Luận văn Nghiên cứu thực trạng bệnh tăng huyết áp và rối loạn chuyển hoá ở nguời tăng huyết áp tại xã Hoá Thượng huyện Đồng Hỷ -Tỉnh Thái Nguyên

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu thực trạng bệnh tăng huyết áp và rối loạn chuyển hoá ở nguời tăng huyết áp tại xã Hoá Thượng huyện Đồng Hỷ -Tỉnh Thái Nguyên: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN CHU HỒNG THẮNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ Ở NGUỜI TĂNG HUYẾT ÁP TẠI XÃ HOÁ THƯỢNG HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC THÁI NGUYÊN - 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN CHU HỒNG THẮNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ Ở NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP TẠI XÃ HOÁ THƯỢNG HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành Nội khoa Mã số: 60 72 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC Hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG HỒNG THÁI THÁI NGUYÊN - 2008 Lời cảm ơn ! Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mọi mặt của các cơ quan, đơn vị, các thầy cô giáo, các nhà khoa học, gia đình và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn: Ban giám hiệu, các phòng, khoa, bộ môn Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên; Ban giám đốc, các phòng, khoa Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Ngu...

pdf95 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu thực trạng bệnh tăng huyết áp và rối loạn chuyển hoá ở nguời tăng huyết áp tại xã Hoá Thượng huyện Đồng Hỷ -Tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN CHU HỒNG THẮNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ Ở NGUỜI TĂNG HUYẾT ÁP TẠI Xà HOÁ THƯỢNG HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC THÁI NGUYÊN - 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN CHU HỒNG THẮNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ Ở NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP TẠI Xà HOÁ THƯỢNG HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành Nội khoa Mã số: 60 72 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC Hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG HỒNG THÁI THÁI NGUYÊN - 2008 Lời cảm ơn ! Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mọi mặt của các cơ quan, đơn vị, các thầy cô giáo, các nhà khoa học, gia đình và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn: Ban giám hiệu, các phòng, khoa, bộ môn Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên; Ban giám đốc, các phòng, khoa Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên; Ban giám đốc, các phòng ban Sở Y tế Thái Nguyên; Trung tâm Y tế huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; Đảng uỷ, HĐND, UBND, Trạm Y tế và các ban ngành xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn thầy cô giáo các bộ môn Trường Đại học Y- Dược Thái Nguyên đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập. Xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn: TS. Dương Hồng Thái, người thầy đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này. Xin chân thành cảm ơn: Bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình, những người luôn giúp đỡ và động viên tôi trong học tập, công tác cũng như trong cuộc sống. Tác giả Chu Hồng Thắng NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BMI Body Mass Index (chỉ số khối cơ thể) BMMNB Bệnh mạch máu ngoại biên CCVC Công chức viên chức Cre Creatinin CT Cholesterol toàn phần DTH Dịch tễ học ĐH, CĐ, THCN Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ĐTNC Đối tượng nghiên cứu Glu Glucose HA Huyếp áp HATT Huyết áp tâm thu HATTr Huyết áp tâm trương HLA Human leucocyte antigen (kháng nguyên bạch cầu người) ISH International Society of hypertention (Hội tăng huyết áp quốc tế) JNC Join National Committee (Uỷ ban phòng chống tăng huyết áp Hoa Kỳ) KTHA Không tăng huyết áp NaCl Natri clorua NST Nhiễm sắc thể PTTH Phổ thông trung học TBMMN Tai biến mạch máu não THA Tăng huyết áp THCS Trung học cơ sở WC Waist Circumference (vòng bụng) WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới) WHR Waist/Hip Ratio (tỷ số vòng bụng/vòng mông) YTNC Yếu tố nguy cơ MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN 3 1.1.Định nghĩa và phân loại bệnh THA 3 1.2. Cơ chế bệnh sinh bệnh THA 4 1.3. Biểu hiện của bệnh THA 9 1.4. Tổn thương cơ quan đích có thể gặp trong THA 10 1.5. Tình hình bệnh tăng huyết áp và các nghiên cứu bệnh tăng huyết áp ở một số nước trên Thế giới 11 1.6. Nghiên cứu bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam 13 1.7. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước về rối loạn chuyển hoá và các yếu tố liên quan đến bệnh THA 15 Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24 2.1. Đối tượng nghiên cứu 24 2.2. Địa điểm nghiên cứu 24 2.3. Thời gian nghiên cứu 24 2.4. Phương pháp nghiên cứu 24 2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu 25 2.6. Kỹ thuật thu thập số liệu 26 2.7. Xử lý số liệu 33 Chƣơng 3. KẾT QUẢ 34 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu xã Hóa Thượng 34 3.2. Thực trạng về bệnh THA 36 3.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan với bệnh THA 41 Chƣơng 4. BÀN LUẬN 49 4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 49 4.2. Thực trạng bệnh THA 52 4.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan với bệnh THA 62 KẾT LUẬN 73 KHUYẾN NGHỊ 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 MỘT SỐ HÌNH ẢNH VÀ PHỤ LỤC 83 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tăng huyết áp (THA) là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam, là mối đe dọa rất lớn đối với sức khoẻ của con người, là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở người cao tuổi. Trong số các trường hợp mắc bệnh và tử vong do tim mạch hàng năm có khoảng 35% - 40% nguyên nhân do THA [53]. Tỷ lệ bệnh THA rất cao và có xu hướng tăng rất nhanh không chỉ ở các nước có nền kinh tế phát triển mà ở cả các nước đang phát triển. Bệnh THA gây nhiều biến chứng nguy hiểm như: tai biến mạch máu não, suy tim, suy mạch vành, suy thận... phải điều trị lâu dài, cần sử dụng thuốc và phương tiện kỹ thuật đắt tiền. Chính vì thế, bệnh THA không những ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bản thân người mắc bệnh, mà còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Theo Tổ chức Y tế thế giới năm 1978, trên thế giới tỷ lệ mắc bệnh THA chiếm khoảng 10% - 15% dân số và ước tính đến 2025 là 29%. Tại Hoa Kỳ, hàng năm chi phí cho phòng, chống bệnh THA trên 259 tỷ đô la Mỹ [53]. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của bộ môn Tim mạch và Viện Tim mạch tại thành phố Hà Nội năm 2001-2002, tỷ lệ THA ở người lớn là 23,2%, cao gần ngang hàng với các nước trên thế giới [25]. Tỷ lệ THA trong các nghiên cứu về dịch tễ học luôn vào khoảng từ 20% đến 25% [53]. Một số nghiên cứu mới đây cho thấy tỷ lệ THA người lớn (trên 25 tuổi) ở một số vùng Việt Nam đã lên đến 33,3% [18]. Bệnh THA còn liên quan đến một số rối loạn chuyển hoá glucose máu, lipid máu... Các rối loạn chuyển hoá này vừa là nguyên nhân gây THA vừa là hậu quả của THA và như vậy khi bị THA bệnh ngày càng nặng lên nhanh chóng và tử vong do các biến chứng tại tim, não, thận. Đây là vòng xoắn bệnh lý mà chúng ta cần quan tâm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Dự báo trong những năm tới số người mắc bệnh THA sẽ còn tăng do các yếu tố liên quan như: hút thuốc lá, lạm dụng rượu - bia, dinh dưỡng bất hợp lý, ít vận động vẫn còn phổ biến. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khống chế được những yếu tố nguy cơ này có thể làm giảm được 80% bệnh THA [3]. Điều trị THA cần phải liên tục, kéo dài và phải được theo dõi chặt chẽ. Trên thực tế việc phát hiện, quản lý và điều trị bệnh nhân THA tại cộng đồng gặp rất nhiều khó khăn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng như người dân còn nghèo chưa đủ tiền theo dõi, điều trị, thiếu sự quan tâm, thiếu hiểu biết, trình độ học vấn thấp... Do đó cần xây dựng một kế hoạch mang tính chất chiến lược trong phòng, chống bệnh THA. Chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu thực trạng bệnh THA và một số rối loạn chuyển hoá ở người THA tại xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên" nhằm đạt được các mục tiêu sau: 1. Mô tả thực trạng bệnh tăng huyết áp tại xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. 2. Đánh giá một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan đến bệnh tăng huyết áp tại cộng đồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN 1.1. Định nghĩa và phân loại tăng huyết áp 1.1.1. Định nghĩa THA Theo Tổ chức Y tế thế giới: Một người lớn được gọi là THA khi HA tối đa, HA tâm thu (HATT) ≥ 140 mmHg và/hoặc HA tối thiểu, HA tâm trương (HATTr) ≥ 90 mmHg hoặc đang điều trị thuốc hạ áp hàng ngày hoặc có ít nhất 2 lần được bác sỹ chẩn đoán là THA [3], [8], [69]. Đây không phải tình trạng bệnh lý độc lập mà là một rối loạn với nhiều nguyên nhân, các triệu chứng đa dạng, đáp ứng với điều trị cũng rất khác nhau. THA cũng là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tim mạch khác như: tai biến mạch máu não, bệnh mạch vành... 1.1.2. Phân loại THA Phân loại THA có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Theo WHO/ISH (năm 2003) chia lại THA làm 3 độ [8], [17], [20], [69]: Bảng 1.1. Chia độ tăng huyết áp theo WHO/ISH (năm 2003) Ph©n ®é THA HuyÕt ¸p (mmHg) T©m thu T©m tr•¬ng THA ®é I 140 – 159 90 – 99 THA ®é II 160 – 179 100 – 109 THA ®é III  180  110 - Liên Uỷ ban quốc gia về dự phòng, phát hiện, đánh giá, điều trị THA Hoa Kỳ (Join National Committee – JNC) lại đưa phân loại hơi khác qua các kỳ họp (JNC IV 1988, JNC V 1993, JNC VI 1997) và gần đây JNC VII (năm 2003) chia THA như sau [46]: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Bảng 1.2. Phân độ tăng huyết áp theo JNC VII (năm 2003) Ph©n ®é THA HuyÕt ¸p (mmHg) T©m thu T©m tr•¬ng B×nh th•êng <120 <80 TiÒn THA 120 – 139 80 – 89 THA ®é I 140 – 159 90 – 99 THA ®é II  160  100 - Cách phân loại THA tại Việt Nam: xuất phát từ cách phân độ THA của WHO/ISH và JNC, Hội tim mạch Việt Nam đã đưa ra cách phân độ như sau [12]: Bảng 1.3. Phân loại tăng huyết áp tại Việt Nam hiện nay Ph©n lo¹i HuyÕt ¸p (mmHg) T©m thu T©m tr•¬ng HA tèi •u < 120 < 80 HA b×nh th•êng 120 – 129 80 – 84 HA b×nh th•êng cao 130 – 139 85 – 89 THA ®é 1 (nhÑ) 140 – 159 90 – 99 THA ®é 2 (trung b×nh) 160 – 179 100 – 109 THA ®é 3 (nÆng)  180  110 THA t©m thu ®¬n ®éc  140 < 90 Nếu HATT và HATTr ở hai phân độ khác nhau tính theo trị số HA lớn hơn. 1.2. Cơ chế bệnh sinh bệnh THA Cơ chế bệnh sinh gồm THA nguyên phát và THA thứ phát [41]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 1.2.1. THA nguyên phát THA nguyên phát chiếm tới 90% các trường hợp [3], cơ chế bệnh sinh đến nay chưa được rõ ràng, người ta cho rằng một số yếu tố sau đây có thể gây THA: - Tăng hoạt động thần kinh giao cảm sẽ làm tim ở trạng thái tăng động do tăng hoạt động của tim dẫn đến tăng cung lượng và tăng tần số tim. Toàn bộ hệ thống động mạch ngoại vi và động mạch thận bị co thắt, làm tăng sức cản ngoại vi để lại hậu quả cuối cùng là THA động mạch [8]. S¬ ®å c¬ chÕ bÖnh sinh THA do t¨ng ho¹t ®éng thÇn kinh giao c¶m vµ t¨ng cung l•îng tim [41]: - Tác dụng co mạch của adrenalin và noradrenalin: hai chất này do tuỷ thượng thận bài tiết ra, khi hệ giao cảm bị kích thích. Adrenalin có tác dụng co mạch dưới da nhưng lại làm giãn mạch vành, mạch não, mạch cơ vân nên chỉ làm THA tối đa. Noradrenalin làm co mạch toàn thân nên làm tăng cả HA tối đa và HA tối thiểu [22]. - Vai trò của hệ RAA: Renin - Angiotensin - Aldosteron [8], [41]. Renin là enzym được tế bào của tổ chức cạnh cầu thận và một số tổ chức khác tiết ra khi có yếu tố kích thích. Yếu tố kích thích tiết renin là nồng độ muối trong huyết tương và kích thích thụ thể  của adrenecgic. Khi renin được tiết ra sẽ chuyển 2 globulin (được tổng hợp từ gan) gọi là angiotensinogen thành angiotensin I (là peptid có 10 acid amin), theo máu đến tuần hoàn phổi được T¨ng ho¹t ®éng thÇn kinh giao c¶m T¨ng huyÕt ¸p hÖ thèng ®éng m¹ch T¨ng cung l•îng tim Co th¾t ®éng m¹ch ngo¹i vi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 tách khỏi chất vận chuyển và cắt đi 2 acid amin nhờ coverting enzym ở phổi còn lại 8 acid amin được gọi là angiotensin II có rất nhiều tác dụng [22]: + Trên mạch máu: Angiotensin II làm co các tiểu động mạch sát với mao mạch nơi mà thành tiểu động mạch còn cơ trơn. Tác dụng co mạch của của angiotensin II