Tài liệu Lý thuyết về tài chính hành vi: 1 
MỤC LỤC 
Lời mở đầu ........................................................................................................... 5 
Chương 1: Khảo sát lý thuyết về tài chính hành vi ................................................ 6 
1. Thị trường hiệu quả.................................................................................... 6 
1.1.1 Khái niệm thị trường hiệu quả.................................................................... 6 
1.1.2 Các giả thiết của thị trường hiệu quả .......................................................... 7 
1.1.3 Các đặc điểm của thị trường hiệu quả......................................................... 7 
1.1.4 Ba hình thức của thị trường hiệu quả.......................................................... 8 
1.1.5 Hạn chế của thị trường hiệu quả................................................................. 9 
1.2 Tài chính hành vi ..................................................................................... 11 
1.2.1...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
91 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2086 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lý thuyết về tài chính hành vi, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
MỤC LỤC 
Lời mở đầu ........................................................................................................... 5 
Chương 1: Khảo sát lý thuyết về tài chính hành vi ................................................ 6 
1. Thị trường hiệu quả.................................................................................... 6 
1.1.1 Khái niệm thị trường hiệu quả.................................................................... 6 
1.1.2 Các giả thiết của thị trường hiệu quả .......................................................... 7 
1.1.3 Các đặc điểm của thị trường hiệu quả......................................................... 7 
1.1.4 Ba hình thức của thị trường hiệu quả.......................................................... 8 
1.1.5 Hạn chế của thị trường hiệu quả................................................................. 9 
1.2 Tài chính hành vi ..................................................................................... 11 
1.2.1 Tài chính hành vi là gì.............................................................................. 11 
1.2.2 Những nền tảng cơ bản của tài chính hành vi ........................................... 12 
1.2.2.1Giới hạn của nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá 
 trên thị trường tài chính............................................................................ 12 
1.2.2.2Hành vi không hợp lý của nhà đầu tư ....................................................... 16 
1.2.2.3Lý thuyết triển vọng và sự lựa chọn của nhà đầu tư .................................. 24 
1.2.3 Tâm lý bầy đàn......................................................................................... 27 
Chương 2: Phân tích thực tiễn thị trường chứng khoán Việt Nam ....................... 30 
2.1 Tổng quan thị trường................................................................................ 30 
2.2 Kiểm định thị trường hiệu quả.................................................................. 31 
2.3 Phân tích thị trường Việt Nam từ góc nhìn của tài chính hành vi.............. 34 
2.3.1 Sai lệch về niềm tin của nhà đầu tư ............................................................ 34 
2.3.2 Kiểm định hành vi bầy đàn......................................................................... 39 
2.3.3 Kết quả khảo sát......................................................................................... 43 
Chương 3: Giải pháp giúp thị trường định giá hiệu quả....................................... 63 
3.1 Khuyến nghị đối với nhà đầu tư các nhân...................................................... 63 
3.2 Khuyến nghị đối với doanh nghiệp niêm yết ................................................. 64 
3.3 Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý thị trường............................................ 66 
Kết luận .............................................................................................................. 69 
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 70 
2 
Phụ lục 1............................................................................................................. 72 
Phụ lục 2............................................................................................................. 74 
Phụ lục 3............................................................................................................. 85 
3 
DANH MỤC BẢNG 
1. Bảng 1: Một số thông tin cơ bản về thị trường ................................................ 28 
2. Bảng 2: Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả ............................................... 31 
3. Bảng 3: Thống kê tổng quan ........................................................................... 40 
4. Bảng 4: Các hệ số thống kê của mức độ phân tán theo ngày............................ 41 
5. Bảng 5: So sánh giữa câu 6 và câu 10 ............................................................. 58 
6. Bảng 6: So sánh giữa câu 6 và câu 14 ............................................................. 59 
4 
DANH MỤC HÌNH 
1. Hình 1 : Hàm hiệu dụng................................................................................. 23 
2. Hình 2 : Biểu đồ giá chứng khoán .................................................................. 32 
3. Hình 3 : Thay đổi trong nhân tố quan trọng nhất trong 
 việc ra quyết định đầu tư................................................................... 44 
4. Hình 4 : Yếu tố quan trọng nhất khi ra quyết định đầu tư .............................. 46 
5. Hình 5 : Yếu tố quan trọng nhất góp phần vào việc định giá cao 
 của thị trường .................................................................................. 48 
6. Hình 6 : Yếu tố quan trọng nhất góp phần vào 
 việc suy giảm của thị trường............................................................ 49 
7. Hình 7 : Giá trị ước tính của thị trường hiện tại ............................................. 50 
8. Hình 8 : Lý do khiến việc đầu tư ít thành công.............................................. 51 
9. Hình 9 : Khả năng dự báo sự phát triển của thị trường................................... 53 
10. Hình 10: Phản ứng như thế nào đối với thông tin từ công ty.......................... 55 
11. Hình 11: Mức tin tưởng vào hồi phục của thị trường..................................... 56 
12. Hình 12: So sánh giữa câu 7 và câu 11 .......................................................... 60 
5 
LỜI MỞ ĐẦU 
Thị trường chứng khoán được cho là phong vũ biểu của nền kinh tế nhưng có 
vẻ như điều này không đúng với thị trường chứng khoán Việt Nam. Đã có 
những lúc chỉ số Vn-Index tăng cao ngất ngưởng và sụt giảm không phanh bất 
chấp nền kinh tế. 
Khi một nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán, anh ta sẽ sử dụng các 
kỹ thuật thông dụng như phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật để hỗ trợ cho 
quá trình ra quyết định của mình. Với phương pháp này anh ta đã giả định 
những nhà đầu tư khác cũng lý trí như mình. Tuy nhiên, sau khoảng thời gian 
nỗ lực, anh ta chợt hiểu ra rằng mô hình mà anh ta dày công xây dựng đã 
không mang lại tỷ suất sinh lợi như mong muốn và không hoàn toàn giải thích 
được dữ kiện thu thập được. 
Do đó đề tài “Tiếp cận tài chính hành vi để giải thích những bất thường trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam” dựa trên nền tảng lý thuyết đã được các học giả 
trên thế giới nghiên cứu được đưa ra với mục đích mang tài chính hành vi áp 
dụng vào thực tiễn Việt Nam để giải thích những bất thường vừa qua bằng số 
liệu thực tế và mang đến cho các nhà đầu tư một quan điểm mới về thị trường. 
6 
CHƯƠNG 1: 
LÝ THUYẾT VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI 
1.1 Thị trường hiệu quả 
1.1.1 Khái niệm thị trường hiệu quả 
Lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích tài chính xuất phát từ khái niệm 
thị trường hoàn hảo trong kinh tế học. Trong nghiên cứu kinh tế nói chung và 
trong phân tích tài chính nói riêng, một thị trường được coi là hoàn hảo (hiệu 
quả) khi nó hiệu quả trên cả ba mặt cơ bản: Phân phối, Tổ chức hoạt động, 
Thông tin. 
Thị trường được coi là hiệu quả về mặt phân phối khi thị trường đó có khả 
năng đưa các nguồn lực khan hiếm đến người sử dụng sao cho trên cơ sở nguồn 
lực có được, người ta sẽ tạo ra kết quả đầu ra lớn nhất, tức là họ sử dụng được 
một cách tối ưu. Điều này có nghĩa là chỉ những người trả giá cao nhất cho các 
nguồn tài nguyên đó mới giành được quyền sử dụng chúng, buộc những người 
này phải sử dụng các nguồn lực huy động được một cách tốt nhất. 
Thị trường được coi là hiệu quả về mặt tổ chức hoạt động khi thị trường đó có 
chi phí giao dịch quyền sử dụng các nguồn lực trên thị trường được quyết định 
bởi quan hệ cung cầu. Nói cách khác, thị trường được coi là hiệu quả về mặt 
hoạt động khi nó có khả năng tối thiểu hóa chi phí giao dịch và đưa chi phí này 
tiến dần về 0, thông qua cơ chế cạnh tranh giữa các đối tượng tham gia kiến tạo 
và vận hành thị trường. 
Thị trường được coi là hiệu quả về mặt thông tin khi giá cả của loại hàng hóa 
giao dịch trên thị trường được phản ánh đầy đủ và tức thời bởi các thông tin có 
liên quan. Cụ thể hơn, ở một thị trường hiệu quả trên phương diện thông, nhà 
đầu tư sẽ ít có cơ hội vượt trội hơn so với những người khác vì mọi người đều 
có khả năng tiếp cận thông tin như nhau. Theo thuyết này thì các chứng khoán 
sẽ được mua/bán, trao đổi ngang giá trên các sàn giao dịch chứng khoán, do đó 
sẽ không còn tình trạng mua ép hoặc thổi phồng mức giá cổ phiếu. 
7 
Vậy thị trường hiệu quả là thị trường có khả năng phân phối nguồn lực đến 
người sử dụng tốt nhất với giá cả phản ánh đầy đủ thông tin có liên quan và chi 
phí giao dịch được tối thiểu hóa. 
1.1.2 Các giả thiết của thị trường hiệu quả 
Thị trường hiệu quả đòi hỏi một số lượng lớn các đối thủ cạnh tranh tham gia 
vào thị trường. Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, họ tiến hành phân tích và 
định giá các loại chứng khoán một cách hoàn toàn độc lập với nhau. 
Những thông tin mới về chứng khoán được công bố trên thị trường một cách 
ngẫu nhiên và tự động, việc quyết định về thời điểm công bố thông tin cũng 
độc lập lẫn nhau. 
Các nhà đầu tư luôn tìm mọi cách điều chỉnh giá chứng khoán thật nhanh nhằm 
phản ánh chính xác ảnh hưởng của thông tin. Mặc dù sự điều chỉnh của giá có 
thể là không hoàn hảo nhưng nó cũng không hề ưu tiên cho một mặt nào. Có 
khi sự điều chỉnh là quá mức cũng có khi là dưới mức cần thiết, nhưng ta 
không thể dự đoán được điều gì sẽ xảy ra ở mỗi thời điểm xác định. Giá chứng 
khoán được điều chỉnh một cách nhanh chóng do sự cạnh tranh lẫn nhau của 
các nhà đầu tư với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. 
Vì giá chứng khoán điều chỉnh theo tất cả những thông tin mới nên sẽ phản ánh 
không thiên lệch tất cả các thông tin có sẵn, được công bố rộng rãi ở mọi thời 
điểm và đã bao gồm rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán. 
Với những giả thiết trên, trong một thị trường hiệu quả, khó có một nhà đầu tư 
nào đánh bại được thị trường và duy trì được tỉ suất sinh lợi lâu dài. Đồng thời, 
tỷ suất sinh lợi mong đợi trong mức giá hiện tại của chứng khoán sẽ phản ánh 
rủi ro tương ứng của nó. 
1.1.3 Đặc điểm của thị trường hiệu quả 
Mọi thông tin trên thị trường đều nhanh và chính xác, mọi nhà đầu tư đều thu 
nhận ngay lập tức các thông tin này. 
8 
Khi thị trường hiệu quả, giá cả chứng khoán trên thị trường luôn phản ánh 
đúng, chính xác các thông tin trên thị trường có liên quan đến loại chứng khoán 
đó. 
Mọi cố gắng để có thu nhập tăng thêm do khai thác các thông tin trên thị 
trường hiệu quả đều đem lại mức thu nhập thấp hơn chi phí bỏ ra. Trên thị 
trường hiệu quả thì các chứng khoán sẽ được mua/bán, trao đổi ngang giá trên 
các sàn giao dịch chứng khoán, do đó sẽ không có cơ hội một cách hệ thống để 
một số người mua ép giá cổ phiếu hoặc thổi phồng mức giá khi bán (hiện tượng 
làm giá) hoặc có cơ hội để kiếm lời chênh lệch thông qua nghiệp vụ arbitrage. 
Người chơi luôn được tin tưởng rằng thị trường đối xử công bằng với tất cả 
mọi người. 
Giá cả chứng khoán tăng hay giảm do một nguyên nhân duy nhất là giá chứng 
khoán phản ứng trước những thông tin mới xuất hiện trên thị trường. Do những 
thông tin này xuất hiện một cách ngẫu nhiên, không thể dự đoán trước được 
nên giá cả chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên và không thể dự đoán 
trước được trong thị trường hiệu quả. Tuy nhiên, cần phân biệt tính ngẫu nhiên 
của giá với sự bất hợp lí về mức giá. Nếu giá cả được hình thành một cách hợp 
lí thì chỉ những thông tin mới mới làm cho giá đó thay đổi. 
1.1.4 Ba hình thức của thị trường hiệu quả 
1.1.4.1 Thị trường hiệu quả dạng yếu (weak - form) 
Ở mức độ này, giá cả phản ánh thông tin đã chứa đựng trong hồ sơ quá khứ. 
Nó giả định rằng, mức giá thị trường hiện tại này đã phản ánh tất cả các thu 
nhập trong quá khứ và mọi thông tin trên thị trường nên giả thuyết này có nghĩa 
là tỷ suất sinh lợi cũng như các thông tin khác trong quá khứ không có mối liên 
hệ với tương lai. Nói cách khác, không thể dự báo được giá chứng khoán trong 
tương lai hay tạo ra được các tỷ suất sinh lợi liên tục vượt lên trên thị trường 
bằng những cách nghiên cứu tỷ suất sinh lợi quá khứ. 
1.1.4.2 Thị trường hiệu quả dạng vừa phải (semi- strong) 
Mức độ này đòi hỏi giá cả phản ánh không chỉ giá cả quá khứ mà còn phản ánh 
9 
tất cả các thông tin đã công bố khác như tỷ suất sinh lợi quý vừa qua, phát hành 
cổ phần mới, đề nghị sát nhập công ty. Tức là mức giá hiện tại phản ánh đầy đủ 
mọi thông tin công khai ở hiện tại cũng như trong quá khứ, chính vì vậy mà giả 
thuyết này bao trùm lên giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu. 
Nếu thị trường hiệu quả ở mức vừa phải, giá cả sẽ điều chỉnh ngay lập tức 
trước các thông tin đại chúng. Vì vậy, các nhà đầu tư đưa ra quyết định dựa 
trên những thông tin sau khi được công bố sẽ không thu được tỷ suất sinh lợi 
cao hơn mức trung bình. 
1.1.4.3 Thị trường hiệu quả dạng mạnh (strong - form) 
Hình thức hiệu quả mạnh là hình thức mà trong đó giá cả phản ánh tất cả thông 
tin có thể có được bằng cách phân tích tỉ mỉ về công ty và nền kinh tế. Như 
vậy, trong một thị trường hiệu quả dạng mạnh, người sử dụng tất cả những 
thông tin có thể có, dù rằng các thông tin đó có được phổ biến ra công chúng 
hay không, sẽ không thể thu được lợi nhuận vượt trội so với người khác. 
Tuy nhiên, chúng ta không chờ đợi rằng thị trường hiệu quả dạng mạnh lại thể 
hiện đúng theo định nghĩa, bởi vì đây là một giả thuyết về một hình ảnh gần 
như phi thực tế. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể có thị trường nào 
mà khi có những thông tin nội gián, người sử dụng chúng lại không thu được 
lợi ích bất thường. 
1.1.5 Hạn chế của thị trường hiệu quả 
Thị trường hiệu quả giả định rằng tất cả các nhà đầu tư đều nhận thức tất cả các 
thông tin sẵn có trên thị trường theo cách thức giống nhau. Tuy nhiên thực tế đã 
chứng minh khác. Nếu một nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư đang bị định 
dưới giá thực chất trong khi một nhà đầu tư khác đánh giá một cổ phiếu dựa 
trên tiềm năng tăng trưởng của nó, thì chắc chắn rằng hai nhà đầu tư này sẽ đi 
đến hai kết luận hoàn toàn khác nhau về giá trị thị trường hợp lý của một cổ 
phiếu. Vì các nhà đầu tư đánh giá cổ phiếu rất khác nhau nên việc chắc chắn 
xem một cổ phiếu sẽ đáng giá như thế nào trong một thị trường hiệu quả là điều 
không thể. 
