sau bể thận, ngược lại, dạng trục chính chiếm ưu 
thế (78,95%). Điều này phần nào phù hợp với 
nghiên cứu của Trịnh Xuân Đàn(12). Năm 1966, 
Fine và Keen(4) mô tả các dạng phân nhánh của 
ngành động mạch sau bể thận, trong đó tỷ lệ các 
dạng trục chính, chia đôi và chia ba lần lượt là 
50%, 30% và 10%. Trong khi đó, chúng tôi chỉ 
mới ghi nhận được 2 dạng là dạng trục chính 
(78,95%) và dạng phân đôi (21,05%). Cả 2 nghiên 
cứu đều thống nhất dạng chia nhánh dạng trục 
chính là phổ biến nhất đối với ngành động mạch 
đi sau bể thận. 
Sự cấp máu cho nhu mô thận 
Bảng 5: So sánh sự cấp máu cho nhu mô thận. 
Vùng nhu 
mô 
Nguồn cấp máu Chúng tôi (%) 
Sampaio và 
Aragao
(8)(%) 
Cực trên 
Nhánh trước 57,50 
13,4 
Nhánh sau 17,50 
Cả hai 25,50 86,6 
Cực dưới 
Nhánh trước 47,50 62,2 
Nhánh sau 25,00 0,00 
Cả hai 27,50 37,8 
Giữa trước 
Nhánh trước 97,50 100,0 
Cả hai 2,50 _ 
Giữa sau 
Nhánh sau 97,50 100,0 
Cả hai 2,50 _ 
Nhìn chung, các nhánh đi trước đài bể thận 
có vùng cấp máu rộng hơn so với các nhánh đi 
sau đài bể thận. Nhánh trước bể thận tham gia 
cấp máu cho cực trên trong 83,00% trường hợp 
và tham gia cấp máu cho cực dưới trong 75% 
trường hợp. Trong khi đó, nhánh sau bể thận 
tham gia cấp máu cho cực trên trong 43% trường 
hợp và tham gia cấp máu cho cực dưới trong 
52,5% trường hợp. Đồng thời, đường kính ngành 
trước động mạch thận trong nhóm I lớn hơn 
ngành sau cũng góp phần khẳng định điều này. 
So với nghiên cứu của Sampaio và Aragao(8), 
nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng về 
nguồn cấp máu cho nhu mô thận vùng giữa 
trước và vùng giữa sau. Trong đó, hầu hết vùng 
giữa trước và vùng giữa sau được cấp máu từ 
nhánh trước và nhánh sau tương ứng. Điều này 
cũng dễ hiểu vì vị trí tương đối của các vùng 
nhu mô thận này và động mạch cấp máu cho 
chúng. Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận 1 trường 
hợp đặc biệt có nhu mô thận vùng giữa trước và 
vùng giữa sau được cấp máu bởi cả 2 phân 
nhánh trước và sau, trong đó mỗi phân nhánh 
cấp máu cho một nửa vùng nhu mô thận này. Sự 
cấp máu cho vùng nhu mô cực trên và cực dưới 
thận có sự khác biệt rõ ràng giữa 2 nghiên cứu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa phần các 
trường hợp vùng cực trên thận được cấp máu 
chỉ bởi phân nhánh trước (57,5%), chỉ 25% thận 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 296
được cấp máu bởi cả 2 phân nhánh trước và sau. 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Sampaio và 
Aragao, 86,6% thận có cực trên được cấp máu từ 
2 động mạch, trong đó 1 động mạch thuộc phân 
nhánh trước và 1 động mạch thuộc phân nhánh 
sau. Đối với cực dưới, cả 2 nghiên cứu đều cho 
thấy vùng này được cấp máu chỉ bởi phân 
nhánh trước chiếm tỷ lệ cao. Sampaio và Aragao 
không ghi nhận trường hợp nào cực dưới được 
cấp máu chỉ bởi nhánh sau, trong khi đó chúng 
tôi ghi nhận tỷ lệ của trường hợp này là 25%. 
Năm 1954, Graves dựa vào sự phân chia của 
động mạch thận đã đưa ra phân loại 5 động 
mạch phân thùy thận: động mạch phân thùy 
đỉnh, trước trên, trước giữa, dưới và động mạch 
phân thùy sau. Trong đó, Graves nhận thấy 
phân nhánh trước của động mạch thận chia 
thành động mạch phân thùy trên, giữa, dưới, 
phân nhánh sau trở thành động mạch phân thùy 
sau và động mạch phân thùy đỉnh thường xuất 
phát từ phân nhánh trước(5). Năm 1963, David 
Sykes nghiên cứu trên 71 khuôn đúc nhận thấy 
chỉ 83,1% động mạch thận phân nhánh thành 5 
động mạch phân thùy tương tự nghiên cứu của 
Graves và 16,9% trường hợp có 2 dạng phân 
nhánh khác (dạng động mạch thận chia 3, mỗi 
nhánh cấp máu cho 1/3 nhu mô thận, cả hai mặt 
trước, sau và dạng có 2 động mạch thận với kích 
thước tương tự nhau, có nguyên ủy từ động 
mạch chủ bụng)(11). Qua nghiên cứu, chúng tôi 
nhận thấy sự phân chia của động mạch thận 
chính khá đa dạng. Chúng tôi cũng ghi nhận các 
dạng động mạch như David Sykes, đồng thời 
phân nhánh trước vẫn có thể được phân nhánh 
dạng trục chính mà không tạo các động mạch 
phân thùy rõ ràng, như vậy, việc phân chia động 
mạch thận thành 5 động mạch phân thùy như 
Graves trở nên không phù hợp trong một tỷ lệ 
lớn các trường hợp. 