mạnh gấp 30 lần so với noradrenalin. + Kích thích lớp cầu của vỏ thượng thận làm tăng bài tiết aldosterol do tác dụng lên enzym 20α hydroxylase, là enzym chuyển cholesterol thành 20α hydroxy cholesterol, gây tăng giữ nước và giữ muối. + Kích thích trực tiếp lên ống thận làm tăng tái hấp thu natri. + Kích thích vùng postrema (diện sau cùng ở nền não thất IV) là vùng có những tế bào nhạy cảm với tác dụng của angiotensin II, do đó làm tăng trương lực mạch máu và làm tăng sức cản ngoại vi dẫn đến THA. + Kích thích các cúc tận cùng thần kinh giao cảm tăng bài tiết noradrenalin và giảm sự tái nhập noradrenalin trở lại các cúc tận cùng. + Làm tăng tính nhạy cảm của noradrenalin đối với mạch máu. Từ những hiểu biết trên ta thấy angiotensin II có tác dụng rộng khắp toàn bộ hệ thống động mạch, làm tăng sức cản noại vi và tăng thể tích dịch lưu hành là cơ sở THA. - Giảm chất điều hoà HA: prostaglandin E2 và kali krein ở thận có chức năng sinh lý là điều hoà huyết áp, hạ canxi máu, tăng canxi niệu khi chất này bị ức chế hoặc thiếu gây THA. - Vai trò của natri trong cơ chế bệnh sinh của THA: natri có vai trò trong bệnh THA cả trên thực nghiệm và trong điều trị. Trong điều kiện bình thường các hormon và thận sẽ hiệp đồng để thải natri làm cho lượng natri trong máu ổn định. Hiện tượng ứ natri xảy ra khi lượng natri sẽ tăng giữ nước, hệ thống mạch sẽ tăng nhạy cảm với angiotensin và noradrenalin [41]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Sơ đồ vai trò R.A.A trong tăng huyết áp HÖ thèng c¹nh tiÓu cÇu thËn (vµ mét sè c¸c tæ chøc kh¸c) Angiotensinogen (2 globulin do gan s¶n xuÊt) Renin Angiotensin I Angiotensin II Converting anzyme (ë tuÇn hoµn phæi) ChÊt trung gian Angiotensin III Co ®éng m¹ch KÝch thÝch vá th•îng thËn t¨ng s¶n xuÊt aldosteron T¨ng t¸i hÊp thu muèi vµ n•íc T¨ng thÓ tÝch m¸u T¨ng søc kh¸ng cña ®éng m¹ch ngo¹i vi T¨ng huyÕt ¸p Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 1.2.2. THA thứ phát Bệnh nhân THA có nguyên nhân rõ ràng như: - Bệnh thận ở nhu mô thận đều có thể gây THA thứ phát. Cơ chế gây THA do thận liên quan đến thể tích lòng mạch hoặc tăng hoạt động renin - angiotensin - aldosteron, giảm sản xuất chất giãn mạch cần thiết (có thể là prostaglandin hoặc bradykinin) giảm bất hoạt các chất giãn mạch hoặc kém thải trừ natri nên natri bị giữ lại làm THA [36]. - THA do dị dạng động mạch thận: có khoảng 75% bệnh nhân hẹp động mạch thận là do xơ vữa đặc biệt là bệnh nhân lớn tuổi, 25% còn lại do dị dạng xuất phát từ lớp cơ (thường gặp ở đối tượng trẻ tuổi). THA do bệnh mạch thận là do giảm tưới máu nhu mô thận, do hẹp nhánh chính hoặc nhánh phụ động mạch thận dẫn đến hoạt hoá hệ R.A.A, angiotensin II được giải phóng gây co mạch trực tiếp [41]. - U tuỷ thượng thận là nguyên nhân hiếm gặp gây THA (chiếm tỷ lệ 1 - 2% THA). Là khối u tế bào ưa crôm sản xuất và phóng thích ra lượng lớn catecholamin (norepinephrine hoặc epinephrin hoặc cả hai) [36]. - Do cường aldosteron và hội chứng cushing: Hậu quả angiotensin II kích thích làm tăng aldosteron gây giữ natri bằng cách kích thích sự trao đổi natri và kali ở ống thận gây giữ nước làm tăng thể tích tuần hoàn gây THA. Cường aldosteron có thể do khối u hoặc quá sản vỏ thượng thận hai bên [41]. Cường aldosteron tiên phát chiếm 0,3% tổng số bệnh nhân THA. - Hẹp eo động mạch chủ: Chiếm khoảng 7% bệnh nhân tim bẩm sinh. Đường kính động mạch chủ có thể bị nhỏ hoặc bị thắt ở trên bất kỳ vị trí nào của động mạch nhưng hay gặp nhất ở đoạn dưới nơi xuất phát của động mạch dưới đòn trái. Trong hẹp eo động mạch chủ gây THA ở chi trên trong khi lại hạ HA ở chi dưới, HA ở chi trên cao hơn HA ở chi dưới  30 mmHg [36]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 - THA ở phụ nữ có thai: Bệnh THA xuất hiện nặng lên trong thời kỳ có thai gây tử vong cho bà mẹ và thai nhi. Tỷ lệ tử vong của mẹ là 10%, của con là 33% [12]. - Sử dụng estrogen: Đây cũng là dạng phổ biến nhất của THA thứ phát. Cơ chế do tăng hoạt động hệ R.A.A do estrogen kích thích tổng hợp angiotensin và làm tăng angiotensin II làm cường aldosteron thứ phát. Trường hợp này chỉ xảy ra ở 5% phụ nữ sử dụng thuốc và HA trở lại bình thường sau 6 tháng dừng thuốc [8]. - Các nguyên nhân khác: THA kết hợp với tăng kali máu, bệnh to đầu chi, tăng canxi máu do cường tuyến cận giáp. 1.3. Biểu hiện của bệnh tăng huyết áp 1.3.1. Lâm sàng Bệnh nhân bị THA đa số đều không có triệu chứng gì cho tới khi phát hiện ra bệnh. Hay gặp nhất đau đầu vùng chẩm và hai bên thái dương, ngoài ra có thể có hồi hộp, mệt, khó thở, mờ mắt, tê đầu chi..., một số các triệu chứng khác tuỳ thuộc vào nguyên nhân hoặc biến chứng của THA [36]. * Đo HA là động tác quan trọng nhất có ý nghĩa chẩn đoán xác định. Phương pháp korotkoff dùng huyết áp kế thủy ngân hoặc các loại huyết áp kế khác được chuẩn lại 6 tháng 1 lần. Số đo HA được đánh giá theo tiêu chuẩn của Hội Tim mạch học Việt Nam như sau: Tại phòng khám: Khi bệnh nhân có trị số HA  140/90mmHg. Sau khám lại lâm sàng ít nhất 2 hoặc 3 lần khác nhau. Mỗi lần khám được đo ít nhất 2 lần [17]. Tại nhà khi đo nhiều lần đúng phương pháp THA có trị số HA >135/85 mmHg. - Các dấu hiệu lâm sàng khác: Bệnh nhân có thể béo phì, mặt tròn, cơ chi trên phát triển hơn cơ chi dưới trong hẹp eo động mạch chủ. Tìm các biểu hiện vữa xơ động mạch trên da (u vàng, u mỡ…). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 - Khám tim phổi có thể phát hiện sớm dày thất trái hay dấu hiệu suy tim trái. Sờ và nghe động mạch để phát hiện các trường hợp nghẽn hay tắc động mạch cảnh. - Khám bụng có thể phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn, trong hẹp động mạch thận, phồng động mạch chủ hoặc phát hiện thận to, thận đa nang. - Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch máu não cũ hoặc nhẹ. 1.3.2. Cận lâm sàng Mục đích để đánh giá nguy cơ tim mạch, tổn thương thận và tìm nguyên nhân. 1.3.2.1. Những xét nghiệm tối thiểu * Máu: công thức máu, ure, creatinin, điện giải đồ, cholesterol toàn phần, HDL - C, LDL - C, glucose, acid uric trong máu. * Nước tiểu: protein, hồng cầu… * Soi đáy mắt, điện tâm đồ, X quang tim, siêu âm tim… 1.3.2.2. Những xét nghiệm hay trắc nghiệm đặc biệt * Đối với THA thứ phát hay THA khó xác định nghi ngờ có bệnh mạch thận: chụp UIV nhanh, thận đồ. * U tuỷ thượng thận định lượng catecholamin nước tiểu 24h 1.4. Tổn thƣơng cơ quan đích có thể gặp trong THA - Tim: Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và là nguyên nhân tử vong cao nhất đối với THA: dày thất trái gây suy tim toàn bộ, suy mạch vành gây nhồi máu cơ tim, phù phổi cấp...[12]. THA thường xuyên sẽ làm cho thất trái to ra, về lâu dài, thất trái bị giãn; khi sức co bóp của tim bị giảm nhiều thì sẽ bị suy tim, lúc đầu suy tim trái rồi suy tim phải và trở thành suy tim toàn bộ. Về lâm sàng, lúc đầu người bệnh mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, về sau với gắng sức vừa cũng khó thở và đến giai đoạn cuối của bệnh thì khó thở cả khi đi ngủ. Ngoài ra người bệnh còn có da xanh, phù, tím tái… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Về cận lâm sàng có các biểu hiện sớm trên điện tâm đồ như: thiếu máu cơ tim, blook nhánh phải hoàn toàn, blook nhánh phải không hoàn toàn, tăng gánh thất trái, ngoại tâm thu thất, dày thất trái… - Não: Tai biến mạch máu não thường gặp như: nhũn não, xuất huyết não có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề. Có thể chỉ gặp tai biến mạch máu não thoáng qua với các triệu chứng thần kinh khu trú không quá 24 giờ hoặc bệnh não do THA với lú lẫn, hôn mê kèm co giật, nôn mửa, nhức đầu dữ dội [12]. - Thận: + Vữa xơ động mạch thận sớm và nhanh. + Xơ thận gây suy thận dần dần. + Hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận gây THA ác tính. + Giai đoạn cuối thiếu máu cục bộ nặng ở thận sẽ dẫn đến nồng độ renin và angiotensin II trong máu tăng gây cường aldosteron thứ phát. - Mạch máu: THA là yếu tố gây vữa xơ động mạch [65], phồng động mạch chủ. - Mắt: Soi đáy mắt có thể thấy tổn thương đáy mắt. Theo Keith-Wagener Barker có 4 giai đoạn tổn thương đáy mắt [8]: + Giai đoạn I: Tiểu động mạch cứng và bóng + Giai đoạn II: Tiểu động mạch hẹp có dấu hiệu bắt chéo tĩnh mạch (dấu hiệu Salus Gunn) + Giai đoạn III: Xuất huyết và xuất tiết võng mạc nhưng chưa có phù gai thị + Giai đoạn IV: Phù lan toả gai thị 1.5. Tình hình bệnh tăng huyết áp và các nghiên cứu bệnh THA ở một số nƣớc trên thế giới Bệnh THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện tại đang ở mức cao, đặc biệt các nước phát triển. Tại các nước phát triển có hình thái bệnh tật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 chuyển đổi từ các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang các bệnh không nhiễm trùng là chính, trong đó có bệnh THA. Điều tra tại Hoa Kỳ năm 1999 - 2000 trên đối tượng là người trưởng thành cho thấy tỷ lệ HA bình thường là 39%, 31% thuộc nhóm tiền THA và 29% là THA [57]. Tỷ lệ hiện mắc hiệu chỉnh theo tuổi ở nam là 39% so với nữ 23,1%. Nhưng tỷ lệ THA ở nam chỉ cao hơn ở nữ lứa tuổi trước tuổi 45. Ở độ tuổi 45 - 54, tỷ lệ THA ở nữ bắt đầu nhỉnh hơn ở nam giới và ở các độ tuổi lớn hơn tỷ lệ THA ở nữ cao hơn nam [55]. THA được coi là nguyên nhân chủ yếu hoặc góp phần chính trong 11,4% các ca tử vong ở Mỹ năm 2003. Trong vòng 10 năm (1993 - 2003), tỷ lệ tử vong do THA tăng 29,3%, số ca tử vong tăng 56,1%. THA giai đoạn II trở lên (HA  160/95 mmHg) làm tăng nguy cơ đột quỵ thêm 4 lần so với người có HA bình thường [51]. THA cũng tăng nguy cơ phát triển suy tim ứ huyết 2 - 3 lần. Năm 1999 - 2000 có tới 37,5 triệu lượt bệnh nhân phải đi khám vì THA tại Mỹ. Ước tính chi phí trực tiếp và gián tiếp cho THA năm 2003 đã lên tới 65,3 tỷ USD [57]. Đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới về bệnh THA ở người trưởng thành: tại Canada (1995) tỷ lệ THA là 22%, Mêhicô (1998) 19,4%; Tây Ban Nha (1996) 30%; Cu Ba (1998) 44%; Trung Quốc (2001) 27%; Thái Lan (2001) 20,5%; Singapore (1998) 26,6%; Châu Phi (2007) 21,3% [60]. Một nghiên cứu ở Brasil, với nhóm tuổi từ 20 đến 69 tuổi có tỷ lệ THA là 23,6% [56]. Kiểm soát huyết áp có hiệu quả cũng làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng của các bệnh tim mạch. Tuy vậy, tỷ lệ kiểm soát tốt huyết áp bằng thuốc trên thế giới chỉ đạt từ 25 - 40%. Điều trị thuốc hạ áp tích cực cho phép giảm số đo huyết áp tâm thu 6,3 mmHg so với nhóm chứng không dùng thuốc hạ áp tích cực, hơn nữa nhóm chứng không dùng thuốc hạ áp tích cực lại làm tăng số đo HA thêm 4,8 mmHg. Các mô hình như bệnh nhân tự theo dõi HA, nhân viên y tế theo dõi phải được xây dựng và đánh giá thêm. Giáo dục truyền thống trực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 tiếp cho người bệnh hoặc thầy thuốc đơn thuần không có tác dụng đáng kể trong việc làm giảm số đo HA ở bệnh nhân THA. Phân tích tổng hợp khác trên các thử nghiệm phòng tiên phát bệnh mạch vành cho thấy: thay đổi các nguy cơ về lối sống (hút thuốc, chế độ luyện tập thể lực thường xuyên, chế độ ăn) dù không thay đổi đáng kể tử lệ tử vong chung và tử vong riêng do bệnh động mạch vành song đã có tác dụng làm giảm HA tâm thu xuống 3,9 mmHg (95% CI: 3,6 - 4,2); giảm HA tâm trương xuống 2,9 mmHg (95% CI: 2,7 - 3,1) thêm ngoài tác dụng của thuốc hạ áp. So sánh việc dùng thuốc tích cực, thay đổi lối sống đơn thuần cũng đã đạt hiệu quả tương tự 50% khi dùng thuốc. Hơn nữa phân tích này cũng cho thấy các biện pháp can thiệp yếu tố nguy cơ thông quan tư vấn giáo dục đến từng cá nhân người THA hay đến từng hộ gia đình có hiệu quả nhiều hơn trong việc giảm các yếu tố nguy cơ và cũng dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân THA có nguy cơ cao. Như vậy, để quản lý và giám sát bệnh THA hiệu quả ở cộng đồng, cần phối hợp việc điều trị thuốc hạ áp với những biện pháp can thiệp các yếu tố nguy cơ THA nhằm thay đổi các hành vi lối sống theo chiều hướng có lợi cho người THA. Điều kiện quyết định là phải nâng cao nhận thức, tìm hiểu các rào cản trong suy nghĩ và thực hành của người dân để có thể xây dựng, thay đổi và điều chỉnh các biện pháp giáo dục sức khoẻ phù hợp và có hiệu quả với từng địa phương. Vậy cần phải có nhiều nghiên cứu về bệnh tăng huyết áp và các yếu tố liên quan ở nhiều địa phương khác nhau để có thể đưa ra những kế hoạch chiến lược, cũng như kế hoạch chi tiết cho chương trình phòng chống bệnh tăng huyết áp tại các địa phương. 