10 
Theo giả thuyết thị trường hiệu quả, không một nhà đầu tư đơn lẻ nào có thể 
giành được lợi nhuận cao hơn một người khác với cùng số tiền đầu tư và cùng 
một lượng thông tin, đồng nghĩa với việc họ chỉ có thể thu về những khoản lời 
như nhau. Nói cách khác, nếu một nhà đầu tư có lợi nhuận, điều đó cũng có 
nghĩa là toàn bộ giới đầu tư đều có lợi. Nhưng hãy xem xét lại một chuỗi những 
khoản lợi nhuận rất khác biệt mà các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư đã dành 
được. Nếu không một nhà đầu tư nào có lợi thế hơn so với người khác, thì tại 
sao lại có chuyện cùng là các quỹ tương hỗ, nhưng bản thống kê cho thấy có 
quỹ thì thua lỗ trầm trọng còn có quỹ lại đạt lợi nhuận vượt trội? 
Theo lý thuyết thị trường hiệu quả, không một nhà đầu tư nào có thể đánh bại 
được thị trường hay vượt qua được mức lợi nhuận trung bình năm mà tất cả các 
nhà đầu tư và các quỹ đầu tư đạt được với sự nỗ lực hết mình. Thế nhưng trên 
thực tế, luôn có hàng loạt những ví dụ về các nhà đầu tư đã đánh bại thị trường. 
Theo lý thuyết thị trường hiệu quả thì thị trường phải đạt được hiệu quả về mặt 
thông tin, tức là những thông tin được công bố trên thị trường một cách ngẫu 
nhiên và việc quyết định thời điểm công bố thông tin cũng độc lập lẫn nhau. 
Thực tế lại không như thế. Các thông tin được công bố thường bị kiểm soát 
chặt chẽ và hiện tượng bất cân xứng thông tin thì không hề hiếm. 
Theo lý thuyết thị trường hiệu quả, sự hiệu quả thật sự của thị trường đã và sẽ 
luôn luôn tính đến những yếu tố đó ngay lập tức. Nói cách khác, giá cả phản 
ứng gần như tức thời với việc công bố một thông tin có thể làm ảnh hưởng đến 
các rủi ro và tỷ suất sinh lợi của một cổ phiếu. Thế nên, ngay cả Eugene Fama 
(một nhà nghiên cứu thuộc trường phái thị trường hiệu quả) cũng không cho 
rằng thị trường sẽ luôn luôn đạt hiệu quả 100%. Bởi vì cần phải có thời gian 
nhất định để giá cả phản ứng lại với một thông tin mới được tiết lộ cho các nhà 
đầu tư. Tuy nhiên, ông lại không đưa ra một định nghĩa cụ thể về việc giá cả 
cần bao nhiêu thời gian để có thể vận động đến mức hợp lý. Vì thế có thể phải 
thừa nhận rằng sự hiệu quả tuyệt đối của thị trường là điều không thể. 
11 
1.2 Tài chính hành vi 
1.2.1 Tài chính hành vi là gì? 
Lý thuyết tài chính chính thống đã lý giải thị trường tài chính bằng cách sử 
dụng mẫu hình trong đó những người tham gia thị trường là những cá nhân duy 
lý. Đầu tiên, khi những người này nhận được thông tin mới, họ cập nhật niềm 
tin một cách chính xác. Sau đó, dựa trên những niềm tin đã được cập nhật, họ 
đưa ra những lựa chọn để tối đa hoá các lý thuyết hữu dụng kỳ vọng. 
Truyền thống này xem ra có vẻ giản đơn và sẽ được thỏa mãn nếu dự đoán của 
nó đã được xác nhận trong thực tế. Thật đáng tiếc, sau nhiều năm nghiên cứu 
cho thấy rõ ràng là những thực tế căn bản về tổng thể thị trường chứng khoán, 
thu nhập trung bình và hành vi mua bán cá nhân không dễ dàng để hiểu theo lý 
thuyết của lý thuyết chính thống. 
Tài chính hành vi là một cách tiếp cận thị trường tài chính theo cách mới: giải 
thích các mô hình lý luận của nhà đầu tư với những diễn biến cảm xúc và mức 
độ ảnh hưởng của chúng lên các quyết định đầu tư và được xem như là một 
cách giải quyết cho những khó khăn mà thị trường tài chính chính thống đang 
gặp phải. Lý thuyết này cho rằng một vài hiện tượng tài chính có thể được hiểu 
tốt hơn khi dùng những mẫu trong đó những nhà đầu tư không duy lý hoàn 
toàn. Đặc biệt hơn, lý thuyết tài chính hành vi còn phân tích điều gì sẽ xảy ra 
khi chúng ta nới lỏng một hoặc cả hai trụ cột làm cơ sở cho sự duy lý cá nhân. 
Trong một vài mô hình tài chính hành vi, những người tham gia thị trường đã 
thất bại trong việc cập nhật những niềm tin của họ một cách chính xác. Trong 
những trường hợp khác, những người này áp dụng luật Bayes (tính xác suất xảy 
ra của một sự kiện ngẫu nhiên A khi biết được sự kiện liên quan B đã xảy ra) 
một cách đúng đắn nhưng dường như họ đã có những lựa chọn theo những tiêu 
chuẩn đáng nghi ngờ. 
Một trong những thành công lớn nhất của tài chính hành vi là tập hợp những 
luận điểm mang tính học thuật chỉ ra rằng trong một nền kinh tế, nơi mà những 
nhà đầu tư duy lý và nhà đầu tư cảm tính ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, sự bất 
hợp lý có thể có ảnh hưởng quan trọng và lâu dài đến giá cả. 
12 
1.2.2 Những nền tảng cơ bản của tài chính hành vi 
Các mô hình được đề xuất bởi lý thuyết tài chính hành vi sẽ có thể đúng nếu 
trên thị trường tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau. Nếu cả ba đều tồn tại, 
lý thuyết tài chính hành vi dự báo rằng việc định giá sai không những là tồn tại, 
mà còn là rất đáng kể (lớn hoặc đến mức nghiêm trọng) và kéo dài. Ba điều 
kiện đó bao gồm: 
- Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính 
- Tồn tại hành vi không hợp lý 
- Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống hay còn gọi là tâm lý bầy đàn (herd 
behavior) 
1.2.2.1 Giới hạn của nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường 
tài chính 
Lý thuyết thị trường hiệu quả tin rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại cơ 
hội để kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận và điều chỉnh giá trên thị trường 
về cân bằng. Nhưng nếu tồn tại định giá sai, mà lại không thể thực hiện kinh 
doanh chênh lệch giá để tận dụng các khoản lợi nhuận này thì như thế nào? Và 
tại sao lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá khi có định giá sai? 
Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính hành vi là 
có 2 dạng định giá sai: một dạng là thường xuyên xảy ra và có thể kinh doanh 
chênh lệch giá được, một dạng là không thường xảy ra, kéo dài và không thể 
kinh doanh chênh lệch giá được (nói một cách khác, khó mà xác định được khi 
nào mức định giá sai đã đạt tới giới hạn trên hay dưới và điều chỉnh lại). Nếu 
tham gia “chỉnh sửa” kiểu định giá sai dạng 2 thì rất dễ rơi vào trạng thái “tiền 
mất, tật mang”, mà điển hình là bài học nổi tiếng của Long-Term Capital 
Management (LTCM) (xem phụ lục 1) 
Đây là ví dụ cho thấy thực tế định giá sai có thể kéo dài rất lâu, và kiểu nhà đầu 
tư hợp lý như LTCM tham gia sửa chữa sai lầm này thì sẽ thất bại. 
Barberis và Thales chỉ ra rằng kinh doanh chênh lệch giá không thể xảy ra vì có 
những tài sản về lý thuyết là có tính thay thế lẫn nhau hoàn hảo và có thể kinh 
13 
doanh chênh lệch giá những tài sản đó, nhưng thực tế thì không như vậy, do đó 
tạo ra rủi ro tăng thêm cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (vốn được xem 
là rủi ro thấp đến mức phi rủi ro). Ngoài ra, chi phí thực hiện các chiến lược 
hưởng chênh lệch giá và sự tồn tại của các giao dịch của những nhà đầu tư ít 
thông tin (noise trader - các nhà đầu tư ra quyết định mua hoặc bán không dựa 
vào những dữ liệu cơ bản, họ thường có ít thời gian, đầu tư theo xu hướng và 
có những phản ứng thái quá với những thông tin tốt hoặc xấu) cũng ngăn cản 
điều này. 
Khi xảy ra việc định giá sai, chiến lược được thiết kế để điều chỉnh có thể vừa 
mạo hiểm lại vừa tốn nhiều chi phí, do đó việc định giá sai vẫn tồn tại. Ở đây 
chúng tôi thảo luận một vài rủi ro và chi phí đã được nhận biết. Ví dụ Ford, giá 
trị cơ bản là 20$, nhưng đã bị các nhà đầu tư ít thông tin bi quan đẩy xuống 
15$. 
Rủi ro cơ bản (fundamental risk) 
Nếu mua cổ phiếu của Ford ở mức 15$ thì nguy cơ hiển nhiên nhất mà người 
kinh doanh chênh lệch giá phải đối mặt đó là những tin xấu về giá trị cơ bản 
của Ford làm cho giá cổ phiếu rớt sâu hơn, dẫn đến thua lỗ. Tất nhiên, các nhà 
kinh doanh chênh lệch giá biết rõ về rủi ro này, đây là lý do tại sao họ mua cổ 
phiếu Ford đồng thời bán khống một cổ phiếu thay thế như là General Motors. 
Vấn đề là chứng khoán thay thế là hiếm khi hoàn hảo, và thường rất không 
hoàn hảo, vì vậy không thể loại bỏ tất cả rủi ro cơ bản. Bán khống General 
Motors góp phần bảo vệ nhà kinh doanh chênh lệch giá từ những thông tin bất 
lợi về ngành công nghiệp xe hơi nói chung, nhưng họ vẫn chịu tác động bởi 
những tin cụ thể liên quan đến Ford như những khiếm khuyết về lốp xe chẳng 
hạn. 
Rủi ro nhà đầu tư ít thông tin (Noise Trader Risk) 
Rủi ro nhà đầu tư ít thông tin là dạng rủi ro thị trường liên quan đến quyết định 
đầu tư của những nhà đầu tư theo xu hướng. Giá thị trường của một cổ phiếu 
nào đó càng không ổn định thì rủi ro nhà đầu tư ít thông tin càng cao. Ví dụ 
như nếu một cổ phiếu có rủi ro nhà đầu tư ít thông tin cao thì một thông tin tốt 
14 
có thể tác động nhiều hơn đến các nhà đầu tư đầu tư theo xu hướng trong việc 
ra quyết định mua cổ phiếu của và thổi phồng quá mức giá thị trường của cổ 
phiếu. 
Các nhà kinh tế cũng bắt đầu nghiên cứu những hạn chế của tiềm lực nhà đầu 
tư như một rào cản khiến cho lý thuyết thị trường hiệu quả khó phát huy tác 
dụng. Ví dụ, những người ủng hộ lý thuyết này luôn cho rằng các nhà đầu tư 
khôn ngoan lúc nào cũng có thể mua bán “trên tay” các nhà đầu tư thiếu thông 
tin, gây nhiễu thị trường để đẩy giá về mức phản ánh chính xác giá trị cổ phiếu. 
Tuy nhiên, người ta đã sớm nhận ra, khả năng của các nhà đầu tư khôn ngoan 
như thế là có hạn, vay tiền để chống lại xu hướng “điên rồ” của thị trường là 
điều bất khả thi. Và một khi nhà đầu tư khôn ngoan thấy rằng giá có thể bị méo 
mó trong một thời gian dài, họ sẽ nhận ra đi theo xu hướng thị trường (dù biết 
là phi lý) có lợi hơn nhiều so với nỗ lực chống lại. Thế là họ chuyển hướng 
nương theo xu thế và biết cách nhảy ra sớm nhất một khi thị trường chuyển 
hướng. Như thế, chính các nhà đầu tư có đầy đủ thông tin nhất lại là người góp 
phần xây dựng các bong bóng tài chính chứ không phải tìm cách chọc thủng 
chúng. 
Thậm chí General Motors là một cổ phiếu thay thế hoàn hảo cho Ford thì các 
nhà kinh doanh chệnh lệch vẫn đối mặt với rủi ro các nhà đầu tư bi quan làm 
Ford bị định dưới giá. Ban đầu giá của cổ phiếu đó có thể khác với giá trị cơ 
bản của nó, sau đó chắc hẳn mức thay đổi giá cả ở tương lai cũng có khả năng 
gia tăng. Vấn đề rủi ro nhà đầu tư ít thông tin có thể buộc các nhà kinh doanh 
chênh lệch phải thanh toán vị trí của họ sớm, làm tăng mức lỗ tiềm năng. Lưu ý 
là hầu hết các nhà kinh doanh chênh lệch trong thế giới thực - nói cách khác đó 
là nhà quản lý danh mục đầu tư chuyên nghiệp - không quản lý tiền của họ mà 
quản lý tiền của người khác 
Theo thuật ngữ của Shleifer và Vishny thì đây là “sự chia tách giữa bộ não và 
nguồn vốn”. Vấn đề đại diện này có những hệ quả quan trọng. Những người 
đưa vốn của mình cho những nhà đầu tư chuyên nghiệp “kinh doanh thay” có 
thể là những người thiếu kiến thức chuyên môn để có thể hiểu được tính đúng 
15 
đắn của chiến lược của những nhà kinh doanh chênh lệch giá, họ có thể dễ 
dàng đánh giá hiệu quả đầu tư một cách rất đơn giản là dựa vào lợi nhuận mà 
những nhà kinh doanh chênh lệch giá có được. Nếu một sự định giá sai đang 
được các nhà kinh doanh chênh lệch giá khai thác trở nên tồi tệ hơn trong ngắn 
hạn, dẫn đến lợi nhuận âm, những người đầu tư có thể nhận định rằng những 
nhà quản lý này là bất tài và quyết định rút vốn của họ ra. Nếu điều này xảy ra 
nhà kinh doanh chênh lệch giá sẽ đối mặt với việc phải thanh lý vị thế sớm để 
trả tiền lại cho khách hàng và chấp nhận chịu lỗ. Nỗi sợ hãi về việc thanh lý 
sớm vị thế sẽ làm cho họ dè dặt hơn trong việc việc tận dụng sự định giá nhầm 
ngay từ đầu, điều này sẽ làm cho “tính hiệu quả” trong việc kinh doanh thông 
qua điều chỉnh chênh lệch giá của họ giảm đi rất nhiều. Việc này sẽ làm cho 
các khách hàng của họ - những người cung cấp tín dụng tức giận. Sau một thời 
gian lợi nhuận nghèo nàn, họ sẽ nhận thấy những khoản tín dụng mà mình cung 
cấp đang mất dần, họ sẽ đòi thu hồi lại tất cả những khoản nợ và một lần nữa 
dẫn đến việc thanh toán vị thế sớm. Trong kịch bản trên có thể thấy nguyên 
nhân thúc đẩy vấn đề thanh lý sớm chính là việc giá có thể tiếp tục giảm thấp 
hơn nữa dù rằng nó đã đang bị định giá thấp. Trên thực tế nguyên nhân này 
không phải là tất cả. Chẳng hạn như, trong nỗ lực loại bỏ rủi ro cơ bản, các nhà 
kinh doanh chệnh lệch giá sẽ bán khống cổ phiếu. Nên khi người sở hữu ban 
đầu của những cổ phiếu được mượn muốn lấy lại, các nhà kinh doanh chênh 
lệch giá có thể lại bị buộc phải đóng vị thế của anh ấy nếu không thể tìm cổ 
phần khác để mượn. Chính rủi ro này cũng phần nào làm chùn bước nhà kinh 
doanh chênh lệch giá ngày từ đầu. 
Chi phí thực hiện (Implementation costs) 
Chi phí thực hiện bao gồm các chi phí giao dịch như là hoa hồng, chệnh lệch 
giữa giá mua - giá bán và ảnh hưởng của giá có thể làm giảm hấp dẫn trong 
việc khai thác từ những tài sản bị định giá sai. Bởi vì việc bán khống thường 
cần thiết đối với quy trình kinh doanh chênh lệch giá, nên những chi phí có liên 
quan tới bán khống cũng được xếp vào chi phí thực hiện. 
