Ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm nucleic acid (NAT) trong sàng lọc máu tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy - Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM

Tài liệu Ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm nucleic acid (NAT) trong sàng lọc máu tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy - Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 107 ỨNG DỤNG KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM NUCLEIC ACID (NAT) TRONG SÀNG LỌC MÁU TẠI TRUNG TÂM TRUYỀN MÁU CHỢ RẪY -BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TP.HCM Phạm Lê Nhật Minh*, Trần Văn Bảo*, Nguyễn Trường Sơn*, Phan Thị Mỹ Kim*, Nguyễn Thị Kiều*, Trần Thị Thanh Nhàn*, Nguyễn Quốc Bình* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm Nucleic Acid (NAT) đối với HBV, HCV và HIV ở người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy-Bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng: Gồm 156.352 mẫu máu của người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy từ tháng 07/2015 đến 12/2016. Phương pháp: Mô tả cắt ngang, hồi cứu. Kết quả: Trong 156.352 mẫu máu từ người hiến máu tình nguyện được xét nghiệm bằng phương pháp huyết thanh học, phát hiện 1345 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ lần lượt với HBV: 0,59%; HCV: 0,14% và HIV: 0,13%. Từ đó, 151.194 mẫu máu âm tính với phương pháp huyết thanh học được xét nghiệm NAT, phát h...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 57 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm nucleic acid (NAT) trong sàng lọc máu tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy - Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 107 ỨNG DỤNG KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM NUCLEIC ACID (NAT) TRONG SÀNG LỌC MÁU TẠI TRUNG TÂM TRUYỀN MÁU CHỢ RẪY -BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TP.HCM Phạm Lê Nhật Minh*, Trần Văn Bảo*, Nguyễn Trường Sơn*, Phan Thị Mỹ Kim*, Nguyễn Thị Kiều*, Trần Thị Thanh Nhàn*, Nguyễn Quốc Bình* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm Nucleic Acid (NAT) đối với HBV, HCV và HIV ở người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy-Bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng: Gồm 156.352 mẫu máu của người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy từ tháng 07/2015 đến 12/2016. Phương pháp: Mô tả cắt ngang, hồi cứu. Kết quả: Trong 156.352 mẫu máu từ người hiến máu tình nguyện được xét nghiệm bằng phương pháp huyết thanh học, phát hiện 1345 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ lần lượt với HBV: 0,59%; HCV: 0,14% và HIV: 0,13%. Từ đó, 151.194 mẫu máu âm tính với phương pháp huyết thanh học được xét nghiệm NAT, phát hiện thêm 136 mẫu dương tính với HBV-DNA chiếm tỷ lệ 0,09% (1/1.112), 1 mẫu dương tính với HIV-RNA ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007% (1/151.194) và 1 mẫu dương tính với HCV-RNA ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007% (1/151.194). Kết luận: Áp dụng kỹ thuật xét nghiệm NAT là cần thiết và hiệu quả vì giúp phát hiện sớm sự hiện diện HBV-DNA, HCV-RNA và HIV-RNA trong mẫu thử bằng việc rút ngắn giai đoạn cửa sổ, đồng thời làm giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm các vi rút qua đường truyền máu để từ đó đảm bảo sự an toàn cho bệnh nhân khi truyền máu. Từ khóa: huyết thanh học, Nucleic Acid Testing (NAT) ABSTRACT APPLYING NUCLEIC ACID TESTING (NAT) TO SCREENING