Đánh giá tình hình xét nghiệm và theo dõi diễn biến động học của kháng thể kháng photpholipid bao gồm kháng đông lupuss, kháng thể kháng cardiolipin và β2 – Glycoprotein 1 ở một số bệnh nhân sau 12 tuần điều trị tại Viện Huyết học Truyền máu-Trung ương

Tài liệu Đánh giá tình hình xét nghiệm và theo dõi diễn biến động học của kháng thể kháng photpholipid bao gồm kháng đông lupuss, kháng thể kháng cardiolipin và β2 – Glycoprotein 1 ở một số bệnh nhân sau 12 tuần điều trị tại Viện Huyết học Truyền máu-Trung ương: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 424 ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XÉT NGHIỆM VÀ THEO DÕI DIỄN BIẾN ĐỘNG HỌC CỦA KHÁNG THỂ KHÁNG PHOTPHOLIPID BAO GỒM KHÁNG ĐÔNG LUPUS, KHÁNG THỂ KHÁNG CARDIOLIPIN VÀ β2 – GLYCOPROTEIN 1 Ở MỘT SỐ BỆNH NHÂN SAU 12 TUẦN ĐIỀU TRỊ TẠI VIỆN HUYẾT HỌC TRUYỀN MÁU-TRUNG ƯƠNG Vũ Đức Quang*, Trần Thị Kiều My**, Đào Thị Thiết*, Nguyễn Thị Thanh Hương*, Nguyễn Thị Ngọc Quyên*, Bạch Quốc Khánh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Lặp lại các xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid sau 12 tuần là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc trong chẩn đoán hội chứng antiphospholipid. Mục tiêu: Thống kê tình hình thực hiện xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid bao gồm kháng đông Lupus, kháng thể kháng Cardiolipin, kháng thể kháng β2 – Glycoprotein và khảo sát diễn biến động học của kháng thể này ở một số bệnh nhân (BN) sau 12 tuần điều trị tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương. Đối tượng và ...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 113 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình hình xét nghiệm và theo dõi diễn biến động học của kháng thể kháng photpholipid bao gồm kháng đông lupuss, kháng thể kháng cardiolipin và β2 – Glycoprotein 1 ở một số bệnh nhân sau 12 tuần điều trị tại Viện Huyết học Truyền máu-Trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 424 ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XÉT NGHIỆM VÀ THEO DÕI DIỄN BIẾN ĐỘNG HỌC CỦA KHÁNG THỂ KHÁNG PHOTPHOLIPID BAO GỒM KHÁNG ĐÔNG LUPUS, KHÁNG THỂ KHÁNG CARDIOLIPIN VÀ β2 – GLYCOPROTEIN 1 Ở MỘT SỐ BỆNH NHÂN SAU 12 TUẦN ĐIỀU TRỊ TẠI VIỆN HUYẾT HỌC TRUYỀN MÁU-TRUNG ƯƠNG Vũ Đức Quang*, Trần Thị Kiều My**, Đào Thị Thiết*, Nguyễn Thị Thanh Hương*, Nguyễn Thị Ngọc Quyên*, Bạch Quốc Khánh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Lặp lại các xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid sau 12 tuần là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc trong chẩn đoán hội chứng antiphospholipid. Mục tiêu: Thống kê tình hình thực hiện xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid bao gồm kháng đông Lupus, kháng thể kháng Cardiolipin, kháng thể kháng β2 – Glycoprotein và khảo sát diễn biến động học của kháng thể này ở một số bệnh nhân (BN) sau 12 tuần điều trị tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến cứu trên 501 BN được khám và điều trị tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương từ 1/1/2017-30/12/2018, sau đó tiếp tục lựa chọn 48 BN có kháng thể dương tính bất kỳ để theo dõi diễn biến động học của các kháng thể. Kết quả: Số lượng BN được chỉ định tìm các kháng thể LA, aCL và aGPI thấp nhất vào các quý I, quý IV năm 2017 và quý I năm 2018, các quý khác trong 2 năm được chỉ định khá đồng đều. Tuổi trung bình là 39,6. Lứa tuổi 16-30 tuổi và trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (24,8 và 23,4%). Nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (2,2:1). Tỷ lệ BN có kháng thể LA giảm khi xét nghiệm lại sau 12 tuần. Tỷ lệ BN có kháng thể aCL và aGPI không