16 
Điều này dẫn tới một hệ quả là việc thiết lập một vị thế bán cổ phiếu hay một 
tài sản tài chính nào đó kém hấp dẫn hơn một vị thế mua. Ràng buộc đơn giản 
nhất là chi phí phải trả khi vay mượn một cổ phiếu. Nói chung những loại chi 
phí này đều nhỏ, nhưng trong một vài trường hợp, những nhà kinh doanh chênh 
lệch giá có thể không vay mượn được cổ phiếu ở bất kì mức giá nào. Ngoài 
những chi phí trên, còn có thể có những ràng buộc pháp lý: một tỷ lệ lớn các 
nhà quản lý tiền tệ – đặc biệt là nhiều nhà quản lý quỹ hưu bổng hoặc quỹ hỗ 
tương – không được cho phép bán khống. 
Khác với lý thuyết, việc kinh doanh chênh lệch giá trên thực tế bao gồm nhiều 
rủi ro và chi phí, mà trong một số điều kiện có thể giới hạn việc kinh doanh 
chênh lệch giá và cho phép sự sai lệch so với những giá trị căn bản kéo dài một 
cách dai dẳng. 
Chính vì vậy, chúng ta đã từng thấy trong lịch sử nhiều vụ bong bóng giá ở 
Nhật (thập niên 1980), Đài Loan (1990), cổ phiếu công nghệ truyền thông của 
Mỹ (1999-2000), rồi gần đây là chứng khoán Trung Quốc và Việt Nam cũng bị 
xem là “quá nóng”. Tuy nhiên, rõ ràng không hề có những điều chỉnh tức thời 
như người ta kỳ vọng, mà những vụ bong bóng này kéo dài nhiều năm (nhất là 
ở các nước châu Á đang phát triển).Đây là dấu hiệu của giới hạn khả năng kinh 
doanh chênh lệch giá. 
1.2.2.2 Hành vi không hợp lý của nhà đầu tư 
Sự cả tin (Overconfidence) 
Sự cả tin ở đây được chúng ta nhắc đến như một khái niệm về sự tự tin quá 
mức, “con người thường nghĩ họ tốt hơn là chính họ”. Điều này dễ ăn sâu vào 
lối suy nghĩ của con người và sự cả tin đôi khi có thể dẫn đến những sai lầm 
nghiêm trọng, làm cho con người mù quáng và không lý trí. Họ thường phóng 
đại tài năng của mình, coi những gì mà họ đang phân tích đầu tư có tiềm năng 
to lớn, dẫn đến việc định giá sai trong tỉ suất sinh lợi. Lúc này họ luôn tìm 
những chứng cứ để bảo vệ cho những lập luận của mình và chỉ tập trung vào 
mặt tốt mà quên đi mặt xấu. Sự kết hợp giữa sự cả tin và lạc quan quá mức là 
nguyên nhân khiến con người tiên đoán quá mức khả năng hiểu biết của mình, 
17 
đánh giá thấp những rủi ro, tin vào khả năng của mình có thể kiểm soát mọi 
thứ, khiến họ giao dịch quá mức và tạo nên những bong bóng trên thị trường. 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư thường quá tự tin vào khả năng 
của mình. Và có hai xu hướng mà các nhà đầu tư thường gặp phải. Một là 
prediction overconfidence và hai là certainty overconfidence. 
Prediction overconfidence: Các nhà đầu tư nằm trong loại này thường đưa vào 
kế hoạch đầu tư của mình các khoảng tin cậy (confidence intervals) quá nhỏ. Ví 
dụ như khi đánh giá giá trị tương lai của một loại cổ phiếu, nhà đầu tư đã quá 
tự tin đưa ra một khoảng cách quá nhỏ cho lợi nhuận kỳ vọng, dự đoán rằng lợi 
nhuận sẽ khoảng 10% giữa lời và lỗ trong khi thực tế đã chứng minh rằng 
khoảng chêch lệch này lớn hơn rất nhiều. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư đã 
đánh giá thấp những rủi ro trong danh mục đầu tư của mình. 
Certainty overconfidence: Nhắc đến loại này là nhắc đến các nhà đầu tư quá tự 
tin vào đánh giá của mình. Ví dụ như khi đã chắc chắn rằng đầu tư của mình 
vào một công ty nào đó là một đầu tư tốt thì các nhà đầu tư thường không chú ý 
đến những rủi ro gây lỗ và rồi sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên hoặc thất vọng nếu 
đầu tư này không tốt như mong đợi. Điều này cũng có thể làm các nhà đầu tư 
mắc thêm các sai lầm trong việc tìm kiếm và nhận dạng ra được các cổ phiếu 
tiềm năng kế tiếp. Do đó, các nhà đầu tư thường đầu tư quá nhiều vào tài khoản 
cũng như không đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình. 
Bên cạnh đó, trong một nghiên cứu của Brad M.Barber and Terrance Odean 
(2000) đã đưa ra một phát hiện khác thú vị. Trong vòng 6 năm, họ đã tiến hành 
điều tra 35000 hộ gia đình và rút ra một các luận về sự khác nhau trong thói 
quen đầu tư giữa hai giới: Đàn ông thường tự tin nhiều hơn và cũng đầu tư 
thường xuyên hơn phụ nữ. Theo như bài nghiên cứu, đàn ông không chỉ đầu tư 
sai thời điểm mà còn đầu tư nhiều hơn phụ nữ. Kết quả cuộc nghiên cứu cho 
thấy nam đầu tư hơn nữ 45%, và đáng ngạc nhiên là đàn ông độc thân thì đầu 
tư nhiều hơn phụ nữ độc thân gấp 67%. Mặt khác, càng đầu tư thì đàn ông càng 
đưa ra các quyết định đầu tư càng tệ hơn. Chi phí đầu tư đã làm giảm đến 
2,65% lợi nhuận ròng một năm đối với đàn ông trong khi con số này chỉ là 
18 
1,72% đối với phụ nữ. 
Mối quan hệ giữa sự cả tin và thông tin sự kiện 
Vấn đề của sự cả tin cũng được góp phần bởi những thông tin sự kiện, điều này 
có thể bắt gặp theo một vấn đề thông thường đó là những người có mức độ cả 
tin cao thông thường không sử dụng những nguồn số liệu sẵn có mà nhiều 
người khác đã dùng. Họ thu thập thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, 
nhưng đôi khi có thêm thông tin sẽ dẫn đến tình huống xấu hơn, vấn đề này 
xuất hiện khi người tiếp nhận không hiểu thấu đáo về những thông tin đó. Cũng 
có trường hợp một người đang có lập luận và có rất nhiều thông tin chắc chắn 
ủng hộ cho lập luận của mình. Trường hợp này sẽ không được gọi là sự cả tin. 
Sự cả tin xuất hiện khi người đó không hề hiểu thấu đáo thông tin sự kiện đó 
nhưng lại ngộ nhận thông tin đó là chắc chắn và có thể mắc sai lầm. 
Mối quan hệ giữa sự cả tin và kinh nghiệm của nhà đầu tư: 
Điều này còn được giải thích theo yếu tố độ tuổi hay kinh nghiệm của nhà đầu 
tư. Những người tuổi đời còn non trẻ thường có những tư duy táo bạo và 
thường áp dụng những phương pháp được coi là sáng tạo trong quá trình phân 
tích đầu tư của mình, nhưng theo thời gian thì bảo thủ của tuổi đời ngày càng 
nâng lên và việc áp dụng những dữ liệu thông tin mang tính chất đột biến 
dường như bị lãng quên. Cả hai vấn đề trên đều chứa đựng những sai lầm của 
nó, sáng tạo thì chứa đựng nhiều yếu tố dẫn đến sai lầm, bảo thủ thì ẩn chứa 
tính chất rủi ro là một mô hình có thể thành công trong quá khứ nhưng có thể 
không còn đúng trong hiện tại. 
Sự đơn giản trong quyết định đầu tư 
Đây là hành vi mà các nhà đầu tư có khuynh hướng sử dụng những qui tắc đơn 
giản trong các quyết định đầu tư của mình. Sự đơn giản trong quyết định đầu tư 
xuất phát từ khuynh hướng của trí óc để tạo ra những đường tắt tưởng tượng và 
tránh mất thời gian trong tiến trình phân tích đầu tư. Các qui tắc và kinh 
nghiệm học được thường giúp chúng ta ra quyết định nhanh chóng và dễ dàng 
hơn trong những tình huống đầu tư. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, dựa 
19 
dẫm quá nhiều vào những nguyên tắc đôi khi dẫn đến sai lầm, đặc biệt là khi 
các điều kiện bên ngoài thay đổi. 
Tự lừa dối: xuất hiện khi nhà đầu tư nghĩ rằng họ tốt hơn là họ thực sự như thế. 
Cả tâm lý học và tài chính gần đây mô tả mọi người với dạng hành vi này là sự 
quá tự tin. Nhà đầu tư tự tin quá mức tin rằng họ có thể đạt được thu nhập cao, 
do đó họ thường xuyên giao dịch và đánh giá thấp rủi ro liên quan. Những 
chứng cứ thực nghiệm tìm thấy rằng cổ phiếu mà những nhà đầu tư cá nhân 
bán thì hoạt động tốt hơn những cổ phiếu mà họ mua. 
Tính toán bất hợp lý: có thể giải thích cho hiệu ứng phân bổ tài khoản. Nhà đầu 
tư theo dõi lợi nhuận và thua lỗ trên những tài khoản ảo của họ trong sự tách 
biệt nhau. Họ xem xét đơn giản từng tài khoản tưởng tượng đó mà không có sự 
kết hợp những tài khoản này lại. Nếu xem xét một cách hợp lý hơn thì họ có 
thể cắt lỗ để đầu tư vào cổ phiếu khác có lợi hơn. 
Gắn quyết định đầu tư với những cái đơn giản cho việc ra quyết định đầu tư 
(anchoring): chẳng hạn, nhà đầu tư chỉ dựa vào duy nhất một chỉ số P/E để làm 
căn cứ cho quyết định đầu tư của họ. Họ cứ thấy rằng cổ phiếu có P/E thấp so 
với mức trung bình của thị trường là cứ mua mà không cần xem xét hay phân 
tích tỉ mỉ về công ty đó. Bởi vì họ nghĩ rằng có thể chỉ số P/E này sẽ tăng lên 
ngang mức trung bình thị trường. Hay các nhà đầu tư cũng có phân tích, tuy 
nhiên, thay vì quy trình phân tích cơ bản gồm 5 bước thì họ giản lược bớt đi 
những bước phân tích mà họ cho rằng không cần thiết. 
Căn cứ vào thành quả trong quá khứ của cổ phiếu đó làm nền tảng cho quyết 
định đầu tư: nhà đầu tư xem những thu nhập trong quá khứ như là đại diện cho 
cái mà họ kỳ vọng trong tương lai. Các nhà nghiên cứu tài chính hành vi gọi 
dạng hành vi này là xu hướng điển hình. 
Hiệu ứng phân bổ tài khoản: 
Đây là dạng xu hướng hành vi mà các nhà đầu tư có khuynh hướng luôn ở 
trong vị thế lỗ rất lâu và thanh lý vị thế thắng rất sớm. Khuynh hướng này xuất 
phát từ những tính toán bất hợp lý của nhà đầu tư, họ có khuynh hướng tách 
20 
riêng các quyết định vào trong các tài khoản ảo trong trí tưởng tượng của mình 
mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau, rồi sau đó đi tối đa lợi ích từng tài 
khoản. Vì lẽ đó, nhà đầu tư thường mắc phải những sai lầm trong việc đưa ra 
những quyết định mà họ vẫn cứ tưởng là hợp lý. Từ những tính toán bất hợp lý 
này có thể dẫn đến hiệu ứng phân bổ tài khoản trong đầu tư của các nhà đầu tư. 
Họ sẵn lòng thực hiện những lệnh mang lại lợi nhuận nhỏ nhưng trì hoãn không 
thực hiện lệnh dừng lỗ khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ (cũng có thể là rất 
lớn). Ví dụ, khi mua cổ phiếu với giá 50.000, sau đó nếu giá tăng lên 55.000 thì 
họ sẵn sàng thực hiện ngay những khoản lợi nhuận này, bởi vì thấy có lợi 
nhuận là họ thực hiện, trong khi trong thực tế cổ phiếu này có thể tăng lên 
65.000. Nếu trong trường hợp sau khi mua với giá 50.000 mà cổ phiếu giảm 
còn 45.000 thì họ sẽ không thực hiện lệnh bán để dừng lỗ ngay (thậm chí họ 
còn mua thêm) và chờ đến khi giá lên trên 50.000 mới bắt đầu bán ra để kiếm 
lời. Giá có giảm tiếp đi chăng nữa thì người ta cũng vẫn nắm giữ cổ phiếu đó. 
Bởi vì họ đã tách rời giữa “tài khoản lời” và “tài khoản lỗ” trong tâm trí họ, họ 
cố tối đa tài khoản lời và tối thiểu hoá tài khoản lỗ, do đó khi giá lên thì bán để 
kiếm lời, giá xuống thì giữ để chờ giá lên, để cho tài khoản này khỏi bị lỗ. 
Lý giải cho vấn đề này, có lẽ do các nhà đầu tư đã quá ác cảm đối với việc thua 
lỗ hơn là coi trọng những giá trị đạt được. Theo nghiên cứu của Hirshleifer 
(2001) thì mọi người có xu hướng muốn những quyết định tốt của mình được 
thừa nhận ngay, nhưng họ chậm thừa nhận những quyết định tồi của mình. Có 
thể các nhà đầu tư bán những cổ phiếu đang lời của họ để họ cảm thấy tốt hơn 
về bản thân mình, hoặc họ có thể khoe khoang với những người khác về khả 
năng lựa chọn cổ phiếu tốt của họ. Trong khi đó, những nhà đầu tư có thể nắm 
giữ những cổ phiếu hoạt động kém bởi vì họ không sẵn lòng thừa nhận rằng họ 
mắc lỗi, và bởi vì họ e ngại rằng những cổ phiếu đó sẽ hồi phục (tránh hối tiếc). 
Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy những chứng cứ thực nghiệm hỗ trợ cho 
hiệu ứng này. Đó là nghiên cứu của Odean (1998), tìm thấy rằng những nhà 
đầu tư cá nhân sẵn lòng công nhận thu nhập trên lý thuyết hơn là thua lỗ trên lý 
thuyết, họ miễn cưỡng thừa nhận những thua lỗ của họ. Vậy hiệu ứng phân bổ 
tài khoản có thể tránh hay làm giảm được hay không? 
21 
Hầu hết những tài liệu về hành vi tài chính đều cho thấy rằng, hầu hết những 
nhà đầu tư đều có xu hướng mắc phải dạng hành vi này. Tuy nhiên, họ cũng 
tìm ra một vài chứng cứ thực nghiệm về những đặc tính của nhà đầu tư có thể 
làm giảm xu hướng hành vi này. Shapira và Venezia (2001) kiểm tra những tài 
khoản môi giới ở Israel và họ tìm thấy rằng, trung bình những nhà đầu tư cá 
nhân nắm giữ những cổ phiếu hoạt động kém lâu hơn 8 ngày so với những nhà 
đầu tư tổ chức chuyên nghiệp, tức là biểu hiện hiệu ứng phân bổ tài khoản ở 
các nhà đầu tư cá nhân thì mạnh mẽ hơn. Họ kết luận rằng sự chuyên nghiệp 
của nhà đầu tư về việc đầu tư có thể làm giảm hiệu ứng phân bổ tài khoản. Ở 
Mỹ, Dhar và Zhu (2002) nghiên cứu sự tác động của nhân khẩu học như thu 
nhập và dạng công việc trên hiệu ứng phân bổ tài khoản. Họ kết luận rằng, 
những nhà đầu tư giàu có hơn và những nhà đầu tư làm trong những tổ chức 
chuyên nghiệp biểu hiện xu hướng hành vi này thấp hơn (nhỏ hơn khoảng 10-
20% so với các nhà đầu tư khác), ngoài ra, họ cũng kết luận rằng những nhà 
đầu tư thường xuyên giao dịch cũng có khuynh hướng giảm hiệu ứng phân bổ 
tài khoản. 