HBV, HCV AND HIV FOR BLOOD DONORS AT CHO RAY BLOOD TRANSFUSION CENTER- CHO RAY HOSPITAL Pham Le Nhat Minh, Tran Van Bao, Nguyen Truong Son, Phan Thi My Kim, Nguyen Thi Kieu, Tran Thi Thanh Nhan, Nguyen Quoc Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 3 - 2017: 107 - 114 Objective: Evaluation on applying NAT to screening HBV, HCV and HIV for blood donors at Cho Ray Blood Transfusion Center (Cho Ray BTC)- Cho Ray Hospital. Subjects: 156,352 blood samples from blood donors at Cho Ray BTC from July, 2015 to December, 2016. Methods: Retrospective, descriptive statistic. Performing serology and NAT to screening blood samples. Results: 156,352 blood samples screened by serology method, we detected 1,345 positive samples. The percentage of HBV; HCV; HIV respectively: 0.59%; 0.14%; 0.13%. Then 151,194 negative samples with serology method were tested by NAT. There were 136 positive samples detected with HBV-DNA (0.09%), 1 case detected with HIV-RNA (0.0007%) in window period and 1 case also detected with HCV-RNA (0.0007%) in window * * Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy- Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM Tác giả liên lạc: ThS. Phạm Lê Nhật Minh ĐT: 0919223989 Email: stevenminh79@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 108 period. Conclusions: By shorten window period, NAT is really an effective solution to screening blood donor to ensure the safety on blood transfusion. Key words: serology, Nucleic Acid Testing (NAT) ĐẶT VẤN ĐỀ An toàn trong truyền máu là một nội dung quan trọng luôn được quan tâm trong dịch vụ truyền máu. Khái niệm An toàn trong truyền máu được hiểu chung nhất là đảm bảo an toàn cho người hiến tặng máu, bệnh nhân, người làm công tác truyền máu và đặc biệt không để lây nhiễm các bệnh qua đường máu cho các đối tượng trên. Từ trước đến nay, chúng ta đã áp dụng phương pháp huyết thanh học với nhiều kỹ thuật để sàng lọc máu, ví dụ như kỹ thuật miễn dịch gắn men (ELISA), miễn dịch vi hạt hoá phát quang (CMIA)...Tuy nhiên, hạn chế của các kỹ thuật này chính là chưa rút ngắn được giai đoạn cửa sổ vì vậy vẫn chưa thật sự đảm bào sự an toàn trong truyền máu(2,3). Việc ứng dụng phương pháp sinh học phân tử với kỹ thuật xét nghiệm Nucleic Acid (NAT) trong sàng lọc máu sẽ góp phần nâng cao an toàn trong truyền máu bằng cách phát hiện sớm chất liệu di truyền của vi rút và rút ngắn giai đoạn cửa sổ trong nhiễm các vi rút gây viêm gan siêu vi B (HBV), viêm gan siêu vi C (HCV) và vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV)(1,8). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Gồm 156.352 mẫu máu của người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy- Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 07/2015 đến 12/2016. Vật liệu, thuốc thử và trang thiết bị -5 ml máu đông và 6 ml máu chống đông EDTA của người hiến máu -Bộ sinh phẩm xét nghiệm HBV, HCV và HIV của Murex bằng kỹ thuật miễn dịch gắn men (ELISA) trên hệ thống xét nghiệm miễn dịch tự động ETIMAX. -Bộ sinh phẩm xét nghiệm HBV, HCV và HIV của Abbott bằng kỹ thuật miễn dịch vi hạt hoá phát quang (CMIA) trên hệ thống xét nghiệm tự động Architect I2000SR của Abbott. -Bộ sinh phẩm xét nghiệm NAT multiplex phát hiện đồng thời chất liệu di truyền của HBV (HBV-DNA), HCV (HCV-RNA) và HIV (HIV- RNA) bằng hệ thống phân tích tự động cobas® TaqScreen MPX, phiên bản 2.0 của Roche. -Sinh phẩm định lượng enzyme Alanine Amino Transferase (ALT) được tiến hành bằng kỹ thuật đo