Tài liệu Lao phổi và dò hậu môn nhân 15 trường hợp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
LAO PHỔI VÀ DÒ HẬU MÔN NHÂN 15 TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Thị Đoan Trang*
TÓM TẮT
Từ 09/2003 đến 09/2004, có 15 bệnh nhân lao phổi và dò hậu môn, mà điều trị không thành công với
ngoại khoa, được chẩn đoán và điều trị lao tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM. Có 12 bệnh nhân nam
và 3 nữ. Tuổi trung bình là 41 (giới hạn từ 23 đến 65 tuổi). 66,67% dò hậu môn do lao có thời gian khởi
bệnh ngắn dưới 6 tháng. 100% trường hợp dò hậu môn do lao cảm thấy khó chịu, đau vùng hậu môn, lỗ
dò chảy nước vàng hoặc chảy mủ và rất ngứa. 12/15 trường hợp (80%) dò hậu môn đơn giản, thường ở vị
trí từ 3 – 6 giờ, và chỉ có một lỗ dò ngoài cạnh hậu môn. 15 trường hợp đều có tổn thương trên X-quang
phổi và 4 trường hợp tạo hang (chủ yếu nằm ở thùy trên phổi). 5/15 trường hợp (33,33%) tìm thấy vi
...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lao phổi và dò hậu môn nhân 15 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
LAO PHỔI VÀ DÒ HẬU MÔN NHÂN 15 TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Thị Đoan Trang*
TÓM TẮT
Từ 09/2003 đến 09/2004, có 15 bệnh nhân lao phổi và dò hậu môn, mà điều trị không thành công với
ngoại khoa, được chẩn đoán và điều trị lao tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM. Có 12 bệnh nhân nam
và 3 nữ. Tuổi trung bình là 41 (giới hạn từ 23 đến 65 tuổi). 66,67% dò hậu môn do lao có thời gian khởi
bệnh ngắn dưới 6 tháng. 100% trường hợp dò hậu môn do lao cảm thấy khó chịu, đau vùng hậu môn, lỗ
dò chảy nước vàng hoặc chảy mủ và rất ngứa. 12/15 trường hợp (80%) dò hậu môn đơn giản, thường ở vị
trí từ 3 – 6 giờ, và chỉ có một lỗ dò ngoài cạnh hậu môn. 15 trường hợp đều có tổn thương trên X-quang
phổi và 4 trường hợp tạo hang (chủ yếu nằm ở thùy trên phổi). 5/15 trường hợp (33,33%) tìm thấy vi
trùng lao trong đàm. 12/15 trường hợp (80%) có phản ứng lao tố dương tính (Mantoux test > 10mm).
Không có trường hợp nào được chẩn đoán bằng mô giải phẫu bệnh lý lấy từ mẫu sinh thiết tại lỗ dò hậu
môn. Sau 6 tháng điều trị thuốc kháng lao, 15 trường hợp lành lỗ dò và tổn thương trên X-quang phổi.
SUMMARY
PULMONARY TB AND ANORECTAL FISTULA. 15 REPORTED CASES
Nguyen Thi Doan Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 217 - 223
From 09/2003 to 09/2004, 15 outpatients with pulmonary TB and anorectal fistula, who had been
treated unsuccessfully by previous surgery, were diagnosed and treated with anti-tuberculous drugs at
University Medical Center. There were 12 male and 3 female patients. The average age was 41 (range,
23 to 65). 66,67% of cases of the incident time were short under 6 months. All cases were uncomfortable,
anorectal swelling and pain, persistent drainage fistula. 12/15 cases (80%) were simple fistula, which
were located at 3 – 6 hour position, and only had one external hole beside anus. 15 cases had pulmonary
lesions (4 cases with cavity), especially in upper lobe. 5/15 cases were detected AFB in spertum. 12/15
cases were positive tuberculin skin test. No cases were identified by pathology from the excisional biopsy
material. After 6 months of medical treatment, all of 15 patients had been successfully recovered
pulmonary as well as anorectal fistula.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dò hậu môn là một tình trạng viêm mạn tính, và
gây nung mủ tạo áp xe hậu môn trực tràng đưa đến
thoát mủ tại chỗ tạo lỗ dò kéo dài có thể nhiều tháng
hoặc nhiều năm. Bệnh không gây nguy hiểm chết
người, nhưng nhiều phiền phức cho bệnh nhân trong
sinh hoạt, trong cuộc sống và ảnh hưởng không ít
đến năng suất lao động(1,2,5,6,7,8,10,12).