1.6. Nghiên cứu về bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam Theo điều tra năm 1982, tỷ lệ THA chung là 1,95% và ở người trên 60 tuổi tỷ lệ THA là 9,2% [30]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Năm 1999, theo điều tra của Phạm Gia Khải và cộng sự, tỷ lệ THA là 16,05% [23]. Năm 2002, theo điều tra của Viện Tim mạch trung ương, tỷ lệ THA là 23,2% [26]. Theo số liệu điều tra y tế quốc gia năm 2001 - 2002 của Việt Nam, tỷ lệ tăng huyết áp ở nam giới từ 16 tuổi trở lên là 15,1% và nữ giới là 13,5% [4]. Điều tra của Viện Tim mạch Việt Nam về tần suất THA và các yếu tố nguy cơ tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam năm 2001 - 2002 (trên 5012 người) cho thấy tần suất THA ở người trưởng thành là 16,5%; trong đó THA độ 1, độ 2, độ 3 lần lượt là 10,2%; 4,2% và 1,9%. Tỷ lệ được điều trị thuốc hạ áp chỉ chiếm 11,5%, trong số đó kiểm soát HA tốt (đưa HA về bình thường) chỉ chiếm 19,1% [26]. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: tuổi cao, giới nam, chỉ số khối cơ thể tăng, béo bụng, chỉ số vòng bụng/vòng mông tăng, rối loạn đường máu, rối loạn mỡ máu, uống nhiều rượu, tiền sử gia đình huyết thống trực hệ có người THA. Yếu tố liên quan mạnh nhất đến THA là tuổi và mức độ béo phì. Tỷ lệ người dân hiểu biết đúng tất cả các yếu tố nguy cơ chỉ chiếm 23% (18,8% nông thôn so với 29,5% ở thành thị), trong khi hiểu biết sai về các yếu tố nguy cơ chiếm hơn 1/3 dân số (44,1% ở nông thôn so với 27,1% ở thành thị) [26]. Theo điều tra mới nhất một nghiên cứu của Trường Đại học Y- Dược Thái Nguyên, cho thấy tỷ lệ THA ở vùng nông thôn Thái Nguyên cũng rất cao chiếm tỷ lệ 33,3% (đối với đối tượng từ 18 tuổi trở lên) [18]. THA và các yếu tố nguy cơ (nhất là các yếu tố lối sống, vốn có thể thay đổi được) đã trở thành vấn đề cần giải quyết không những chỉ bằng thuốc điều trị kiểm soát HA, mà cần hàng loạt các biện pháp giáo dục truyền thông sức khoẻ nhằm vào các yếu tố nguy cơ đặc biệt là các yếu tố nguy cơ về lối sống có khả năng thay đổi theo chiều hướng tích cực có lợi cho bệnh nhân bị THA. Tình trạng quản lý bệnh nhân THA ở Việt Nam, cho đến nay chưa có hệ thống quản lý và dự phòng đối với bệnh THA. Các hoạt động y tế mới chỉ tập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 trung vào công tác điều trị bệnh nhân tại các bệnh viện, chưa có mô hình dự phòng, ghi nhận và quản lý bệnh THA tại cộng đồng. Công tác tuyên truyền bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng, các hoạt động điều tra dịch tễ, đào tạo cán bộ cho công tác phòng chống THA tại các cơ sở còn nhiều hạn chế nên việc nghiên cứu thực trạng bệnh THA và các yếu tố liên quan ở các địa phương là rất cần thiết cho phòng và chống bệnh THA ở cộng đồng. 1.7. Một số nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về rối loạn chuyển hoá và các yếu tố liên quan đến bệnh THA 1.7.1. Tăng glucose máu Bệnh đái tháo đường hay đi cùng với bệnh tăng huyết áp. Người ta thấy khoảng 30 -50% bệnh nhân đái tháo đường bị tăng huyết áp, những bệnh nhân này thường béo. Ngược lại, xét nghiệm glucose máu thấy tăng cao ở 1/3 số bệnh nhân tăng huyết áp [10]. Năm 1976, Berghen và cộng sự cũng nhận thấy sự gia tăng insulin khi đói và sau khi uống 100g glucose ở bệnh nhân THA chưa điều trị. Năm 1987, Ferranini và cộng sự lần đầu tiên đã chứng minh ở người trẻ bị tăng huyết áp chưa điều trị với trọng lượng và sự dung nạp glucose bình thường có sự kháng insulin ở mô ngoại biên và liên quan đến mức độ tăng huyết áp. Năm 1988, Shen và cộng sự so sánh sự đáp ứng glucose, insulin ở người huyết áp bình thường với người bệnh tăng huyết áp chưa điều trị và tăng huyết áp được điều trị. Kết quả cho thấy ở các bệnh nhân THA này có tình trạng kháng insulin [trích dẫn 5]. Người ta đã dễ dàng nhận thấy một tỷ lệ đáng kể các bệnh nhân tăng huyết áp có kháng insulin và tăng insulin máu, nhưng cũng chưa chắc đây là quan hệ nhân quả. Sự kháng insulin hay gặp ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 hoặc béo phì. Hai bệnh này gặp nhiều trong những người bị tăng huyết áp hơn những người có huyết áp bình thường. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 chứng minh rằng tăng insulin máu và kháng insulin có cả ở những bệnh nhân: THA, gầy và không bị đái tháo đường [23]. Một số nghiên cứu ở Việt Nam cũng cho thấy bệnh đái tháo đường có tỷ lệ cao hơn ở những người THA. Huỳnh Văn Minh nghiên cứu 181 người tại Huế gồm 73 người huyết áp bình thường: 33 người dưới 40 tuổi (18%), 40 người trên 40 tuổi (22%) và 108 trường hợp bị THA (60%). Kết quả có sự gia tăng nồng độ insulin khi đói và nhất là 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose ở bệnh nhân THA. Sự gia tăng này cao hơn so với nhóm chứng có huyết áp bình thường. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,001, trong khi nồng độ đường máu ở hai nhóm không có sự khác biệt (p> 0,05). Điều này cho phép kết luận rằng: có sự cường insulin máu, biểu thị sự kháng insulin, một yếu tố nguy cơ mới ở bệnh nhân THA. Tần suất cường insulin máu và kháng insulin ở bệnh nhân THA nguyên phát là 41,7% trong đó 30,5% được phát hiện mà không cần nghiệm pháp dung nạp glucose [35]. Phạm Tử Dương điều tra 219 bệnh nhân THA trên 4693 người tại Hà Nội trong 5 năm (1994-1998) thì có 5 trường hợp đái tháo đường (2,3%) [10]. Trương Thanh Hương nghiên cứu 38 bệnh nhân THA điều trị ngoại trú tại Viện Tim Mạch từ tháng 6/1995 đến tháng 3/1996 thấy mức glucose máu lúc đói lớn hơn 7,77 mmol/l có 1/38 ca = 3% [21]. Năm 1998, Nguyễn Thị Dung nghiên cứu 1160 bệnh nhân THA tại bệnh viện Việt Tiệp, trong số 79,3% trường hợp xét nghiệm đường máu lúc đói có 14,5% số trường hợp bị đái tháo đường (glucose máu tĩnh mạch lúc đói >7,8 mmol/l) [9]. Phạm Gia Khải nghiên cứu 571 người THA tại Hà Nội trong 2 năm (1998-1999) thì có 17 trường hợp đái tháo đường, chiếm 2,97% [23]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 1.7.2. Rối loạn lipid máu Được gọi là rối loạn lipid máu khi có rối loạn một hoặc nhiều thành phần sau: tăng cholesterol toàn phần, tăng triglycerid, tăng LDL-C, giảm HDL-C, giảm apoprotein AI, tăng apoprotein B [11]. Chẩn đoán rối loạn lipid máu khi: - Cholesterol toàn phần: > 5,2 mmol/l - Triglycerid : > 2,3 mmol/l - HDL- C: < 0,9 mmol/l - LDL- C: > 3,12 mmol/l. Nghiên cứu về các mức lipid máu ở những trường hợp THA không có tai biến. Một phân tích lượng lipid máu tại chỗ trên 3182 bệnh nhân không bị đái tháo đường, chưa có biến chứng (2425 nữ và 757 nam) có mặt ở thành phố Patna - Ấn Độ trong khoảng từ 1992 - 1998, được so với nhóm chứng có 4131 người. Kết quả: cholesterol toàn phần trung bình có tăng nhẹ ở những người có THA (191,8 mg/dl) so với nhóm chứng (190,1 mg/dl) (p ≤0,05) và tỷ lệ cholesterol HDL toàn phần trung bình cũng cao hơn (4,65 so với 4,48) ở những người THA (p<0,05), 1069 (chiếm 33,6%) bệnh nhân có cholesterol ở mức lớn hơn 200 mg/dl trong khi ở 850 (chiếm 26,7%) có lượng triglycerid vượt quá 200 mg/dl ở những người trong nhóm có THA. Tỷ lệ cholesterol HDL toàn phần không bình thường (>4,5) xuất hiện trong 1600 (50,3%) người có THA; kết quả này đã chỉ ra rằng tỷ lệ cholesterol HDL toàn phần không bình thường là phổ biến ở hầu hết những người THA chưa biến chứng có rối loạn lipid máu ở mức độ khác nhau [67]. Thực tế cho thấy rằng THA động mạch và tăng cholesterol máu thường được phối hợp với sinh bệnh học về gen. Điều này làm cho nguy cơ bệnh tim mạch tăng lên theo cấp số nhân ở những bệnh nhân này. Vì vậy cần phải thấy được tầm quan trọng của tăng lipid máu ở những bệnh nhân THA. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Năm 1998, ở Việt Nam nghiên cứu trên 118 bệnh nhân bị bệnh tim mạch cho thấy cholesterol tăng trong 44% bệnh nhân nhồi máu cơ tim, 51,9% số bệnh nhân tăng huyết áp, triglycerid tăng trong 24% và 40,4%, apoprotein B tăng trong 92% và 75%, HDL- C giảm trong 68% và 67,3%, apoprotein AI giảm trong 80% và 71,1% [11]. Nghiên cứu 144 bệnh nhân tăng huyết áp cho thấy: khi xét nghiệm sinh hoá lipid máu: 37,2% có tăng cholesterol máu; 25% tăng triglycerid máu; 33,6% có giảm HDL-C [33]. 1.7.3. Béo phì Béo phì là hậu quả của tình trạng mất cân bằng năng lượng, trong đó năng lượng ăn vào vượt quá năng lượng tiêu hao trong một thời gian dài. Béo phì ngày càng phổ biến ở trên thế giới, cũng như ở Việt Nam. Hiện nay số người mắc béo phì trên toàn cầu đã vượt quá 250 triệu, chiếm 7% dân số người trưởng thành trên thế giới. Các nước ở Đông Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ tỷ lệ béo phì đã lên trên 20%. Ở các nước phát triển tỷ lệ người béo phì cũng đang có xu hướng tăng nhanh. Ở Việt Nam tỷ lệ thừa cân (BMI ≥ 23) ở nam giới trưởng thành là 10,1% và ở nữ giới trưởng thành là 13,2% [3]. Béo phì rất có hại cho tim mạch vì hay dẫn đến THA và xơ vữa động mạch, cuối cùng dẫn đến rút ngắn tuổi thọ rõ rệt. Nhiều nghiên cứu cho thấy béo phì có tương quan thuận với huyết áp. Tỷ lệ THA tăng theo mức độ béo phì, tỷ lệ THA tăng dần theo mức độ thừa cân ở cả nam và nữ giới. Người béo phì độ II có tỷ lệ THA từ 33% - 39% so với người tiền béo phì tỷ lệ THA chiếm 17% - 24% [26]. Phạm Gia Khải và cộng sự điều tra 7610 người tại Hà Nội từ tháng 4/1998 đến tháng 4/1999 thấy chỉ số BMI trung bình của quần thể nghiên cứu là 20,09  2,72. Nhóm BMI từ 22 trở lên đã có nguy cơ THA [23]. Tại Nam Phi, tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố: trọng lượng, chiều cao, vòng mông và vòng bụng tới THA (điều tra trên 431 sinh viên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Kết quả cho thấy: 18% sinh viên bị tăng cân (BMI 25 - 29,9), 6,5% béo phì (BMI  30) và 26,8% giảm cân. HA, BMI, WHR, WC đều tăng đáng kể cùng với tuổi. Chỉ 1,6% sinh viên có THA, 1% hút thuốc lá và 4,4% nghiện hút. Nghiên cứu cho thấy BMI, WC và WHR có mối tương quan với HA và tuổi [66]. Gus, Moreira và cộng sự (Brazil - 1998) nghiên cứu sự liên quan giữa BMI, WHR và chu vi vòng bụng với tỷ lệ THA trong một mẫu đại diện 1088 người trưởng thành ở Porto Alegre - Brazinl. Tiêu chuẩn được gọi là béo bệu khi: hoặc BMI  27 (cho cả hai giới); hoặc WHR  0,95 (với nam) và  0,80 (với nữ); hoặc WC  96cm (với nam) và  92 cm (với nữ). Kết quả nghiên cứu cho thấy: béo phì tính theo BMI có sự liên quan với THA ở cả hai giới [58]. Một số nghiên cứu khác cũng nhận thấy béo phì có mối liên quan với các mức HA. Nguy cơ THA ở người thừa cân, béo phì cao gấp 2 lần so với người bình thường và cao gấp 3 lần so với người nhẹ cân [9], [23], [30]. Tại Việt Nam, trong một nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự, WHR  0,80 có nguy cơ tương đối liên quan chặt chẽ (theo chiều thuận) với THA. Điều này có nghĩa là: vòng bụng càng to thì nguy cơ THA càng cao [23]. Ngoài ra, trên các đối tượng béo phì có sự thay đổi bất lợi về các chỉ số sinh hoá như tăng lipid máu toàn phần, tăng cholesterol ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ [3]. Ở những người béo phì có THA, chỉ cần giảm 5 kg là HA đã giảm nhiều. Người ta tính rằng, nếu giảm 10 kg thì HA tâm thu có thể giảm từ 5 đến 20 mmHg, đồng thời còn có nhiều lợi ích khác như giảm tỷ lệ mắc đái tháo đường, hạ lipid máu... 1.7.4. Thói quen hút thuốc lá Khói thuốc lá chứa hơn 4000 loại hoá chất. Trong đó có hơn 200 loại hoá chất có hại cho sức khoẻ. Nicotin là chất có trong thuốc lá. Nicotin được hấp thụ qua da, niêm mạc miệng, mũi hoặc hít vào phổi. Khi hút một điếu thuốc, người hút đưa vào cơ thể từ 1 đến 2 mg nicotin. Nicotin có tác dụng chủ yếu làm co mạch ngoại biên, làm tăng nồng độ serotonin, catecholamin ở não, tuyến thượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 thận làm THA [3]. Hút một điếu thuốc lá, HA tâm thu có thể tăng lên tới 11 mmHg, HA tâm trương tăng lên đến 9 mmHg, kéo dài 20 – 30 phút. Hút thuốc nhiều có thể có cơn THA kịch phát [12]. Một nghiên cứu trên công nhân viên nhà máy thuốc lá, nơi chịu đựng bụi và khói thuốc lá nhiều thấy tỷ lệ bệnh THA cao hơn rõ rệt [26]. Monocit carbon (khí CO) có nồng độ cao trong khói thuốc và được hấp thụ vào máu, nó gắn với hemoglobin với lực mạnh hơn 20 lần so với ô xy [3], do đó làm giảm lượng ô xy chuyển đến các bộ phận trong cơ thể, gây thiếu máu và góp phần hình thành các mảng vữa xơ động mạch. Vì vậy, hút thuốc lá là một nguy cơ tiềm tàng dẫn đến phát triển bệnh xơ vữa động mạch. Mặc dù không phải là một nguyên nhân THA song đây cũng là một yếu tố đe doạ quan trọng đến bệnh THA. Nguy cơ mắc bệnh mạch vành ở người THA có hút thuốc lá cao hơn 50 - 60% so với những người THA không hút thuốc lá [29]. Tại Việt Nam, trong một nghiên cứu về dịch tễ học bệnh THA kết quả cho thấy: ở nhóm người hút thuốc lá nhiều (trên 8 điếu/ngày) có tỷ lệ THA cao hơn hẳn nhóm không hút thuốc lá, nhưng nếu hút thuốc lá dưới 8 điếu/ngày thì tỷ lệ THA giữa nhóm có hút thuốc lá và nhóm không hút thuốc là không có sự khác biệt rõ ràng [53]. Năm 1998 - 1999, Phạm Gia Khải và cộng sự tại Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng nghiện thuốc lá, có 1450 người chiếm tỷ lệ 19,03% (nam: 1399 người chiếm 96,48%; nữ 51 người chiếm 3,51%). Số điếu hút trung bình là 22,14  4,7 điếu/ngày tức khoảng 1 bao (20 điếu)/ngày/người. Tỷ lệ THA chung ở nhóm những người nghiện thuốc lá là 15,86% [23]. Hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch lên gấp 2-3 lần [3]. Khi hít khói thuốc vào cơ thể sẽ gây ra một số tác động ngay lập tức lên tim và mạch máu. Khói thuốc gây THA cấp tính và THA dao động. Hút thuốc còn giảm tác dụng của các thuốc điều trị THA [29]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 1.7.5. Thói quen uống rượu Theo WHO năm 2001, có khoảng 140 triệu người trên thế giới nghiện rượu, 400 triệu người sử dụng rượu ở mức nguy hại, dẫn đến tai nạn và tử vong. Ở Việt Nam tỷ lệ lạm dụng rượu ước tính 8% dân số và 4% là nghiện rượu [3]. Rượu được hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá, chủ yếu đoạn đầu ruột non và đạt hàm lượng trong máu cao nhất sau khi uống từ 30 đến 90 phút. Đã có một số nghiên cứu được báo cáo về sự liên quan của uống rượu nhiều và THA, nhưng cơ chế của liên quan này vẫn còn chưa rõ ràng. Có những ý kiến chưa thống nhất nhưng đa số thừa nhận uống nhiều rượu làm THA. Một số nghiên cứu cho thấy THA ở 20-30% số người lạm dụng rượu [3]. Hơn nữa rượu còn có thể gây rối loạn nhịp tim, rối loạn điều hoà lipoprotein và triglycerid, làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và các bệnh lý về mạch máu. Các thực nghiệm cho thấy rằng với khối lượng lớn, ethanol có tác dụng co mạch trực tiếp. Giảm tiêu thụ rượu xuống tới dưới 3 lần uống trong ngày (30ml rượu) làm giảm HA ở bệnh nhân có điều trị [30]. Uống nhiều rượu hay gây THA, càng uống nhiều HA càng cao. Vùng nào tiêu thụ nhiều rượu, nơi đó nhiều người bị THA [17]. Rượu uống nhiều còn làm mất hiệu quả của những thuốc chữa THA. Qua điều tra dịch tễ học bệnh THA ở Việt Nam trong 4 năm (1989 - 1992) nhận thấy lạm dụng rượu ở người THA cao hơn những người bình thường. Nghiên cứu của Phạm Gia Khải về dịch tễ học bệnh THA tại Hà Nội năm 1999 thấy uống rượu có mối liên quan chặt chẽ với THA ở cả 2 giới [23]. Khoảng 10% trường hợp THA liên quan đến uống rượu. Uống rượu thường xuyên trên 3 cốc/1ngày làm tăng nguy cơ mắc bệnh THA [3]. 1.7.6. Thói quen ăn mặn Muốn sống được, cơ thể con người ta cần có muối, nhưng ăn quá nhiều muối sẽ làm ứ nước trong cơ thể, tăng khối lượng tuần hoàn và HA cũng tăng lên. Một số nghiên cứu điều tra khẩu phần ăn từng vùng, các nhà nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 thấy rằng vùng nào ăn nhiều muối thì có tỷ lệ THA cao hơn. Như vậy, lượng muối ăn hàng ngày quá cao là một nguyên nhân gây THA trong các quần thể. Ở Nhật Bản, sau khi vận động nhân dân ăn ít muối, tỷ lệ mắc bệnh chảy máu não giảm 40%, tắc mạch não giảm 24,6%. Nghiên cứu của Katz.A., Rosenthal T., Maoz C. tại Israel về hiệu quả của chế độ muối khoáng tác động lên HA 24 giờ ở người lớn tuổi THA: Chế độ ăn muối hàng ngày được điều chỉnh cho ít Na và tăng K, Mg trong 6 tháng. Một máy đo HA tự động đo HA cứ 20 phút một lần vào ban ngày và 30 phút một lần vào ban đêm. Nghiên cứu được làm trước và sau 6 tháng bắt đầu chế độ ăn này. Kết quả giảm ăn Na và tăng ăn cả K và Mg có thể có tác dụng trong việc khống chế THA [trích dẫn 33]. Các thử nghiệm cho thấy rằng ăn nhiều muối (trên 14g/ngày) sẽ gây THA; trong khi ăn ít muối (dưới 1g/ngày) gây giảm HA động mạch. Theo WHO (1990) nên ăn dưới 6g/ngày [69]. Hạn chế muối trong khẩu phần ăn hàng ngày là một trong những biện pháp dễ nhất để phòng ngừa THA và cách điều trị mà không phải dùng thuốc tốt nhất. Việt Nam ở vùng nhiệt đới, với trên 3000 km bờ biển, nhân dân ở các vùng ven biển này chủ yếu là lao động thuần tuý nên họ có thói quen ăn mặn. Vì vậy, tác động của chế độ ăn gây ra THA ở nước ta có thể là tác nhân có ý nghĩa. Một nghiên cứu ở tỉnh Nghệ An là nơi người dân hay ăn mặn, mỗi ngày trung bình ăn 13,9g muối, thì tỷ lệ THA 17,9%, còn người dân ở Hà Nội ăn nhạt hơn, chỉ có 10,5g muối thì chỉ có 10,6% bị THA [16]. Một số nghiên cứu cho thấy: vùng ven biển ăn mặn có tỷ lệ THA cao rõ hơn ở vùng đồng bằng và miền núi. Một điều tra dịch tễ học: so sánh 1128 và 909 cặp đôi giữa nhóm THA và nhóm đối chứng thấy rằng, tỷ lệ số người ăn mặn THA cao hơn rõ rệt so với nhóm những người bình thường [53]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Ngoài những yếu tố nguy cơ đã nghiên cứu ở trên còn có những yếu tố như là: stress, uống cà phê, thuốc tránh thai, ít hoạt động thể lực, tiền sử gia đình... Tóm lại, THA là một bệnh rất phổ biến và tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng. Hiện nay bệnh THA đã được WHO và nhiều quốc gia chú trọng, đưa ra nhiều biện pháp tích cực, trong đó có tăng nguồn kinh phí cho công tác phòng chống bệnh. Để có những giải pháp hữu hiệu trong phòng chống bệnh THA, chúng ta cần nghiên cứu một cách có hệ thống, ở nhiều địa phương khác nhau. Xây dựng những mô hình thí điểm trong việc phát hiện sớm, quản lý và điều trị tại cộng đồng. Mặt khác xác định được các yếu tố nguy cơ gây bệnh THA để áp dụng các giải pháp can thiệp cộng đồng, nhằm phòng mắc bệnh THA, giảm tỷ lệ tử vong nguyên nhân do THA vào thời gian tới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu được chọn là người dân có tuổi 25 đến 64, đang sinh sống tại xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. 2.2. Địa điểm nghiên cứu Xã Hoá Thượng là một xã miền núi của huyện Đồng Hỷ, có chiều dài là 12 km, địa hình nhiều đồi núi, xóm xa nhất cách trung tâm xã 7 km. Xã có diện tích tự nhiên là 1.355,14 ha với 846,2 ha đất nông nghiệp (chiếm 62%). Số dân là 13.017 nhân khẩu gồm 2.278 hộ, toàn xã có 8 dân tộc. Người dân tộc Kinh chiếm khoảng 65%, dân tộc khác 35%. Xã có 17 xóm, thu nhập bình quân của người dân trong xã thấp, chủ yếu nông nghiệp, với 8,3% hộ nghèo. Cơ cấu kinh tế chính của địa phương là nông, lâm nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công [50]. 2.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5 năm 2007 đến tháng 10 năm 2008. 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả: theo thiết kế cắt ngang Chúng tôi dựa vào thiết kế nghiên cứu STEPWise của WHO đối với bệnh tăng huyết áp và có hiệu chỉnh, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam và tỉnh Thái Nguyên [69]. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu - Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả: được tính theo công thức [15]: α 2 1 / 2 2 pq n Z d  Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Trong đó: n = cỡ mẫu; p = 0,333 (Tỷ lệ THA trong điều tra trước); q = 0,667 d = 0,03 Chúng tôi lấy Z1-α/2 = 1,96 (độ tin cậy 95%), áp dụng công thức trên ta được n = 948. Để đảm bảo lượng mẫu chắc chắn, chúng tôi lấy hệ số điều chỉnh cỡ mẫu lên gấp 2 lần, nên cỡ mẫu nghiên cứu 1.896. * Kỹ thuật chọn mẫu: Chọn chủ đích: xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên Chọn xóm: toàn bộ 17 xóm thuộc xã Hoá Thượng Chúng tôi thống kê danh sách đối tượng 25-64 tuổi của từng xóm trong toàn xã được 9.128 người, sau đó lập danh sách theo bảng số ngẫu nhiên và chọn theo danh sách để lấy ra 2.000 người mời tham gia điều tra (để đảm bảo đạt 1.896 người tham gia điều tra). Chọn mẫu mô tả cận lâm sàng: Tất cả những người có tăng huyết áp đều được làm các xét nghiệm: + Xét nghiệm máu có 3 chỉ số: định lượng cholesterol toàn phần, glucose, creatinin. + Xét nghiệm nước tiểu: định lượng protein niệu + Điện tâm đồ Một số tiêu chuẩn đối tượng được loại khỏi đối tượng nghiên cứu: đang bị ốm nặng, phụ nữ đang có thai, đã bị THA thứ phát (chỉ chọn đối tượng THA nguyên phát và hạn chế các yếu tố ảnh hưởng đến sai số của đối tượng nghiên cứu). 2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu 2.5.1. Thông tin chung về tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp của đối tượng khu vực nghiên cứu + Nhóm tuổi chia làm 4 nhóm : 25 – 34; 35 – 44; 45 – 54; 55 – 64. + Giới (nam, nữ), dân tộc, trình độ học vấn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 2.5.2. Thực trạng mắc bệnh THA của các đối tượng ở khu vực điều tra + Tỷ lệ mắc bệnh THA theo địa điểm, dân tộc, tuổi, giới. + Phân độ bệnh THA. + Tình hình quản lý và điều trị bệnh THA tại cộng đồng. 2.5.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan tới bệnh THA + Một số thông số xét nghiệm ở người THA và liên quan đến tuổi, nghề nghiệp, thói quen của đối tượng THA. + Tỷ lệ thừa cân, béo phì với bệnh THA. + Đánh giá sự liên quan giữa một số thói quen ăn uống, lối sống, mức độ hoạt động thể lực với bệnh THA. 2.6. Kỹ thuật thu thập số liệu Chúng tôi sử dụng một số kỹ thuật nghiên cứu: Định tính (Qualitative Research): đối với thói quen ăn uống... Định lượng (Quantitative Research): xét nghiệm, thời gian hoạt động thể lực trong ngày và trong tuần, lượng bia rượu hàng ngày và hàng tuần... trong điều tra nghiên cứu. 2.6.1. Kế hoạch điều tra thu thập số liệu Bước 1: Chuẩn bị điều tra - Tiến hành chọn đối tượng điều tra theo phương pháp ngẫu nhiên. - Liên hệ và tổ chức chuẩn bị địa điểm, đối tượng điều tra, hướng dẫn cụ thể về chế độ ăn uống, sinh hoạt và thời gian làm xét nghiệm theo đúng chỉ định. - Chuẩn bị các dụng cụ, nguyên vật liệu cho điều tra như: cân, thước dây, mẫu biểu điều tra, máy đo huyết áp, máy xét nghiệm, máy điện tim và dụng cụ liên quan... Bước 2: Hướng dẫn cán bộ điều tra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Tổ chức hướng dẫn cho điều tra viên cách thức chọn mẫu, tổ chức tiến hành điều tra, phương pháp phỏng vấn, khám, xét nghiệm, thu thập thông tin, nội dung và yêu cầu của cuộc điều tra... Bước 3: Tiến hành điều tra thu thập thông tin tại thực địa, làm xét nghiệm tại trạm y tế 2.6.2. Quy trình điều tra Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn Sử dụng phiếu đo nhân trắc, huyết áp và xét nghiệm Làm xét nghiệm máu, nước tiểu, điện tâm đồ (cho đối tượng tăng huyết áp) 2.6.2.1. Phỏng vấn các hành vi nguy cơ Các hành vi nguy cơ (hút thuốc lá, uống rượu bia, ăn mặn, hoạt động thể chất) thu thập bằng cách phỏng vấn các đối tượng. Kỹ năng phỏng vấn của cán bộ y tế bảo đảm tính chính xác của thông tin, nên phải được tập huấn kỹ. - Đánh giá thói quen hút thuốc lá: bằng cách hỏi đối tượng xem họ có hút thuốc không, thời gian bắt đầu hút, số lượng hút hiện tại và trước kia. Cũng chú ý cả việc hút thuốc thụ động, hút thuốc lào và nhai thuốc lào khi ăn trầu. Người có thói quen hút thuốc lá: là người hút thường xuyên, liên tục, ngày nào cũng hút, mỗi ngày ít nhất là 10 điếu thuốc lá. - Thói quen uống rượu: khai thác đầy đủ thông tin về loại rượu thường uống, số lượng, tần suất sử dụng. Sử dụng đơn vị uống chuẩn để tính lượng ethanol đã uống. Đơn vị uống chuẩn là lượng đồ uống có rượu bao gồm 10 gram rượu nguyên chất (ethanol). Đó là lượng rượu mà một người bình thường có thể chuyển hoá được trong một giờ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Cách tính một đơn vị uống chuẩn ở các loại đồ uống có rượu: + Bia 6-12% 285 ml + Rượu vang 15-17% 120 ml + Rượu ngọt 20-25% 60 ml + Rượu trắng 40-45% 30 ml Uống rượu an toàn: + Với nam giới: dưới 04 đơn vị uống chuẩn / ngày + Với nữ giới: dưới 02 đơn vị uống chuẩn / ngày + Một tuần có 2 ngày không uống rượu - Khẩu phần ăn: chủ yếu quan tâm đến thói quen ăn mặn, lượng rau xanh, quả chín. Thói quen ăn mặn khá phổ biến trong chế biến thức ăn hàng ngày và sử dụng muối, nước mắm, bột canh để chấm thức ăn. Việc đánh giá tương đối khó khăn, do đó chủ yếu thông qua phỏng vấn đối tượng. Người có thói quen ăn mặn: là người ăn thích ăn mặn hơn người trong gia đình (ăn mặn liên tục từ 4 - 7 ngày/tuần). Để lượng hoá được rau xanh, quả chín ta dùng đơn vị chuẩn tương đương với 80 gram rau xanh, quả chín (1/2 bát con rau xanh; 01 quả kích thước trung bình các loại quả: táo Trung Quốc, lê, cam, dứa; 03 quả chuối; 01 cốc nước quả tươi hoặc sinh tố...). Ngày điều tra là các ngày trong tuần kể cả những ngày mà bữa ăn có thể được cải thiện hơn ngày thường (ngày nghỉ...). - Đánh giá về hoạt động thể chất bao gồm về loại công việc, phương tiện đi lại, thể thao, vui chơi giải trí thường xuyên của các đối tượng trong 12 tháng qua. + Hoạt động nặng: đào đất, cày ruộng, tập tạ, chạy nhanh, khuân vác, gánh đất, cưa xẻ, chạy đường dài, thể thao gắng sức, đạp xe ≥ 16 km/giờ ... + Hoạt động vừa: làm ruộng, đạp xe, đi bộ vừa phải, lau chùi nhà cửa, bơi lội, leo cầu thang, chơi cầu lông, bóng chuyền, công nhân điện nước ... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 + Hoạt động nhẹ: tập thể dục nhẹ, đi bộ chậm, tập dưỡng sinh, bán hàng, làm thủ công, làm vườn cắt hoa/tỉa cành, cán bộ văn phòng... + Nghỉ hoặc không hoạt động: xem tivi, đọc sách báo, ngồi/nằm nghỉ thư giãn... 2.6.2.2. Đo huyết áp (HA) Đo HA bằng máy HA kế đồng hồ được kiểm chuẩn và đo lại bằng huyết áp kế cột thuỷ ngân LPK2 sản xuất tại Nhật Bản. - Các điều kiện về đối tượng khi đo huyết áp: + Không được hoạt động mạnh trước khi đo 1 giờ. + Nghỉ ngơi, thoải mái ít nhất 5-10 phút trước khi đo HA. + Không uống cà phê, các loại đồ uống có caphein 30 phút trước khi đo, không uống rượu trước khi đo. + Không hút thuốc lá 30 phút trước khi đo. + Không dùng các loại kích thích giao cảm ngoại lai (như: thuốc chống ngạt mũi, thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử). + Khi đo đối tượng cần được yên tĩnh, dễ chịu, thoải mái, không lạnh, không mót tiểu, không tức giận hoặc xúc động - Tư thế đối tượng: ngồi trên ghế, lưng được nâng thẳng, tay để trần và nâng ngang tim. - Đo 2 lần cách nhau hai phút rồi lấy trung bình của hai lần đo. Nếu 2 lần đo chênh lệch >10mHg thì đo lần 3 và lấy số trung bình của lần đo thứ 2 và thứ 3 [17]. - Một số lỗi thường gặp khi đo HA: không biết đối tượng đã uống caphein trong vòng 30 phút trước đó hay không, không đo đúng tư thế, không đo HA 2 lần hoặc đo lại ngay dưới 1 phút, làm tròn số khi đọc kết quả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 2.6.2.3. Đo chiều cao, cân nặng, vòng bụng, vòng mông Đo vòng bụng, vòng mông bằng thước dây không giãn FIGURE FINDER độ chính xác tính bằng mm. Đo chiều cao bằng thước LEICESTER độ chính xác tính bằng cm. Cân nặng: dùng cân TANITA sản xuất tại Nhật Bản, độ chính xác tính bằng 0,1kg. Các mốc đo: + Vòng bụng (vòng eo) đo ở eo bụng, là điểm giữa bờ dưới của mạng sườn và điểm trên mào chậu. Đối tượng đứng thẳng, tay buông thõng, ngực ưỡn, nhìn thẳng về phía trước và đo ở cuối thì thở ra. + Đo vòng mông ở mức nhô nhất phía sau mấu chuyển lớn xương đùi chiếu ngang gò mu. Nếu khó xác định, để đối tượng cử động khớp háng rồi sờ vào đầu mấu chuyển lớn để xác định điểm mấu chuyển. Khi đó, đối tượng đứng thẳng, cơ mông chùng, bỏ hết vật dụng trong túi quần để có thể đo chính xác từng mm. + Đo chiều cao: Đối tượng tháo bỏ giầy, dép, không đội mũ, nón, khăn sau đó đứng vào bàn thước để đo chiều cao. Khi đo, hai gót chân, mông, vai và đầu chạm vào thước sao cho 2 điểm chạm của thước chạm sát vào bờ tường thẳng (nền đặt thước đo phải phẳng), vai buông lỏng, mắt nhìn về phía trước, giữ cho đỉnh đầu ở vị trí cao nhất khi đo; hạ dần thước đo chiều cao từ trên xuống; đọc số đo theo một cột dọc của thước cho đến mức cuối cùng. + Cân nặng: Đặt cân ở vị trí ổn định trên một mặt phẳng, đối tượng chỉ mặc quần áo mỏng, không đi giầy dép, không đội mũ hoặc cầm một vật gì. Chỉnh cân ở vị trí thăng bằng. Đối tượng đứng trên bàn cân, tay buông thõng, nhìn thẳng về phía trước. Ghi số đo trên bàn cân chính xác tới từng mức 0,1kg. Tất cả các số đo nhân trắc đều được đo 2 lần và ghi vào hồ sơ. * Xác định tỷ lệ thừa cân tại của các đối tượng nghiên cứu ở khu vực điều tra. Các số đo nhân trắc (BMI, WHR...). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 - Số đo vòng eo: Bình thường < 90 cm (nam); < 80 cm (nữ). Có nguy cơ  90 cm (nam);  80cm (nữ). - Chỉ số BMI được tính theo quy định ASEAN về chỉ số khối cơ thể: [3], [5]. BMI = Trọng lượng cơ thể (kg) / [chiều cao (m)]2 Bảng 2.1. Phân loại béo phì theo BMI của ASEAN Ph©n lo¹i BMI (kg/m2) ThiÕu c©n < 18,5 B×nh th•êng 18,5 - 22,9 TiÒn bÐo ph× 23 - 24,9 BÐo ph× ®é 1 25 - 29,9 BÐo ph× ®é 2  30 2.6.3.4. Chẩn đoán THA Chẩn đoán theo WHO/ISH (2003): HA tối đa (HA tâm thu)  140 mmHg và/hoặc HA tối thiểu (HA tâm trương)  90 mmHg [8], [17], [20], [69]. Bảng 2.2. Phân loại độ tăng huyết áp ở người trưởng thành Ph©n lo¹i HuyÕt ¸p (mmHg) T©m thu T©m tr•¬ng THA ®é I (nhÑ) 140 – 159 90 – 99 THA ®é II (trung b×nh) 160 – 179 100 – 109 THA ®é III (nÆng)  180  110 Nếu HATT và HATTr ở hai phân độ khác nhau tính theo trị số HA lớn hơn để xếp loại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 2.6.2.5. Các kỹ thuật xét nghiệm Lấy mẫu xét nghiệm do cán bộ chuyên khoa của Trung tâm Y tế Đồng Hỷ thực hiện tại Trạm Y tế xã Hoá Thượng. Phân tích kết quả tại labo xét nghiệm của Trung tâm Y tế Đồng Hỷ. Phân tích thông số hoá sinh máu: định lượng creatinin huyết thanh, định lượng cholesterol toàn phần huyết thanh, định lượng glucose huyết thanh, định lượng creatinin huyết thanh được thực hiện trên máy hoá sinh bán tự động CHEM-5Plus. Định lượng protein nước tiểu được thực hiện trên máy phân tích nước tiểu Hand Ureader tự động 11 thông số (do Hungary sản xuất) . Bảng 2.3. Nhận định và đánh giá kết quả xét nghiệm ChØ sè BÖnh phÈm Gi¸ trÞ b×nh th•êng Cholesterol toµn phÇn HuyÕt thanh 3,9 - 5,2 mmol/l Glucose HuyÕt thanh 3,9 - 6,4 mmol/l Creatinin HuyÕt thanh 44 – 106 mol/l Protein N•íc tiÓu kh«ng cã Các giá trị được lấy theo tài liệu xét nghiệm sử dụng trong lâm sàng [27]. Điện tâm đồ: trên máy điện tim 3 kênh do hãng Nihon Kohden Nhật Bản sản xuất. Giấy ghi điện tâm đồ theo quy định Bộ Y tế. Đọc kết quả điện tâm đồ: do bác sỹ chuyên khoa tim mạch Bệnh viện huyện Đồng Hỷ với tiêu chuẩn do Viện Tim mạch quy định. Để xác định việc ảnh hưởng của THA đối với cơ quan đích tại tim, chúng tối tiến hành tìm một số biểu hiện chủ yếu trong điện tâm đồ [40], [49]: + Không tổn thương (bình thường): Sóng P: D1, D2, aVF, V3, V4, V5, V6 bao giờ cũng dương; aVR bao giờ cũng âm; thời gian P tiêu biểu có bề rộng trung bình là 0,08s, tối đa 0,11s... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Khoảng cách PQ: bình thường trung bình 0,15s, tối đa 0,20s, tối thiểu 0,11s... Phức bộ QRS: ở các chuyển đạo ngoại biên với tư thế tim trung gian thì QRS ở các chuyển đạo mẫu điều dương; ở các chuyển đạo trước tim với V1, V2 thì QRS âm, với V5, V6 thì QRS dương; thời gian QRS trung bình 0,07s, tối đa 0,10s, tối thiểu 0,05s... Đoạn ST: bình thường đồng điện hoặc hơi chênh lên (không vượt quá 0,5mm) ở chuyển đạo ngoại biên và thường chênh lên ở chuyển đạo trước tim (không vượt quá 1,5mm ở V4 và 1mm ở các chuyển đạo trước tim khác)... Ngoài ra còn xem sóng T, khoảng QT trong điện tim + Tăng gánh thất trái, dày thất trái: tiêu chuẩn để đánh giá “tăng gánh thất trái” = hằng số Sokolow – Lyon: RV5 + SV1 ≥ 35 mm; dày thất trái = tăng gánh thất trái + ST chênh xuống ở V5, V6. + Ngoại tâm thu thất: khoảng RR’< RR ; thất đồ QRS’ giãn rộng (≤0,13s), bất thường về hình dạng, méo mó có móc khác hẳn QRS cơ sở ; ST-T’ trái chiều với QRS’ (là biến đổi thứ phát của ST-T). + Thiếu máu cơ tim: khi T âm nhọn, đối xứng, nếu là thiếu máu ở một vùng dưới thượng tâm mạc hoặc T dương cao, nhọn đối xứng nếu là thiếu máu dưới nội tâm mạc [49]. + Ngoài ra còn có các hình ảnh: blook nhánh phải hoàn toàn, blook nhánh phải không hoàn toàn 2.7. Xử lý số liệu Sử dụng phần mềm SPSS 10.0 trên máy vi tính. Sử dụng các thuật toán thống kê trong y sinh học để xử lý và phân tích số liệu [15], [37]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm chung đối tƣợng nghiên cứu ở xã Hoá Thƣợng Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới Giíi Nhãm tuæi Nam N÷ Tæng sè n % n % n % 25 – 34 248 25,5 312 27,2 560 26,4 35 – 44 242 24,8 264 23,1 506 23,9 45 – 54 249 25,6 252 22,0 501 23,6 55 – 64 200 20,5 203 17,7 403 19,0 Tæng sè 939 100,0 1031 100,0 1970 100,0 Nhận xét: Ở nam giới: Tỷ lệ các nhóm tuổi tương đối đồng đều. Ở nữ giới: Tỷ lệ nhóm từ 25-34 tuổi là cao nhất (27,2%); từ 55-64 tuổi thấp nhất (17,7%). 0.00 5.00 10.00 5.0 0.00 25.00 30.00 25 – 34 35 – 44 45 – 54 55 – 64 Nam Nữ Biểu đồ 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới 22,5% 27,2% 24,8% 23,1% 25,6% 22,0% 20,5% 17,7% Tỷ lệ % Tuổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 Bảng 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc và giới Giíi D©n téc Nam N÷ Tæng sè n % n % n % Kinh 638 67,9 675 65,5 1313 66,6 Tµy 41 4,4 47 4,6 88 4,5 Nïng 57 6,1 56 5,4 113 5,7 S¸n d×u 195 20,8 247 23,9 442 22,5 Kh¸c 8 0,8 6 0,6 14 0,7 Tæng sè 939 100,0 1031 100,0 1970 100,0 Nhận xét: Tỷ lệ người Kinh cả nam và nữ đều cao nhất (nam: 67,9%; nữ: 65,5%), thứ hai là người Sán Dìu, người dân tộc khác chiếm tỷ lệ thấp. Bảng 3.3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn và giới Tr×nh Giíi ®é häc vÊn Nam N÷ Tæng sè n % n % n % Mï ch÷ 10 1,1 31 3,0 41 2,1 Ch•a häc hÕt tiÓu häc 84 8,9 192 18,6 276 14,0 TiÓu häc (cÊp I) 285 30,4 337 32,7 622 31,6 THCS (cÊp II) 400 42,6 346 33,6 746 37,9 PTTH (cÊp III) 88 9,4 77 7,5 165 8,4 §H,C§, THCN 72 7,7 48 4,7 120 6,1 Tæng sè 939 100,0 1031 100,0 1970 100,0 Nhận xét: Đa số người dân có trình độ tiểu học (31,6%) và trung học cơ sở (37,9%); tỷ lệ người chưa học hết tiểu học còn cao chiếm tới 14%; người có trình độ phổ thông trung học trở lên chiếm tỷ lệ thấp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Bảng 3.4. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp và giới Giíi NghÒ nghiÖp Nam N÷ Tæng sè n % n % n % N«ng d©n 656 69,9 768 74,5 1424 72,3 C¸n bé, CCVC 35 3,7 38 3,7 73 3,7 C«ng nh©n 42 4,5 25 2,4 67 3,4 Bu«n b¸n 31 3,3 71 6,9 102 5,2 H•u trÝ 91 9,7 82 8,0 173 8,8 Kh¸c 84 8,9 47 4,6 131 6,6 Tæng sè 939 100,0 1031 100,0 1970 100,0 Nhận xét: Trong các đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nông dân: 72,3%, các đối tượng khác chiếm tỷ lệ thấp. 3.2. Thực trạng bệnh tăng huyết áp Bảng 3.5. Phân bố tỷ lệ tăng huyết áp theo nhóm tuổi và giới G iíi Nhãm tuæi Nam N÷ Tæng sè Sè kh¸m (n) Sè THA Tû lÖ % Sè kh¸m (n) Sè THA Tû lÖ % Sè kh¸m (n) Sè THA Tû lÖ % 25 – 34 248 10 4,0 312 11 3,5 560 21 3,8 35 – 44 242 35 14,5 264 31 11,7 506 66 13,0 45 – 54 249 60 24,1 252 77 30,6 501 137 27,3 55 – 64 200 85 42,5 203 40 19,7 403 125 21,0 Tæng sè 939 190 20,2 1031 159 15,4 1970 349 17,7 Nhận xét: Tỷ lệ THA chung ở những người từ 25- 64 tuổi là 17,7% Ở nam giới: tỷ lệ THA nhóm tuổi 55 - 64 là cao nhất: 42,5%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Ở nữ giới: tỷ lệ THA cao nhất là nhóm tuổi từ 45 - 54: 30,6%. Bảng 3.6. Phân bố tỷ lệ tăng huyết áp theo dân tộc Nhãm D©n téc Tæng sè THA Kh«ng THA p n % n % Tµy 88 26 29,5 62 70,5 <0,05 Nïng 113 33 29,2 80 70,8 Kinh 1313 267 20,3 1046 79,6 S¸n d×u 442 21 4,8 421 95,2 Kh¸c 14 2 14,2 12 85,8 Tæng sè 1970 349 1621 Nhận xét: Người dân tộc Tày và dân tộc Nùng có tỷ lệ THA cao hơn tốt các dân tộc khác (p<0,05). Bảng 3.7. Phân bố tỷ lệ tăng huyết áp theo trình độ học vấn Nhãm Tr×nh ®é Tæng sè THA Kh«ng THA p n % n % §¹i häc, CĐ, THCN 120 53 44,2 67 55,8 <0,05 PTTH 165 49 29,7 116 70,3 THCS 746 169 22,7 577 77,3 Mï ch÷ 41 7 17,1 34 82,9 Tiểu học 622 57 9,2 565 90,8 Ch•a häc hÕt tiÓu häc 276 14 5,1 262 94,9 Tæng sè 1970 349 1621 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Nhận xét: Ở nhóm những người có trình độ Đại học, CĐ, THCN có tỷ lệ THA cao hơn hẳn các nhóm khác (p < 0,05). Bảng 3.8. Phân bố tỷ lệ tăng huyết áp theo nghề nghiệp Nhãm NghÒ nghiÖp n THA Kh«ng THA p n % n % H•u trÝ 173 82 47,4 91 52,6 <0,01 C¸n bé, CCVC 73 22 30,1 51 69,9 Kh¸c 131 31 23,7 100 76,3 Bu«n b¸n 102 16 15,7 86 84,3 N«ng d©n 1424 192 13,5 1232 86,5 C«ng nh©n 67 6 9,0 61 91,0 Tæng sè 1970 349 1621 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở nhóm hưu trí và nhóm cán bộ CCVC cao hơn hẳn nhóm nông dân, có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Không THA THA Độ I THA Độ II THA Độ III Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ tăng huyết áp phân theo độ THA Nhận xét: 11,98% 3,96% 1,78% 82,28% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Tăng huyết áp độ I chiếm tỷ lệ cao nhất (11,98%), tiếp đến là độ II (3,96%) và độ III là thấp nhất (1,78%) trên tổng số người từ 25 đến 64 tuổi. Bảng 3.9. Phân độ tăng huyết áp theo nhóm tuổi §éTHA Nhãm tuæi Tæng sè §é I p §é II p §é III p n % n % n % 25 – 34 21 18 85,0 >0,05 3 15,0 <0,05 0 0 >0,05 35 – 44 66 54 81,8 8 12,1 4 6,1 45 – 54 137 97 70,6 30 22,1 10 7,4 55 – 64 125 67 53,6 37 29,6 21 16,8 Tæng sè 349 236 67,4 78 22,5 35 10,1 Nhận xét: THA độ I và độ III sự khác biệt giữa các nhóm tuổi là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05); THA độ II ở nhóm tuổi 55-64 (29,6%) cao hơn hẳn nhóm tuổi 35-44 (12,1%) (p<0,05). Kh«ng biÕt Cã biÕt Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ người dân không biết mình bị THA/tổng số người THA 75,31% 24,69% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Nhận xét: Đa số người bị THA không biết mình bị THA (75,31%). Kh«ng ®iÒu trÞ th•êng xuyªn Cã ®iÒu trÞ th•êng xuyªn Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ người dân có điều trị thường xuyên/số đối tượng biết mình bị THA Nhận xét: Trong số đối tượng biết mình bị THA, tỷ lệ không điều trị thường xuyên còn rất cao (57,89%) Kh«ng tæn th•¬ng ThiÕu m¸u c¬ tim Blook nh¸nh ph¶i hoµn toµn T¨ng g¸nh thÊt tr¸i Dµy thÊt tr¸i Biểu đồ 3.5. Một số tổn thương bệnh lý trên điện tâm đồ ở người THA Nhận xét: 42,11% 57,89% 30,9% 63,3% 3,2% 0,9% 1,7% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Tỷ lệ những người THA bị thiếu máu cơ tim chiếm tới 30,9%. Tăng gánh thất trái cũng chiếm 3,2%. 