Phản ứng thái quá (overreaction) và phản ứng chậm (underreact) 
Phản ứng thái quá là dạng hành vi mà các nhà đầu tư khi nhận được một thông 
tin đặc biệt nào đó về tài sản, họ có những đánh giá tương đối đúng về thông 
tin đó nhưng lại ở một mức độ nào đó cao hơn. 
Một ảnh hưởng của cảm xúc vào thị trường chứng khoán là phản ứng thái quá 
đối với thông tin mới. Thị trường hiệu quả nói rằng giá cổ phiếu phản ánh ngay 
lập tức tất cả các thông tin được công bố, vì vậy hiện tượng phản ứng thái quá 
không thể tồn tại. Tuy nhiên trong thực tế lại không diễn ra đúng như vậy, lịch 
sử thị trường tài chính đã chứng kiến bao sự sụp đổ của thị trường mà hầu hết 
xuất phát từ những kỳ vọng cao quá mức của nhà đầu tư vào các tài sản, hình 
thành nên các bong bóng thị trường đến khi bong bóng vỡ ra thì thị trường sụp 
đổ. Lý thuyết tài chính hành vi gọi đó là hiện tượng phản ứng thái quá. 
DeBondt và Thaler (1985) là những người đầu tiên áp dụng các kết quả nghiên 
cứu về tâm lý để giải thích hiện tượng phản ứng thái quá trong giá cổ phiếu và 
22 
nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 2 quy luật phổ biến: thị trường có vẻ phản ứng chậm 
đối với những thông tin liên quan đến thu nhập và phản ứng thái quá đối với 
các thông tin hay những sự kiện bất ngờ. Phản ứng thái quá tồn tại trong các thị 
trường chứng khoán là do các nhà đầu tư có xu hướng đánh giá quá cao những 
thông tin gần đây dẫn tới thay đổi kỳ vọng của họ về doanh nghiệp mà họ 
không hề để ý tới tình hình doanh nghiệp đó trước đây. Tức là các nhà đầu tư 
thường định giá quá cao triển vọng công ty khi có những thông tin tốt và định 
giá quá thấp khi có những thông tin xấu được công bố. Sau đó, khi có sự thay 
đổi lớn các nhà đầu tư sẽ tiến hành định giá lại những công ty này và giá cổ 
phiếu sẽ đảo chiều, tức là cổ phiếu trước đây được coi là tốt nhất rớt giá và cổ 
phiếu được coi là xấu nhất trước đây tăng. Ví dụ, một công ty vừa công bố một 
dự án khả thi và theo đánh giá đúng thì cổ phiếu của công ty này chỉ tăng 
khoảng 5.000 đ/cổ phiếu xuất phát từ thu nhập kỳ vọng của dự án này đem lại 
cho công ty, tuy nhiên các nhà đầu tư lại hành động một cách quá mức, làm giá 
cổ phiếu này tăng đến 10.000 hay 20.000. Phản ứng thái quá được chia thành 
hai giai đoạn: giai đoạn thuận xu thế ngắn hạn và đảo ngược xu thế dài hạn. 
Giai đoạn thuận xu thế ngắn hạn: thể hiện kỳ vọng rất cao của thị trường, đẩy 
giá cổ phiếu lên rất cao so với giá trị thực sự của nó. Sự đi lên của thị trường 
rất ngoạn mục. Đặc biệt trong giai đoạn này, bất cứ một phân tích hay cảnh báo 
nào cũng không đảo ngược xu thế này trong ngắn hạn. 
Giai đoạn đảo ngược xu thế dài hạn: là giai đoạn thị trường bắt đầu đi xuống 
sau một giai đoạn tăng mạnh trong ngắn hạn, tốc độ đi xuống của thi trường 
còn cao hơn tốc độ tăng trong giai đoạn thuận xu thế ngắn hạn. 
Xu hướng điển hình 
Dạng hành vi này là một dạng của sự đơn giản trong quyết định đầu tư. Đây là 
một dạng hành vi mà các nhà đầu tư không quan tâm nhiều đến các nhân tố dài 
hạn, họ đặt nhiều quan tâm đến những tình huống điển hình trong ngắn hạn. 
Tức là khi đối mặt với một tình huống đầu tư, họ có xu hướng xem xét tình 
huống này có tương tự như những tình huống điển hình trong quá khứ (ngắn 
23 
hạn) hay không, từ đó họ hành động như những gì mà tình huống điển hình đó 
đã xảy ra. 
Ví dụ, một cổ phiếu đang tăng giá trong thời gian gần đây. Các nhà đầu tư 
thường mua những cổ phiếu này, vì nghĩ rằng chắc chắn cổ phiếu này sẽ tăng 
tiếp nữa, họ xem những thu nhập trong quá khứ của cổ phiếu này là những gì 
mà họ có thể kỳ vọng trong tương lai, trong quá khứ (ngắn hạn) nó đã tăng thì 
trong tương lai nó cũng sẽ tăng như vậy. Hay, khi giá cổ phiếu bắt đầu tăng liên 
tục, trong đầu các nhà đầu tư sẽ nghĩ rằng, lợi nhuận cao từ cổ phiếu là chuyện 
bình thường. Đối với họ, điều đơn giản rằng lợi nhuận cao của cổ phiếu đã xuất 
hiện trong quá khứ thì xác suất nó xuất hiện trong hiện tại là rất cao. 
Tversky và Kahneman (1974) đã đưa ra một định nghĩa hàn lâm hơn cho dạng 
hành vi này là người ta thường đánh giá xác suất xảy ra của những sự kiện 
tương lai dựa vào mức độ tương tự với một tình huống điển hình nào đó trong 
quá khứ. Nhưng quan trọng là họ thường chỉ quan tâm những tình huống điển 
hình trong ngắn hạn, bởi vì nếu quan tâm đến những tình huống điển hình trong 
một khoảng thời gian dài, chắc có lẽ họ đã có những đánh giá khác cho tình 
huống đó. Ví dụ, nếu chúng ta đang ở năm 2007, chúng ta đánh giá rằng nền 
kinh tế Việt Nam năm nay tương tự như năm 2006 (giai đoạn thị trường chứng 
khoán tăng mạnh liên tục) thì chắc chắn chúng ta sẽ cho rằng thị trường chứng 
khoán sẽ còn tiếp tục tăng nữa. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn tổng thể một giai 
đoạn dài từ 2000 đến 2006 thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy rằng, thị trường có 
lúc tăng có lúc giảm, không phải cứ tăng mãi, tăng liên tục như năm 2006. 
Một lối suy nghĩ đơn giản, lệch lạc cộng với một xu hướng điển hình đã tạo cho 
mọi người một giả định rằng: chất lượng chắc chắn của một thông tin phải ám 
chỉ chất lượng khác cho một thông tin giống như vậy, thường có tương quan 
với nhau một cách tuyệt đối. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến các nhà đầu 
tư, làm cho họ nhầm lẫn giữa một công ty tốt với một đầu tư tốt. Những công 
ty mà có thu nhập lớn, có sự tăng trưởng doanh số cao và quản trị có chất lượng 
thì đại diện cho những công ty tốt, còn những đầu tư tốt là những cổ phiếu tăng 
giá hơn những cổ phiếu khác. Các nhà đầu tư thường cho rằng những công ty 
24 
tốt phải là điển hình cho những đầu tư tốt, bởi vì nó sản sinh ra lợi nhuận cao, 
tăng trưởng doanh số cao… Do đó họ thường mua những công ty này mà 
không biết rằng có thể những lợi nhuận cao, tăng trưởng doanh số cao đã phản 
ánh trong giá của cổ phiếu đó rồi. 
1.2.2.3 Lý thuyết triển vọng và sự lựa chọn của nhà đầu tư 
Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đều cho rằng con người “lý trí” trong các 
hành vi liên quan đến kinh tế. Nghĩa là khi phải chọn, họ luôn chọn phương án 
nào tối đa hóa lợi ích. 
Lợi ích theo ngôn ngữ kinh tế được tính là phép nhân giữa điều mong muốn (có 
thể là tiền) và xác suất điều đó xảy ra. Nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng thực tế 
các thông tin không được xử lý một cách hợp lý như vậy. Năm 1979, 
Kahneman và Tversky giới thiệu ý tưởng về thuyết triển vọng. Thuyết này cho 
rằng mọi người định giá các khoản lãi/ lỗ khác nhau và như vậy, các quyết định 
dựa vào đựơc nhìn nhận lãi chớ không nhìn nhận lỗ. Vì vậy, nếu một người 
được trao cho hai lựa chọn như nhau, một diễn đạt dưới dạng lãi và một diễn 
đạt theo khoản lỗ, mọi người sẽ chọn lựa chọn đầu tiên - thậm chí khi họ đạt 
được kết quả mục đích kinh tế tương tự. 
Theo lý thuyết triển vọng, lỗ có nhiều ảnh hưởng đến cảm xúc của nhà đầu tư 
hơn mức lãi tương đương. Ví dụ, theo các lý thuyết truyền thống, độ hiệu dụng 
mà nhà đầu tư “lý trí” đạt được từ việc nhận 50$ tương đương với việc đạt 
được 100$ rồi mất 50$. Ở cả hai tình huống, kết quả cuối cùng là nhận được lợi 
nhuận thuần là 50$. Mặc dù bạn vẫn kết thúc với việc nhận được 50$ trong cả 
hai trường hợp, nhưng hầu hết mọi người đều thích nhận 50$ hơn là đạt được 
100$ rồi mất 50$. 
Bằng chứng cho hành vi bất hợp lý 
Tversky và Kahneman tiến hành một loạt nghiên cứu trong đó đối tượng trả lời 
câu hỏi đưa ra quyết định tiền tệ có liên quan lỗ và lãi tương lai. Ví dụ, câu hỏi 
sau được dùng trong nghiên cứu của họ : 
1. Bạn có 1,000$ và bạn phải chọn một trong những chọn lựa sau: 
25 
Lựa chọn A: bạn có 50% cơ hội đạt được 1,000$, và 50% cơ hội đạt được 0$. 
Lựa chọn B : bạn có 100% cơ hội đạt được 500$. 
2. Bạn có 2,000$ và bạn phải chọn một trong những chọn lựa sau: 
Lựa chọn A : bạn có 50% cơ hội mất 1,000$, và 50% của mất 0$. 
Lựa chọn B : bạn có 100% cơ hội mất 500$. 
Nếu những người tham gia trả lời hợp lý, họ sẽ chọn hoặc "A" hoặc "B" trong 
cả hai tình huống (những người chọn "B" sẽ có nguy cơ hơn bất lợi hơn những 
người chọn "A"). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng đa số mọi 
người chọn "B" cho câu hỏi 1 và "A" cho câu hỏi 2. Từ đó cho thấy mọi người 
sẵn lòng chấp nhận một mức lãi hợp lý (dù là họ có cơ hội để kiếm được nhiều 
tiền hơn), nhưng lại muốn đưa ra lựa chọn mà có thể giới hạn khoản lỗ của họ. 
Nói cách khác, khoản lỗ được đặt nặng hơn một khoản lãi tương đương. Chính 
cách suy nghĩ này đã tạo ra hàm giá trị không đối xứng. 
Hình 1: Hàm hiệu dụng 
Hàm này là đại diện của sự khác biệt trong độ hiệu dụng tức là đạt được do 
lượng nhất định của khoản lãi hoặc khoản lỗ. Nó là chìa khoá cho lưu ý là 
không phải tất cả mọi người sẽ có hàm giá trị giống như trên; đây là xu hướng 
tổng quát. Lỗ tạo ra cảm giác đau đớn lớn hơn so với niềm vui tạo bởi việc đạt 
26 
được một khoản tiền tương đương. Ví dụ, niềm vui tuyệt đối cảm thấy tìm 50$ 
là ít hơn nhiều so với nỗi đau tuyệt đối gây ra bởi mất 50$. 
Vì vậy, khi xảy ra sự kiện lời/ lỗ, mỗi sự kiện được đánh giá riêng và sau đó kết 
hợp tạo cảm giác tích lũy. Ví dụ, theo hàm giá trị, nếu bạn nhận được 50$, 
nhưng chẳng bao lâu sau bạn lại mất 50$, điều này sẽ gây ra ảnh hưởng tổng 
thể là - 40 đơn vị hiệu dụng ( tìm 50$ được + 10 đơn vị hiệu dụng (niềm vui), 
nhưng mất 50$ gây ra - 50 đơn vị hiệu dụng (nỗi đau) 
Thuyết triển vọng có thể được dùng để giải thích hành vi tài chính phi lý khá 
nhiều. Ví dụ, có những người không muốn gởi số tiền của họ vào ngân hàng để 
lấy lãi hoặc người không chịu làm việc thêm giờ vì họ không muốn trả thuế 
nhiều hơn. Mặc dù những người này sẽ được hưởng lợi về tài chính từ thu nhập 
sau thuế tăng thêm, nhưng phần lợi nhuận đó không đủ không đủ để bù đắp 
cảm giác mất mát từ việc thanh toán thuế. Thuyết triển vọng cũng giải thích sự 
kiện xảy ra chịu ảnh hưởng của tâm lý, là khuynh hướng nhà đầu tư giữ cổ 
phiếu mất giá quá lâu và bán cổ phiếu lên giá quá sớm. Theo lẽ thường họ nên 
giữ các cổ phiếu đang lên giá để gia tăng khoản lãi và bán cổ phiếu đang rớt giá 
để cắt giảm lỗ. 
Nhà đầu tư có khuynh hướng xem khả năng bù đắp một khoản lỗ quan trọng 
hơn khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Khi khoản đầu tư có khuynh 
hướng mang lại lợi nhuận, họ thích nắm chắc ngay khoản lợi nhuận hiện tại 
hơn là cố gắng tiếp tục đầu tư để thu được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. 
Nhưng ngược lại, khi khoản đầu tư có nguy cơ thua lỗ thì họ lại cố gắng duy trì 
với hy vọng sẽ nhận được khoản lời trong tương lai, mặc dù lúc này rủi ro thua 
lỗ nhiều hơn là rất lớn bởi họ cho rằng, cổ phiếu đang sụt giá sẽ tốt hơn cổ 
phiếu đang lời của họ trong tương lai. 
Một nhà đầu tư đã mua cổ phiếu vì những thông tin có triển vọng sẽ nhanh 
chóng bán cổ phiếu đó khi giá cổ phiếu tăng bởi họ tin vào thông tin của họ và 
cho rằng, giá cổ phiếu hiện đã phản ánh đầy đủ thông tin này. Khi cảm thấy đã 
đạt được lợi nhuận mong muốn thì sẽ bán cổ phiếu đi để kiếm lời mà không 
phân tích khả năng tăng thêm lợi nhuận. 
27 
1.2.3 Tâm lý bầy đàn (herd behavior) 
Nếu chỉ có một vài nhà đầu tư mắc phải những hành vi bất hợp lý nêu trên thì 
có lẽ nó đã không ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu trên thị trường (cho dù là 
nhà đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn chế nếu chỉ có một mình). Chỉ khi 
nào hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống, tức là sẽ có nhiều người cùng hành 
động bất hợp lý thì tác động của nó mới đáng kể. 
Tâm lý bầy đàn được hình thành khi một cộng đồng người sống chung với 
nhau có xu hướng bắt chước những hành động của nhau (kể cả hợp lý và bất 
hợp lý) mà về phương diện cá nhân thì không nhất thiết phải có sự cùng lựa 
chọn. 
Có hai lý do hình thành tâm lý bầy đàn: thứ nhất là áp lực xã hội và kinh 
nghiệm. Hầu hết mọi người đều sống hòa đồng vì họ không muốn trở thành kẻ 
bị xã hội ruồng bỏ. Vì vậy cách lý tưởng nhất để được thừa nhận là làm giống 
với những gì đám đông làm. Lý do thứ hai, theo lẽ thường mọi người không 
chắc là một nhóm lớn như vậy có thể sai. Rốt cuộc, mặc dù là họ cho rằng hành 
động hay ý nghĩ của số đông bất hợp lý hay sai, nhưng có thể họ vẫn làm theo, 
vì tin rằng mọi người biết điều gì đó mà họ không biết. Đây là trường hợp đặc 
biệt phổ biến đối với những nhà đầu tư ít kinh nghiệm 
Tâm lý đám đông luôn tồn tại trong quá trình ra quyết định của con người cũng 
như nhà đầu tư, không phân biệt việc có kinh nghiệm hay không. Và lý thuyết 
ảnh hưởng đám đông này càng thấy rõ khi nhà đầu tư buộc phải đưa ra các 
quyết định nhanh chóng, chưa có đầy đủ thông tin cần thiết. Khi một tình 
huống ra quyết định trở nên không chắc chắn thì ảnh hưởng hành vi và quan 
điểm của đám đông sẽ làm cho các cá nhân được trấn an và cảm thấy chắc chắn 
hơn. 
