Hiệu quả của ondansetron trong việc phòng ngừa ngứa sau tiêm morphine trong khoang dưới nhện

Tài liệu Hiệu quả của ondansetron trong việc phòng ngừa ngứa sau tiêm morphine trong khoang dưới nhện: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 97 HIỆU QUẢ CỦA ONDANSETRON TRONG VIỆC PHÒNG NGỪA NGỨA SAU TIÊM MORPHINE TRONG KHOANG DƯỚI NHỆN Bùi Ngọc Uyên Chi*, Nguyễn Ngọc Anh**, Trần Thị Xuân Mai*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Morphine trong khoang dưới nhện đã được chứng minh là mang lại hiệu quả giảm đau sau mổ tốt, tuy nhiên tác dụng phụ thường gặp nhất là ngứa. Kích hoạt thụ thể trung tâm 5-hydroxytryptamine phân nhóm 3 (5-HT3) là một trong những cơ chế đã được chấp nhận. Tuy nhiên, vai trò của thuốc kháng 5-HT3 trong việc phòng ngừa ngứa chưa được xác định rõ ràng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng. Chúng tôi đánh giá hiệu quả phòng ngừa của ondansetron đối với tình trạng ngứa do morphine trong khoang dưới nhện. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm ondansetron 4 mg truyền tĩnh mạch (n = 86) và natri clorua 0,9% truyền tĩnh mạch (n = 84) 30 phút trước khi gây tê...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 35 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của ondansetron trong việc phòng ngừa ngứa sau tiêm morphine trong khoang dưới nhện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 97 HIỆU QUẢ CỦA ONDANSETRON TRONG VIỆC PHÒNG NGỪA NGỨA SAU TIÊM MORPHINE TRONG KHOANG DƯỚI NHỆN Bùi Ngọc Uyên Chi*, Nguyễn Ngọc Anh**, Trần Thị Xuân Mai*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Morphine trong khoang dưới nhện đã được chứng minh là mang lại hiệu quả giảm đau sau mổ tốt, tuy nhiên tác dụng phụ thường gặp nhất là ngứa. Kích hoạt thụ thể trung tâm 5-hydroxytryptamine phân nhóm 3 (5-HT3) là một trong những cơ chế đã được chấp nhận. Tuy nhiên, vai trò của thuốc kháng 5-HT3 trong việc phòng ngừa ngứa chưa được xác định rõ ràng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng. Chúng tôi đánh giá hiệu quả phòng ngừa của ondansetron đối với tình trạng ngứa do morphine trong khoang dưới nhện. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm ondansetron 4 mg truyền tĩnh mạch (n = 86) và natri clorua 0,9% truyền tĩnh mạch (n = 84) 30 phút trước khi gây tê tủy sống với bupivacaine, fentanyl 25 mcg và morphine 0,1 mg để phẫu thuật hậu môn – trực tràng. Bệnh nhân được đánh giá về tỉ lệ ngứa sau gây tê tủy sống 15, 30 phút, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 24 giờ. Đồng thời bệnh nhân cũng được đánh giá về mức độ – thời gian và yêu cầu điều trị ngứa. Bệnh nhân thuộc nhóm ondansetron còn được đánh giá các tác dụng phụ của ondnasetron. Kết quả: Tỉ lệ ngứa thực sự thấp hơn ở nhóm ondansetron so với nhóm chứng (37% so với 64%, p< 0,001). Cả hai nhóm có mức độ, thời gian và yêu cầu điều trị ngứa như nhau (p>0,01). Trong nhóm ondansetron, không có bệnh nhân nào bị tác dụng phụ. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng ondansetron dự phòng có tác dụng làm giảm tỉ lệ ngứa do morphine trong khoang dưới nhện, tuy nhiên chưa thấy sự khác biệt về mức độ, thời gian và yêu cầu điều trị ngứa giữa hai nhóm nghiên cứu. Từ khóa: ngứa do morphine, morphine trong khoang dưới nhện, thuốc kháng thụ thể 5-HT3, ondansetron ABSTRACT PROPHYLACTIC INTRAVENOUS ONDANSETRON IN INTRATHECAL MORPHINE-INDUCED PRURITUS: A RANDOMIZED, DOUBLE-BLINDED, PLACEBO-CONTROLLED STUDY Bui Ngoc Uyen Chi, Nguyen Ngoc Anh, Tran Thi Xuan Mai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 97 - 102 Background: Intrathecal morphine has been used effectively for postoperative pain relief; however, the most common