Dò hậu môn là bệnh lý rất thường gặp ở vùng
hậu môn, đứng hàng thứ hai sau bệnh trĩ. Trong 10
năm, từ 1978 đến 1987, tại bệnh viện Việt Đức, Hà
nội có 258 trường hợp (trung bình có 26 trường hợp
mổi năm). Từ 2/1988 đến 8/1990, bệnh viện 115
TPHCM có 123 trường hợp (49 trường hợp mổi năm).
Từ 1/7/1997 đến 31/12/2001, bệnh viện Đại học Y
Dược TPHCM có 378 trường hợp (84 trường hợp mổi
năm)(1).
Các nguyên nhân gây dò hậu môn thường gặp:
nhiễm vi khuẩn đường ruột như Escherichia Coli, tụ
cầu khuẩn, liên cầu trùng, bệnh Crohn... còn có một
nguyên nhân nữa là do vi trùng lao. Dò hậu môn do
vi trùng lao được chẩn đoán không căn cứ vào các
triệu chứng lâm sàng và sự hiện diện của vi trùng lao
ở thương tổn mà xác định chủ yếu bằng giải phẫu
bệnh lý có hình thái nang lao và hoại tử bã đậu của
* Bộ Môn Lao và Bệnh Phổi – Đại Học Y Dược TpHCM
Lao 217
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
mô tổn thương(1,2,5,6,7,8). Theo y văn, Soullard J(10), dò
hậu môn do lao chiếm khoảng 0,6 – 8%; Jan
Rakinic(8), tỉ lệ này cũng thấp dưới 10%. Tại Việt
nam, theo nghiên cứu của Nguyễn Bá Sơn(2), tỉ lệ này
khá cao khoảng 33%.
Qua tham khảo tài liệu y văn thế giới cũng như
tại Việt nam, bệnh phối hợp lao phổi và dò hậu môn
chưa được quan tâm nghiên cứu chẩn đoán và điều
trị. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi dịch nhiễm
HIV/AIDS lan tràn, bệnh lao bùng phát, chủ yếu là
biểu hiện lao ngoài phổi, trong đó có dò hậu môn do
lao. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mô tả các
biểu hiện lâm sàng, xác định chẩn đoán cũng như
điều trị bệnh lý phối hợp lao phổi và dò hậu môn.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán dò hậu
môn và có tổn thương lao phổi đều được đưa vào
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Những trường hợp lao phổi và dò hậu môn có
biểu hiện các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
như sau:
Lâm sàng
• Đau tức vùng hậu môn tăng dần
• Lỗ dò cạnh hậu môn, chảy nước vàng, chảy mủ
• Đã được chẩn đoán và điều trị dò hậu môn tại
khoa ngoại trước đó
• Khám phát hiện có nhọt hoặc lỗ dò cạnh hậu
môn, có thể có chảy nước vàng hoặc mủ.
• Triệu chứng nhiễm lao chung (sốt về chiều, sụt
cân, mệt mỏi, đổ mồ hôi về đêm).
• Triệu chứng về hô hấp như ho khan, hoặc ho
khạc đàm trắng đôi khi ho ra máu, đau ngực,
khó thở... nghe phổi có thể có ran nổ.
Cân lâm sàng
• Siêu âm hậu môn trực tràng, xác định lỗ dò
trong và đường đi của dò hậu môn.
• X-quang phổi thẳng: có hình ảnh tổn thương lao
như nốt thâm nhiễm, hang lao vùng đỉnh phổi,
một bên hay hai bên
• AFB đàm có thể dương tính hoặc không
• IDR dương tính hoặc không
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Loại hình nghiên cứu:
Nghiên cứu cắt ngang
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9/2003 đến 9/2004 tại bệnh viện ĐHYD
TPHCM.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành chọn bệnh nhân theo tiêu
chuẩn trên. Bệnh nhân sẽ được giải thích rõ, khám
bệnh, và làm một số xét nghiệm cần thiết (xét
nghiệm máu, X-quang phổi, AFB trong đàm, phản
ứng lao tố, siêu âm vùng hậu môn...), và được chẩn
đoán, điều trị lao theo phác đồ chương trình chống
lao của tổ chức Y tế thế giới.