Theo nghiên cứu của Solomon Asch thì 35% chủ thể đã làm theo ý kiến của 
nhóm ngay cả khi họ biết rằng điều này sai. Bởi vì họ cảm thấy không thoải 
mái để trở thành thành phần thiểu số chống lại phần đa số mạnh mẽ. Trong hoạt 
động của thị trường chứng khoán vấn đề này vẫn được lặp lại. Có thể đối với 
một cá nhân thì với thế lực yếu ớt của mình không thể chống lại đối với một thị 
28 
trường mặc dù sai nhưng lớn mạnh, cũng không thể nói được gì vì hành động 
của họ được trả bằng tiền của chính họ 
Tâm lý bầy đàn đã được đưa ra vào cuối thập kỷ 90, điển hình là vụ “bong 
bong” internet ở Mỹ. Từ năm 1996 đến năm 2000, các nhà đầu cơ và nhà đầu 
tư tư nhân điên cuồng đầu tư số tiền lớn vào các công ty liên quan đến internet 
làm cho số lượng công ty niêm yết ở thị trường chứng khoán Nasdaq (sàn giao 
dịch điện tử lớn nhất Hoa Kì hiện nay) tăng từ 600 lên 5000 công ty. Xin nói 
thêm rằng các công ty Dot-com được điều hành bởi những người chỉ vào 
khoảng 30 - 40 tuổi, phát hành cổ phần, và tạo ra hàng trăm triệu đôla tiền vốn. 
Những công ty này cũng chẳng có kế hoạch kinh doanh gì nhiều, và tất nhiên 
cũng chẳng có những khoản thu nhập gì cả từ kinh doanh. Động lực khiến các 
nhà đầu tư này bỏ tiền vào dự án làm ăn không chắc chắn như vậy là do họ 
được trấn an bởi thấy quá nhiều người khác làm y như vậy. Vào đầu những 
năm 2000, tình hình bắt đầu lắng xuống. Các nhà đầu tư bắt đầu nhận ra thị 
trường internet thực sự là một quả bong bong và họ cũng rút vốn một cách ồ ạt 
như lúc họ đầu tư vì vậy năm 2001, nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. 
Tâm lý bầy đàn thường không phải là chiến lược đầu tư có ích. Nhà đầu tư 
mang tâm lý bầy đàn thường xuyên mua và bán tài sản đầu tư của họ theo kiểu 
theo đuổi theo xu hướng đầu tư nóng và mới nhất. Ví dụ, nếu họ nghe thông tin 
đầu tư vào các cổ phiếu inernet là sự đầu tư tốt nhất hiện nay, họ sẽ bán các cổ 
phiếu khác và dùng vốn đó đổ vào cổ phiếu internet. Nếu sáu tháng sau mọi 
người đổ xô mua các cổ phiếu mà họ đã bán trước đây thì họ lại mua lại những 
cổ phiếu này. 
Lưu ý rằng tất cả việc bán mua thường xuyên này gánh chịu lượng đáng kể chi 
phí giao dịch, có thể làm giảm lợi nhuận hiện tại. Hơn nữa, cực kỳ khó để xác 
định chính xác thời gian giao dịch hợp lý để bảo đảm rằng bạn đang đi đúng 
hướng. Vào lúc nhà đầu tư bầy đàn biết về xu hướng mới, hầu hết các nhà đầu 
tư khác đã thu lợi từ thông tin này và khả năng tối đa hóa giá trị chắc chắn đã 
đạt mức cao nhất của cải. Điều này có nghĩa các nhà đầu tư bầy đàn đã gia 
29 
nhập trò chơi quá muộn và có thể mất tiền như khi thực hiện các chiến lược đầu 
tư khác. 
Trong khi đi theo xu hướng đầu tư mới, thì nhà đầu tư nên tránh tâm lý bầy 
đàn, chỉ vì mọi người đang nhảy bổ vào đầu tư theo phong trào chứ những 
chiến lược này chưa chắc đúng. Đồng thời việc đầu tư theo phong trào như vậy 
cũng gây ra hiện tượng cổ phiếu được định giá quá cao dựa trên sự lạc quan 
quá mức của nhà đầu tư. Điều này dễ chứa đựng nguy cơ bong bóng gây thiệt 
hại lớn khi thị trường đổ vỡ. Tóm lại, để có những quyết định đầu tư hợp lý và 
đạt được nhiều lợi nhuận, nhà đầu tư nên hạn chế những ảnh hưởng tâm lý 
trong các lý thuyết nêu trên, thay vào đó là sử dụng tổng hợp các công cụ phân 
tích tài chính, tạo tiền đề vững chắc cho các quyết định. 
30 
CHƯƠNG 2: 
PHÂN TÍCH THỰC TIỄN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 
2.1 Tổng quan thị trường 
Thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường mới nổi với 2 trung tâm giao 
dịch là Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM chính thức hoạt động vào 
20/7/2000 và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động từ 
5/2005. Kể từ đó đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những 
thành công đáng kể: quy mô hoạt động của thị trường không ngừng mở rộng; 
nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu mới được niêm yết trên thị trường; trình độ 
của các chủ thể tham gia vào thị trường không ngừng được nâng cao… 
Bảng 1: Một số thông tin cơ bản về thị trường 
 (Nguồn: www.tcptkt.ueh.edu.vn; www.fpts.com.vn; www.avsc.com.vn; 
Hạng mục 2000 2006 2007 2008 2009 5/2010 
Số lượng tài khoản 5.000 95.000 330.000 430.000 766.725 879.730 
Cá nhân 300.000 763.578 
Tổ chức 3.147 
Nước ngoài 4.400 7.000 10.000 14.026 
Số lượng 
cổ phiếu niêm yết 
2 189 250 338 457 576 
Số lượng 
công ty chứng khoán 
3 55 50 68 105 105 
Giá trị giao dịch 
(tỉ VNĐ) 
 39.389 281.258 181.698 620.823 
Mức vốn hoá thị trường 
(tỉ VNĐ) 
2.000 170.511 429.565 225.000 669.000 740.433 
31 
Có thể nhận thấy từ bảng số liệu ở trên, tuy được thành lập từ năm 2000 nhưng 
thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ thật sự phát triển kể từ năm 2006 với 
mức vốn hoá thị trường tăng gấp 84 lần so với năm 2000 và tăng thêm 1,52 lần 
trong năm 2007 tương ứng giá trị giao dịch 281 ngàn tỉ đồng (tăng 6,14 lần so 
với năm 2006) đánh dấu sự tăng trưởng nhanh của thị trường. Suy thoái năm 
2008 làm cho mức vốn hoá giảm 48% nhưng đã nhanh chóng bật dậy 198% 
vào năm 2009 và tiếp tục tăng 11% trong 5 tháng đầu năm 2010. Điều này 
chứng tỏ thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang trên đà phát triển lên một 
tầm cao mới. 
Số lượng tài khoản được mở cũng tăng với tốc độ chóng mặt: năm 2007 tăng 
247% so với năm 2006 và không ngừng tăng lên bất chấp sự sụt giảm của thị 
trường. Một đặc trưng điển hình của thị trường chứng khoán Việt Nam là hầu 
hết các tài khoản giao dịch thuộc sở hữu cá nhân (hơn 99% số lượng tài khoản 
trong năm 2009). Sự thiếu vắng trầm trọng các nhà đầu tư tổ chức trong giai 
đoạn này dễ dẫn đến những bất ổn của thị trường khi nhà đầu tư tổ chức không 
thể tác động đến giá hay kinh doanh chênh lệch để đưa giá trở về mức hợp lý. 
Các đợt tăng trưởng nóng và sụt giảm nhanh vừa qua là bằng chứng không thể 
phủ nhận. 
2.2 Kiểm định thị trường hiệu quả 
2.2.1 Lựa chọn biến kiểm định 
Thu thập số liệu VN-index theo ngày, sau đó xác định tỷ suất sinh lợi giữa hai 
phiên liền kề bằng cách lấy logarithm tự nhiên để tạo chuỗi tỷ suất sinh lợi theo 
thời gian với giả định rằng lãi suất được ghép liên tục 
 rt = log(pt) – log(pt-1) = log(pt/pt-1) 
Trong đó: rt là tỷ suất sinh lợi của VN-index tại thời điểm t 
 pt, pt-1 là VN-index lần lượt ở thời điểm t,(t-1) 
2.2.2 Phương pháp kiểm định: kiểm định tương quan 
Nếu hai sự thay đổi giá cả liên tục trên thị trường của một chứng khoán là độc 
lập và có cùng quy luật phân phối, tức là giá cả tuân theo bước ngẫu nhiên, các 
32 
khuynh hướng trong quá khứ của giá cả không thể được dùng để dự báo những 
biến động trong tương lai. Có nhiều phương pháp để nhận diện liệu có tồn tại 
tính biến động theo bước ngẫu nhiên của giá cả trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam hay không. Phương pháp được sử dụng trong phần này là phương 
pháp kiểm định tính tương quan giữa tỷ suất sinh lợi hiện tai với tỷ suất sinh lợi 
trong quá khứ của cổ phiếu. 
Tham số tự tương quan (còn được biết được với tên gọi quen thuộc hơn là hệ số 
tương quan của chuỗi số liệu thời gian) cho biết mối quan hệ giữa tỷ suất sinh 
lợi của chứng khoán trong giai đoạn hiện hành so với giai đoạn trước. Hệ số 
này được xác định bởi công thức: 
N
t
t
kN
t
ktt
k
rr
rrrr
1
2
1
)(
))((
Trong đó: 
 k hệ số tương quan của tỷ suất sinh lợi tại thời điểm t và thời điểm (t+k) 
 N là số quan sát 
 rt, rt+k tỷ suất sinh lợi của VN-index tại thời điểm t, (t+k) 
 r tỷ suất sinh lợi trung bình của chuỗi số liệu. 
Mô hình hồi quy: rt= β0+ βir(t-i)+ εt 
Trong đó: + β0 : hệ số tự do 
 + βi: hệ số (trong kiểm định này thì i chạy từ 1 đến 3) 
Chúng ta sẽ kiểm định tính sự tương quan giữa tỷ suất sinh lợi hiện tại của một 
cổ phiếu và tỷ suất sinh lợi trong quá khứ của cổ phiếu đó với độ tin cậy 95%. 
Giả thuyết H0 : 1 = 2 = 3 =…= k =0 [mức thu nhập của các chứng khoán qua 
theo chuỗi thời gian là không tương quan với nhau (tức là chúng biến đổi ngẫu 
nhiên) thị trường là hiệu quả. Ngược lại nếu kiểm đinh mà thấy với bất kỳ 
một k nào mà khác 0 (xác suất để giả thuyết này được chấp nhận quá nhỏ) 
kết luận: bác bỏ giả thuyết đã đưa ra. Nghĩa là giá chứng khoán có tương 
33 
quan với nhau  thị trường chứng khoán không hiệu quả, giá cả phụ thuộc vào 
nhau và có thể dự đoán trước được. 
Sau khi chọn ra 20 chứng khoán và VN-index, tính toán tỷ suất sinh lợi trong 
giai đoạn từ đầu năm 2006 đến nay và thực hiện kiểm định ta được bảng tổng 
hợp sau (kết quả kiểm định chi tiết xem phụ lục 2): 
Bảng 2: Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả 
 β0 β1 β2 β3 R
2 
F-
statistic 
Prob Kết luận 
VN-Index 0.000165 0.303000 0.075753 0.009474 0.107693 2.488.639 0.000000 Bác bỏ H0 
AGF -6.16E-05 0.270171 0.102133 0.046075 0.070108 1.617.943 0.000000 Bác bỏ H0 
BBC 0.000225 0.268631 0.006827 0.038786 0.076929 1.791.811 0.000000 Bác bỏ H0 
BT6 0.000582 0.208274 0.017584 0.021665 0.046866 1.055.191 0.000000 Bác bỏ H0 
DHA 0.000105 0.181004 0.058394 0.001483 0.039074 8.734.404 0.000000 Bác bỏ H0 
GIL 8.70E-05 0.153507 0.037129 0.012386 0.027456 6.069.598 0.000015 Bác bỏ H0 
HAP -7.11E-05 0.229930 0.023325 0.052642 0.078693 1.834.707 0.000000 Bác bỏ H0 
HAS 0.000416 0.169040 0.002927 0.041859 0.044871 1.009.112 0.000000 Bác bỏ H0 
KDC -3.03E-05 0.215212 0.021129 0.022083 0.048752 1.097.789 0.000000 Bác bỏ H0 
KHA 0.000138 0.202218 0.019482 0.051906 0.056141 1.272.874 0.000000 Bác bỏ H0 
KHP 0.000104 0.265494 0.018038 0.023934 0.072704 1.601.019 0.000000 Bác bỏ H0 
LAF 8.43E-05 0.281114 -0.011732 0.039438 0.090293 2.124.049 0.000000 Bác bỏ H0 
NKD -9.52E-05 0.255870 0.004465 -0.060538 0.080820 1.881.617 0.000000 Bác bỏ H0 
PNC -0.000177 0.199256 0.011994 -0.015590 0.055229 1.251.001 0.000000 Bác bỏ H0 
REE 0.000238 0.165895 0.027341 0.022107 0.047004 1.055.508 0.000000 Bác bỏ H0 
SAM -0.000248 0.292349 -0.033020 0.032710 0.094171 2.224.779 0.000000 Bác bỏ H0 
SAV 3.76E-05 0.167087 -0.033803 -0.024838 0.032299 7.142.667 0.000001 Bác bỏ H0 
SSC 7.34E-05 0.173012 -0.050685 0.033505 0.031779 7.024.024 0.000002 Bác bỏ H0 
TNA 0.000200 0.194730 0.025778 -0.038995 0.042378 9.470.232 0.000000 Bác bỏ H0 
TS4 0.000335 0.322247 -0.000515 0.012231 0.104824 2.505.925 0.000000 Bác bỏ H0 
VSH 0.000123 0.235632 -0.004846 -0.048821 0.062465 1.360.513 0.000000 Bác bỏ H0 
(Nguồn số liệu giá: www.cophieu68.com) 
34 
Kết luận: 
Thị trường chứng khoán Việt Nam không đạt hiệu quả dạng yếu, giá cả các 
chứng khoán có tương quan với nhau. Điều này hoàn toàn hợp lý vì theo giả 
định thị trường hiệu quả thì phải có một số lượng lớn các thành viên tham gia 
biết tối đa hóa lợi nhuận bằng việc phân tích và định giá các chứng khoán, các 
thành viên này độc lập nhau. Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt Nam số 
công ty niêm yết còn ít, số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường chủ yếu là 
các nhà đầu tư cá nhân thiếu kiến thức, trình độ không đồng đều, đa số các nhà 
đầu tư vẫn đầu tư theo cảm tính hoặc chạy theo đám đông chứ không ra quyết 
định đầu tư dựa trên những phân tích tình hình công ty. 
2.3 Phân tích thị trường Việt Nam từ góc nhìn của tài chính hành vi 
2.3.1 Sai lệch về niềm tin của nhà đầu tư 
Theo như kết quả kiểm định ở phần trên thì thị trường chứng khoán Việt Nam 
là thị trường không đạt hiệu quả dạng yếu. Do đó để giải thích được những bất 
thường trong thị trường vừa qua thì chúng ta phải sử dụng lý thuyết tài chính 
hành vi. 