có sự khác biệt ở xét nghiệm lần 1 và lần 2. Giá trị định lượng kháng thể aCL và aGPI giảm sau 12 tuần. Kết luận: Nhóm BN được chỉ định xét nghiệm tìm kháng thể chiếm tỷ lệ cao nhất ở lứa tuổi 16-30 tuổi và trên 60 tuổi, trong đó chiếm đa số là nữ giới. Trong nhóm BN được theo dõi sau 12 tuần, tỷ lệ BN có kháng thể LA giảm khi xét nghiệm lại. Tỷ lệ BN có kháng thể aCL và aGPI không sự khác biệt ở lần xét nghiệm lần 1 và lần 2 tuy nhiên giá trị định lượng kháng thể giảm. Từ khóa: kháng thể kháng phospholipid (aPL), kháng đông lupus (LA), kháng thể kháng cardiolipin (aCL), kháng thể kháng β2 – glycoprotein I (aGPI) ABSTRACT STATISTICS ON THE SITUATION OF CONDUCTING ANTIPHOSPHOLIPID RESISTANCE TESTS INCLUDING LUPUS ANTICOAGULANT, ANTI CARDIOLIPIN, ANTI β2 – GLYCOPROTEIN 1 AND MONITOR THE KINETICS OF ANTIBODIES IN SOME PATIENTS AFTER 12 WEEKS OF TREATMENT AT THE NATIONAL INSTITUTE OF HEMATOLOGY - BLOOD TRANSFUSION Vu Duc Quang, Tran Thi Kieu My, Dao Thi Thiet, Nguyen Thi Thanh Huong, Nguyen Thi Ngoc Quyen, Bach Quoc Khanh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 424 – 429 Backgrounds: A repeat antiphospholipid antibody test after 12 weeks is one of the mandatory criteria for the diagnosis of antiphospholipid syndrome. *Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương **Đại học Y Hà Nội. Tác giả liên lạc: KTV. Vũ Đức Quang ĐT: 0986 501 350 Email: Quangvu.nihbt@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 425 Objectives: Statistics on the situation of conducting anti-phospholipid resistance tests including Lupus anticoagulant, anti Cardiolipin, anti β2 – glycoprotein and monitor the kinetics of antibodies in some patients after 12 weeks of treatment at the National Institute of Hematology - Blood Transfusion. Subjects and Methods: Cross-sectional descriptive retrospective and prospective study of 501 patients who were examined and treated at the National Institute of Hematology - Blood Transfusion from January 1, 2017 to December 30, 2018, continue to select 48 patients with any positive antibodies to monitor the kinetics of antibodies. Results: The number of patients designated for LA, aCL, aGPI test is lowest in the first quarter, the fourth quarter of 2017 and the first quarter of 2018, the other quarters in the 2 years are indicated quite equally. The proportion of patients with LA antibodies decreased when the test again after 12 weeks. The proportion of patients with aCL and aGPI antibodies did not change much in the first and second test. After 12 weeks, aCL and aGPI antibodies quantitative value decreased. Conlusion: The group of patients designated for antibody testing accounted for the highest proportion in the age group of 16-30 years old and over 60 years old, of which the majority were female. In the follow-up group of patients after 12 weeks, the proportion of patients with LA antibodies decreased when retested. The rate of patients with aCL and aGPI antibodies did not differ at the first and second test but the antibody quantitative value decreased. Key words: anti phospholipid antibody (aPL), lupus anticoagulant (LA), anti cardiolipin (aCL), anti β2 – glycoprotein I (aGPI) ĐẶT VẤN ĐỀ Bên cạnh hội chứng APS, một vài loại kháng thể kháng phospholipid như kháng đông lupus, kháng thể kháng cardiolipin, kháng thể kháng β2 – glycoprotein có thể gặp trong các bệnh lý tự miễn, nhiễm trùng, ung thư Để khẳng định BN mắc hội chứng APS, ngoài tiêu chuẩn lâm sàng thì BN phải có kết quả xét nghiệm dương tính với kháng thể kháng phospholipid trong 2 lần liên tiếp cách nhau 12 tuần(3,5). Tại Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương, các xét nghiệm phát hiện chất kháng đông lupus (LA), kháng thể kháng β2 - glycoprotein, kháng thể kháng cardiolipin đang được thực hiện thường quy với các BN có nghi ngờ kháng thể kháng phospholipid lưu hành. Tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá động học của kháng thể kháng phospholipid trong các bệnh lý liên quan đến huyết học. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: “Thống kê tình hình thực hiện xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid bao gồm kháng đông lupus, kháng thể kháng cardiolipin, kháng thể kháng β2 – glycoprotein và khảo sát diễn biến động học của kháng thể này ở một số bệnh nhân (BN) sau 12 tuần điều trị tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương”. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 501 BN đươc chỉ định lần đầu tìm kháng thể kháng phospholipid tại Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương từ 01/01/2017- 30/12/2018. Sau đó tiếp tục lựa chọn 48 BN bất kỳ để theo dõi diễn biến động học của kháng thể. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến cứu. Nội dung nghiên cứu Thu thập mẫu bệnh phẩm từ các khoa lâm sàng. Thực hiện các xét nghiệm LA, kháng thể kháng β2glycoprotein, kháng thể kháng cardiolipin. Làm lại xét nghiệm sau 12 tuần ở một số BN. Phân tích và xử lý số liệu Tình hình xét nghiệm kháng thể kháng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 426 phospholipid: tình hình chỉ định xét nghiệm, đặc điểm về tuổi, giới. Theo dõi động học của kháng thể kháng phospholipid sau 12 tuần. Xử lý số liệu nghiên cứu Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 và Excel 2010. KẾT QUẢ Tình hình chỉ định xét nghiệm các loại kháng thể kháng phospholipid trong nghiên cứu và đặc điểm chung của nhóm BN Tình hình chỉ định xét nghiệm cấc loại kháng thể kháng phospholipid giai đoạn 2017-2018 Số lượng xét nghiệm các loại kháng thể kháng phospholipid trong nghiên cứu được chỉ định thấp nhất vào quý I, quý IV năm 2017 và quý I năm 2018. Các quý khác trong năm 2017 và 2018, số lượng chỉ định xét nghiệm là tương đương nhau (Hình 1). Đặc điểm về tuổi Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 39,6±22,8. Tuổi nhỏ nhất là 1 tuổi, cao nhất là 90 tuổi. Phân bố về độ tuổi nhóm BN nghiên cứu được minh họa trên Hình 2. Xét nghiệm phát hiện các loại kháng thể kháng phospholipid được chỉ định ở mọi lứa tuổi với tỷ lệ tương đối đồng đều. Cao nhất là nhóm tuổi 16 - 30 tuổi (24,8%) và nhóm tuổi >60 tuổi (23,4%). Thấp nhất ở nhóm bệnh nhi (1 - 15 tuổi), chiếm 15,6%. Hình 1. Tình hình chỉ định xét nghiệm các loại kháng thể Hình 2. Đặc điểm về tuổi nhóm BN nghiên cứu (n=501) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 427 Đặc điểm về giới Tỷ lệ BN nữ cao hơn BN nam trong nghiên cứu. Tỷ lệ nam: nữ là 2,2:1. Khảo sát động học các loại kháng thể kháng phospholipid bao gồm LA, aCL, aGPI: Trong số 501 BN được chỉ định xét nghiệm tìm kháng thể LA, aCL, aGPI lần đầu, có 200 BN phát hiện dương tính với ít nhất 1 trong 3 loại kháng thể kháng phospholipid (40%). Trong số này có 48 BN được chỉ định lại xét nghiệm sau 12 tuần. Theo dõi diễn biến động học các loại kháng thể LA, aGPI, aCL, chúng tôi thu được những kết quả sau: Hình 3. Tỷ lệ nam/nữ nhóm BN nghiên cứu (n=501) Diễn biến kháng thể LA sau 12 tuần Bảng 1. Diễn biến kháng thể LA sau 12 tuần (n=48) Xét nghiệm lần 1 % Xét nghiệm lần 2 % p LA (+) 78,3 60,9 p<0,05 LA (-) 13 34,8 p<0,05 LA (±) 8,7 4,3 p>0,05 Trong số 48 BN được chỉ định lại xét nghiệm kháng thể LA, tỷ lệ % BN dương tính với LA giảm sau 12 tuần với p <0,05 (Bảng 1). Diễn biến kháng thể aCL sau 12 tuần Bảng 2. Diễn biến kháng thể aCL sau 12 tuần (n=48) Xét