Thống kê và xử lý số liệu
Dùng phần mềm EXCEL 2000 để nhập, và xử lý
số liệu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 09/2003 đến
09/2004, có 15 trường hợp lao phổi và dò hậu môn
được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Đại học Y
Dược TPHCM.
Trong đó, có 12 bệnh nhân nam (80%) và 3 bệnh
nhân nữ (20%).
Tuổi trung bình là 41 tuổi; tuổi nhỏ nhất là 23, và
tuổi lớn nhất là 65 tuổi.
7/15 trường hợp cư ngụ tại TPHCM, 8/15 trường
hợp cư ngụ ở tỉnh khác.
5/15 trường hợp (33,33%) không hút thuốc lá;
10/15 trường hợp (66,67%) hút thuốc lá trung bình
12,67 gói/năm.
1 trường hợp (6,67%) đang điều trị lao được 2
tháng và 1 trường hợp (6,67%) đang điều trị bệnh
tiểu đường.
Chuyên đề Nội Khoa 218
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Tất cả 15 trường hợp (100%) đến khám và điều
trị ngoại khoa trước đó ít nhất một lần. Trong đó, có:
• 7 trường hợp (46,67%) được rạch mổ dò hậu
môn 1 lần,
• 5 trường hợp (33,33%) được rạch mổ dò hậu
môn 2 lần,
• 2 trường hợp (13,33%) được rạch mổ dò hậu
môn 3 lần,
• 1 trường hợp (6,67%) được rạch mổ dò hậu môn
4 lần.
Mặt khác, chúng tôi ghi nhận có 2 trường hợp
khác dán thuốc cao tại mụn nhọt hoặc lỗ dò trước khi
đến khám ngoại để được rạch mổ lỗ dò.
Tất cả 15 trường hợp (100%) đến khám vì mụn
nhọt, lỗ dò, chảy nước vàng hoặc mủ và ngứa vùng
hậu môn.
Bảng 1: Thời gian khởi bệnh:
Thời gian khởi bệnh Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
Dưới 1 tháng 2 13,33%
1 – 3 tháng 6 40%
4 – 6 tháng 2 13,33%
7 – 12 tháng 4 26,67%
Trên 12 tháng 1 6,67%
Có 1 trường hợp có thời gian khởi bệnh trên 10
năm, đã mổ dò hậu môn tại một bệnh viện tỉnh. 4
năm nay dò hậu môn trở lại và cũng đã đi khám, điều
trị ngoại khoa nhiều lần.
* Đặc điểm triệu chứng lâm sàng:
100% trường hợp bệnh nhân đến khám lần này
đều có biểu hiện khó chịu, đau nhức vùng hậu môn,
chảy nước vàng hoặc mủ ở lỗ dò cạnh hậu môn, và
rất ngứa.
9/15 trường hợp (60%) có biểu hiện sốt ớn lạnh
về chiều
5/15 trường hợp (33,33%) có biểu hiện ăn kém,
sụt cân
14/15 trường hợp (93,33%) có biểu hiện ho khan
từng cơn.