Hình 2: Biểu đồ giá chứng khoán 
(Nguồn: www.cophieu68.com) 
35 
Diễn biến thị trường từ 2006 đến nay có thể chia thành các giai đoạn sau: 
Giai đoạn 1: thị trường tăng trưởng nóng trong giai đoạn 2006 - đầu 2007 
Năm 2006 đã chứng kiến sự phát triển đầy sôi động của thị trường chứng 
khoán Việt Nam với nhiều sự kiện đáng chú ý. Trong đó, ấn tượng nhất là sự 
mở rộng về quy mô thị trường với tổng mức vốn hóa của toàn thị trường chứng 
khoán Việt Nam đạt 220.000 tỷ đồng, tương đương 13,8 tỷ USD, tăng gấp hơn 
20 lần so với cuối năm 2005 và bằng khoảng 17% tổng sản phẩm quốc nội 
(GDP) năm 2006, vượt xa so với mục tiêu đạt 5% GDP mà các nhà quản lý đặt 
ra hồi đầu năm đạt mức tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á- Thái Bình 
Dương với 145% , thậm chí đứng trên TTCK Thượng Hải với mức tăng 130%. 
Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế giới. Thị trường tăng 
mãnh liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia 
chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường 
Có thể giải thích hiện tượng này bằng các yếu tố trong tài chính hành vi: phản 
ứng thái quá, tâm lý bầy đàn và quá tự tin. 
Quá trình phản ứng thái quá những thông tin tốt như: gia nhập WTO, Tổng 
thống Mỹ George W. Bush đã đến thăm trung tâm giao dịch chứng khoán TP. 
HCM và gặp gỡ với lãnh đạo nhiều Doanh nghiệp lớn của Việt Nam, luồng vốn 
đầu tư nước ngoài ồ ạt… đã làm dấy lên sự hưng phấn của giới đầu tư trong và 
ngoài nước 
Bản thân doanh nghiệp cũng tranh thủ có một lượng huy động cao, bằng mọi 
cách để đưa giá lên mà chưa đề cao sự xứng đáng hay không với giá trị thực sự 
của nó. Thậm chí, có những hành vi phản ứng thái quá tiêu cực là lợi dụng thời 
cơ này để kiếm tiền “nóng”, bằng việc dành rất nhiều thời gian để “thổi giá” cổ 
phiếu, thay vì tập trung vào những tính toán mang tính chiến lược. 
Về phía các nhà đầu tư thì cứ thấy doanh nghiệp huy động vốn bằng phát hành 
cổ phiếu mới, chia cổ tức bằng cổ phiếu, có nhà đầu tư nước ngoài mua cổ 
phiếu thì tham gia đẩy giá cổ phiếu lên nữa. Điều này dễ tạo thành giai đoạn 
đầu tiên trong quá trình “phản ứng thái quá” trên thị trường chứng khoán 
36 
Tâm lý bầy đàn 
Vì trình độ phân tích và dự đoán còn yếu kém, thông tin được cung cấp không 
đầy đủ nên một bộ phận không nhỏ các nhà đầu tư hoàn toàn đầu tư theo số 
đông (thị trường chứng khoán Việt Nam, đám đông thường có khuynh hướng 
hành động theo nhà đầu tư nước ngoài) xem chứng khoán là khoản đầu tư chỉ 
có lời chứ không lỗ bất chấp giá trị tính toán thực tế, triển vọng phát triển, tình 
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khiến cho thị trường đã nóng nay 
lại càng nóng hơn.Chính vì vậy mà việc nhà đầu tư nước ngoài tăng tốc mua 
bán chứng khoán còn làm cho cầu trên thị trường, kể cả thị trường OTC “nóng” 
gấp nhiều lần. Tại phiên giao dịch 1.423 ngày 22/11, chỉ số VN - Index đạt 
598,22 điểm, tăng 13,96 điểm (+2,39%) so với phiên giao dịch hôm trước. Đặc 
biệt là hiện tượng trạng những cổ phiếu của các công ty có quy mô nhỏ, vốn 
thấp nhưng giá vẫn tăng vùn vụt. Thậm chí trong khi thị trường hoặc lình xình, 
hoặc mất điểm, các CP này vẫn tiến lên theo phương thẳng đứng. Dẫn đầu là cổ 
phiếu BMC với giá chào sàn khá khiêm tốn, chỉ 50.000 đồng/ cổ phiếu nhưng 
BMC đã lập một kỷ lục "vô tiền khoáng hậu" khi tăng trần liên tiếp 27 phiên, 
đạt một mức giá kinh hoàng là 769.000 đồng/ cổ phiếu. Nối gót đàn anh BMC, 
hàng loạt các cổ phiếu LBM, TCT... cũng liên tục tăng nóng đến mức độ được 
gọi là cổ phiếu hàng hiếm. 
Quá tự tin 
Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2007 đã thấy xuất hiện những bài báo có uy 
tín cảnh báo về khả năng sụp đổ của bong bóng thị trường như: phòng thương 
mại Mỹ tại Việt Nam (AMCHAM) đăng tải trên website của họ bài viết “thị 
trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa thiếu cơ sở”;Thời báo Tài Chính Anh 
(Financial Times) dẫn lời các nhà quản lý tài chính nước ngoài cảnh báo thị 
trường chứng khoán TP.HCM đang rơi vào tình trạng quá nóng và vượt quá giá 
trị thật. Thậm chí tuần báo Wall Street Joural – tuần báo có uy tín vào hạng bậc 
nhất trên thế giới cũng có bài bình luận về Thị trường chứng khoán Việt Nam 
với tựa "Saigon’Miss”. Đáng chú ý là IMF cũng đã gửi bản khuyến cáo đến 
chính phủ VN về sự bùng nổ của TTCK. Đặc biệt chính phủ đã có những động 
37 
thái nhằm ngăn chặn sự phát triển quá nóng của thị trường. Tuy nhiên nhà đầu 
tư nhỏ lẻ trong giai đoạn này vẫn còn “cả tin” vào khả năng phán đoán của 
mình về sự tăng trưởng của nền kinh tế và sức mạnh của thị trường bất chấp 
những rủi ro tiềm ẩn. 
Giai đoạn 2: 11/2007 đến tháng 3/2009: thị trường suy giảm 
Cuối 2007 diễn biến thị trường chứng khoán (TTCK) VN xấu nhất trong suốt 
hơn 8 năm hoạt động. Chỉ số giá chứng khoán của cả hai sàn giảm mạnh: 
HaSTC-Index ở dưới mức 100 điểm vào ngày 27/11. So với thời điểm đầu năm 
2008, HaSTC-Index và VN-Index giảm tương ứng 67,2% và 66,9%. Việc huy 
động vốn qua TTCK giảm tới 75 - 80% và cả 3 kênh: Phát hành tăng vốn của 
doanh nghiệp, cổ phần hóa, phát hành trái phiếu đều sụt giảm mạnh so với năm 
trước; Tính thanh khoản - khối lượng giao dịch giảm khoảng 70% so với năm 
trước… Ðể phục hồi thị trường, ngay từ đầu năm, cơ quan quản lý đã đưa ra 
nhiều giải pháp, trong đó, có những giải pháp khiến dư luận kỳ vọng nhiều rồi 
lại thất vọng không ít như: cho phép Tổng Cty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà 
nước (SCIC) mua vào cổ phiếu, thu hẹp biên độ rồi lại nới rộng biên độ... 
Thị trường chứng khoán sụt giảm trong những tháng qua chủ yếu xuất phát từ 
chính nội tại của nền kinh tế, bên cạnh đó là yếu tố bày đàn của các nhà đầu tư 
trong nước. 
Tâm lý bầy đàn 
Quý II năm 2008, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam xấu đi nhanh chóng. 
Lác đác đã có những định chế tài chính hùng mạnh tại Phố Wall đổ vỡ như 
Lehman Brothers (ngân hàng lớn thứ 4 của Hoa Kỳ), công ty bảo hiểm AIG … 
VN-dex trượt dài về đáy 366 điểm vào ngày 20/6/2008. Tâm lý nhà đầu tư nội 
vốn quan sát động thái mua bán của khối ngoại để ra quyết định cũng hoảng sợ 
và lo ngại về khả năng chứng khoán tiếp tục giảm sâu, nhiều nhà đầu tư đổ 
hàng ra bán nhằm cắt lỗ khiến chứng khoán càng giảm mạnh hơn dẫn đến giá 
nhiều cổ phiếu đã xuống tới mức thấp hơn giá trị sổ sách mặc dù hầu hết 
các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang làm ăn 
khá tốt, đạt hoặc vượt kế hoạch. 
38 
Hiệu ứng phân bổ tài khoản 
Đây là dạng xu hướng hành vi mà các nhà đầu tư có khuynh hướng luôn ở 
trong vị thế lỗ rất lâu và thanh lý vị thế thắng rất sớm 
Nhìn vào khối lượng giao dịch của cả thời kỳ quan sát, ta sẽ nhận thấy hiệu ứng 
phân bổ tài khoản của nhà đầu tư: tại thời điểm cuối năm 2008 khối lượng giao 
dịch cao hơn nhiều so với giai đoạn đỉnh điểm của thị trường vào đầu và cuối 
năm 2007. Đây là tâm lý chung thường thấy của nhà đầu tư khi trì hoãn việc 
thanh lý tài sản của mình khi thị trường lao dốc và mang tâm lý chờ đợi thị 
trường tiếp tục tăng điểm thay vì cắt lỗ và đầu tư vào các tài sản khác mang lại 
lợi nhuận cao hơn. 
Thành kiến vốn có là việc các nhà đầu tư không tìm hiểu về công ty định đầu tư 
để có cái nhìn toàn diện thấu đáo mà chỉ dựa trên những thông tin gần nhất 
được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.Thị trường chứng khoán 
Việt Nam năm 2008 tràn ngập các tin đồn vô căn cứ như: Chủ tịch HĐQT 
Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) “bị bắt, các tin đồn rầm rộ về “mở room” 
ngân hàng, về “tạm ngừng giao dịch” v.v... Cuối năm, khi thị trường tưởng như 
đã “ngủ yên”, lại rộ lên tin đồn về việc ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch 
HĐQT Hoàng Anh - Gia Lai, bị “quản thúc và cấm xuất ngoại”, rồi tin Công ty 
chứng khoán VnDirect nộp đơn “xin phá sản”. Dù biết là vô căn cứ nhưng 
những “tin vịt” kiểu này vẫn có tác động nhất định đến tâm lý của một số nhà 
đầu tư “yếu bóng vía”.Trên các sàn giao dịch, nhiều nhà đầu tư không còn giữ 
được bình tĩnh và quyết định bán tháo cổ phiếu để cắt lỗ mặc dù những doanh 
nghiệp có kết quả kinh doanh rất tốt. 
Giai đoạn 4: Quý 2/2009 đến nay thị trường bắt đầu sự phục hồi tương đối 
ấn tượng 
Thị trường chứng khoán bắt đầu đi lên sau khi thiết lập mức đáy 235 điểm vào 
cuối tháng 2/2009. Tính đến ngày 8-6, chỉ số VN-Index đã tăng 113% so với 
mức đáy trên, trong khi giá nhiều cổ phiếu đã tăng gấp hai, gấp ba lần tốc độ 
tăng trung bình của thị trường. Dòng tiền lại ồ ạt chảy vào thị trường chứng 
khoán. Nếu trong năm 2008 giá trị giao dịch bình quân một phiên của cả hai thị 
39 
trường chỉ khoảng 500 tỉ đồng, thì hiện nay con số đó khoảng 1.500 tỉ đồng. 
TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở 
thành điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á. 
Các nhà đầu tư trong nước lại chính là những người dẫn dắt thị trường, ngay cả 
trong những phiên nhà đầu tư nước ngoài bán ra mạnh thì khối lượng mua vẫn 
ở mức cao và giá chứng khoán vẫn tăng. 
Hầu hết các chuyên gia đều lắc đầu khi nhắc đến lý do vì sao thị trường chứng 
khoán lại tăng mạnh mẽ trong vài tháng gần đây. Lý do chung nhất được đưa ra 
là nhà đầu tư đang trong trạng thái hưng phấn sau khi thị trường đã điều chỉnh 
quá sâu trong suốt năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, đồng thời nền kinh 
tế trong nước đã có những dấu hiệu hồi phục sau khủng hoảng năm 2008. 
Nguyên nhân từ sự hồi phục của nền kinh tế thế giới cũng được nhắc đến nhiều 
như một yếu tố củng cố tâm lý của nhà đầu tư Việt Nam. Ngoài ra việc chia cổ 
tức đến sớm tạo hứng khởi cho các nhà đầu tư. 
Tuy nhiên từ tháng 11 cho tới cuối năm các chỉ số bắt đầu rơi vào chu kỳ giảm 
điểm do nửa cuối tháng 10-2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân 
hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán và yếu tố tâm lý xu hướng điển hình 
- nhà đầu tư lao vào xả hàng vì lo sợ “lịch sử lặp lại” (chứng khoán có thể sẽ 
lập đáy như thời điểm đầu năm) 
2.3.2 Kiểm định hành vi bầy đàn 
Có một vài phương pháp thống kê để tính mức độ bầy đàn như của 
Lakonishok,Shleifer, and Vishny hay bản sửa đổi port-folio-change measure 
(PCM) của Wermers. Hai phương pháp này sẽ quan sát mỗi liên hệ giữa những 
nhóm nhỏ khi mua bán một loại chứng khoán. Ngoài ra, còn những phương 
pháp khác như của Christie and Huang, tính toán độ lệch khỏi giá trị trung 
bình, hay một phương pháp phức tạp của Nofsinger and Sias... 
Ở đây chúng ta dùng phương pháp tính độ phân tán của tỷ suất sinh lợi so với 
giá trị trung bình để kiểm tra xem liệu hành vi bầy đàn có tồn tại trong việc ra 
quyết định của nhà đầu tư không. Khi tâm lý bầy đàn tồn tại nhất quán trong 
40 
toàn thị trường thì mức độ biến động được dự đoán tương đối thấp. Ngược lại, 
theo các mô hình định giá hợp lý thì độ phân tán được dự đoán sẽ tăng lên bởi 
vì lợi nhuận của các cổ phiếu riêng rẽ bị đẩy xa khỏi tỷ suất sinh lợi thị trường 
do độ nhạy cảm của chúng sẽ biến động không cùng chiều với sự biến động của 
thị trường. Ví dụ như trong giai đoạn thị trường giá giảm, tâm lý bầy đàn phổ 
biến nhất, mức độ tăng của độ phân tán trong tỷ suất sinh lợi thực tế được phản 
ánh bởi sự gia tăng trong độ phân tán của tỷ suất sinh lợi được dự đoán bởi 
những mô hình định giá tài sản hợp lý 
Giải thích phổ biến nhất cho sự biến đổi của tỷ suất sinh lợi chứng khoán được 
cho là do những thay đổi giá cả ảnh hưởng đến tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư. 
Bài làm này tập trung vào việc tâm lý bầy đàn tác động tới giá cả bằng việc 
điều tra xem tỷ suất sinh lợi của chứng khoán thể hiện hành vi bầy đàn như 
thế nào. Để đo ảnh hưởng tiềm năng của hành vi bầy đàn đến giá cả, đầu tiên 
chúng ta sẽ xem xét hành vi bầy đàn có thể biểu hiện như thế nào trong dữ liệu 
tỷ suất sinh lợi. Theo định nghĩa truyền thống của hành vi bầy đàn, một biện 
pháp đo lường trực quan tác động của nó tới thị trường là độ phân tán, định 
nghĩa như là độ lệch chuẩn cắt ngang của lợi nhuận.Độ phân tán của tỷ suất 
sinh lợi của các chứng khoán đơn lẻ gần với giá trị trung bình. Khi tỷ suất sinh 
lợi của các chứng khoán riêng lẻ bắt đầu thay đổi so với tỷ suất sinh lợi thị 
trường , mức độ phân tán tăng lên. 
Mục tiêu của chúng tôi là để kiểm tra xem có sự xuất hiện của hành vi đàn 
không khi hành vi bầy đàn có nhiều khả năng hình thành. Bởi vì các cá nhân 
có thể đàn áp niềm tin của riêng mình do sự nhất quán của thị trường trong giai 
đoạn thị trường chuyển động thị trường bất thường, hành vi đàn rất có thể sẽ 
xuất hiện trong giai đoạn căng thẳng của thị trường. Chúng tôi khai thác ý 
nghĩa của hành vi này bằng cách kiểm tra xem độ phân tán đáng kể thấp hơn tỷ 
lệ trung bình trong thời kỳ thị trường có những bất thường. 