KẾT LUẬN 
Thận có thể có 1 động mạch thận chính 
(90%) hoặc nhiều động mạch thận chính (10%); 
5% trường hợp có 1 động mạch cực trên và 2,5% 
có 1 động mạch cực dưới xuất phát từ động 
mạch chủ bụng. 
Động mạch thận chính có thể phân nhánh 
tận ở ngoài xoang thận (77,78%), hay trong 
xoang thận(22,22%). 
Động mạch thận có thể được chia thành 3 
nhóm: 
Nhóm I: động mạch thận phân đôi 2 ngành 
trước sau bể thận (52,78%). 
Nhóm II: động mạch thận có nhánh bên và 
phân đôi 2 ngành trước sau bể thận (25,00%). 
Nhóm III: động mạch thận chia ba hoặc chia 
tư (22,22%). 
Trong nhóm I, ngành động mạch đi trước bể 
thận phân nhánh theo 4 dạng: dạng chia đôi 
chiếm ưu thế (47,37%), dạng chia ba (26,32%), 
dạng chia tư (10,53%) và dạng trục chính 
(15,79%). Ngành động mạch đi sau bể thận phân 
nhánh theo 2 dạng: dạng trục chính chiếm ưu 
thế (78,95%) và dạng phân đôi (21,05%). Đường 
kính ngành trước lớn hơn ngành sau. 
Trong nhóm II, động mạch thận có thể có 1 
nhánh bên (88,89%) hoặc 2 nhánh bên (11,11%) 
tách sớm trước khi chia thành 2 ngành động 
mạch đi trước và sau đài bể thận. 
Trong nhóm III, 87,50% trường hợp động 
mạch thận chia ba và 12,5% chia tư. Động mạch 
thận chia ba có dạng: 2 nhánh đi trước kèm 1 
nhánh đi sau đài bể thận chiếm ưu thế (85,71%) 
và dạng 1 nhánh đi trước kèm 2 nhánh đi sau đài 
bể thận (14,29%). 
Các trường hợp có 2 động mạch thận chính, 
đều có 1 động mạch khi vào rốn thận, trong 
xoang thận, đi trước đài bể thận và 1 động mạch 
đi sau đài bể thận. 
Vùng cấp máu của nhánh trước bể thận rộng 
hơn nhánh sau bể thận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Budhiraja V, Rastogi R, and Asthana AK (2010), “Renal artery 
variations: embryological basis and surgical correlation”, Rom 
J Morphol Embryol, 51(3), pp. 533 – 536. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 297
2. Bùi Văn Mạnh (2015), “Nghiên cứu các dạng động mạch thận 
trong cuống thận ở người sống hiến thận tại bệnh viện quân y 
103”, Tạp chí Y – Dược học quân sự, số 4 – 2015, tr. 120 – 124. 
3. Daescu E, Zahoi DE, et al (2012), “Morphological variability of 
the renal artery branching pattern: a brief review and an 
anatomical study”, Rom J Morphol Embryol, 53(2), pp. 287 – 
291. 
4. Fine H, and Keen EN (1966), “The arteries of the human 
kidney”, Journal of Anatomy, 100(4), pp. 881 – 894. 
5. Graves FT (1954), “The anatomy of the intrarenal arteries and 
its application to segmental resection of the kidney”, British 
Journal of Surgery, 42(172), pp. 132 – 139. 
6. Kyle W, Bhayani SB, et al (2005), “Extrarenal vascular 
anatomy of kidney: Assessment of variations and their 
relevance to partial nephrectomy”, Urology, 66(5), pp. 985 – 
989. 
7. Rocco F, Cozzi LA, and Cozzi G (2015), “Study of the renal 
segmental arterial anatomy with contrast-enhanced multi-
detector computed tomography”, Surg Radiol Anat, 37(5), pp. 
517 – 526. 
8. Sampaio FJ, and Aragao AH (1990), “Anatomical relationship 
between the intrarenal arteries and the kidney collecting 
system”, Journal of Urology, 143, pp. 679 – 681. 
9. Sampaio FJ, and Passos MA (1992), “Renal arteries: anatomic 
study for surgical and radiological practice”, Surg Radiol Anat, 
14, pp. 113 – 117. 
10. Shoja MM, Tubbs RS, et al (2008), “Peri-hilar branching 
patterns and morphologies of the renal artery: a review and 
anatomical study”, Surg Radiol Anat, 30, pp. 375 – 382. 
11. Sykes D (1963), “The arterial supply of the human kidney with 
special reference to accessory renal arteries”, British Journal of 
Surgery, 50(222), pp. 368 – 374. 
12. Trịnh Xuân Đàn (1999), Nghiên cứu giải phẫu hệ thống bể đài 
thận và mạch máu, thần kinh thận của người Việt Nam trưởng 
thành, Luận án tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, tr. 39 – 
76. 
13. Trịnh Xuân Đàn và Lê Gia Vinh (1995), “Góp phần nghiên 
cứu mạch máu cuống thận người Việt Nam trưởng thành”, 
Hình thái học, tập 5, tr. 14 – 15. 
14. Trịnh Xuân Đàn và Lê Văn Minh (1996), “Nghiên cứu dạng có 
nhiều động mạch thận”, Hình thái học, tập 6(1), tr. 32 – 34 
15. Võ Văn Hải và Dương Văn Hải (2007), “Một số đặc điểm giải 
phẫu mạch máu thận trong cuống thận và rốn thận người Việt 
Nam”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 11(1), tr. 488 – 495. 
Ngày nhận bài báo: 21/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017