Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 23
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐƯỜNG ĐI CỦA LỒI CẦU 
TRONG MẶT PHẲNG ĐỨNG DỌC VỚI ĐƯỜNG CONG SPEE 
Lê Thị Phương Linh*, Trần Thị Nguyên Ny** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối liên quan giữa đường đi lồi cầu trong mặt 
phẳng đứng dọc với đường cong Spee. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 70 sinh viên Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí 
Minh. Tiến hành ghi trục với bộ ghi trục cơ học Quick – Axis lần lượt ở khớp thái dương hàm bên phải và trái 
trên các đối tượng này để ghi nhận đường đi lồi cầu, từ đó xác định góc đường đi lồi cầu (ĐĐLC) trong mặt 
phẳng đứng dọc. Sau đó tiến hành lấy dấu, đổ mẫu hàm, chụp ảnh mẫu hàm từ phía bên của mẫu hàm hàm dưới 
để xác định bán kính và độ sâu đường cong Spee. Các số liệu của nghiên cứu được thu thập và xử lý bằng phần 
mềm SPSS 16.0. Sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. 
Kết quả: Nghiên cứu chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa góc ĐĐLC trong mặt phẳng 
đứng dọc với bán kính và độ sâu đường cong Spee. 
Kết luận: Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa ĐĐLC trong mặt phẳng đứng dọc với 
đường cong Spee. 
Từ khóa: đường đi lồi cầu, góc đường đi lồi cầu trong mặt phẳng đứng dọc, đường cong Spee. 
ABSTRACT 
RELATIONSHIP BETWEEN THE CONDYLAR PATH AND CURVE OF SPEE IN SAGITAL PLANE 
Le Thi Phuong Linh, Tran Thi Nguyen Ny 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 23 - 29 
Objectives: This study was carried out in order to investigate the relationship between the condylar path 
and curve of Spee in sagital plane. 
Method: With a cross-sectional study design, the sample consisted of 70 students of the University of 
Medicine and Pharmacy of HCM city (36 boys, 34 gỉrls), protrusion movements were recorded by using the 
Quick – Axis mechanical axiography on the right and left temporomandibular joint to calculate condylar path 
inclination angle (CPIA) in sagittal plane. The curve of Spee was measured as the perpendicular distance between 
the camera and the cusp tip of the second premolar of the mandibular dental cast. Statistical processing and data 
analysis was performed using SPSS version 16.0 statistic program. The difference is statistically significant if 
p<0.05. 
Results: No significant relationship was found between neither the depth of curve of Spee and CPIA nor the 
radius of curve of Spee and CPIA. 
Conclusion: No significant relationship was found between the curve of spee and condylar path in sagital 
plane. 
Key word: condylar path, condylar path inclination angle (CPIA), curve of Spee. 
*Khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
**Bộ môn NKCS, Khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS. Trần Thị Nguyên Ny ĐT: 0166 201 9680 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 24
MỞ ĐẦU 
Trong nha khoa phục hồi, việc tái lập khớp 
cắn để nâng đỡ và giữ được sự hài hòa với các 
cấu trúc khớp thái dương hàm (TDH) là một đòi 
hỏi quan trọng. Phục hình thực hiện được chức 
năng tốt một phần nhờ vào sự mô phỏng đường 
đi lồi cầu của bệnh nhân trên giá khớp, điều này 
cho phép bác sĩ lâm sàng đánh giá tương quan 
của lồi cầu khi hàm dưới vận động và tái tạo đặc 
điểm giải phẫu mặt nhai răng sau để giúp phục 
hồi lại khớp cắn mà không bị cản trở(8). 
Trên bộ răng tự nhiên lí tưởng, đường cong 
Spee tồn tại cho phép sự hài hòa của răng trước 
và hướng dẫn lồi cầu(3). Theo Spee, chính nhờ 
hình thể cong dạng hình cung của mặt nhai trên 
cung răng và sự hoàn chỉnh cấu tạo của lồi khớp 
đã giúp hàm có được chuyển động theo chiều 
trước sau trong quá trình thực hiện chức năng 
ăn, nhai, nuốt(9). 
Áp dụng quy luật trên vào trong nha khoa 
phục hồi, việc tái lập khớp cắn để nâng đỡ và giữ 
được sự hài hòa với các cấu trúc khớp thái 
dương hàm là một đòi hỏi quan trọng. Phục hình 
thực hiện được chức năng tốt một phần nhờ vào 
sự mô phỏng đường đi lồi cầu của bệnh nhân 
trên giá khớp, điều này cho phép bác sĩ lâm sàng 
đánh giá tương quan của lồi cầu khi hàm dưới 
vận động và tái tạo đặc điểm giải phẫu mặt nhai 
răng sau để giúp phục hồi lại khớp cắn mà 
không bị cản trở. 
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này với mục tiêu xác định đánh giá mối 
liên quan giữa góc đường đi lồi cầu trong mặt 
phẳng đứng dọc với bán kính và độ sâu 
đường cong Spee. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu gồm 70 sinh viên Đại học Y 
Dược thành phố Hồ Chí Minh (36 nam, 34 nữ) 
độ tuổi từ 18 – 30, phù hợp với tiêu chuẩn của 
nghiên cứu từ tháng 11/2016 đến tháng 4/2017. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
 Khớp cắn Angle I. 
 Có bộ răng tự nhiên và khỏe mạnh. 
 Có đủ 28 răng vĩnh viễn trên cung hàm, 
không tính răng khôn. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bị dị tật bẩm sinh và dị hình do bệnh lí hoặc 
thói quen. 
Bị chấn thương hàm mặt. 
Có dấu hiệu hoặc triệu chứng rối loạn thái 
dương hàm. 
Đã hoặc đang điều trị chỉnh hình răng mặt. 
Có phục hình ở hàm dưới từ răng 3 trở về 
sau. 
Có trục đồ đường đi lồi cầu ra trước bất 
thường: 
Trục đồ không phải là đường cong liên tục, 
đều đặn xuống dưới và ra trước xuất phát từ gốc 
tọa độ. 
Trục đồ đường đi và về không trùng nhau. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Vật liệu và phương tiện nghiên cứu 
Alginate lấy dấu GC Aroma Fine Plus. 
Thạch cao GC New Platone. 
Giấy cắn GC độ dày 40μm, màu đỏ. 
Bộ ghi trục Quick - Axis của F.A.G. Dentaire 
– Pháp. 
Máy ảnh kỹ thuật số (Canon EOS 7D, Japan) 
gắn ống kính tiêu cự 105mm. 
Chân máy ảnh. 
Thước thủy tĩnh. 
Bút lông kim. 
Hệ thống định vị mẫu hàm. 
Phương pháp xác định góc đường đi lồi cầu 
trong mặt phẳng đứng dọc 
Các bước tiến hành ghi trục theo hướng dẫn 
của nhà sản xuất 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 25
- Đối tượng nghiên cứu ngồi trên ghế nha 
khoa, đầu và lưng tựa trên mặt phẳng lưng ghế, 
mặt phẳng này tạo với mặt phẳng sàn nhà một 
góc 45º. 
- Hướng dẫn đối tượng nghiên cứu thực hiện 
lặp lại các động tác đưa hàm dưới trượt ra trước 
tối đa. 
- Đặt máng cố định: dán một lớp sáp mỏng 
vào các răng trước hàm dưới để đắp lẹm, sau 
đó máng kim loại được gắn vào cung răng 
hàm dưới bằng thạch cao nhanh đông. Thanh 
định vị mang kim ghi được nối vào hàm dưới 
nhờ máng này. 
- Đặt cung ghi: cung ghi được cố định vào 
đầu. Cung ghi của bộ ghi trục Quick - Axis có 
cấu tạo giống như cung mặt có mũ tai nhưng 
mang thêm hai bản ghi, hai bản này được áp vào 
vùng khớp thái dương hàm hai bên. 