Dự đoán liên quan đến hành vi của sự phân tán trong thời kỳ căng thẳng của thị 
41 
trường cũng xuất hiện từ mô hình định giá tài sản hợp lý. Trong số những yếu 
tố liên quan đến tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán riêng lẻ thì tỷ suất sinh lợi 
thị trường là yếu tố quan sát nổi bật nhất.Trong thời gian căng thẳng trên thị 
trường, mô hình định giá tài sản hợp lý dự đoán rằng thay đổi lớn trong tỷ suất 
sinh lợi thị trường sẽ chuyển thành một gia tăng mức độ phân tán, bởi vì các tài 
sản riêng lẻ khác nhau về độ nhạy cảm đối với tỷ suất sinh lợi thị trường. Như 
vậy, hành vi bầy đàn và các mô hình định giá tài sản hợp lý cung cấp các dự 
báo trái ngược nhau cho hành vi của sự phân tán trong thời kỳ thị trường căng 
thẳng. 
Độ phân tán của tỷ suất sinh lợi chứng khoán 
Độ phân tán của tỷ suất sinh lợi chứng khoán (S) được xác định bởi công thức: 
Trong đó: 
 ri : tỷ suất sinh lợi trong kỳ quan sát i 
 r : tỷ suất sinh lợi trung bình 
 n: Số lượng tỷ suất sinh lợi trong danh mục 
Tâm lý bầy đàn 
Trong giai đoạn biến động giá bất thường lớn trung bình, hoặc thị trường căng 
thẳng , những dự đoán của các mô hình định giá tài sản truyền thống (các nhà 
đầu tư đều là những người có lý trí) và tâm lý bầy đàn có sự khác biệt rõ ràng 
nhất. Cụ thể, bởi vì từng chứng khoán có độ nhạy cảm đối với tỷ suất sinh lợi 
thị trường khác nhau, các mô hình định giá tài sản hợp lý dự đoán rằng khoảng 
thời gian thị trường căng thẳng (market stress) thì độ lệch chuẩn sẽ tăng lên. 
Ngược lại, theo thuyết hành vi bầy đàn thì lợi nhuận của các cổ phiếu riêng lẻ 
trên khắp thị trường sẽ giảm mức độ phân tán. 
Để phân biệt hai giả thuyết này, chúng ta sẽ chia mức độ phân tán St thành 
đuôi xa nhất trong phân phối của tỷ suất sinh lợi thị trường và kiểm tra liệu có 
42 
phải nó khác một cách đáng kể với mức độ phân tán trung bình mà loại trừ 
những sự trở lại thị trường ở ngoài cùng. Kiểm định sử dụng phương trình hồi 
quy sau: 
Trong đó: 
 =1 nếu tỷ suất sinh lợi thị trường trong ngày t nằm ở giới hạn dưới của phân 
phối 
 ngược lại 
 nếu tỷ suất sinh lợi thị trường trong ngày t nằm ở giới hạn trên của 
phân phối 
 ngược lại 
Bảng 1 cho biết mức độ phân tán trung bình và độ lệch chuẩn của độ phân tán. 
Nhìn vào bảng 1 ta thấy được công nghiệp (9.91%) và tài chính (8.77%) là hai 
ngành có độ phân tán trung bình và độ lệch chuẩn cao nhất, và thấp nhất là 
ngành nguyên vật liệu. 
Bảng 3: Thống kê tổng quan 
Ngành Độ phân tán trung bình 
Độ lêch chuẩn của độ 
phân tán 
Công nghiệp 0.099062 2.400341 
Dịch vụ công cộng 0.006337 0.170382 
Dịch vụ tiêu dùng 0.00643 0.170379 
Hàng tiêu dùng 0.010881 0.218074 
Nguyên vật liệu 0.000447 0.017411 
Nông lâm ngư 0.006362 0.170381 
Tài chính 0.087684 2.391453 
Y tế 0.006312 0.169988 
43 
Bảng 4: Các hệ số thống kê của mức độ phân tán theo ngày 
Ngành α β1 β2 
Nguyên vật liệu 0.000631 -0.000119 -0.00011 
Dịch vụ tiêu dùng 0.000801 -0.000187 -0.000144 
Công nghiệp 0.000686 -0.000127 -9.47E-05 
Tài chính 0.000615 7.35E-07 -6.38E-05 
Nông lâm ngư 0.000573 -1.62E-05 -1.81E-05 
Y tế 0.000612 -6.19E-05 -7.37E-05 
Dịch vụ công cộng 0.000622 -0.000103 -7.26E-05 
Hàng tiêu dùng 8.91E-05 0.000344 -6.78E-06 
Chiến lược của chúng tôi là để so sánh các dự báo theo hành vi bầy đàn và theo 
các mô hình định giá tài sản hợp lý trong thời kỳ thị trường có những biến động 
lớn, hay phong trào thổi phồng giá. Độ phân tán đã tìm thấy sự gia tăng đáng 
kể trong thời gian giá có những thay đổi lớn, ngụ ý tỷ suất sinh lợi riêng lẻ 
không xoay quanh tỷ suất sinh lợi thị trường hay tâm lý bầy đàn rất phổ biến ở 
thị trường Việt Nam 
2.3.3 Kết quả khảo sát 
Đối tượng tham gia cuộc khảo sát là các nhà đầu tư cá nhân tại các sàn giao 
dịch chứng khoán tại địa bàn TPHCM như ACB, Hoa Sen, Vincomsc,… trong 
khoảng thời gian từ ngày 15/4/2010 đến 10/5/2010 với 120 bản câu hỏi được 
phát ra, 79 bản được thu về và 50 bản câu hỏi đạt yêu cầu. 
2.3.3.1 Mô tả sơ lược 
Trong mẫu có 68% là nam và 32% là nữ, đa số các nhà đầu tư ở độ tuổi 26 - 35 
tuổi (46%) và dưới 25 tuổi (28%) tuổi từ 36 - 50 chiếm 22% và ít nhất là các 
nhà đầu tư từ 51-65 tuổi chiếm 4%, đặc biệt là trong mẫu được chọn không có 
nhà đầu tư nào trên 65 tuổi. 
44 
Dựa vào kết quả khảo sát ta thấy được các nhà đầu tư phân bổ 70% vốn của họ 
vào đầu tư ngắn hạn dưới 1 năm và chỉ 30% cho đầu tư dài hạn (trên 1 năm) 
Thay đổi trong việc kiểm tra khoản mục đầu tư 
Để thấy được nhà đầu tư đã chú ý và thận trọng hơn sau khi thị trường suy 
giảm, câu hỏi 4 và câu hỏi 5 đề cập tới việc nhà đầu tư quan tâm đến khoản đầu 
tư của họ như thế nào. 
Câu 4. Anh/chị có theo dõi các khoản mục đầu tư ngắn hạn của mình thường 
xuyên hơn so với thời kỳ trước khi thị trường suy giảm (cuối năm 2007)? Vui 
lòng chọn 1 trong các lựa chọn sau: 
1. Có 
2. Không 
3. Không thể nói 
Câu 5. Anh/chị có theo dõi các khoản mục đầu tư dài hạn của mình thường 
xuyên hơn so với thời kỳ trước khi thị trường suy giảm (cuối năm 2007)? Vui 
lòng chọn 1 trong các lựa chọn sau: 
1. Có 
2. Không 
3. Không thể nói 
Đa số mọi người đều quan tâm đến những khoản mục đầu tư ngắn hạn cũng 
như dài hạn của mình một cách thường xuyên hơn so với thời kỳ trước khi thị 
trường suy giảm (cuối năm 2007), cụ thể: có 76% các nhà đầu tư quan tâm đến 
khoản mục đầu tư ngắn hạn của mình hơn so với thời kỳ trước khi thị trường 
suy giảm và 48% các nhà đầu tư theo dõi khoản mục dài hạn của mình thường 
xuyên hơn. Đặc biệt từ kết quả trên cũng cho thấy các nhà đầu tư có vẻ quan 
tâm thường xuyên đến khoản mục ngắn hạn hơn là dài hạn 
45 
Thay đổi trong mục tiêu đầu tư 
Để biết được nhà đầu tư đã thay đổi mục tiêu đầu tư như thế nào sau giai đoạn 
thị trường tăng trưởng nóng, những người trả lời được yêu cầu chọn ra 2 lựa 
chọn thích hợp nhất mô tả chiến lược đầu tư của họ (câu hỏi số 6 và 14). 
Câu 6. Vui lòng chọn 2 lựa chọn thích hợp nhất mô tả các chiến lược đầu tư 
của anh/chị trong khoảng thời gian từ cuối năm 2006 đến khi thị trường suy 
giảm cuối năm 2007. 
1. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty không ổn định, nhưng lợi nhuận dự 
kiến cao hơn 
2. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty ổn định, nhưng có lợi nhuận dự kiến 
thấp hơn 
3. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty quy mô lớn 
4. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty quy mô nhỏ 
5. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao 
6. Tôi đầu tư chủ yếu vốn vào các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước thấp 
Câu 14. Chọn 2 lựa chọn thích hợp nhất mô tả các đầu tư mà anh/chị đã thực 
hiện từ khi thị trường suy giảm cuối năm 2007 cho đến nay: 
1. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty không ổn định, nhưng lợi nhậun dự 
kiến cao 
2. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty ổn định, nhưng lợi nhuận dự kiến 
thấp hơn 
3. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty quy mô lớn 
4. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty quy mô nhỏ 
5. Tôi đầu tư chủ yếu vào các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao 
6. Tôi đầu tư chủ yếu vốn vào các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước thấp 
Kết quả chỉ ra rằng có 22% các nhà đầu tư đầu tư vào công ty lớn và 14% vào 
các công ty nhỏ trong suốt thời kỳ 2006 đến 2007. Sau 2007 tỷ lệ này cũng 
46 
không thay đổi nhiều với 21% đầu tư vào các công ty lớn và 12% đầu tư vào 
các công ty nhỏ. Tuy nhiên, lúc này tỷ lệ các nhà đầu tư đầu tư vào các công ty 
không ổn định nhưng có lợi nhuận cao đã giảm từ 26% xuống 19% trong khi tỷ 
lệ đầu tư vào công ty ổn định với lợi nhuận thấp đã tăng từ 17% lên 26%. Các 
nhà đầu tư cũng tăng cường đầu tư 9% lên 14% vào các công ty có tỷ lệ sở hữu 
nhà nước cao sau 2007 và giảm tỷ lệ đầu tư vào các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà 
nước thấp từ 11% xuống 7%. 
Hình 3: Thay đổi trong nhân tố quan trọng nhất 
trong việc ra quyết định đầu tư 
0,00%
5,00%
10,00%
15,00%
20,00%
25,00%
30,00%
Khong on
dinh, loi
nhuan
cao
On dinh,
loi nhuan
thap 
Quy mo
lon
Quy mo
nho
So huu
nha nuoc
cao
So huu
nha nuoc
thap
Chien luoc dau tu 06-07
Chien luoc dau tu 07 den nay
Các công ty lớn và các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao vẫn chiếm tỷ trọng 
lớn ngay cả sau khi thị trường suy giảm. Điều này phù hợp với hành động di 
chuyển sang các khoản đầu tư ít rủi ro hơn như các công ty ổn định với tỷ suất 
sinh lợi thấp và tránh những công ty nhỏ và các công ty không ổn định. 
Thay đổi trong yếu tố quan trọng khi quyết định đầu tư 
Trong câu hỏi số 9 và 10 cho thấy yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết 
định của nhà đầu tư thay đổi như thế nào so với giai đoạn từ cuối 2006 đến 
tháng 11/2007. 
Câu 9. Yếu tố nào được xem là quan trọng nhất khi anh/chị đưa ra quyết định 
đầu tư trong giai đoạn hiện nay? 
1. Thông tin từ các công ty đóng vai trò như là cơ sở cho việc phân tích cơ 
bản 
2. Gợi ý, lời khuyên và dự báo của các nhà đầu tư chuyên nghiệp 
47 
3. Kết quả trong quá khứ của thị trường 
4. Thông tin từ báo chí/TV 
5. Thông tin từ Internet 
6. Thảo luận với bạn bè 
7. Thông tin từ các đồng nghiệp tại nơi làm việc 
8. Cảm nhận trực giác của cá nhân về tình hình tương lai 
Câu 10. Yếu tố nào quan trọng nhất khi anh/chị quyết định đầu tư trong 
khoảng thời gian từ cuối 2006 đến tháng 11/ 2007? 
1. Thông tin từ các công ty đóng vai trò như là cơ sở cho việc phân tích cơ 
bản 
2. Gợi ý, lời khuyên và dự báo của các nhà đầu tư chuyên nghiệp 
3. Kết quả trong quá khứ của toàn thị trường 
4. Thông tin từ báo chí/TV 
5. Thông tin từ Internet 
6. Thảo luận với bạn bè 
7. Thông tin từ các đồng nghiệp tại nơi làm việc 
8. Cảm nhận trực giác của cá nhân về tình hình tương lai 
Kết quả cho thấy trong giai đoạn hiện nay các nhà đầu tư đã nhận thấy tầm 
quan trọng của thông tin từ các công ty mà họ đang đầu tư để làm cơ sở cho các 
phân tích cơ bản. Nếu trong giai đoạn 2006 - 2007 chỉ có 26% số nhà đầu tư 
coi đó là yếu tố quan trọng nhất để đưa ra quyết định đầu tư của mình thì hiện 
nay tỷ lệ này đã tăng lên đến 46%. Đặc biệt dựa vào biểu đồ 2.2 ta cũng thấy 
được sự thay đổi rõ rệt. Trong giai đoạn 2006 - 2007 số nhà đầu thường đưa ra 
quyết định dựa vào thông tin từ các công ty, gợi ý, lời khuyên và dự báo của 
các nhà đầu tư chuyên nghiệp; thông tin từ bạn bè hay cảm nhận trực giác của 
cá nhân về tình hình tương lai gần như là như nhau. Từ đó cho thấy việc phân 
tích cơ bản những thông tin về công ty trong giai đoạn này chưa được chú 
48 
trọng. Nhưng sau khi thị trường suy giảm thái độ nhà đầu tư đã có thay đổi, 
việc tham khảo ý kiến của các chuyên gia chỉ đứng thứ hai (20%) sau các thông 
tin từ các công ty làm cơ sở cho phân tích cơ bản (46%) 
Hình 4: Yếu tố quan trọng nhất khi ra quyết định đầu tư 
Những lý do có thể cho việc định giá cao và suy giảm của thị trường 
Tại sao các nhà đầu tư hợp lý muốn đầu tư vào tài sản biết rằng chúng được 
định giá quá cao? Theo ý kiến các nhà đầu tư thì nhân tố nào là quan trọng nhất 
góp phần vào việc định giá cao của thị trường trong khoảng thời gian cuối năm 
2006 đến tháng 11/2007 và việc suy giảm của thị trường giai đoạn cuối 2007 
đến tháng 3/2009? (câu hỏi 12 và 13). 
Câu 12. Nếu có, anh/chị nghĩ là yếu tố nào là quan trọng nhất góp phần vào 
việc định giá cao của thị trường trong khoảng thời gian từ cuối 2006 đến tháng 
11/2007? 
1. Những tin tức trên các phương tiện truyền thông 
2. Dự báo của các nhà phân tích 
3. Tâm lý quá tự tin của các nhà đầu tư trong thị trường chứng khoán 
4. Thu nhập và khả năng sinh lợi của các công ty niêm yết 
5. Tâm lý bầy đàn, ví dụ như các nhà đầu tư cá nhân thường hành động 
theo đám đông 
49 
Câu 13. Anh/chị nghĩ đâu là yếu tố quan trọng nhất góp phần vào việc suy 
giảm của thị trường từ cuối 2007 đến nay? 