nghiệm lần 1 % Xét nghiệm lần 2 % p aCL IgM (+) 30,4 26,1 p>0,05 aCL IgM (-) 69,6 73,9 p>0,05 aCL IgG (+) 47,8 39,1 p>0,05 aCL IgG (-) 52,2 60,9 p>0,05 Tỷ lệ BN có kháng thể aCL IgM/IgG giảm hơn sau 12 tuần, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05 (Bảng 2). Diễn biến kháng thể aGPI sau 12 tuần Tỷ lệ BN có kháng thể aGPI IgM/IgG giảm nhẹ sau 12 tuần, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05 (Bảng 3). Bảng 3. Diễn biến kháng thể aGPI sau 12 tuần (n=48) Xét nghiệm lần 1 % Xét nghiệm lần 2 % p aGPI IgM (+) 30,4 21,7 p>0,05 aGPI IgM (-) 69,6 78,3 p>0,05 aGPI IgG (+) 60,9 52,2 p>0,05 aGPI IgG (-) 39,1 47,8 p>0,05 So sánh giá trị trung bình kháng thể aCL và aGPI sau 12 tuần Bảng 4. So sánh giá trị trung bình kháng thể aCL và aGPI sau 12 tuần (n=48) Xét nghiệm lần 1 Xét nghiệm lần 2 p aCL IgM 28,1 ± 57,7 17,7 ± 33,5 p<0,05 aCL IgG 346 ± 808 101 ± 222 p<0,05 aGPI IgM 996 ± 1855 608 ± 1185 p<0,05 aGPI IgG 21,8 ± 43,3 13,1 ±25,2 p<0,05 Sau khi điều trị 12 tuần, chỉ số định lượng của các chỉ số đều giảm đáng kể, đặc biệt là ở chỉ số aCL IgG và aGPI IgM (Bảng 4). BÀN LUẬN Tình hình chỉ định xét nghiệm và đặc điểm chung của nhóm BN nghiên cứu Tình hình chỉ định xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid Qua 2 năm từ 1/2017 – 12/2018, đã có một số lượng lớn BN được chỉ định xét nghiệm tìm các loại kháng thể LA, aGPI, aCL (501 BN). Số lượng xét nghiệm được chỉ định là tương đối đồng đều ở các quý, chỉ thấp nhất ở quý I, quý IV năm 2017 và quá I năm 2018 (Hình 1). Đặc điểm về tuổi Theo kết quả của Hình 2, phân bố về độ tuổi của nhóm BN nghiên cứu nhận thấy: BN được chỉ định kháng thể kháng phospholipid có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên lứa tuổi thường gặp nhất là từ 16 đến 30 tuổi và trên 60 tuổi. Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 39,6 tuổi. Theo nghiên cứu của tác giả Garcia và cộng sự về dịch tễ học hội chứng APS, tuổi trung bình của các BN mắc APS là 54,2 tuổi. Tuổi thường gặp nhất là 18-60 tuổi, hiếm gặp BN trên 75 tuổi(4). Nghiên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 428 cứu của tác giả Hoàng Thị Thuý Hà tại bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh chủ yếu gặp ở lứa tuổi trẻ từ 30-40 tuổi, hiếm gặp ở trẻ em và tuổi trên 60(3). Như vậy có thể thấy, các nghiên cứu khác nhau có thể cho kết quả khác nhau về độ tuổi. Khác biệt này có lẽ do sự khác nhau ở đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu của chúng tôi gặp BN ở nhiều lứa tuổi có thể là do nghiên cứu trên các BN được chỉ định xét nghiệm tìm kháng thể kháng phospholipid. Các BN có các biểu hiện lâm sàng hay xét nghiệm nghi ngờ mắc APS đều được các bác sỹ chỉ định xét nghiệm tìm các loại kháng thể nhằm chẩn đoán hay loại trừ bệnh. Theo một số y văn, kháng thể kháng phospholipid cũng có thể xuất hiện ở 5% người khoẻ mạnh hoặc ở những BN bị bệnh lý nhiễm trùng, suy chức năng cơ quan nên có thể xuất hiện kháng thể ở cả người cao tuổi và trẻ nhỏ(1). Đặc điểm về giới Đặc điểm về giới tính nhóm BN nghiên cứu được thể hiện trên Hình 3. Theo đó, giới tính nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam với tỷ lệ nữ:nam là 2,2:1. Nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác cho rằng, giới nữ có nguy cơ mắc APS hơn giới nam, đặc biệt với các nghiên cứu về APS liên quan đến các bệnh lý tự miễn(4). Theo dõi động học kháng thể ở một số BN sau 12 tuần, 48 BN được theo dõi xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid sau 12 tuần. Sự thay đổi của từng loại kháng thể được đánh giá sau: Sau 12 tuần, sự thay đổi tỷ lệ BN có kháng thể LA được thống kê trên Bảng 1. Kết quả cho thấy, tỷ lệ BN có