động học enzyme trên hệ thống máy sinh hoá tự động Advia 1800 của Siemens. Phương pháp nghiên cứu Mô tả cắt ngang, hồi cứu Thực hiện xét nghiệm kháng nguyên HBsAg, kháng nguyên-kháng thể HCV, kháng nguyên-kháng thể HIV cho tất cả các mẫu máu bằng phương pháp Huyết thanh học. Chỉ những mẫu thử có kết quả âm tính với phương pháp huyết thanh học sẽ được xét nghiệm bằng phương pháp sinh học phân tử với kỹ thuật xét nghiệm NAT multiplex phát hiện đồng thời DNA của HBV, RNA của HCV và HIV-1, HIV-2. KẾT QUẢ Kết quả xét nghiệm HBV, HCV, HIV bằng phương pháp huyết thanh học Bảng1: Kết quả HBV, HCV và HIV bằng PP. Huyết thanh học. Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm HBV của người hiến máu tình nguyện khi xét nghiệm bằng phương Vi rút Số mẫu thử Mẫu Dương tính Mẫu Âm tính Số mẫu (+) Tỷ lệ % Số mẫu (-) Tỷ lệ % HBV 156.35 2 923 0,59 155.429 99,41 HCV 223 0,14 156.129 99,86 HIV 199 0,13 156.153 99,87 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 109 pháp huyết thanh học chiếm tỷ lệ cao nhất là 0,59%; tỷ lệ nhiễm HCV là 0,14% và HIV là 0,13%. Kết quả xét nghiệm HBV-DNA, HCV- RNA, HIV-RNA bằng phương pháp sinh học phân tử (kỹ thuật xét nghiệm NAT) Trong 156.352 mẫu thử được xét nghiệm HBV, HCV và HIV bằng phương pháp huyết thanh học, chúng tôi phát hiện 1.345 mẫu thử dương tính. Từ đó, 151.194 mẫu thử có kết quả âm tính với HBV, HCV và HIV bằng phương pháp huyết thanh học được tiếp tục thực hiện xét nghiệm NAT. Kết quả xét nghiệm HBV-DNA Bảng 2: Kết quả xét nghiệm HBV-DNA. Nhận xét: Trong 151.194 mẫu thử xét nghiệm HBV-DNA, chúng tôi phát hiện 136 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ 136/151.194 (0,09%). Kết quả xét nghiệm HCV-RNA Bảng 3: Kết quả xét nghiệm HCV-RNA. Số mẫu thử HCV-RNA Tỷ lệ nhiễm Số mẫu (+) Số mẫu thử (-) 151.194 01 151.193 1/151.194 (0,0007%) Nhận xét: Trong 151.194 mẫu thử xét nghiệm HCV-RNA, chúng tôi phát hiện 01 mẫu dương tính ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 1/151.194 (0,0007%). Kết quả xét nghiệm lần đầu Bảng 4: Kết quả xét nghiệm HCV bằng PP. Huyết thanh học và sinh học phân tử lần 1. Phương pháp xét nghiệm Phương pháp Huyết thanh học Phương pháp Sinh học phân tử ELISA CMIA HCV-RNA Kết quả Âm tính Âm tính Dương tính Nhận xét: Kết quả xét nghiệm HCV bằng các kỹ thuật của phương pháp huyết thanh học đều cho kết quả âm tính. Riêng kỹ thuật NAT cho kết quả Dương tính với HCV ở chu kỳ 37,7. Biểu đồ 1:Kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm HCV-RNA lần đầu. Nhận xét: Biểu đồ 1 thể hiện kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm NAT ở lần lấy mẫu đầu, nhận thấy HCV được phát hiện ở chu kỳ 37,7 so với đối chứng nội được phát hiện ở chu kỳ 35,7. Xét nghiệm định lượng enzyme Alanine Amino Transferase (ALT) lần 1 Bảng 5: Kết quả xét nghiệm enzyme ALT lần 1. Xét nghiệm Định lượng enzyme ALT Chỉ số bình thường Kết quả 11 U/L 5 49 U/L Nhận xét: Kết quả xét nghiệm định lượng enzyme ALT là 11U/L vẫn nằm trong ngưỡng bình thường. Kết quả xét nghiệm trên mẫu lấy lại lần 2 (cách lần đầu 2 tháng) Bảng 6: Kết quả xét nghiệm HCV bằng PP.Huyết thanh học và sinh học phân tử lần 2. PP.Xét nghiệm Phương pháp Huyết thanh học Phương pháp Sinh học phân tử ELISA CMIA HCV-RNA Kết quả Dương tính Dương tính Dương tính Nhận xét: Kết quả xét nghiệm HCV bằng phương pháp huyết thanh học và sinh học phân tử ở lần lấy mẫu thứ hai cách lần lấy mẫu đầu 2 tháng đều cho kết quả Dương tính với HCV. Số mẫu thử HBV-DNA Tỷ lệ nhiễm Số mẫu (+) Số