3.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan tới bệnh THA Bảng 3.10. Kết quả một số xét nghiệm sinh hoá ở người THA (tổng số người THA có xét nghiệm = 299) KÕt qu¶ C¸c xÐt nghiÖm B×nh th•êng Cao h¬n b×nh th•êng n % n % Creatinin m¸u 207 69,23 92 30,77 Protein niÖu 270 90,30 29 9,70 Cholesterol m¸u 276 92,31 23 7,69 Glucose m¸u 288 96,32 11 3,68 Nhận xét: Ở người THA: Tỷ lệ creatinin máu tăng cao hơn bình thường chiếm tới 30,77%; protein niệu chiếm 9,70%; cholesterol máu tăng cao hơn bình thường chiếm 7,69%; glucose máu tăng cao hơn bình thường chiếm 3,68%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 Bảng 3.11. Tỷ lệ bất thường các thông số sinh hóa theo độ THA §é THA XÐt nghiÖm §é I ( 196 người) §é II (71 người) §é III (32 người) n % n % n % Cholesterol máu >5,2 mmol/l 15 7,7 4 5,6 4 12,5 p >0,05 Glucose máu >6,4 mmol/l 9 4,6 2 2,8 0 0 p >0,05 Creatinin máu >106 μmol/l 53 27,0 25 35,2 14 43,8 p >0,05 Protein niÖu ≥ 0,1 g/l 12 6,1 7 9,9 10 31,3 p <0,01 Nhận xét: Ở người THA độ III tỷ lệ protein niệu (31,3%) cao hơn ở người THA độ I (6,1%) (p<0,01). Cholesterol máu, creatinin máu và glucose máu ở các nhóm THA độ I, độ II và độ III thay đổi không rõ rệt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 Bảng 3.12. Mối liên quan giữa sự bất thường các thông số sinh hóa với nhóm tuổi ở người THA XÐt nghiÖm Nhãm tuæi Cholesterol Glucose Creatinin Protein niÖu n % n % n % n % 25 – 34 0 0 1 9,1 3 3,3 2 6,9 35 – 44 2 8,7 0 0 16 17,4 5 17,2 45 – 54 16 69,6 4 36,4 29 31,5 6 20,7 55 – 64 5 21,7 6 54,5 44 47,8 16 55,2 Tæng sè 23 100,0 11 100,0 92 100,0 29 100,0 p 0,05 <0,05 <0,05 Nhận xét: Creatinin máu, protein niệu tăng cao nhất ở nhóm tuổi 55-64 (p<0,05), cholesterol máu tăng cao nhất ở nhóm 45-54 tuổi (p<0,01), sự khác biệt tỷ lệ bất thường glucose máu giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 Bảng 3.13. Sự bất thường các thông số sinh hóa với một số yếu tố nguy cơ ở người THA XÐt nghiÖm YÕu tè Cholesterol N = 23 Glucose N = 11 Creatinin N = 92 Protein niÖu N = 29 n % n % n % n % Thõa c©n 9 39,1 3 27,3 30 32,6 10 34,5 Th•êng xuyªn uèng r•îu bia 14 60,9 7 63,6 62 67,4 10 34,5 Th•êng xuyªn ¨n mÆn 9 39,1 6 54,5 24 26,1 4 13,8 Th•êng xuyªn hót thuèc l¸ 5 21,7 4 36,4 49 53,3 9 31,0 Ít vËn ®éng 16 69,9 4 36,4 60 65,2 15 51,7 Nhận xét: Cholesterol máu tăng cao hơn bình thường gặp nhiều nhất ở nhóm đối tượng ít vận động (69,9%). Glucose máu tăng cao hơn bình thường gặp nhiều nhất ở nhóm thường xuyên uống rượu bia (63,6%). Creatinin máu tăng cao hơn bình thường cũng gặp nhiều nhất ở nhóm thường xuyên uống rượu bia (67,4%). Protein niệu tăng cao hơn bình thường gặp nhiều nhất ở nhóm ít vận động (51,7%). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 Bảng 3.14. Liên quan giữa nhóm tuổi với tỷ lệ THA Nhãm Nhãm tuæi Tæng sè THA Kh«ng THA OR 95% CI p n % n % 25 – 34 560 21 3,8 539 96,3 1 <0,001 35 – 44 506 66 13,0 440 87,0 3,85 2,26- 6,60 45 – 54 501 137 27,3 364 72,7 9,66 6,86-16,06 55 – 64 403 125 31,0 278 69,0 11,54 6,95-19,32 Tæng sè 1970 349 17,7 1621 82,3 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở người trên 45 tuổi rất cao (nhóm tuổi 45-54 chiếm 27,3%, nhóm tuổi 55-64 chiếm 31,0%) và nhóm tuổi 25-34 là thấp nhất (3,8%) (p<0,001). Nguy cơ THA ở nhóm tuổi 55-64 cao gấp 11,54 lần, 45-54 là 9,66 và 35-44 là 3,85 lần so với nhóm tuổi 25-34 (p<0,001). Bảng 3.15. Liên quan giữa giới với tỷ lệ THA Nhãm Giíi Tæng sè THA Kh«ng THA OR 95% CI p n % n % Nam 939 190 20,3 749 79,7 1,39 1,10-1,77 <0,01 Nữ 1031 159 15,4 872 84,6 Tæng sè 1970 349 17,7 1621 82,3 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở nam giới (20,3%) cao hơn nữ giới (15,4%) (p<0,01). Nguy cơ mắc bệnh THA ở nam giới cao gấp 1,39 lần so với nữ giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Bảng 3.16. Liên quan giữa tình trạng thừa cân và bệnh THA Nhãm T×nh tr¹ng thõa c©n Tæng sè THA Kh«ng THA OR 95% CI p n % n % 3,35 2,59- 4,32 <0,001 Cã thõa c©n BMI ≥ 23 329 117 35,6 212 64,4 Kh«ng thõa c©n BMI < 23 1641 232 14,1 1409 85,9 Tæng sè 1970 349 1621 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở nhóm có thừa cân BMI ≥ 23 (35,6%) cao hơn hẳn nhóm kh«ng thõa c©n BMI < 23 (14,1%). Nguy cơ mắc bệnh THA ở người thừa cân cao gấp 3,35 lần so với người không thừa cân (p<0,001). Bảng 3.17. Liên quan giữa vòng eo và bệnh THA Nhãm T×nh tr¹ng Vßng eo Tæng sè THA Kh«ng THA OR 95% CI p n % n % Vßng eo nam > 90 cm 28 22 78,6 6 21,4 15,98 6,03- 44,71 <0,001 Vßng eo nam ≤ 90 cm 911 168 18,4 743 81,6 Tæng sè 939 190 749 Vßng eo n÷ >80 cm 130 63 48,5 67 51,5 7,83 5,12- 11,96 <0,001 Vßng eo n÷ ≤ 80 cm 901 96 10,7 805 89,3 Tæng sè 1031 159 872 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở nhóm Nam có vòng eo > 90 cm (78,6%) cao hơn hẳn nhóm Nam có vòng eo ≤ 90 cm (18,4%) với nguy cơ mắc THA cao gấp 15,98 lần (p 80 cm (48,5%) cao hơn hẳn nhóm Nữ có vòng eo ≤ 80 cm (10,7%) với nguy cơ mắc THA gấp 7,83 lần (p<0,001). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Bảng 3.18. Liên quan giữa thói quen hút thuốc lá, uống rượu bia, ăn mặn và bệnh THA Nhãm Thãi quen Tæng sè THA Kh«ng THA OR 95% CI p n % n % Hót thuèc l¸ 464 110 23,7 354 76,3 1,65 1,27- 2,14 <0,001 Kh«ng hót thuèc l¸ 1506 239 15,9 1267 84,1 Tæng sè 1970 349 1621 Uèng r•îu bia th•êng xuyªn 845 167 19,8 678 80,2 1,28 1,01- 1,62 <0,05 Ýt uèng vµ kh«ng uèng r•îu bia th•êng xuyªn 1125 182 16,2 943 83,8 Tæng sè 1970 349 1621 ¨n mÆn 433 101 23,3 332 76,7 1,58 1,21- 2,07 <0,01 ¨n b×nh th•êng, ¨n nh¹t 1537 248 16,1 1289 83,9 Tæng sè 1970 349 1621 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở nhóm: Hút thuốc lá cao hơn so với không hút thuốc lá (23,7% / 15,9%), với nguy cơ mắc THA cao gấp 1,65 lần (p<0,001). Uống rượu bia thường xuyên cao hơn so với nhóm ít uống và không uống rượu bia thường xuyên (19,8% / 16,2%) với nguy cơ mắc THA cao gấp 1,28 lần (p<0,05). Thường xuyên ăn mặn cao hơn so với nhóm ăn bình thường, ăn nhạt (23,3% / 16,1%) với nguy cơ mắc THA cao gấp 1,58 lần (p<0,01). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 Bảng 3.19. Liên quan giữa hoạt động thể lực và bệnh THA Nhãm Thãi quen Tæng sè THA Kh«ng THA OR 95% CI p n % n % Kh«ng ho¹t ®éng, lao ®éng th•êng xuyªn 1368 293 21,4 1075 78,6 3,24 2,31 - 4,55 <0,001 Ho¹t ®éng, lao ®éng th•êng xuyªn 602 56 9,3 546 90,7 Tæng sè 1970 349 1621 §i bé kh«ng th•êng xuyªn 828 195 23,6 633 76,4 1,98 1,55 - 2,51 <0,001 Th•êng xuyªn ®i bé 1142 154 13,5 988 86,5 Tæng sè 1970 349 1621 Nhận xét: Tỷ lệ THA ở các nhóm kh«ng ho¹t ®éng, lao ®éng th•êng xuyªn (21,4%) cao hơn so với nhóm ho¹t ®éng, lao ®éng th•êng xuyªn (9,3%) với nguy cơ mắc THA cao gấp 3,24 lần (p<0,001). Tỷ lệ THA ở nhóm đi bé kh«ng th•êng xuyªn (23,6%) cao hơn so với nhóm th•êng xuyªn ®i bé (13,5%) với nguy cơ mắc THA cao gấp 1,98 lần (p<0,001). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Chƣơng 4 BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Trong nghiên cứu của chúng tôi, dựa trên phương pháp nghiên cứu chuẩn của WHO có hiệu chỉnh cho phù hợp. Đây là phương pháp nghiên cứu STEPSwies dùng để điều tra, đánh giá các bệnh không lây nhiễm trong đó có bệnh THA. Phương pháp này gồm 3 bước: bước1 (điều tra xã hội học bằng phỏng vấn), bước 2 (đo các chỉ số nhân trắc học), bước 3 (thực hiện các chỉ số xét nghiệm) [69]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 1970 đối tượng tham gia điều tra trên số dự kiến là 1896, đạt tỷ lệ 104%. Với số đối tượng nghiên cứu này đảm bảo độ tin cậy như một số điều tra khác tại cộng đồng. Nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt và cộng sự ở xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Hà Nội (n = 2328) [53], là một xã ngoại thành Hà Nội mang tính chất ven đô thị. Một nghiên cứu của Cao Thị Yến Thanh tại tỉnh Đắc Lắc (n= 931) [42], đại diện cho một tỉnh vùng Tây nguyên nước ta. Nghiên cứu của Phạm Gia Khải ở vùng đồng bằng Thái Bình (n = 1324) [24], đại diện cho vùng đồng bằng miền Bắc Việt Nam. Địa điểm nghiên cứu của chúng tôi chọn đại diện cho một xã nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam. Do đó kết quả nghiên cứu này có thể góp phần xây dựng kế hoạch mang tính chất chiến lược trong phòng và chống bệnh THA tại Việt Nam. Qua kết quả nghiên cứu tại xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên chúng tôi nhận thấy: tỷ lệ nam, nữ trong nghiên cứu này tương đối đều, nam chiếm 48,66%, nữ chiếm 52,34%, phù hợp với nghiên cứu của Phạm Gia Khải tại các quận, huyện nội và ngoại thành Hà Nội có tỷ lệ nam giới là 45,42% và nữ giới là 54,57% [23]. Trong một số nghiên cứu như: Nguyễn Lân Việt và cộng sự ở xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội [53]; nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 của Phạm Thị Kim Lan tại nội thành Hà Nội... thì tỷ lệ nam giới và nữ giới được chọn xấp xỉ đều nhau đảm bảo độ tin cậy về giới trong nghiên cứu của cộng đồng. Chúng tôi lấy độ tuổi nghiên cứu từ 25 đến 64 tuổi và chia làm 4 nhóm tuổi, dựa theo tiêu chuẩn của WHO[69]. Trước năm 2000, các nghiên cứu thường lấy lứa tuổi trên 15 tuổi và mỗi nước lại lấy các lứa tuổi khác nhau, cũng như chia nhóm tuổi khác nhau. Do đó việc xem xét, so sánh các nghiên cứu giữa các vùng, giữa các quốc gia gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, với nhóm tuối dưới 25 tỷ lệ THA rất thấp và trên 65 tuổi thì tỷ lệ THA lại rất cao. Nên từ năm 2000 trở lại đây, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo trong điều tra bệnh THA tại cộng đồng chỉ nên lấy từ 25 đến 64 tuổi và chia khoảng cách là 10 tuổi một nhóm. Vì thế, các số liệu điều tra bệnh THA những năm gần đây đều dựa theo tiêu chuẩn của WHO để dễ so sánh từng vùng, từng miền và từng quốc gia. Trong nghiên cứu này, cho thấy tỷ lệ đối tượng điều tra giữa các nhóm tuổi và giữa nam và nữ tương đối đồng đều. Tỷ lệ thấp nhất là nhóm tuổi từ 55 – 64 tuổi ở nữ giới (17,7%) và cao nhất cũng ở nữ giới với nhóm tuổi từ 25-34 tuổi (27,2%). Tỷ lệ các nhóm tuổi ở nam giới gần tương đương nhau (nhóm tuổi 55-64 tuổi là 20,5% và nhóm tuổi 25-34 tuổi là 25,5%). Nếu tính chung cả hai giới thì tỷ lệ đối tượng đến khám thấp nhất là nhóm tuổi từ 55-64 có 19% và cao nhất là nhóm tuổi từ 25-34 có 26,4%. Trong nghiên cứu của Phạm Thị Kim Lan tại nội thành Hà Nội, tỷ lệ đối tượng đến khám thấp nhất cũng là nhóm tuổi từ 55-64 có 14,9% và cao nhất là nhóm tuổi từ 35-44 chiếm tỷ lệ 28,6% [30]. Nghiên cứu Nguyễn Lân Việt và cộng sự tỷ lệ nhóm tuổi thấp nhất từ 55-64 tuổi (12,2%) và cao nhất là nhóm tuổi từ 35-44 tuổi (27,2%) [52]. Qua đó, chúng tôi nhận thấy với vùng nông thôn miền núi, ở các lứa tuổi đều tham gia tích cực hơn trong quá trình điều tra, nhất là ở lứa tuổi trẻ. Còn ở thành thị thì những người trẻ tuổi có cuộc sống bận rộn hơn, nhiều công việc và họ hay làm ở các công ty, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 các cơ quan xí nghiệp, cũng có thể họ cũng chưa nhận thức được việc điều tra, khám kiểm tra sức khoẻ là quan trọng nên tỷ lệ đến tham gia điều tra hạn chế hơn các nhóm tuổi khác. Đây cũng là một yếu tố quan trọng để so sánh có sự khác biệt hay không về đặc điểm dịch tễ học bệnh THA và các yếu tố liên quan giữa các nhóm tuổi, giữa nam và nữ ở các nhóm tuổi. Phân bố về dân tộc trong đối tượng nghiên cứu của chúng tôi: chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 66,6%, sau đó đến dân tộc Sán Dìu chiếm 22,5%, dân tộc Tày chiếm 4,5%, dân tộc Nùng chiếm 4,7%, một vài dân tộc khác (Êđê, Hoa, Thái, Mường) tỷ lệ rất thấp chỉ có 0,7%. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền tại xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có tỷ lệ dân tộc Kinh là 55,8% và dân tộc khác là 44,2% [18]. Nghiên cứu của chúng tôi, tại một xã vùng núi phía Bắc Việt Nam nên dân tộc Kinh chiếm đa số khoảng 2/3 dân số còn các dân tộc khác chiếm khoảng 1/3 dân số. Nếu các xã vùng cao phía Bắc Việt Nam thì chủ yếu là người dân tộc thiểu số, dân tộc Kinh chỉ chiếm khoảng 1/4 đến 1/3 dân số. Về trình độ học vấn của các đối tượng nghiên cứu tương đối thấp: học hết bậc tiểu học là 31,6%, học hết bậc trung học cơ sở là 37,9% và đặc biệt còn có mù chữ 2,1% và chưa học hết tiểu học là 14,0%. Theo nghiên cứu tại địa bàn tương tự của Nguyễn Thu Hiền: học hết tiểu học là 37%, học hết phổ thông cơ sở là 48,4% [18]. Như vậy, với địa bàn trong nghiên cứu này đại diện cho vùng nông thôn miền núi người dân chủ yếu làm nông nghiệp và trình độ học vấn chủ yếu học hết tiểu học và phổ thông cơ sở, còn phổ thông trung học và đại học, cao đẳng có tỷ lệ rất thấp. Nhận xét về nghề nghiệp, tại xã Hóa Thượng người dân sống chủ yếu bằng nghề nông chiếm tỷ lệ 72,3%, còn các nghề khác chiếm tỷ lệ thấp (27,7%). Tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền tại xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có tỷ lệ nghề nghiệp là nông dân chiếm đa số (87,6%), Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 nghề khác chỉ chiếm tỷ lệ là 12,4% [18]. Ngược lại với nghiên cứu của Phạm Gia Khải tại các quận, huyện nội và ngoại thành Hà Nội có tỷ lệ nghề nghiệp là nông dân chỉ chiếm 28,06% [23]. Đây cũng là điểm khác nhau giữa các vùng địa lý khác nhau, cũng nhờ đó chúng ta có thể nhìn nhận thấy có sự khác nhau hay tương đương nhau về đặc điểm dịch tễ học bệnh THA và các yếu tố liên quan đến bệnh THA giữa các vùng miền. 4.2. Thực trạng bệnh THA Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổng số 1970 đối tượng được khám sức khoẻ, phỏng vấn, đã phát hiện được 349 người bị THA (chiếm 17,7%). Để xác định đối tượng có THA hay không ta phải dựa vào số đo huyết áp, vì vậy công tác tập huấn cho các bác sĩ thống nhất về cách đo HA là một việc cần thiết. Để tránh sai số này, chúng tôi đã sử dụng 100% người khám nội và đo huyết áp là các bác sỹ chuyên khoa. Các bác sỹ được tập huấn về cách phỏng vấn, qui định đo nhân trắc, đo huyết áp. Người khám và kết luận cuối cùng để xác định đối tượng có THA là bác sỹ đã có kinh nghiệm. Bảng 4.1. So sánh tỷ lệ THA giữa một số nghiên cứu C¸c nghiªn cøu §Þa ®iÓm Tû lÖ THA Ph¹m Hïng Lùc, Lª ThÕ Thù (2002) [34] §ång b»ng s«ng Cöu Long 14,9% §µo Duy An (2003) [1] Kon Tum 12,54% Lª Anh TuÊn (2003) [44] Hµ Néi 16,17% Ph¹m Gia Kh¶i, NguyÔn L©n ViÖt (2003) [26] phÝa B¾c ViÖt Nam 16,3% Cao ThÞ YÕn Thanh (2006) [42] §¾c L¾c 17,5% Chu Hång Th¾ng (2008) Th¸i Nguyªn 17,7% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Với tỷ lệ 17,7% người THA trong cộng đồng nghiên cứu của chúng tôi cao hơn điều tra dịch tễ học về bệnh THA ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam của Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt và cộng sự thì tỷ lệ THA chung là 16,3%; ở Nghệ An: 16,6%; ở Thái Nguyên: 13,9% [26]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ THA cũng cao hơn nghiên cứu của Phạm Gia Khải ở vùng đồng bằng Thái Bình (12,4%) [24] và nghiên cứu ở người dân tộc thiểu số sống ở thị xã Kon Tum và khu vực xung quanh thị xã của Đào Duy An là 12,54% [1]; với đối tượng từ 15 đến 75 tuổi theo nghiên cứu của Phạm Hùng Lực, Lê Thế Thự ở đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ THA là 14,9% [34]. Kết quả của chúng tôi phù hợp với tỷ lệ THA ở Hà Nội gồm cả nội thành và ngoại thành trong nghiên cứu của Lê Anh Tuấn là 16,17% [44]. Nghiên cứu của Cao Thị Yến Thanh, Nguyễn Công Khẩn, Đăng Tuấn Đạt ở người từ 25 tuổi trở lên tại tỉnh Đắc Lắc, năm 2005 là 17,5% [42]. Theo WHO tỷ lệ THA ở người trưởng thành là 8% - 18% dân số, tại Hoa Kỳ, tỷ lệ THA là 6% - 15% [20], ở Trung Quốc tỷ lệ THA tâm thu là 10,3%, THA tâm trương là 6,3% và tỷ lệ THA chung là 15,3% [61]. Tỷ lệ THA trong nghiên cứu của chúng tôi lại thấp hơn trong cộng đồng nội thành Hà Nội (23,2%) [30], ở xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội (20,5%) [52] và thấp hơn nhiều theo nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền (33,3%) [18]. Chúng tôi nhận thấy có sự chênh lệch này là do các nghiên cứu ở các vùng địa lý, kinh tế, xã hội khác nhau. Môi trường sống, thời tiết, khí hậu, công việc, thu nhập đều ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật... Tỷ lệ mắc bệnh THA ở thành thị nhiều hơn nông thôn [26], chúng tôi nhận thấy những người trực tiếp lao động chân tay tỷ lệ mắc THA thấp hơn, cũng phù hợp với các nghiên cứu đều cho thấy tỷ lệ THA ở người nông dân thấp hơn tỷ lệ THA ở những người làm các nghề khác [52]. Trong nghiên cứu này cũng cho thấy, thường xuyên hoạt động, lao động giảm tỷ lệ mắc bệnh THA hơn 3,24 lần. Điều này cũng phù Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 hợp với nghiên cứu so sánh giữa vùng thành thị và nông thôn các tỉnh phía Bắc Việt Nam, ở vùng thành thị tỷ lệ THA là 22,7%, còn nông thôn là 12,3% [26]. Nghiên cứu sự phân bố THA theo tuổi và giới cho thấy, ở người trẻ tỷ lệ THA thay đổi từ 1% – 2% trong khi người lớn tuổi tỷ lệ này là 25% - 38% [6]. Đây cũng là điều cảnh báo để bản thân những người THA cần biết về tình trạng này để họ thực hành lối sống hạn chế nguy cơ và sử dụng thuốc hạ áp liên tục để tránh những biến chứng của bệnh THA. Đối với nữ giới tỷ lệ THA cao nhất ở lứa tuổi từ 45-54 (30,6%), nhưng tuổi từ 55-64 tỷ lệ mắc bệnh THA lại giảm xuống chỉ còn 19,7%. Theo chúng tôi, ở nữ giới ở lứa tuổi từ 45-54 có sự thay đổi về nội tiết, là giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh nên tỷ lệ mắc bệnh THA cao nhất. Theo nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt ở xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội tỷ lệ nam mắc bệnh THA theo nhóm tuổi phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi, còn ở nữ với nhóm tuổi 45-54 chỉ có 16,6%, còn ở lứa tuổi 55-64 là 30,2% trong khi nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 19,7% [53] thấp hơn nghiên cứu của Lê Anh Tuấn tại nội và ngoại thành Hà Nội nhóm 55-64 tuổi: 38,21% [44]. Về tỷ lệ THA theo dân tộc, chúng tôi thấy nhóm người dân tộc Tày có tỷ lệ THA trên tổng số là 29,5%; nhóm người dân tộc Nùng: 29,2%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Loan: THA ở dân tộc Tày 16,21% (n= 968), dân tộc Nùng 12,29% (n=366), dân tộc Dao 26,29% (n=207) [31]. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền thì tỷ lệ THA ở dân tộc Kinh là 31,8% trên tổng số người dân tộc Kinh và nhóm người dân tộc thiểu số tỷ lệ THA là 35,3% [18]. Qua đây, chúng tôi cho rằng ở địa bàn trong nghiên cứu này là một xã miền núi nhiều dân tộc, trong đó một số dân tộc như dân tộc Tày, Nùng chiếm tỷ lệ THA khá cao. Cũng có lẽ vì họ còn mang nặng các phong tục tập quán như: thói quen uống quá nhiều rượu, hút thuốc lá. Tỷ lệ THA ở các đối tượng có trình độ học vấn đại học và sau đại học trong nghiên cứu của chúng tôi là cao nhất (44,2%). Còn ở các đối tượng có trình độ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 cấp tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, tỷ lệ mắc bệnh THA thấp hơn (dao động từ 9,2% đến 29,7%). Với tỷ lệ này phải chăng những đối tượng thường xuyên phải lao động trí óc trong quá trình thực thi công việc và áp lực của công việc lớn trong hoạt động lao động trí óc có thể là yếu tố nguy cơ gây bệnh THA. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt: tỷ lệ THA ở các đối tượng có trình độ học vấn ở mức đại học và sau đại học là cao nhất 40,0%, các cấp học tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học cũng dao động từ 14,1% đến 27,2% [53]. Nghiên cứu của Lại Phú Thưởng: trong các bệnh nhân THA vào viện thì tỷ lệ THA ở người hoạt động trí óc chiếm 57%, còn lao động chân tay chỉ chiếm 43% [48]. Tỷ lệ THA ở nhóm đối tượng cán bộ trong diện bảo vệ sức khoẻ do tỉnh Lào Cai quản lý 28,55% [43]. Trong nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ THA ở người lao động trí óc cao hơn người lao động chân tay. Cuộc điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 có kết quả về tỷ lệ THA theo trình độ học vấn như sau [26]: Bảng 4.2. Tỷ lệ THA theo trình độ học vấn tại Việt Nam (năm 2001-2002) Giíi Tr×nh ®é häc vÊn Nam N÷ Mï ch÷ 15,4% 14,7% TiÓu häc 14,9% 13,8% Trung häc c¬ së 14,8% 12,9% Phæ th«ng trung häc 16,2% 12,9% Trªn phæ th«ng trung häc 17,8% 13,2% Qua bảng trên cho thấy, tỷ lệ người bị THA ở các nhóm có trình độ học vấn khác nhau.Tuy nhiên sự chênh lệch giữa các tỷ lệ này không nhiều. Như vậy có thể thấy trình độ học vấn là yếu tố ảnh hưởng không nhiều đến bệnh THA. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 Những người có trình độ học vấn cao đúng ra tỷ lệ THA phải thấp hơn vì họ được cập nhật nhiều thông tin về phòng chống bệnh, song cũng có lẽ việc tuyên truyền giáo dục sức khoẻ còn chưa đáp ứng được và nếu chúng ta xem xét ở một góc độ khác, những người hoạt động trí óc khả năng gặp nhiều căng thẳng thần kinh hơn (hay bị stress), nếu stress có thường xuyên thì dễ gây bệnh THA và stress trên người đã bị THA thì gây cơn THA kịch phát rất nguy hiểm [12]. Với các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là người dân ở một xã nông thôn miền núi (nông dân chiếm 73,2%), nên trình độ học vấn cao có tỷ lệ thấp và chủ yếu người về hưu mà tỷ lệ tuổi từ 55 – 64 có tỷ lệ THA cao hơn độ tuổi khác nên kết quả của chúng tôi trình độ đại học và sau đại học tỷ lệ mắc bệnh THA là rất cao (44,2%). Nghiên cứu của chúng tôi về liên quan giữa nghề nghiệp và bệnh THA cho thấy tỷ lệ THA ở nhóm hưu trí là cao nhất: 47,4%, tiếp đến là nhóm cán bộ CCVC: 30,1%, nhóm nghề khác: 23,7%; buôn bán: 15,7%; nhóm công nhân và nông dân có tỷ lệ THA thấp nhất: nông dân: 13,5%; công nhân: 9,0%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt: tỷ lệ THA ở nhóm hưu trí là 43,1%, nông dân 17,7%, kinh doanh 19,4% [52]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Loan ở đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc, Việt Nam thì tỷ lệ cán bộ bị THA là 13,2% và nông dân là 16,0% [31]. Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền: tỷ lệ nông dân THA là 33,5% [18]. Điều này cũng dễ hiểu vì ở địa bàn của nghiên cứu này tỷ lệ THA đến 33% và chủ yếu là nông dân. Nghiên cứu của Phạm Gia Khải tại địa bàn thành phố Hà Nội thì tỷ lệ THA ở nông dân 18,07%, công nhân là 13,72%, buôn bán là 22,01% [23]. Xem xét tỉ lệ THA trong các loại nghề nghiệp chúng tôi thấy nhóm hưu trí có tỷ lệ THA cao nhất. Theo chúng tôi riêng đối tượng hưu trí như đã nói ở trên họ là những người ở độ tuổi có tỷ lệ THA cao nhất nên phù hợp với kết quả thu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 được trong nghiên cứu này, còn CCVC họ là những người lo toan nhiều công việc, ít vận động thể lực nên tỷ lệ cũng cao. Theo báo cáo của “Công trình nghiên cứu dịch tễ THA ở Việt Nam 1989-1992” tỉ lệ THA cao nhất là ở nông dân (13,4%) nhưng chỉ ở lứa tuổi trẻ (16-39 tuổi), còn ở các lứa tuổi lớn hơn thì cán bộ có tỷ lệ mắc THA cao hơn [3]. Năm 1998, một nghiên cứu trong số 3787 công nhân bến cảng Rijeka, chia làm 6 nhóm nghề nghiệp: công nhân vận chuyển ở bến cảng, cán bộ hành chính, công nhân bốc xếp, công nhân phụ việc, lái xe ô tô và thuỷ thủ trên tàu kéo. Tỉ lệ THA chung là 10,6%. Tỉ lệ THA thấp nhất 7,3% thấy ở công nhân vận chuyển bến cảng là nhóm người có tuổi trung bình trẻ nhất và chỉ số khối lượng cơ thể thấp nhất. Tỉ lệ THA cao nhất 16,6% gặp ở công nhân bốc xếp và phụ việc, đó là nhóm có tuổi trung bình già nhất và chỉ số khối lượng cơ thể trung bình lớn nhất. Kết quả khẳng định không có mối liên quan giữa tình trạng làm việc nặng nhọc của nghề nghiệp với tăng tỷ lệ THA, mà tuổi và chỉ số khối lượng cơ thể mới có sự tương quan có ý nghĩa thống kê với tỉ lệ THA [55]. Kết luận của nghiên cứu này cũng giống kết luận của nghiên cứu trên công nhân lái xe tàu điện ở Hoa Kỳ: Tỉ lệ THA tăng cùng với sự tăng chỉ số khối lượng cơ thể, thâm niên làm việc và lượng tiêu thụ rượu [57]. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ THA gặp cao hơn ở nhóm nam giới tuổi cao, chỉ số khối cơ thể cao, hút thuốc lá và thói quen uống rượu nhiều. Một điều tra ở người Mỹ gốc Phi thuộc Tiểu Bang Pitt – Bắc Carolina – Hoa Kỳ cho thấy sự căng thẳng nghề nghiệp đi cùng với THA [55]. Như vậy qua các nghiên cứu nói trên có thể nói nghề nghiệp cũng có thể là yếu tố nguy cơ của THA. Về phân độ THA: Theo quy ước đã trình bày, chúng tôi áp dụng bảng phân loại huyết áp theo báo cáo của WHO/ISH (2003) để phân chia độ THA của các đối tượng nghiên cứu. Tỷ lệ THA chung của xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên là 17,7%, trong đó THA độ I chiếm tỷ lệ cao nhất (11,98%), Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 tiếp đến là độ II (3,96%) và độ III là thấp nhất (chỉ có 1,78%) trên tổng số người từ 25 đến 64 tuổi. Từ đây có thể suy ra với dân số một tỉnh miền núi như tỉnh Thái Nguyên hiện nay khoảng 1.180.000 người, cũng có nghĩa là có 141.364 người dân bị THA độ I (HA tâm thu từ 140 đến 159 mmHg hoặc huyết áp tâm trương từ 90 đến 99 mmHg); 46.728 người dân bị THA độ II (HA tâm thu từ 160 – 179 mmHg và HA tâm trương từ 100-109 mmHg); 21.004 người dân bị THA độ III ((HA tâm thu ≥ 180 mmHg và HA tâm trương ≥ 110 mmHg). Cộng cả lại là 209.096 người cần để quản lý và điều trị THA. Trong thực trạng còn nhiều bất cập của mạng lưới y tế cơ sở hiện tại thì đây quả là một vấn đề rất lớn phải có sự quan tâm đầu tư tài chính, tập trung sức lực trí tuệ của nhiều người, nhiều ngành chức năng có liên quan mới có thể giải quyết được. Bảng 4.3. So sánh về tỷ lệ phân độ THA giữa một số nghiên cứu C¸c nghiªn cøu THA ®é I THA ®é II THA ®é III Ph¹m Gia Kh¶i (2000) [23] 10,21% 3,88% 1,96% Ph¹m Gia Kh¶i, NguyÔn L©n ViÖt (2003) [26] 10,2% 4,2% 1,9% §µo Duy An (2003) [1] 6,93% 3,98% 0,74% Cao ThÞ YÕn Thanh (2006) [42] 6,9% 3,8% 1,9% Chu Hång Th¾ng (2008) 11,98% 3,96% 1,78% Qua bảng trên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Phạm Gia Khải ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam [26] và ở địa bàn thành phố Hà Nội [23]. Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ THA độ I (11,98%) cao hơn nghiên cứu Đào Duy An (6,93%) [1] và Cao Thị Yến Thanh (6,9%) [42]. Theo chúng tôi, hai nghiên cứu này ở Đắc Lắc và Kon Tum là vùng Tây nguyên, mặc dù cuộc sống còn khó khăn nhưng phong tục tập quán khác với vùng núi phía Bắc là không có thói quen uống nhiều rượu và hút thuốc lá, thuốc lào. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên khác như: Nghiên cứu ở vùng đồng bằng Thái Bình của Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt và cộng sự cho thấy, THA độ I: 8,4%, độ II: 2,6%, độ III là 1,4% [24]; Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn cũng tại địa bàn thành phố Hà Nội thì kết quả cũng tương tự, tỷ lệ THA độ I: 10,22% và độ III là 1,97% [44]. Nghiên cứu của Phạm Thắng tỷ lệ THA ở người già tuổi 60 trở lên chiếm 45,6% và độ I: 26,5%, độ II: 12,9%, độ III: 6,2% [45], kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của chúng tôi ở người trên 55 tuổi. Nếu so sánh giữa các nhóm tuổi với phân độ THA, chúng tôi thấy: tuổi càng cao thì độ HA càng tăng, ở nhóm tuổi 45 đến 54 tuổi thì THA độ II chiếm tới 22,1% và độ III 7,4%, nhóm tuổi 55 đến 64 tuổi thì tỷ lệ THA càng cao ở độ II (29,6%) và độ III (16,8%). Còn ở nhóm tuổi dưới 45 tuổi chủ yếu là THA độ I chiếm tới 81,8% đến 85,0%. Như vậy, trong tổng số người THA tại cộng đồng thì có 67,4% độ I; 22,5% ở độ II và 10,1% là độ III. Kết quả của chúng tôi rất khác với các nghiên cứu những bệnh nhân vào bệnh viện điều trị THA như: nghiên cứu của Bùi Thị Hà thì trong số THA thì độ I: 14,3%, độ II: 42,5%, độ III là 43,2% [14]; nghiên cứu của Bùi Quang Kinh: ở người THA đến điều trị tại bệnh viện thì độ I: 34,3%, độ II: 40,3%, độ III là 25,4% [28]. Qua đây chúng ta thấy rằng: với tỷ lệ không nhỏ người dân bị THA đã không được phát hiện để đến bệnh viện điều trị, họ chỉ đến bệnh viện khi bệnh đã nặng, do vậy việc phát hiện sớm và quản lý bệnh nhân THA tại cộng đồng là rất quan trọng, nhằm giảm tỷ lệ tử vong do biến chứng của bệnh THA. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 Bảng 4.4. Tỷ lệ người THA không biết mình bị THA trong một số nghiên cứu C¸c nghiªn cøu Tû lÖ ng•êi THA kh«ng biÕt m×nh bÞ THA NguyÔn ThÞ Loan (1999) [31] 87,2% Ph¹m Gia Kh¶i (2000) [23] 78,5% NguyÔn Thu HiÒn (2007) [18] 75,4% NguyÔn L©n ViÖt (2007) [53] 65,4% Chu Hång Th¾ng (2008) 75,3% Trong nghiên này, đa số người mắc bệnh THA không biết mình bị THA (75,3%). Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Phạm Gia Khải ở địa bàn Hà Nội, số người mắc THA không biết mình bị THA 78,5% [23]. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền tại xã Linh Sơn, Đồng Hỷ, Thái Nguyên thì tỷ lệ này là 75,4% [18]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Loan: không được phát hiện 81,55% [31], tỷ lệ người không biết mình bị THA ở cán bộ thuộc diện tỉnh Lào Cai quản lý 87,17% [43]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt ở xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người dân không biết mình bị THA/tổng số người THA là 65,4% [53]. Đối với các trường hợp THA đã đến bệnh viện điều trị vẫn còn tỷ lệ người không biết mình bị THA/tổng số người THA khá cao(14,9%), như trong nghiên cứu của Trần Đức Thành [47]. Tỷ lệ người dân có điều trị thường xuyên trong số đối tượng biết mình bị THA trong nghiên cứu này (42%) thấp hơn tỷ lệ người không điều trị thường xuyên (58%) trong tổng số đối tượng biết mình bị THA. Nghiên cứu của Trần Đức Thành: tỷ lệ người dân biết mình bị THA nhưng không điều trị 18,4% và điều trị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 thường xuyên cũng chỉ đạt 62,1% [47]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt: tỷ lệ người dân THA có điều trị thường xuyên 119/165 = 72,1% trong tổng số đối tượng biết mình bị THA [53]. Theo nghiên cứu của Phạm Gia Khải, tại địa bàn Hà Nội, tỷ lệ người dân THA được điều trị thường xuyên là 27,09% [23]. Tỷ lệ THA được điều trị thường xuyên ở nhóm đối tượng cán bộ thuộc diện bảo vệ sức khoẻ do tỉnh Lào Cai quản lý là 9,94% [43]. Mặc dù tỷ lệ nhận biết và thái độ điều trị THA đều có chiều hướng cao hơn so với các nghiên cứu trước nhưng dẫu sao sự tuyên truyền giáo dục phòng chống bệnh THA trong cộng đồng theo chúng tôi vẫn chưa đạt yêu cầu. Điều này so sánh với nước ngoài càng thấy rõ tỷ lệ nhận biết bệnh và ý thức điều trị của người bị THA ở nước ta còn rất thấp. Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta đặt ra là phải đẩy mạnh công tác giám sát, tuyên truyền phòng chống bệnh mà nòng cốt là ở tuyến y tế cơ sở. Về tổn thương bệnh lý trên điện tâm đồ ở người THA, chúng tôi thấy tỷ lệ những người có tổn thương thiếu máu cơ tim chiếm 39,9%; tăng gánh thất trái chiếm 3,2%; dày thất trái chiếm 1,7%; block nhánh phải hoàn toàn chiếm 0,9%. KÕt qu¶ nghiªn cøu cña chóng t«i thÊp h¬n kÕt qu¶ nghiªn cøu cña NguyÔn L©n ViÖt: tăng gánh thất trái chiếm 1,9%; dày thất trái chiếm 9,4% [53]. Các nghiên cứu trên bệnh nhân điều trị THA ở bệnh viện thì biến chứng của THA biểu hiện rất cao như: Nghiên cứu ở Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng của Nguyễn Thị Dung tăng gánh thất trái chiếm đến 44,45% trường hợp [9]. Nghiên cứu của Bùi Thị Hà: trong số THA thì rối loạn tái cực do thiếu máu cơ tim 44,2%, dày thất trái 38,5% [14], nghiên cứu của Nguyễn Thị Loan: trong số người THA có tỷ lệ biểu hiện block nhánh phải hoàn toàn là 3,48%, thiếu máu cơ tim là 61,63%, dày thất trái là 37,2% [31] và nghiên cứu của Nguyễn Văn Quýnh: trong số THA có thiếu máu cơ tim: 27,6%, suy thận 20,5%, rối loạn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 lipid máu 40,2%, phì đại thất trái 58,9% [39]. Nghiên cứu của Trần Nguyệt Hồng cho thấy các tổn thương bệnh lý trên điện tâm đồ trên bệnh nhân THA chiếm tỷ lệ thấp như: dày thất trái chiếm tỷ lệ 9,4%, còn thiếu máu cơ tim chỉ chiếm tỷ lệ 4,7% [19]. Theo nghiên cứu của Bùi Quang Kinh: biến chứng THA tại Bệnh viện 4 thì thiếu máu cơ tim 28%, dày thất trái 22,4% [28] và một nghiên cứu ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang thấy dày thất trái 52,8%, block nhánh phải hoàn toàn 7,6% [7], một nghiên cứu ở Rumani thấy thiếu máu cơ tim chiếm tỷ lệ 36,7% trên người THA [64]. Qua đây chúng tôi thấy, ở cộng đồng tỷ lệ THA rất cao nhưng trong đó tỷ lệ ở người THA có tổn thương bệnh lý tim mạch chủ yếu là thiếu máu cơ tim, còn các tổn thương nặng hơn như: tăng gánh thất trái, dày thất trái… chiếm tỷ lệ thấp. Các bệnh nhân THA ở bệnh viện tỷ lệ tổn thương bệnh lý ở tim cao hơn nhiều. Chứng tỏ rằng nhiều người THA, nhưng chưa được phát hiện và điều trị sớm, mà chỉ khi có biến chứng của THA mới đến bệnh viện. Do đó, theo chúng tôi cần có một mô hình can thiệp sớm trong quản lý và điều trị THA ở cộng đồng và nhân rộng ra toàn quốc trong tương lai. 4.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan ở ngƣời THA Xét về một số rối loạn chuyển hoá trong nghiên cứu ở người THA tại xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ, chúng tôi nhận thấy kết quả một số thông số sinh hóa ở người tăng huyết áp như sau: tỷ lệ creatinin máu tăng cao hơn bình thường chiếm 30,77%; protein niệu chiếm 9,70%; cholesterol máu tăng cao hơn bình thường chiếm 7,69%; glucoza máu tăng cao hơn bình thường chiếm 3,68%. So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt: tỷ lệ creatinin máu tăng cao hơn bình thường chiếm 2,4%; cholesterol máu tăng cao hơn bình thường: 24,8% vµ chỉ số glucoza máu tăng cao hơn bình thường chiếm 6,3% [51]. Nghiên cứu của Trần Đức Thành: trong số THA có 16,1% tăng cholesterol [47]. Nghiên cứu của Phạm Thị Kim Lan tại nội thành Hà Nội tỷ lệ tăng glucose máu chung 4,91%, ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 người THA là 9,92%, tỷ lệ tăng cholesterol máu rất cao (77,1%) [30]. Tại nghiên cứu của Đặng Duy Quý: trong số THA có 24,3% tăng lipid máu [38]. Một điều tra ở Nga thấy rằng tăng glucose huyết thanh ở nhóm THA là 6,0% [62]. Với các vùng địa lý khác nhau, cuộc sống sinh hoạt, chế độ dinh dưỡng khác nhau, nên kết quả một số chỉ số sinh hoá ở các địa phương này cũng có sự khác nhau. Nếu ở vùng thành thị như Hà Nội, người dân chủ yếu là cán bộ, công nhân và làm nghề buôn bán, điều kiện kinh tế khá hơn, chế độ ăn nhiều mỡ, nhiều cholesterol, nên tỷ lệ tăng cholesterol máu, glucose máu cao hơn các vùng nông thôn. Riêng với chỉ số creatinin máu, protein niệu, đây là biểu hiện ảnh hưởng đến chức năng thận, tỷ lệ tăng các chỉ số này gặp nhiều ở vùng nông thôn hơn vùng thành thị. Theo chúng tôi nhận thấy, vùng nông thôn phát hiện bệnh muộn, lao động vất vả, ăn uống không điều độ và không có kiến thức phòng các biến chứng ảnh hưởng đến chức năng của thận. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu tại Đắc Lắc của Cao Thị Yến Thanh, trong số THA có 22/83 = 26,5% tăng cholesterol máu [42]. Do hai vùng cũng tương đối tương đồng về nghề nghiệp, lao động và chế độ dinh dưỡng của người dân. Tỷ lệ bất thường các thông số sinh hóa theo độ THA ta thấy cholesterol >5,2 mmol/l chiếm tỷ lệ cao ở người THA độ III: 12,5%; glucose >6,4 mmol/l chiếm tỷ lệ cao ở người THA độ I: 4,6%; creatinin >106 μmol/l chiếm tỷ lệ cao ở người THA độ III: 43,8%; protein niệu ≥ 0,1 g/l cũng chiếm tỷ lệ cao ở người THA độ III: 31,3%. Sự bất thường của các chỉ số cholesterol máu, glucose máu, creatinin máu giữa các độ THA tương đương nhau. Chỉ số protein niệu có sự khác biệt giữa THA độ III và THA độ I, THA độ III nhận thấy có biến chứng thận rõ rệt. Trong các chỉ số thì chỉ số creatinin máu tăng cao nhất trong cả 3 độ THA. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt ở các chỉ số cholesterol máu, glucose máu và cao hơn ở chỉ số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 creatinin máu và protein niệu. Cụ thể: tỷ lệ bất thường cholesterol máu ở độ I là 24,9%; độ II là 20,9%; độ III là 45,8%; glucose máu ở độ I là 6,8%; độ II là 6,0%; độ III là 4,2%; creatinin máu ở độ I là 1,8%; độ II là 2,2%; độ III là 8,3%; protein niệu (+) ở độ I là 4,5%; độ II là 5,3%; độ III là 20,8% [51]. Theo nghiên cứu của Đặng Duy Quý: các bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện cho thấy tăng lipid máu ở người THA độ I: 5,4%, độ II: 10,8%, độ III: 8,1% [38]. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, nguyên nhân có sự khác nhau này chủ yếu là do lối sống sinh hoạt (hoạt động nhiều hay ít) và chế độ dinh dưỡng trong ăn uống. Do đó chúng ta cần có những nghiên cứu sâu hơn để có chiến lược can thiệp phù hợp cho từng vùng, từng địa phương. Qua nghiên cứu này, cholesterol tăng cao hơn bình thường gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 45-54 (69,6%), tiếp đến là nhóm tuổi 55-64 (21,7%); glucose tăng cao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_Y_NK_CHT.pdf
Tài liệu liên quan