- Đặt thanh định vị: thanh định vị mang kim 
ghi. Sau khi gắn thanh định vị vào máng cố định 
và điều chỉnh cho kim ghi tiếp xúc đúng vào bản 
ghi, hướng hàm dưới về tương quan trung tâm, 
xác định vị trí hàm dưới ở tương quan trung 
tâm, rồi điều chỉnh sao cho kim ghi ở đúng vị trí 
trục bản lề tại gốc tọa độ. 
- Ghi trục lần lượt từng bên: tách nhẹ kim ghi 
và đặt giấy cắn vào giữa kim ghi và bản ghi. 
Hướng dẫn hàm dưới ra trước tối đa từ vị trí 
tương quan trung tâm. Khi đó, kim ghi vạch 
đường chuyển động lên bản ghi. 
Các bản ghi sau đó được scan vào máy tính 
bằng máy scan Panasonic KX – MB1500E và 
được đo bằng phần mềm AUTOCAD 2010. 
Giá trị góc đường đi của lồi cầu trong mặt 
phẳng đứng dọc được xác định bằng cách: 
Xác định vị trí 5mm trên đường hướng dẫn 
ra trước. 
Vẽ đường nối giữa điểm này và gốc tọa độ. 
Góc tạo bởi trục hoành với đoạn thẳng đi từ 
gốc tọa độ đến giao điểm của đường ghi lồi cầu 
với vòng tròn cách gốc tọa độ 5mm chính là góc 
của đường đi của lồi cầu trong mặt phẳng đứng 
dọc. Giá trị này được đo đạc bằng phần mềm 
AutoCAD 2010 trên máy vi tính. 
Hình 1. Đường đi lồi cầu khi hàm dưới vận động ra 
trước ở khớp TDH bên phải. 
Hình 2. Góc đường đi lồi cầu bên phải đo được (CPIA 
= 39,25°). 
Phương pháp xác định các đặc trưng của đường 
cong Spee 
Trong nghiên cứu này, phương pháp đo đạc 
các đặc trưng cơ bản của đường cong Spee được 
thực hiện dựa theo phương pháp chụp ảnh mẫu 
hàm nhìn từ phía bên của Nguyễn B.T (2014)(7). 
Sau đó chuyển ảnh chụp mẫu hàm vào máy 
vi tính, dùng phần mềm AutoCAD 2010 để đo 
độ sâu và bán kính đường cong Spee. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 26
Hình 3. Phương pháp xác định độ sâu và bán kính 
đường cong Spee từ phía bên của mẫu hàm. 
Hình 4. Đo độ sâu và bán kính đường cong Spee bằng 
phần mềm AUTOCAD. 
Tiêu chuẩn chọn ảnh 
Ảnh rõ nét, đủ sáng, đủ các chi tiết cần thiết. 
Nếu không thỏa điều kiện trên, ảnh phải được 
chụp lại. 
Xử lý số liệu 
Các số liệu đo đạc được nhập vào máy vi 
tính và xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 
16.0. 
Thống kê mô tả 
Tính trung bình, độ lệch chuẩn của mỗi đặc 
tính nghiên cứu ở nam và nữ, bên phải và bên 
trái. 
Thống kê phân tích 
 - Khảo sát tương quan giữa góc đường đi lồi 
cầu với bán kính của đường cong Spee. Nếu có 
tương quan, viết phương trình hồi quy. 
 - Khảo sát tương quan giữa góc đường đi lồi 
cầu với độ sâu của đường cong Spee. Nếu có 
tương quan, viết phương trình hồi quy. 
 - Sự khác biệt được xem có ý nghĩa thống kê 
khi p<0,05. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm đường đi lồi cầu trong mặt phẳng 
đứng dọc 
Kết quả bảng 1 trình bày số liệu về giá trị góc 
đường đi lồi cầu trong mặt phẳng đứng dọc ở 70 
đối tượng tuổi từ 20 – 29. Giá trị góc đường đi lồi 
cầu trong mặt phẳng đứng dọc của toàn bộ mẫu 
là 43,38° ± 6,71°, với phạm vi số liệu từ 24,26° - 
57,65°. Kết quả bảng 2 và 3 cho thấy góc đường 
đi lồi cầu ở khớp TDH bên phải thấp hơn bên 
trái, ở nam lớn hợn ở nữ, nhưng sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Bảng 1. Giá trị trung bình góc đường đi lồi cầu trong 
mặt phẳng đứng dọc. 