mẫu (-) 151.194 136 151.058 136/151.194(0,09 %) 1/1.112 Cường độ huỳnh quang HCV Đối chứng nội Chu kỳ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 110 Biểu đồ 2: Kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm HCV-RNA lần 2 Nhận xét: Qua biểu đồ 2 thể hiện kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm NAT ở lần lấy mẫu thứ hai cách lần lấy mẫu đầu 2 tháng, nhận thấy HCV được phát hiện ở chu kỳ 34,3 so với đối chứng nội được phát hiện ở chu kỳ 35,4. Xét nghiệm định lượng enzyme Alanine Amino Transferase (ALT) lần 2. Bảng 7: Kết quả xét nghiệm enzyme ALT lần 2. Xét nghiệm Định lượng enzyme ALT Chỉ số bình thường Kết quả 11 U/L 5 49 U/L Nhận xét: Kết quả xét nghiệm định lượng enzyme ALT là 11U/L vẫn nằm trong ngưỡng chỉ số bình thường. Kết quả xét nghiệm HIV-RNA Nhận xét (Bảng 8): Trong 151.194 mẫu thử xét nghiệm HIV-RNA, chúng tôi phát hiện 01 mẫu dương tính ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 1/151.194 (0,0007%). Bảng 8: Kết quả xét nghiệm HIV-RNA Số mẫu thử HIV-RNA Tỷ lệ nhiễm Số mẫu (+) Số mẫu (-) 151.194 01 151.193 1/151.194 ((0,0007%) Kết quả xét nghiệm lần đầu Bảng 9: Kết quả xét nghiệm HIV bằng bằng PP.Huyết thanh học và sinh học phân tử lần 1. PP.Xét nghiệm Phương pháp Huyết thanh học Phương pháp Sinh học phân tử ELISA CMIA HIV-RNA Kết quả Âm tính Âm tính Dương tính Nhận xét: Kết quả xét nghiệm HIV bằng PP.Huyết thanh học cho kết quả âm tính. Riêng kỹ thuật xét nghiệm NAT cho kết quả Dương tính với HIV ở chu kỳ 34,1. Biểu đồ 3:.Kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm NAT lần 1 Nhận xét: Qua biểu đồ 3 thể hiện kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm NAT ở lần lấy mẫu đầu nhận thấy HIV được phát hiện ở chu kỳ 34,1 so với đối chứng nội được phát hiện ở chu kỳ 34,6. Kết quả xét nghiệm trên mẫu lấy lại lần 2(cách lần đầu 09 ngày) Nhận xét (bảng 10): Kết quả xét nghiệm HIV bằng PP.Huyết thanh học và sinh học phân tử ở lần lấy mẫu thứ hai cách lần lấy mẫu đầu 9 ngày đều cho kết quả Dương tính với HIV. Bảng 10: Kết quả xét nghiệm HIVbằng PP.Huyết thanh học và sinh học phân tử lần 2. PP.Xét nghiệm Phương pháp Huyết thanh học Phương pháp Sinh học phân tử ELISA CMIA HIV-RNA Kết quả Dương tính Dương tính Dương tính Cường độ huỳnh quang Chu kỳ HCV Đối chứng nội Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 111 Biểu đồ 4: Kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm NAT lần 2. Nhận xét: Qua biểu đồ 4 thể hiện kết quả đo của kỹ thuật xét nghiệm NAT ở lần lấy mẫu thứ hai cách lần lấy mẫu đầu 9 ngày, nhận thấy HIV được phát hiện ở chu kỳ 19,2 so với đối chứng nội được phát hiện ở chu kỳ 35,3. BÀN LUẬN Kết quả xét nghiệm HBV, HCV, HIV bằng phương pháp huyết thanh học Trong 156.352 mẫu máu xét nghiệm sàng lọc HBV, HCV và HIV bằng phương pháp huyết thanh học, tỷ lệ nhiễm HBV là 0,59%, HCV là 0,14% và HIV là 0,13%. Tỷ lệ nhiễm HBV trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả của tác giả Phạm Tuấn Dương tại Hà Nội (0,94%)(17); tác giả Trần Thị Thúy Hồng tại Đà Nẵng (1,22%)(21), tác giả Trương Thị Kim Dung tại TP.HCM (2,69%) (22); tác giả Nguyễn Văn Nghĩa ở Cần Thơ (4,53%)(10) và thấp hơn so với những kết quả nghiên cứu mà chúng tôi và đồng nghiệp thực hiện năm 2014, 2015(11,14,15), có thể do hiện nay chúng tôi đang áp dụng xét nghiệm nhanh kháng nguyên bề mặt HBV (HBsAg) ở người hiến máu lần đầu trước khi tiếp nhận máu và các chiến lược tuyên truyền, vận động người hiến máu tự sàng lọc mình trước khi hiến máu thật sự phát huy tính hiệu quả. Tỷ lệ nhiễm HCV trong nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Tuấn Dương ở Hà Nội (0,33%)(17), tác giả Trương Thị Kim Dung ở TP.HCM (0,275%)(22) có thể do sự khác biệt về vùng miền,phạm vi tiếp nhận máu. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Nghĩa ở Cần Thơ (0,07%)(10); tác giả Phạm Tuấn Dương tại Hà Nội (0,12%)(17) có thể là do phạm vi nghiên cứu của chúng tôi tại TP.HCM và 5 tỉnh miền Đông Nam bộ vốn là trung tâm về kinh tế, du lịch của cả nước, có tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh, đi kèm với sự phát triển về kinh tế là sự phát sinh của nhiều tệ nạn xã hội nên tỷ lệ nhiễm HIV có thể cao hơn các địa phương khác. Kết quả xét nghiệm HBV-DNA, HCV- RNA, HIV-RNA bằng phương pháp sinh học phân tử (kỹ thuật xét nghiệm NAT) Trong 151.194 mẫu máu đã có kết quả âm tính với HBV, HCV và HIV bằng phương pháp huyết thanh học, khi tiến hành xét nghiệm NAT, chúng tôi phát hiện thêm 136 trường hợp dương tính HBV-DNA chiếm tỷ lệ 0,09% (1/1.112); 01 trường hợp dương tính HIV-RNA ở giai đoạn của sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007% (1/151.194) và 01 trường hợp dương tính với HCV-RNA cũng vào giai đoạn của sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007% (1/151.194). Kết quả xét nghiệm HBV-DNA Tỷ lệ phát hiện HBV-DNA trong nghiên cứu của chúng tôi là 136/151.194, tương đương với tỷ lệ 1/1.112, thấp hơn so với tác giả Phan Nguyễn Thanh Vân tại TP.HCM với tỷ lệ HBV–DNA dương tính là 10/10.349(18); tác giả Đoàn Thành ở Huế với tỷ lệ dương tính HBV-DNA là 0, 109%(5); tác giả Nguyễn Thị Thanh Dung ở Hà Nội với tỷ lệ dương tính HBV-DNA là 1/1.028(9) và cao hơn so các tác giả nước ngoài: tác giả H. Ohnuma tại Nhật là 112/6.805.010(13); tác giả Hisham Abdelaziz Morsitại Ả Rập là 4/13.435(7); tác giả Soisaang Phikulsod tại Thái Lan là 1/2800(19). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 112 Điều này có thể lý giải là do Việt Nam nằm trong vùng dịch tể viêm gan B với tỷ lệ nhiễm HBV trong dân số khá cao (10-15%)(4). Kết quả xét nghiệm HCV-RNA Trong nghiên cứu này, chúng tôi phát hiện được 1 trường hợp dương tính với HCV-RNA ở giai đoạn cửa sổ. Ở mẫu thử đầu, chúng tôi sử dụng phương pháp huyết thanh học với các kỹ thuật ELISA và CMIA để tầm soát HCV nhưng vẫn không phát hiện được sự hiện diện của HCV trong mẫu thử. Tuy nhiên, chúng tôi đã phát hiện sự hiện diện của HCV bằng phương pháp sinh học phân tử với kỹ thuật xét nghiệm NAT ở chu kỳ 37,7. Do giai đoạn chuyển đổi huyết thanh của HCV khá phức tạp, khoảng 95% người nhiễm HCV không có các biểu hiện lâm sàng rõ ràng vì vậy rất khó để xác định nhiễm HCV trong thời kỳ cửa sổ. Có một yếu tố giúp bác sĩ điều trị nghĩ đến nhiễm HCV là chỉ số enzyme Alanine Amino Transferase (ALT) tăng cao do có sự phá hủy tế bào gan và làm chức năng gan bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chỉ số enzyme ALT của người cho máu vẫn nằm trong giới hạn bình thường, có thể đang trong giai đoạn đầu nhiễm HCV. Trong giai đoạn này, chỉ có thể phát hiện HCV bằng kỹ thuật xét nghiệm NAT(2,3). Vào 2 tháng sau, chúng tôi đã lấy mẫu lần 2 và kiểm tra đồng thời bằng hai phương pháp huyết thanh học và sinh học phân tử, kết quả ghi nhận được cả 2 phương pháp xét nghiệm này đều cho kết quả dương tính với HCV. Xét nghiệm chỉ số enzyme ALT vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Kết quả trên một lần nữa khẳng định kỹ thuật xét nghiệm NAT đã giúp phát hiện người cho máu nhiễm HCV ở giai đoạn cửa sổ. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh Dung tại Hà Nội với tỷ lệ HCV-RNA dương tính là 1/131.949(9); tác giả Đoàn Thành tại Huế là 0,007%(5) có thể do sự khác biệt về vùng miền và cao hơn so với các tác giả nước ngoài khác.Theo nghiên cứu của các tác giả ngoài nước, tỷ lệ phát hiện HCV-RNA bằng kỹ thuật xét nghiệm NAT sau khi đã có kết quả xét nghiệm bằng phương pháp huyết thanh học âm tính cũng rất thấp. Nghiên cứu của tác giả H. Ohnuma tại Nhật là 25/6.805.010(13); tác giả R Offergeld tại Đức là 1/4.400.000(12); tác giả Susan L. Stramer tại Mỹ là 1/230.000(20); tác giả Soisaang Phikulsod tại Thái Lan là 1/490.000(19). Kết quả xét nghiệm HIV-RNA Qua nghiên cứu này, chúng tôi phát hiện 01 trường hợp dương tính HIV-RNA ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007 %. Đây là trường hợp đầu tiên chúng tôi phát hiện nhiễm HIV ở giai đoạn cửa sổ bằng kỹ thuật xét nghiệm NAT tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Tại lần đầu lấy mẫu, xét nghiệm NAT đã phát hiện HIV-RNA dương tính, các kỹ thuật xét nghiệm khác bằng phương pháp huyết thanh học đều cho kết quả âm tính. Vào 9 ngày sau, chúng tôi đã lấy mẫu và xét nghiệm lại thì đều phát hiện HIV dương tính ở cả kỹ thuật xét nghiệm NAT, ELISA và CMIA(16). Tỷ lệ nhiễm HIV-RNA trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh Dung (1/131.949)(9) và cao hơn các nghiên cứu của tác giả ngoài nước có thể là do phân bố vùng dịch tể khác nhau, tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng Việt Nam vẫn còn cao. Theo nghiên cứu của tác giả H. Ohnuma tại Nhật, tỷ lệ HIV-RNA dương tính là 4/6.805.010(13), tác giả Susan L. Stramer tại Mỹ là 1/3.100.000(20). Như vậy, qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ áp dụng phương pháp huyết thanh học vào trong xét nghiệm trước truyền máu như hiện nay là chưa đủ và chưa đảm bảo an toàn cho bệnh nhân khi truyền máu. Qua nghiên cứu này, chúng tôi phát hiện phương pháp huyết thanh học đã bỏ sót 138 trường hợp Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 113 nhiễm HBV, HCV và HIV. Nếu như không tiến hành xét nghiệm NAT của HBV, HCV và HIV, chúng tôi không thể nào phát hiện sự hiện diện sớm của vi rút và sẽ đem những đơn vị máu này truyền cho bệnh nhân. Xét nghiệm NAT với tính năng vượt trội là phát hiện sớm chất liệu di truyền của vi rút khi chúng xâm nhập vào cơ thể, vì vậy đã rút ngắn giai đoạn cửa sổ. Thời gian phát hiện sự hiện diện của vi rút bằng kỹ thuật xét nghiệm NAT đối với HIV là 11 ngày, HBV là 25 ngày và HCV là 59 ngày(6). Chính nhờ vậy mà chúng tôi đã phát hiện sớm sự hiện diện của HBV ở 136 trường hợp, 1 trường hợp nhiễm HCV và 1 trường hợp nhiễm HIV mà phương pháp huyết thanh học không phát hiện được, đồng thời ngăn chặn kịp thời sự lây truyền các vi rút trên cho bệnh nhân khi truyền máu. Điều này đã khẳng định ưu thế của xét nghiệm NAT so với phương pháp huyết thanh học và sự cần thiết của việc ứng dụng xét nghiệm NAT trong sàng lọc máu, từ đó giúp chúng tôi chọn ra những đơn vị máu, chế phẩm an toàn nhất để truyền cho bệnh nhân. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu với 156.352 mẫu máu từ người hiến máu tình nguyện được xét nghiệm bằng phương pháp huyết thanh học, chúng tôi phát hiện 1.345 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ lần lượt với HBV, HCV, HIV là 0,59%; 0,14%; 0,13%. Từ đó, 151.194 mẫu máu âm tính với phương pháp huyết thanh học được xét nghiệm NAT, phát hiện thêm 136 mẫu dương tính với HBV- DNA chiếm tỷ lệ 0,09% (1/1.112); 1 mẫu dương tính với HIV-RNA ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007% (1/151.194) và 1 mẫu dương tính với HCV-RNA cũng ở giai đoạn cửa sổ, chiếm tỷ lệ 0,0007% (1/151.194). Như vậy, xét nghiệm NAT thực sự phát huy tính hiệu quả khi ứng dụng vào trong xét nghiệm sàng lọc máu, góp phần quan trọng trong việc làm giảm thiểu các yếu tố nguy cơ nhờ phát hiện sớm sự hiện diện của vi rút và làm tăng sự an toàn cho bênh nhân khi truyền máu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế (2013). Thông tư 26/2013/TT-BYT ngày 19/06/2013. Hướng dẫn hoạt động truyền máu. 2. Bùi Thị Mai An (2004). Các bệnh nhiễm trùng truyền qua đường máu và an toàn truyền máu. Bải giảng Huyết học-Truyền máu. Trường đại học Y Hà Nội. Bộ môn Huyết học-Truyền máu, Nhà xuất bản y học. pp. 275-285. 3. Bùi Thị Mai An, Nguyễn Anh Trí (2014). Những phát minh và tiến bộ trong lĩnh vực bảo đảm an toàn truyền máu trên thế giới và tại Việt Nam. Môt số chuyên đề Huyết học-Truyền máu, Nhà xuất bản y học,Tập V. pp. 38-49. 4. Đỗ Trung Phấn (2012). Bệnh nhiễm trùng truyền qua đường truyền máu. Truyền máu hiện đại: Cập nhật và ứng dụng trong điều trị bệnh. Nhà xuất bản giáo dục. pp. 273-370. 5. Đoàn Thành, Nguyễn Duy Thăng, Đồng Sỹ Sằng, Nguyễn Thị Bích Tuyết, Trương Quốc Phong (2016). Khảo sát tỷ lệ dương tính HBV, HCV và HIV ở người hiến máu tình nguyện sau khi bổ sung xét nghiệm NAT tại Trung tâm truyền máu khu vực Huế. Tạp chí y học Việt Nam. Tập 446. Số đặc biệt tháng 09/2016. pp. 57-64. 6. J. Coste, C.Defer, C.Saura (1999). Routine experience and future development of virus NAT application. Molecular biology in blood transfusion: pp. 105-110. 7. Morsi H., MD (2011). Routine Use of Mini-Pool Nucleic Acid Testing (MP-NAT) Multiplex Assay for Sero-Negative Blood Donors-Journal of the Egyptian Society of Haematology & Research, Vol. 7, No. 2. 8. Nguyễn Anh Trí (2010). Chuyên khoa Huyết học-Truyền máu Việt Nam trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển. Môt số chuyên đề Huyết học-Truyền máu, Nhà xuất bản y học, Tập III. pp. 7-21. 9. Nguyễn Thị Thanh Dung, Trần Vân Chi, Trần Thị Thuý Lan, Trần Thị Hoài Thu, Hoàng Văn Phương, Nguyễn Thị Huyền Trang, Phạm Tuấn Dương, Nguyễn Anh Trí (2016). Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật NAT sàng lọc các tác nhân lây truyền qua đường máu tại Viện Huyết học-Truyền máu TW. Tạp chí y học Việt Nam. Tập 446. Số đặc biệt tháng 09/2016. pp. 116-126. 10. Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Xuân Việt, Lê Hoàng Oanh (2014). Khảo sát tình hình hiến máu tình nguyện tại bệnh viện Huyết học -Truyền máu Cần Thơ năm 2013. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành Huyết học-Truyền máu, Tạp chí y học tháng 10-Số đặc biệt/2014.pp. 7-14. 11. Nhữ Thị Dung (2015). Nghiên cứu đặc điểm nhân khẩu học và tỷ lệ nhiễm một số bệnh lây nhiễm qua đường truyền máu ở người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp 2. pp. 39-84. 12. Offergeld R, Faensen D, Ritter S, Hamouda O (2005). Department for Infectious Disease Epidemiology, Robert Koch Institute, Berlin, Germany. Surveillance report. Human immunodeficiency virus, hepatitis C and hepatitis B infections among blood donors in Germany 2000-2002: risk of virus transmission and the impact of nucleic acid amplification testing-Euro surveillance, Volume 10, Issue 2, 01 February 2005. 