Bảng 2: Số lượng lỗ dò ngoài cạnh hậu môn
Số lượng lỗ dò ngoài Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
1 lỗ dò ngoài 12 80%
2 lỗ dò ngoài 3 20%
Bảng 3: Vị trí lỗ dò ngoài cạnh hậu môn tính theo
múi giờ(với tư thế khám nằm ngữa)
Vị trí lỗ dò ngoài Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
Từ 0 đến 3 giờ 1 6,67%
Từ 3 đến 6 giờ 10 66,67%
Từ 6 đến 9 giờ 1 6,67%
Từ 9 đến 12 giờ 0 0%
Vị trí 3 giờ và 9 giờ 3 20%
Bảng 4: Vị trí lỗ dò ngoài cạnh hậu môn so với đường
ngang (với tư thế khám nằm ngữa)
Vị trí lỗ dò ngoài Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
Trước đường ngang 1 6,67%
Sau đường ngang 11 73,33%
Nằm trên đường ngang 3 20%
* Lấy đường thẳng ngang qua hậu môn làm chuẩn
Bảng 5: Vị trí lỗ dò ngoài cạnh hậu môn so với đường
dọc (với tư thế khám nằm ngữa)
Vị trí lỗ dò ngoài Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
Bên phải 1 6,67%
Bên trái 11 73,33%
Hai bên 3 20%
* Lấy đường thẳng dọc qua hậu môn làm chuẩn
* Đặc điểm triệu chứng cận lâm sàng:
Bảng 6: Hình thái lỗ dò hậu môn qua siêu âm hậu
môn trực tràng
Hình thái lỗ dò hậu môn Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
Đơn giản 12 80%
Phức tạp 3 20%
8/15 trường hợp (53,33%) có vị trí lỗ dò trong
nằm ở 6 giờ chiếm tỉ lệ nhiều nhất.
Loại đường dò hậu môn xuyên cơ thắt là 11/15
trường hợp (73,33%)
Loại đường dò hậu môn ngoài cơ thắt là 4/15
trường hợp (26,67%)
Lao 219
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
Bảng 7: Đặc điểm hình ảnh tổn thương trên X-quang
phổi
Hình ảnh tổn thương trên X-quang
phổi
Số trường
hợp
Tỉ lệ (%)
Bên trái 6 40%
Bên phải 6 40%
Thâm nhiễm
(n=15)
Hai bên 3 20%
Bên trái 2 13,33%
Bên phải 1 6,67%
Hình hang
(n=4)
Hai bên 1 6,67%
Bảng 8: Xét nghiệm tìm vi trùng lao trong đàm
Vi trùng lao trong đàm Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
Dương tính 5 33,33%
Aâm tính 10 76,67%
Bảng 9: Phản ứng lao tố trong da
Phản ứng lao tố trong da Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
< 10 mm 3 20%
10 – 15 mm 7 46,67%
> 15 mm 5 33,33%
Có 1 trường hợp dương tính rất mạnh IDR = 32
mm.
Bảng 10: Số lượng bạch cầu
Số lượng bạch cầu Số trường hợp (n = 15) Tỉ lệ (%)
< 10.000/mm3 9 60%
10.000 – 15.000/ mm3 5 33,33%
> 15.000/mm3 1 6,67%
Bảng 10: Tốc độ lắng máu trung bình
Tốc độ lắng máu Giá trị trung bình
Giờ thứ nhất 35,8 mm
Giờ thứ hai 59,47 mm
* Hiệu quả điều trị với phác đồ chống
lao: tất cả 15 trường hợp đều đáp ứng tốt với thuốc
kháng lao, cải thiện triệu chứng lâm sàng (hết đau
nhức, hết chảy nước vàng, và hết ngứa), và cận lâm
sàng (tổn thương trên X-quang cải thiện tốt, BK/đàm
âm tính, Bạch cầu trở về bình thường).
Bảng 11: Thời gian dò hậu môn hết chảy nước vàng
Thời gian dò hậu môn lành Số trường hợp (n=15) Tỉ lệ (%)
Dưới 2 tuần 2 13,33%
Dưới 1 tháng 8 53,33%
Dưới 2 tháng 4 26,67%
Dưới 3 tháng 1 6,67%
BÀN LUẬN
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 09/2003 đến
09/2004, có 15 trường hợp lao phổi và dò hậu môn
được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Đại học Y
Dược TPHCM. Theo nghiên cứu của Nguyễn Bá
Sơn(2), trong 2,5 năm có 37/109 trường hợp dò hậu
môn do lao (33,9%), nhưng chỉ có 13 trường hợp có
lao phổi phối hợp. Theo Shukla H. S. et al(9), trong số
19/122 trường hợp (15,6%) được chẩn đoán dò hậu
môn do lao, thì chỉ có 3 trường hợp có bệnh lao phổi
phối hợp. Như vậy, tỉ lệ lao phổi và dò hậu môn do lao
trong nghiên cứu của chúng tôi và Nguyễn Bá Sơn(2)
chiếm tỉ lệ cao hơn các nghiên cứu khác, có thể là do
Việt nam vẫn còn đang trong vùng có tần suất lưu
hành nhiễm lao cao.