1. Những tin tức trên các phương tiện truyền thông 
2. Dự báo của các nhà phân tích của 
3. Các nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường chứng khoán 
4. Thu nhập và khả năng sinh lợi của các công ty niêm yết 
5. Tâm lý bầy đàn, ví dụ như các nhà đầu tư cá nhân thường hành động 
theo đám đông 
Mặc dù các nhà đầu tư đã phải đối mặt với bằng chứng trái ngược cho rằng 
việc tăng giá liên tiếp như vậy không có bất kỳ căn cứ cơ bản nào, và thị trường 
đã được định giá quá cao. Tuy nhiên họ vẫn quá tự tin vào những quyết định 
của mình họ có thể tránh những thông tin mới đi ngược lại ý kiến của họ hay 
bóp méo các thông báo để duy trì niềm tin của riêng mình. Vì vậy các nhà đầu 
tư có thể phản ứng thái quá với sự thay đổi trong giá thay vì tin tức cụ thể của 
thị trường hoặc thay đổi cơ bản trong các dự báo về thu nhập. Các nhà đầu tư 
cá nhân có khuynh hướng tập trung vào những sự thay đổi trong ngắn hạn mà ít 
chú trọng vào khuynh hướng trong dài hạn. 
Hình 5 cho ta thấy được 3 yếu tố được nhà đầu tư cho là có tác động lớn nhất 
đến việc định giá cao của thị trường trong giai đoạn 2006 - 2007 là những tin 
tức trên phương tiện truyền thông, tâm lý quá tự tin của nhà đầu tư và tâm lý 
bầy đàn. Trong đó 54% nhà đầu tư xem tâm lý bầy đàn là nhân tố quan trọng 
nhất góp phần vào việc định giá cao của thị trường, 20% các nhà đầu tư quá tự 
tin đã quá mạnh mẽ và gây ra sự gia tăng đáng kể trong giá trị thị trường tiếp 
theo là phương tiện truyền thông cũng có ảnh hưởng lớn (16%). 
50 
Hình 5: 
Yếu tố quan trọng nhất góp phần vào việc định giá cao của thị trường 
Căn cứ theo các yếu tố quan trọng nhất góp phần vào sự suy giảm của thị 
trường bắt đầu từ cuối 2007 đến tháng 3/2009, từ quá tự tin các nhà đầu tư đã 
chuyển sang mất lòng tin vào thị trường chứng khoán (34%) đồng thời tầm 
quan trọng của hành vi bầy đàn cũng có mức ảnh hưởng tương tự (34%). Trong 
khi đó chỉ 18% số người được hỏi cho rằng yếu tố thu nhập và khả năng sinh 
lời của công ty là quan trọng nhất góp phần vào sự suy giảm của thị trường. 
Đây là kết quả của việc gia tăng giá cổ phiếu đã không được dựa trên giá trị cơ 
bản của doanh thu và lợi nhuận trong giai đoạn tăng trưởng nóng. Ngoài ra, nó 
củng cố ý kiến cho rằng quyết định đầu tư của các nhà đầu tư được đưa ra 
không dựa trên các yếu tố cơ bản mà dựa trên các yếu tố khác không hợp lý. 
Sau đó, thực tế là kỳ vọng lợi nhuận và kết quả nhận được đã không như dự 
báo khiến cho thị trường đi xuống. Ngoài ra, kết quả cho thấy hành vi bầy đàn 
như là một yếu tố quan trọng góp phần vào cả việc tăng trưởng nóng cũng như 
sự suy giảm của thị trường. 
51 
Hình 6: Yếu tố quan trọng nhất góp phần vào việc suy giảm của thị trường 
Ý kiến và ước tính trên giá trị thị trường hiện tại và tương lai 
Liệu các nhà đầu tư có thấy được giá trị hiện tại của thị trường chứng khoán 
được định giá quá cao, bị định giá thấp hoặc về cơ bản là được định giá đúng 
(câu hỏi 19 và 20). 
Câu 19. Theo anh/chị hiện tại thị trường chứng khoán đang được định giá như 
thế nào (chọn một trong các lựa chọn sau): 
1. Định giá cao khoảng ________% 
2. Định giá thấp khoảng _________% 
3. Về cơ bản thị trường đang được định giá đúng. 
4. Không thể nói 
Câu 20. Nếu hôm nay chỉ số VN-index là 100, anh/chị nghĩ giá trị của chỉ số 
này sẽ là bao nhiêu trong 6 tháng tới? 
Tôi nghĩ rằng giá trị của chỉ số sẽ là ____________ 
Hơn phân nửa trong số các nhà đầu tư cho rằng về cơ bản thị trường chứng 
khoán đang được định đúng giá, 12% xem xét thị trường được định giá cao 
trung bình 5.26% và 10% nghĩ rằng thị trường đang được định giá thấp trung 
bình 2.66%. 
52 
Hình 7: Giá trị ước tính của thị trường hiện tại 
Làm thế nào để các nhà đầu tư nhận thấy được mức tăng của chỉ số VN-index 
trong tương lai và mức độ “neo” của nhà đầu tư vào giá trị chỉ số này ở hiện tại 
có tác động đến câu trả lời như thế nào? Các nhà đầu tư cho thấy rằng giá trị 
trung bình của chỉ số VN-Index sáu tháng sau kể từ bây giờ sẽ là 192,93 (số 
liệu được tính bằng cách lấy trung bình các giá trị dự đoán của các nhà đầu tư) 
nếu giá trị hiện tại của chỉ số là 100. 
Việc ước tính giá trị thị trường tương lai thường dựa trên giá trị hiện tại - đặc 
biệt là trong trường hợp không có bất kỳ thông tin giá cả tốt hơn. Vì vậy các 
nhà đầu tư thường dựa vào mức giá gần đây nhất. Điều này cũng có thể được 
hiểu như là bằng chứng của quá tự tin, các nhà đầu tư cho rằng giá sẽ tăng hơn 
92% chỉ trong 6 tháng. 
2.3.3.2 Thuyết triển vọng 
Những lý do cho việc đầu tư không thành công 
Theo các nhà đầu tư thì lý do nào có thể làm cho việc đầu tư không thành 
công? Điều này sẽ được chỉ ra trong câu hỏi số 16. 
Câu 16. Theo anh/chị, thông thường thì những lý do nào khiến cho việc đầu tư 
của anh/chị ít thành công? 
1. Gợi ý hay tư vấn không chính xác từ các nhà môi giới/nhà phân tích 
53 
2. Gợi ý hay tư vấn không chính xác từ các nguồn khác 
3. Thị trường hoạt động kém 
4. Sai lầm của cá nhân 
5. Khác: ……………………………………………………………………. 
32% các nhà đầu tư cá nhân xem gợi ý hay tư vấn không chính xác từ các nhà 
môi giới/nhà phân tích là nhân tố quan trọng nhất dẫn đến một sự đầu tư không 
thành công. 28% các câu trả lời cho rằng việc đầu tư của họ ít thành công là do 
sai lầm của cá nhân, 24% nghĩ rằng do thị trường hoạt động kém và chỉ có 10% 
gợi ý hay tư vấn từ các nguồn khác là lý do chính. 
Hình 8: Lý do khiến việc đầu tư ít thành công 
Kết quả này có thể giải thích bằng lý thuyết nuối tiếc. Phân tích của các chuyên 
gia và sự sụt giảm chung của thị trường mới là yếu tố quan trọng dẫn đến đầu 
tư thất bại chứ không phải lỗi riêng của các nhà đầu tư. Điều này mang lại 
những cảm giác hối tiếc. Chính vì vậy các nhà đầu tư có thể cố gắng tránh sự 
nuối tiếc bằng cách đổ lỗi cho các chuyên viên tư vấn và các chuyên gia hoặc 
không chấp nhận việc thua lỗ. 
54 
Ác cảm đối với thua lỗ 
Các nhà đầu tư sẽ phản ứng như thế nào trước nguy cơ thua lỗ? Các nhà đầu tư 
sẽ tiếp tục nắm giữ và đối mặt với khả năng thua lỗ do giá cổ phiếu giảm hay 
đóng vị thế để cắt lỗ? Điều này sẽ được tìm hiểu trong câu hỏi 17. 
Câu 17. Anh/chị đang phải đối mặt với tình huống sau đây: Một cổ phiếu mà 
anh/chị mua cách đây một 1 tháng với giá 50.000 đồng và hiện tại chỉ bán 
được với giá 40.000 đồng. Trong vòng 1 tháng kể từ bây giờ giá cổ phiếu có 
thể tăng 10.000 đồng (tức là sau một tháng nữa tính từ bây giờ sẽ là 50.000 
đồng) hoặc giảm 10.000 đồng (tức là sau một tháng nữa tính từ bây giờ sẽ là 
30.000 đồng). Cả 2 khả năng xảy ra với xác suất như nhau, 50:50. Vui lòng 
chọn 1 trong các lựa chọn sau: 
1. Bán các cổ phiếu hiện tại, và chấp nhận lỗ 10.000 đồng 
2. Giữ cổ phiếu thêm 1 tháng nữa với cơ hội 50:50 giữa mất thêm 
10.000 đồng hoặc hòa vốn 
58% các nhà đầu tư cá nhân đã chấp nhận mạo hiểm và tiếp tục nắm giữ cổ 
phần thêm một tháng để có khả năng hòa vốn, mặc dù họ phải đối mặt với nguy 
cơ tăng thêm tổn thất tương đương. 42% sẽ bán cổ phiếu và chấp nhận một sự 
mất mát nhỏ. 
Sự lựa chọn nắm giữ chứng khoán như trên minh chứng rằng các nhà đầu tư là 
những người yêu thích rủi ro khi phải đối mặt với những mất mát, phù hợp với 
hình dạng hàm giá trị của Kahneman và Tversky trong lý thuyết triển vọng mà 
hai tác giả này đưa ra vào năm 1974. Một sự kết hợp của lý thuyết triển vọng 
và hành vi bầy đàn có thể giải thích một phần hiện tượng “bong bóng” trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2006 - 2007. Trong thời gian thị 
trường tăng trưởng nhanh các nhà đầu tư bán cổ phiếu và thu được lợi nhuận, 
thành công này tạo ra sự khích lệ khiến họ vẫn tiếp tục mua cổ phiếu nhiều 
hơn, dẫn đến giá tăng thêm. Và việc lợi nhuận được tạo ra dễ dàng khiến ngày 
càng thu hút nhiều người lặp đi lặp lại quá trình trên, điều này dẫn đến hành vi 
bầy đàn của các nhà đầu tư, và gây ra việc định giá cao của thị trường. 
55 
Ra quyết định dựa trên kinh nghiệm, khả năng dự báo sự phát triển của thị 
trường 
Câu hỏi số 7 được đưa ra nhằm xác định xem các nhà đầu tư có thể dự báo sự 
phát triển của thị trường trong giai đoạn tăng trưởng nóng hay không để đánh 
giá mức độ quá tự tin của nhà đầu tư trong giai đoạn cuối 2006 đến cuối năm 
2007. 56% các nhà đầu tư tin rằng họ có thể dự báo thị trường. 22% các nhà 
đầu tư cho biết họ không nghĩ rằng họ có thể dự báo sự phát triển của thị 
trường tại một số thời điểm trong giai đoạn thị trường tăng trưởng nóng trong 
khi 22% những người được hỏi đã lưỡng lự giữa hai lựa chọn. 
Câu 7. Trong quá trình giá cổ phiếu tăng cao từ cuối năm 2006 đến cuối năm 
2007, anh/chị có nghĩ rằng mình có thể dự đoán xu hướng phát triển của thị 
trường không? 
1. Có 
2. Không 
3. Không thể nói 
Hình 9: Khả năng dự báo sự phát triển của thị trường 
Đa số các nhà đầu tư nghĩ rằng họ có thể dự báo được xu hướng phát triển thị 
trường trong khi chỉ có một thiểu số của các nhà đầu tư nghĩ ngược lại. Điều 
này có thể được lý giải một phần bằng lý thuyết quá tự tin, theo đó nhà đầu tư 
56 
có xu hướng thổi phồng tài năng của họ và đánh giá thấp khả năng của kết quả 
xấu. 
Phản ứng của nhà đầu tư đối với tin công bố 
Mọi người có xu hướng phản ứng thái quá đối với các sự kiện tin tức bất ngờ 
và kịch tính. Thị trường hiệu quả lại cho rằng tất cả các thông tin đã công bố 
được bao gồm trong giá cổ phiếu. Nhưng liệu thị trường chứng khoán có phản 
ứng thái quá và có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu không? Các nhà đầu tư phản 
ứng với các thông báo và các thông tin khác từ công ty trong thời kỳ bong bóng 
như thế nào? Cụ thể hơn, mục đích của câu hỏi 8 là để tìm hiểu xem các nhà 
đầu tư phản ứng thái quá hay phản ứng chậm với một thông tin nhất định. 
Câu 8. Trong giai đoạn giá cổ phiếu tăng từ cuối năm 2006 đến cuối năm 
2007, anh/chị phản ứng như thế nào với các thông báo hay thông tin khác từ 
các công ty? 
1. Tôi thay đổi danh mục đầu tư ngay sau lần tin tức đầu tiên được công 
bố 
2. Tôi thay đổi danh mục đầu tư của tôi sau khi có một số thông tin tiếp 
theo chỉ ra xu hướng tương tự 
3. Tôi không quan tâm tới những tin tức thông báo 
4. Tôi không thể nói 
44% các nhà đầu tư thực hiện các thay đổi trong danh mục đầu tư của họ sau 
khi có một số thông tin tiếp theo chỉ ra xu hướng tương tự. 12% các nhà đầu tư 
không quan tâm đến thông báo tin tức từ các công ty và chỉ 24% của các nhà 
đầu tư cá nhân thực hiện những thay đổi trong danh mục đầu tư của họ ngay 
sau khi tin tức được công bố. 
57 
Hình 10: Phản ứng như thế nào với thông tin từ công ty 
Mức độ tin tưởng vào độ hồi phục của thị trường 
Nhà đầu tư có sự liên hệ như thế nào nếu có một sự suy giảm tương tự của thị 
trường chứng khoán hôm nay với kinh nghiệm về cuộc suy giảm trong giai 
đoạn 2006-2007. Câu hỏi 15 xác định mức độ tin cậy của nhà đầu tư đối với thị 
trường hiện tại. 
Câu 15. Nếu có một sự suy giảm đáng kể trên thị trường tương tự như trong 
giai đoạn từ cuối 2007 đến nay thì thị trường chắc chắn sẽ quay về mức ban 
đầu của nó trong một vài năm? 
2. Rất đồng ý 
3. Đồng ý 
4. Trung lập 
5. Không đồng ý 
6. Rất không đồng ý 
Trong số những người được hỏi có 34% các nhà đầu tư không tin rằng thị 
trường sẽ trở lại mức độ chính thức của nó trong một vài năm nếu một suy 
giảm tương tự diễn ra ngày hôm nay và 30% các nhà đầu tư thể hiện một niềm 
58 
tin thị trường sẽ phục hồi trở lại mức cũ của mình nếu một tình trạng suy thoái 
sẽ diễn ra. 
Hình 11: Mức tin tưởng vào độ hồi phục của thị trường 
Đỉnh cao nhất của chỉ số VN-index nằm ở mức trên 1000 điểm được thiết lập 
vào tháng 2/2007 và thị trường bắt đầu suy giảm khoảng tháng 5/2007 nhưng 
hiện nay chỉ số VN-index không những chưa hồi phục về mức cũ mà thậm chí 
chưa vượt khỏi mốc 500 điểm. Các xu hướng thị trường trong quá khứ cũng 
đóng vai trò trong sự tự tin của nhà đầu tư, chính vì vậy nhà đầu tư có vẻ dè dặt 
đối với sự phát triển của thị trường. 
Đầu tư vào cổ phiếu đang tăng giá 
Tình huống được đưa ra: trong suốt 2 năm gần đây giá cổ phiếu của một công 
ty đã tăng tới 70% và tương lai cổ phiếu có vẻ sáng sủa (câu hỏi 18), có đến 
72% số người được hỏi cho rằng thông tin này không đủ cơ sở để quyết định 
đầu tư. Đa số mọi người còn lại thiên về quyết định nên mua cổ phiếu này 
(20%) hơn là không đáng mua (chỉ chiếm 8%) 
Câu 18. Giả sử xảy ra tình huống sau đây: trong suốt hai năm gần đây, giá cổ 
phiếu của một số công ty đã
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
De tai Tai chinh hanh vi.pdf