Khớp TDH n TB ± ĐLC Phạm vi số liệu 
Bên phải 70 42,92° ± 8,28° 21,71° - 64,19° 
Bên trái 70 43,85° ± 7,21° 26,80° - 62,86° 
Toàn bộ mẫu 140 43,38° ± 6,71° 24,26° - 57,65° 
Bảng 2. So sánh góc đường đi lồi cầu giữa khớp thái 
dương hàm bên phải và bên trái theo giới tính. 
Giới 
tính 
n 
Khớp TDH bên phải Khớp TDH bên trái 
p
* 
TB ± ĐLC TB ± ĐLC 
Nam 36 44,78° ± 8,68° 44,83° ± 7,19° 0,973 
Nữ 34 40,95° ± 7,47° 42,80° ± 7,19° 0,125 
*Kiểm định t bắt cặp. 
Bảng 3. So sánh góc đường đi của lồi cầu giữa nam 
và nữ. 
Giới tính n TB ± ĐLC Phạm vi số liệu p
* 
Nam 36 44,80
o
 ± 6,71
o
 30,61° ± 57,65° 
0,068 
Nữ 34 41,87
o
 ± 6,47
o
 24,26° ± 55,42° 
*Kiểm định t cho hai mẫu độc lập. 
Đặc điểm đường cong Spee ở cung răng hàm 
dưới 
Khi so sánh giữa nam và nữ, kết quả nghiên 
cứu chúng tôi tìm thấy bán kính đường cong 
Spee ở nữ lớn hơn bán kính đường cong Spee ở 
nam, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05); độ sâu đường cong Spee ở 
R
Spee
S
Spee
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 27
nam lớn hơn ở nữ, với sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05) (Bảng 4). 
Bảng 4. Các thông số về đường cong Spee, so sánh 
giữa nam và nữ. 
Biến số Giá trị Nam (n = 36) Nữ (n = 34) p 
SSpee (mm) TB ± ĐLC 2,17 ± 0,65 1,89 ± 0,47 0,046
(1) 
RSpee (mm) TB ± ĐLC 92,23 ± 38,84 94,07 ± 29,41 0,424
(2)
(1)Kiểm định t cho hai mẫu độc lập, (2)Kiểm định Mann-
Whitney. 
Khi so sánh bán kính và độ sâu đường cong 
Spee ở bên phải và bên trái, kết quả nghiên cứu 
chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về kích thước đường cong Spee ở hai 
bên phải và trái (p>0,05) (Bảng 5). 
Bảng 5. So sánh đặc điểm đường cong Spee bên phải 
và bên trái. 
Biến số Giá trị Bên phải Bên trái p 
SSpee (mm) TB ± ĐLC 2,01 ± 0,65 2,06 ± 0,63 0,453
(1) 
RSpee (mm) TB ± ĐLC 95,10 ± 38,75 91,15 ± 35,53 0,088
(2)
(1)Kiểm định t bắt cặp, (2)Kiểm định Wilcoxon Signed Ranks 
Test. 
Tương quan giữa góc đường đi lồi cầu trong 
mặt phẳng đứng dọc với đường cong Spee 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm 
thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa góc đường 
đi của lồi cầu trong mặt phẳng đứng dọc và 
đường cong Spee (Bảng 6). 
Bảng 6. Tương quan của đường đi lồi cầu trong mặt 
phẳng đứng dọc với đường cong Spee chung cho nam 
và nữ. 