Về dịch tễ học
Trong 15 trường hợp lao phổi và dò hậu môn,
nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ giới (12 trường hợp
so với 3 trường hợp) và tỉ lệ mắc bệnh của nam:nữ là
4:1. Qua tham khảo tài liệu chúng tôi chưa ghi nhận
một báo cáo nào về tỉ lệ mắc bệnh lao phổi và dò hậu
môn giữa nam và nữ. Nhưng khi so sánh với tỉ lệ mắc
bệnh của dò hậu môn nói chung thỉ tỉ lệ mắc bệnh
của chúng tôi cũng phù hợp với nhiều nghiên
cứu(2,4,5,6,7,8) từ 1,5:1 đến 4,7:1. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Bá Sơn(2), tỉ lệ mắc bệnh của nam và nữ là
4,35:1; Held D. et al(4), tỉ lệ mắc bệnh ở nam gặp
nhiều hơn nữ.
Các bệnh nhân có tuổi trung bình là 41 (giới hạn
từ 23 – 65 tuổi), lứa tuổi này cũng phù hợp với nhiều
nghiên cứu dò hậu môn khác như Nguyễn Bá Sơn(1),
tuổi trung bình là 33 (giới hạn từ 16 – 70 tuổi); Trịnh
Hồng Sơn(3), lứa tuổi thường gặp từ 28 – 59 tuổi;
Schroeder S. A. et al(5), ghi nhận lứa tuổi thường gặp
từ 30 – 50 tuổi.
Tất cả 15 trường hợp (100%) trước đó đã đến
khám và điều trị ngoại khoa ít nhất một lần. Các
trường hợp dò hậu môn này là bệnh nhân của khoa
ngoại đến khám lao và bệnh phổi vì tái phát nhiều lần
sau khi đã mổ rạch lỗ dò nhiều lần nhưng không đạt
kết quả, hoặc phát hiện có tổn thương trên X-quang
phổi. Điều này có thể được giải thích là do các bệnh
nhân này không được chẩn đoán một cách chính xác
nguyên nhân của dò hậu môn này, mà thực chất là
Chuyên đề Nội Khoa 220
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
do vi trùng lao gây nên trong bệnh cảnh phối hợp lao
phổi và dò hậu môn. Vì thế mà 14/15 trường hợp này
không được điều trị thuốc kháng lao nên dò hậu môn
cứ tái phát nhiều lần. Điều lý giải của chúng tôi cũng
phù hợp với y văn(1,2,5,6,7,8,10). Chỉ có một trường hợp
đang điều trị lao được hai tháng tại tổ chống lao địa
phương thì phát hiện dò hậu môn nhưng bệnh nhân
lại đến khám ngoại khoa và được rạch lỗ dò hậu môn,
sau đó mới chuyển bệnh nhân đến khám và điều trị
lao tiếp. Mặt khác, chúng tôi ghi nhận có 1 trường
hợp lao phổi và dò hậu môn đang điều trị bệnh lý tiểu
đường từ nhiều năm nay. Đây cũng là một trường
hợp cần quan tâm theo dõi mức đường huyết phải ổn
định trong suốt quá trình điều trị lao vì đường huyết
trong máu tăng cũng sẽ gây thất bại trong điều trị lao.
Đa số bệnh nhân có thời gian khởi bệnh ngắn
dưới 3 tháng (8/15 trường hợp, 53,33%), và chỉ có
1/15 trường hợp (6,67%) có thời gian khởi bệnh trên
1 năm. Đây là một bệnh nhân nam phát hiện và được
rạch mổ dò hậu môn cách đây trên 10 năm tại một
bệnh viện tỉnh, và lỗ dò hậâu môn lành. Nhưng trong
vòng 4 năm nay, lỗ dò hậu môn chảy nước vàng trở
lại, cũng đã nhiều lần đến khám ngoại khoa. Nhận
định của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Bá Sơn(2), đa số bệnh nhân dò hậu môn do
lao có thời gian khởi bệnh ngắn, thời gian mắc bệnh
trung bình của dò hậu môn do lao là 8,6 ± 5,5 tháng,
rất ít bệnh nhân dò hậu môn do lao có thời gian mắc
bệnh kéo dài trên một năm.