13. Ohnuma H, et al (2001). The first large-scale nucleic acid amplification testing (NAT) of donated blood using multiplex reagent for simultaneous detection of HBV, HCV, and HIV-1 and significance of NAT for HBV. Microbiol Immunol 45: pp. 667-672. 14. Phạm Lê Nhật Minh, Nguyễn Thuý Hương, Trần Văn Bảo, Nguyễn Trường Sơn, Phan Thị Mỹ Kim, Nguyễn Thị Kiều, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 114 Trần Nhựt Điền, Đặng Tú Hoa, Trần Thị Phương Thu, Nguyễn Quốc Bình (2016). Đánh giá hiệu quả kỹ thuật xét nghiệm nucleic acid (NAT) đối với HBV, HCV và HIV ở người hiến máu tình nguyện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy-Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM. Tạp chí y học Việt Nam. Tập 446. Số đặc biệt tháng 09/2016. pp. 102-109. 15. Phạm Lê Nhật Minh, Nguyễn Thúy Hương, Trần Văn Bảo, Phan Thị Mỹ Kim, Nguyễn Thị Kiều (2015). Bước đầu đánh giá hiệu quả của kỹ thuật Nucleic Acid Testing (NAT) trong xét nghiệm vi rút viêm gan B, viêm gan C và HIV qua đường truyền máu tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Tạp chí y học TP.HCM. Phụ bản của tập 19, số 5, 2015. pp. 148-152. 16. Phạm Lê Nhật Minh, Nguyễn Thúy Hương, Trần Văn Bảo, Phan Thị Mỹ Kim, Nguyễn Thị Kiều (2015). Nhân một trường hợp phát hiện HIV trong giai đoạn cửa sổ bằng kỹ thuật Nucleic Acid Testing (NAT) tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Tạp chí y học TP.HCM. Tập 19, số 6. pp. 105-109. 17. Phạm Tuấn Dương, Nguyễn Thị Thanh Dung, Trần Vân Chi, Trần Thúy Lan, Đỗ Thị Hiền, Nguyễn Thị Hương, Trần Quang Nhật, Hoàng Văn Phương(2014). Kết quả xét nghiệm sàng lọc HBV, HCV, HIV, Giang Mai ở người hiến máu tại Viện Huyết học-Truyền máu TW năm 2012-2013, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành Huyết học-Truyền máu, Tạp chí y học tháng 10-Số đặc biệt/2014. pp. 45-49. 18. Phan Nguyễn Thanh Vân, Hoàng Thị Tuệ Ngọc, Nguyễn Châu Trưởng, Nguyễn Thị Như Nguyện, Phù Chí Dũng(2015). Bước đầu triển khai kỹ thuật khuếch đại acid nucleic (KT NAT) trong sàng lọc máu để phát hiện HIV, HCV và HBV tại Bệnh viện Truyền máu-Huyết học. Chuyên đề Truyền máu-Huyết học. Nhà xuất bản y học TP.HCM. pp. 373-376. 19. Soisaang Phikulsod, Sineenart Oota, et al(2009). One-year experience of nucleic acid technology testing for human immunodeficiency virustype 1, hepatitis C virus, and hepatitis B virus in Thai blood donations-TRANSFUSION Volume 49, June 2009: pp. 1126-1135. 20. Stramer SL,., Glynn SA, et al (2004). Detection of HIV-1 and HCV Infections among Antibody-Negative Blood Donors by Nucleic Acid–Amplification Testing.. N engl j med 351;8 www.nejm.org august 19, 2004. 21. Trần Thị Thúy Hồng, Nguyễn Hữu Thắng và Cs (2014). Đánh giá hiệu quả sử dụng test nhanh và ELISA HBsAg trong sàng lọc người hiến máu tại Đà Nẵng. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành Huyết học-Truyền máu. Tạp chí y học Việt Nam tháng 10-Số đặc biệt/2014. pp. 50-56. 22. Trương Thị Kim Dung, Phù Chí Dũng, Nguyễn Phước Bích Hạnh, Nguyễn Thị Tuyết Thu, Trần Thị Trang, Đào Ngọc Tuyền, Mai Thanh Truyền, Trần Thị Hân (2015). Nhận xét tình hình hoạt động của ngân hàng máu bệnh viện Truyền máu Huyết học TP.HCM trong 15 năm từ 2000-2014. Tạp chí y học TP.HCM. Phụ bản của tập 19, số 4, 2015. pp. 489-496. Ngày nhận bài báo: 29/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2016 Ngày bài báo được đăng: 15/05/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfung_dung_ky_thuat_xet_nghiem_nucleic_acid_nat_trong_sang_loc.pdf
Tài liệu liên quan