Biến độc lập Biến phụ thuộc r p 
Góc đường đi lồi 
cầu bên phải 
RSpee bên phải -0,147 0,223
(2) 
SSpeebên phải 0,160 0,186
(1) 
Góc đường đi lồi 
cầu bên trái 
RSpee bên trái -0,002 0,990
(2) 
SSpee bên trái 0,018 0,882
(1) 
Góc đường đi lồi 
cầu 
RSpee -0,041 0,737
(2) 
SSpee 0,033 0,787
(1) 
(1)Tương quan Pearson, (2)Tương quan Spearman. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm đường đi lồi cầu trong mặt phẳng 
đứng dọc 
Kết quả bảng 1 trình bày số liệu về giá trị góc 
đường đi lồi cầu trong mặt phẳng đứng dọc ở 70 
đối tượng tuổi từ 20 – 29. Giá trị góc đường đi lồi 
cầu trong mặt phẳng đứng dọc của toàn bộ mẫu 
là 43,38° ± 6,71°, với phạm vi số liệu từ 24,26° - 
57,65°. Kết quả bảng 2 và 3 cho thấy góc đường 
đi lồi cầu ở khớp TDH bên phải thấp hơn bên 
trái, ở nam lớn hợn ở nữ, nhưng sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả 
này phù hợp với kết quả của Nguyễn P.D.T. 
(1997)(6) và Dương T.H. (2015)(1) khi nghiên cứu 
trên người Việt bình thường. 
Đặc điểm đường cong Spee ở cung răng hàm 
dưới 
Khi so sánh giữa nam và nữ, kết quả 
nghiên cứu chúng tôi tìm thấy bán kính 
đường cong Spee ở nữ lớn hơn bán kính 
đường cong Spee ở nam, nhưng sự khác biệt 
này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05); độ 
sâu đường cong Spee ở nam lớn hơn ở nữ, với 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
(Bảng 4). Khi so sánh bán kính và độ sâu 
đường cong Spee ở bên phải và bên trái, kết 
quả nghiên cứu chúng tôi không tìm thấy sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về kích thước 
đường cong Spee ở hai bên phải và trái 
(p>0,05) (Bảng 5). Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu của Farella (2002)(2) và Marshall 
(2008)(4).Khi so sánh kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi với nghiên cứu trong nước trước 
đây của Nguyễn. B.T. (2014)(7)giá trị về độ sâu 
và bán kính đường cong Spee có sự chênh 
lệch, sự chênh lệch này có thể do khác nhau về 
cỡ mẫu và độ tuổi nghiên cứu (cỡ mẫu trong 
nghiên cứu của Nguyễn. B.T. là 35 và 18 tuổi, 
cỡ mẫu trong nghiên cứu chúng tôi là 70 và 
20-29 tuổi). So sánh với kết quả của Xu 
(2004)(10),giá trị giữa 2 nghiên cứu có sự chênh 
lệch. Nghiên cứu của Xu cũng đo đạc bằng 
phương pháp chụp ảnh, tuy nhiên chuẩn hóa 
mẫu hàm khi chụp khác với nghiên cứu chúng 
tôi, thực hiên trên 50 người Nhật từ 19-24 tuổi. 
Theo Xu, sự khác nhau về kích thước đường 
cong Spee là do có sự khác nhau về đặc tính 
dân số nghiên cứu (về chủng tộc, yếu tố di 
truyền và môi trường)(10) (Biểu đồ 1). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 28
Biểu đồ 1. So sánh các giá trị đường cong Spee trong 
nghiên cứu này với các nghiên cứu khác. 
Tương quan giữa góc đường đi lồi cầu trong 
mặt phẳng đứng dọc với đường cong Spee 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm 
thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa góc 
đường đi của lồi cầu trong mặt phẳng đứng 
dọc và đường cong Spee. Tương tự với nghiên 
cứu của Mastumoto đã thực hiện năm 1995, 
tác giả tiến hành nghiên cứu trên 30 sọ khô với 
27 sọ có khớp cắn hạng I Angle và 3 sọ có 
khớp cắn hạng II Angle, kết quả nghiên cứu 
không tìm thấy mối liên quan giữa chiều cao 
hõm khớp với đường cong Spee; tuy nhiên, 
nghiên cứu này lại tìm thấy mối liên quan có ý 
nghĩa giữa độ sâu hõm khớp và mức độ cắn 
phủ răng trước. Nghiên cứu này thực hiện 
trên sọ khô người cổ xưa có thói quen dinh 
dưỡng và lực nhai khác với người hiện đại gây 
ảnh hưởng đến hình thái cấu trúc sọ 
mặt(5).Theo Farella và cs. (2002) khảo sát trên 
phim sọ nghiêng và ảnh chụp mẫu hàm để xác 
định độ sâu đường cong Speeđã kết luận 
những yếu tố hình thái sọ mặt ảnh hưởng đến 
độ sâu đường cong Spee là khoảng cách từ 
mặt xa răng cối lớn II hàm dưới đến bờ trước 
lồi cầu, mức độ đưa ra trước của xương hàm 
dưới so với nền sọ (góc SNB) và chiều cao mặt. 