Về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
của lao phổi và dò hậu môn
15 trường hợp bệnh nhân đến khám đều có biểu
hiện khó chịu, đau nhức vùng hậu môn, chảy nước
vàng hoặc mủ liên tục ở lỗ dò cạnh hậu môn, và rất
ngứa. Các triệu chứng này đã ảnh hưởng xấu đến
cuộc sống sinh hoạt bình thường và giảm năng suất
lao động của bệnh nhân, gây mặc cảm về tâm
lý...Khám các lỗ dò ở ngoài hậu môn, chúng tôi ghi
nhận sang thương da xung quanh lỗ dò có màu tím,
thâm nhiễm cứng và tiết nhiều dịch vàng hoặc mủ.
Các đặc điểm triệu chứng lâm sàng về dò hậu môn do
lao trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
như mô tả của trong y văn(1,2,5,6,8).
Đa số trường hợp có 1 lỗ dò ngoài hậu môn
(80%). Số trường hợp có 2 lỗ dò ngoài không nhiều
(20%) là các bệnh nhân có những đường dò phức tạp,
bệnh diễn tiến kéo dài và điều trị phẫu thuật gặp
nhiều khó khăn. Nguyễn Bá Sơn(2), ghi nhận 2/3 số
bệnh nhân có 1 lỗ dò ngoài hậu môn và số bệnh
nhân có từ 2 lỗ dò trở lên không nhiều. Nhận định
này cũng phù hợp với các tác giả khác trong y
văn(1,4,5,6,7,8,10).
Vị trí lỗ dò ngoài hậu môn tính theo múi giờ (với
tư thế bệnh nhân lúc khám nằm ngữa) gặp nhiều
nhất là vị trí từ 3 giờ đến 6 giờ (66,67%). Hiếm gặp lỗ
dò ngoài ở vị trí 10 giờ, 11 giờ, 12 giờ, và 1 giờ. Đồng
thời, vị trí lỗ dò ngoài nằm sau đường ngang đi qua
tâm điểm hậu môn nhiều hơn nằm trước đường
ngang (73,33% so với 6,67%) và có 3/15 trường hợp
(20%) lỗ dò ngoài hậu môn nằm trên đường ngang ở
vị trí 3 giờ và 9 giờ. Đa số lỗ dò ngoài hậu môn nằm ở
bên trái nhiều hơn bên phải (73,33% so với 6,67%),
chỉ có 20% lỗ dò ngoài nằm ở hai bên đường thẳng
dọc qua tâm điểm hậu môn. So với nghiên cứu khác,
Nguyễn Bá Sơn(1), 52,63% lỗ dò ngoài nằm sau đường
ngang và gấp đôi so với nằm trước đường ngang.
Theo các tác giả khác(5,6,7), ghi nhận 48,5% lỗ dò ngoài
nằm sau đường ngang và 28,13% lỗ dò ngoài hậu
môn nằm trước đường ngang và 22,07% nằm tại vị trí
3 giờ và 9 giờ trên đường ngang. Như vậy vị trí lỗ dò
ngoài trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt
so với các nghiên cứu khác về tỉ lệ.
Hình thái đường dò và lỗ dò trong hậu môn, 80%
trường hợp có đường dò đơn giản và 20% đường dò
phức tạp. Vị trí lỗ dò trong nằm ở 6 giờ chiếm tỉ lệ
nhiều nhất (8/15 trường hợp; 53,33%). Điều này cũng
tương tự với nhận định của các tác giả
khác(1,2,4,5,6,7,8,10). Mặt khác, loại đường dò hậu môn
xuyên cơ thắt là 11/15 trường hợp (73,33%) cũng xấp
xỉ với tỉ lệ của Henri N. H.(11) (75%) và thấp hơn của
Nguyễn Bá Sơn(1) (79,83%). Trong khi, loại đường dò
hậu môn ngoài cơ thắt là 3/15 trường hợp (20%) và
loại đường dò hậu môn trong cơ thắt là 1/15 trường
hợp (6,67%) tương tự với tỉ lệ của Harkins M. D.(11).