kháng thể LA giảm ở lần xét nghiệm thứ 2 so với lần 1 (từ 78,3% xuống còn 60,9%). Theo tiêu chuẩn chẩn đoán APS, sự xuất hiện kháng thể kháng phospholipid chỉ thực sự có ý nghĩa khi kháng thể đó dương tính ít nhất 2 lần cách nhau 12 tuần. Xét nghiệm kháng thể LA có thể có biểu hiện dương tính giả hoặc cũng có thể tồn tại thoáng qua ở một người bình thường khỏe mạnh. Kết quả của giảm tỷ lệ xuất hiện kháng thể kháng phospholipid cũng có thể liên quan đến vấn đề điều trị (sử dụng thuốc ức chế miễn dịch)(2). Tỷ lệ BN có kháng thể aCL gần như không thay đổi ở lần xét nghiệm thứ 1 và xét nghiệm lần 2. Tỷ lệ BN có các kháng thể aCL và aGPI IgM/IgG đều giảm nhẹ nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, theo kết quả bảng 4, mặc dù các kháng thể aCL và aGPI vẫn tồn tại dai dẳng, nhưng giá trị định lượng của các chỉ số kháng thể đều giảm đáng kể có ý nghĩa thống kê. Theo nghiên cứu của tác giả Lê Thị Anh Đào trên đối tượng sảy thai liên tiếp liên quan đến APS, tỷ lệ kháng thể aCL IgM/IgG giảm đi sau điều trị nhưng không giảm mạnh bằng kết quả xét nghiệm kháng thể LA. Điều đó chứng tỏ, sự xuất hiện của kháng thể aCL và aGPI dai dẳng và đặc hiệu hơn so với sự xuất hiện của kháng thể LA. Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu đánh giá động học của một số BN được theo dõi bằng xét nghiệm kháng thể LA, aCL, aGPI tuy nhiên số lượng BN còn ít và thời gian còn ngắn nên kết quả còn nhiều hạn chế. Chúng tôi hy vọng có thể tiếp tục tiến hành nghiên cứu theo dõi động học xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid trên số lượng BN lớn hơn với nhiều loại kháng thể hơn. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu kết quả xét nghiệm của một số BN khám và điều trị tại Viện từ 1/2017- 12/2018, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Tình hình chỉ định xét nghiệm và đặc điểm chung của nhóm BN nghiên cứu: Qua 2 năm 2017-2018, số lượng BN được chỉ định tìm kháng thể LA, aCL, aGPI là 501 BN, được chỉ định khá đồng đều ở các quý. Tuổi trung bình là 39,6. Lứa tuổi 16-30 tuổi và trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (24,8 và 23,4%). Nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (2,2:1). Diễn biến động học các kháng thể sau 12 tuần: 48 BN được theo dõi động học kháng thể, nhận thấy: Tỷ lệ BN có kháng thể LA giảm sau 12 tuần. Tỷ lệ BN có kháng thể aCL và aGPI không có sự Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 429 khác biệt ở lần xét nghiệm lần 1 và lần 2. Giá trị định lượng các kháng thể aCL, aGPI giảm có ý nghĩa thống kê sau 12 tuần. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alving BM, Barr CF (1990). Correlation between lupus anticoagulants and anticardiolipin antibodies in patients with prolonged activated partial thromboplastin times. Am J Med, 88:112–116. 2. Dunn AS, Kaboli P, Halfdanarson T, et al (2005). Do patients followed in anticoagulation clinics for antiphospholipid syndrome meet criteria for the disorder? Thromb Haemost, 94(3):548–54. 3. Hoàng Thị Thuý Hà (2014). Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng kháng phospholipid tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(S2):107-111. 4. Lê Thị Phương Lan, Hoàng Minh Phương, Đỗ Thanh Dung, Phùng Thị Hoa (2010). Sẩy thai liên tiếp và Hội chứng Antiphospholipid. Nội san Y học Sinh sản, 15:11. 5. Ortel TL (2012). Antiphospholipid Syndrome Laboratory Testing and Diagnostic Strategies. Am J Hematol, 87(S1):S75–S81. Ngày nhận bài báo: 18/07/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/07/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_tinh_hinh_xet_nghiem_va_theo_doi_dien_bien_dong_hoc.pdf
Tài liệu liên quan