Theo đó, khoảng cách từ mặt xa răng cối lớn II 
hàm dưới đến bờ trước lồi cầu càng lớn thì độ 
sâu đường cong Spee càng tăng; và xương 
hàm dưới càng lùi sau so với nền sọ (góc SNB 
giảm), thì đường cong Spee càng sâu hơn; 
dạng mặt ngắn có đường cong Spee cong và 
sâu hơn người có dạng mặt dài(2). 
Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi chỉ 
đủ dữ liệu để nói rằng: không tìm thấy mối liên 
quan giữa góc ĐĐLC với đường cong Spee. 
KẾT LUẬN 
Như vậy, có thể thấy, xét trong mặt phẳng 
đứng dọc, đường cong Spee có thể còn phụ 
thuộc bới các yếu tố khác chứ không chỉ đơn 
thuần bởi góc đường đi lồi cầu cho thấy mối 
quan hệ phức tạp của hệ thống nhai về giải phẫu 
và chức năng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dương Thu Hương (2015) Đường đi lồi cầu trong mặt phẳng 
đứng dọc đối với từng loại khớp cắn theo phân loại Angle, 
Luận văn Bác sĩ Nội Trú, Đại học Y Dược TP.HCM, tr. 22-78. 
2. Farella M, Michelotti A, van Eijden TM, Martina R (2002) "The 
curve of Spee and craniofacial morphology: a multiple 
regression analysis". Eur J Oral Sci, 110 (4), pp. 277-281. 
3. Lynch CD, McConnell RJ (2002) "Prosthodontic management 
of the curve of Spee: use of the Broadrick flag". J Prosthet Dent, 
87 (6), pp. 593-597. 
4. Marshall SD, Caspersen M, Hardinger RR, Franciscus RG, 
Aquilino SA, Southard TE (2008) "Development of the curve 
of Spee". Am J Orthod Dentofacial Orthop, 134 (3), pp.344-352. 
5. Matsumoto MA, Bolognese AM (1995) "Bone morphology of 
the temporomandibular joint and its relation to dental 
occlusion". Braz Dent J, 6 (2), pp. 115-122. 
6. Nguyễn Phúc Diên Thảo, Hùng Hoàng Tử (1997) "Bước đầu 
áp dụng ghi vận động lồi cầu với bộ ghi trục Quick - Axis trên 
người Việt bình thường ". Kỉ yếu công trình nghiên cứu khoa học 
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM, tr. 31-40. 
7. Nguyễn Bảo Trân (2014) Kích thước cung răng và đường cong 
Spee ở bộ răng vĩnh viễn: nghiên cứu dọc từ 13 - 18 tuổi, Luận 
văn Bác sĩ Nội Trú, Đại học Y Dược TP.HCM, tr. 25-86. 
8. Shreshta P, Jain V, Bhalla A, Pruthi G (2012) " A comparative 
study to measure the condylar guidance by the radiographic 
and clinical methods". J Adv Prosthodont, 4 (3), pp. 153-157. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 29
9. Spee FG (1980) "The Gliding Path of the Mandible along the 
Skull". Arch Anat. Physiol., 16, pp. 285-294. 
10. Xu H, Suzuki T, Muronoi M, Ooya K. (2004) "An evaluation of 
the curve of Spee in the maxilla and mandible of human 
permanent healthy dentitions". J Prosthet Dent, 92 (6), pp. 536-
539. 
Ngày nhận bài báo: 08/02/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2018 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018