Lao 221
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
* Ngoài các biểu hiện triệu chứng của dò hậu
môn, đa số bệnh nhân đều có các triệu chứng nhiễm
lao chung như sốt ớn lạnh về chiều (60%), ăn kém,
sụt cân (33,33%)... và các biểu hiện của đường hô hấp
như ho khan từng cơn (93,33%). Đây là các triệu
chứng giúp tầm soát lao phổi phối hợp.
Chẩn đoán lao phổi phối hợp, ngoài triệu chứng
lâm sàng gợi ý, chúng tôi tiến hành chụp X-quang
phổi thẳng, tìm BK trong đàm, phản ứng lao tố trong
da (Mantoux test), xét nghiệm công thức máu, tốc độ
lắng máu...
• Về X-quang phổi thẳng, chúng tôi ghi nhận cả
15 trường hợp (100%) đều có tổn thương trên X-
quang phổi, chủ yếu là dạng thâm nhiễm
(100%) và tạo hang (4/15 trường hợp, 26,67%),
và đều hiện diện ở thùy trên của phổi. Trong đó,
dạng thâm nhiễm thường gặp ở một bên phổi
hơn là hai bên (80% so với 20%). Trong 4 trường
hợp tạo hang, chỉ có 1 trường hợp hình hang
xuất hiện cả hai bên. So với các nghiên cứu
khác, như Nguyễn Bá Sơn(2), chỉ có 13/37 trường
hợp dò hậu môn do lao (35,1%) có hình ảnh tổn
thương lao trên X-quang phổi. Theo Shukla H. S.
et al(9), có 3/19 trường hợp dò hậu môn do lao
(15,79%) có hình ảnh tổn thương lao trên X-
quang phổi phối hợp. Như vậy tổn thương lao
phối hợp trên X-quang phổi của chúng tôi nhiều
hơn các nghiên cứu khác.
• 5/15 trường hợp (33,33%) tìm thấy vi trùng lao
trong đàm (BK/đàm dương tính). Trong khi theo
các nghiên cứu khác rất hiếm khi tìm thấy BK
trong đàm(2,5,6,7,8). Nguyễn Bá Sơn(2), các trường
hợp dò hậu môn do lao đều không tìm thấy vi
trùng lao trong đàm.
• 12/15 trường hợp (80%) có phản ứng lao tố trong
da dương tính (>10mm) cao hơn so với nghiên
cứu của Nguyễn Bá Sơn(2), (21/37 trường hợp;
65,52%). Chúng tôi ghi nhận 1 trường hợp có
phản ứng lao tố trong da dương tính rất mạnh
(32mm) và 2 trường hợp có có phản ứng lao tố
trong da bằng 20 mm.
• Về tốc độ lắng máu, giá trị trung bình của giờ
thứ nhất là 35,8 mm và giờ thứ hai là 59,47 mm
tương tư như nghiên cứu của Nguyễn Bá Sơn(2).
Nhưng tốc độ lắng máu tăng không đặc hiệu
trong chẩn đoán bệnh lao vì trong nghiên cứu
của chúng tôi cũng gặp một số trường hợp có
tốc độ lắng máu trong giới hạn bình thường.
• Về công thức máu, số lượng bạch cầu hạt chủ
yếu nằm trong giới hạn bình thường (60%).
Các kết quả xét nghiệm trên đã giúp chẩn đoán
lao phổi phối hợp trên bệnh nhân dò hậu môn do lao.
Theo y văn(1,2,5,6,7,8,10), trước một bệnh nhân dò hậu
môn tái phát nhiều lần sau điều trị ngoại khoa, cần
tiến hành tìm vi trùng lao qua giải phẫu bệnh mẫu
sinh thiết từ vùng sang thương và các xét nghiệm
tầm soát bệnh lý lao phổi phối hợp như đã bàn luận ở
trên. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các trường hợp
đã mổ được chuyển đến khám lao đều không ghi
nhận được kết quả giải phẫu bệnh lý.
Về kết quả điều trị lao, tất cả 15 trường hợp
(100%) đều đáp ứng tốt với thuốc kháng lao sau 6
tháng điều trị. Bệnh nhân có cải thiện tốt về lâm
sàng như lỗ dò hậu môn lành hẳn (hết đau nhức, hết
chảy nước vàng, hết ngứa), không sốt, hết ho. Về cận
lâm sàng như X-quang phổi cải thiện tốt, BK/đàm âm
tính, siêu âm hậu môn trực tràng không còn thấy
đường dò.
Trong đó, chỉ sau 2 tuần điều trị thuốc kháng lao,
2/15 bệnh nhân nhanh chóng cảm thấy hết đau, hết
ngứa, giảm hoặc hết chảy nước vàng ở lỗ dò hậu môn.
Sau 1 tháng điều trị có 10/15 trường hợp (66,67%) lỗ
dò hậu môn lành, không còn chảy nước vàng và đau
vùng hậu môn, bệnh nhân cảm thấy rất dễ chịu trong
sinh hoạt hàng ngày. Và sau 3 tháng điều trị, hầu hết
các trường hợp dò hậu môn đều lành tốt.
KẾT LUẬN
Lao phổi và dò hậu môn do lao là bệnh lý phối
hợp xảy ra trên cùng một cơ địa nhiễm lao. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi bước đầu cho thấy tất cả
(100%) các trường hợp dò hậu môn đến khám và điều
trị ngoại khoa nhiều lần trước khi nghĩ đến nguyên
nhân lao. Đánh giá các biểu hiện lâm sàng phối hợp
giữa lao phổi và dò hậu môn, các bước xác định chẩn
Chuyên đề Nội Khoa 222
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
đoán và hướng điều trị thích hợp. Kết quả điều trị
thuốc kháng lao thành công cho 15 trường hợp trên
cũng là một xét nghiệm giúp chẩn đoán xác định. Vì
vậy, trước một bệnh nhân dò hậu môn, cần tiến hành
các xét nghiệm tầm soát bệnh lao phổi phối hợp như
chụp X-quang phổi, tìm BK/đàm, phản ứng lao tố
trong da, công thức máu, tốc độ máu lắng. Điều trị
lao mang lại kết quả hầu như chắc chắn đối với
những trường hợp lao phổi và dò hậu môn. Điều trị
nội khoa là chủ yếu, hạn chế can thiệp ngoại khoa.
3. Trịnh Hồng Sơn, Giải quyết lỗ nguyên phát và chọn
đường rạch trong dò hậu môn, Báo cáo tại Hội nghị
sáng tạo khoa học kỹ thuật các trường đại học Y dược
toàn quốc tại Bác Thái, 1990.
4. Held D. et al, Surgery of colo proctology, USA 1986, p.
2912.
5. Schroeder S. A. et al, Fistula in ano, Current medical
diagnosis and treatment 1988, p. 395.
6. Kodner I. J. et al, Anorectal Abscess and Fistula,
Principles of surgery-Schwartz 1999, p.1302
7. Micheal R. B. Keighley et al, Anorectal Fistula,
Surgery of the Anus, Rectum and Colon 1997, p.487.
8. Jan Rakinic, Perianal Granuloma, Merk manual of
geriatrics June 11, 2004.
9. Shukla H. S., Tubercular fistula in ano, Br J Surg
1988 Jan;75(1):38-39. TÀI LIỆU THAM KHẢO
10. Soullard J., Abcès périanaux et fistules anales, Colo-
Proctologie, Masson 1984:307.
1. Nguyễn Đình Hối, Dò hậu môn, Hậu môn trực tràng
học 2002, tr. 129-147.
11. Henry H., Harkins M. D., Fistula in anorectal surgery,
Principles and practice, USA, 1957, p.1190.
2. Nguyễn Bá Sơn, Góp phần nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng chẩn đoán và điều trị ngoại khoa Dò hậu môn,
Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược
TPHCM 1991.
12. Gordon P. H., Anorectal abscess and Fistula-in-ano,
Principles and Practice of Surgery for the Colon,
Rectum and Anus.
Lao 223
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lao_phoi_va_do_hau_mon_nhan_15_truong_hop.pdf