side effect is pruritus. Activation of central 5-hydroxytryptamine subtype 3 (5-HT3) receptors is one of its possible mechanisms. The role of 5-HT3 antagonists in the prevention of pruritus has not been clearly established. Method: In a prospective, randomized, double-blind, placebo-controlled study, we evaluated the efficacy of prophylactic administration of ondansetron for the prevention of intrathecal morphine-induced pruritus. The patients were randomized into 2 groups to receive either 4 mg ondansetron pIV (group O, n=86), or sodium chloride 0,9% pIV (group C, n=84) 30 min before administration of spinal anesthesia with 0.5% hyperbaric bupivacaine, 25 mcg of fentanyl and 0.1 mg of morphine for colorectal surgery. Patients were evaluated for incidence of pruritus at 15 min – 30 min – 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – and 24h after spinal anesthesia. Patients * Khoa GMHS, Bệnh viện Hạnh Phúc ** Bệnh viện Nhân Dân 115 *** Bệnh viện Đại Học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc: BS CK2 Bùi Ngọc Uyên Chi ĐT: 0918509788, Email: bnuyenchi@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 98 were also asked of severity, location, duration and request for treatment for pruritus. Results: The incidence and severity of pruritus was significantly less frequent in the ondansetron group compared with placebo (37% and 64% respectively, p<0.001). Patients in both groups were not different in severity, duration and request for treatment of pruritus (p>0.01). There were no side effects of ondansetron in the controlled group. Conclusion: We conclude that the prophylactic use of ondansetron helps to reduce the incidence of intrathecal morphine-induced pruritus, but not in severity and duration of pruritus. Key words: morphine-induced pruritus, intrathecal morphine, 5-HT3 antagonists, ondansetron ĐẶT VẤN ĐỀ Morphine trong khoang dưới nhện mang lại hiệu quả giảm đau sau mổ tốt, tuy nhiên thường gây tác dụng phụ là ngứa, buồn nôn và nôn sau mổ(3,6). Ngứa là một trong những tác dụng phụ thường gặp nhất của morphine trong khoang dưới nhện, với tỉ lệ là 83% ở những bệnh nhân sản khoa và khoảng 69% ở những bệnh nhân không có thai bao gồm cả nam và nữ(2). Ngứa gây khó chịu cho bệnh nhân và rất khó điều trị, việc phòng ngừa ngứa vẫn còn là thách thức đối với BS GMHS. Mặc dù cơ chế chính xác chưa được biết rõ, morphine trong khoang dưới nhện tương tác với các thụ thể 5-hydoxytryptamine phân nhóm 3 (5-HT3) có đóng vai trò trong cơ chế bệnh sinh gây ngứa. Kết quả là, thuốc kháng thụ thể 5-HT3 có hiệu quả trong việc phòng ngừa và điều trị ngứa(2,9,14). Ondansetron đã được sử dụng với mục đích này, tuy nhiên các kết quả nghiên cứu còn mâu thuẫn(7). Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng với giả thuyết sử dụng ondansetron dự phòng làm giảm 50% tỉ lệ ngứa do morphine trong khoang dưới nhện ở bệnh nhân phẫu thuật hậu môn – trực tràng với gây tê tủy sống. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá hiệu quả dự phòng ngứa sau tiêm morphine khoang dưới nhện của ondansetron. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sau khi được sự đồng ý của Hội đồng Y đức Đại học Y Dược TP.HCM và ban Nghiên cứu Khoa học bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, chúng tôi nghiên cứu 172 bệnh nhân có ASA I-II thực hiện phẫu thuật hậu môn- trực tràng với gây tê tủy sống. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm bệnh nhân dị ứng ondnansetron, đang sử dụng thuốc steroid – kháng histamin – kháng thụ thể serotonin, có triệu chứng ngứa toàn thân – vùng mặt trước mổ, phụ nữ mang thai hoặc cho con bú, ECG có khoảng QT dài, nhiễm ký sinh trùng, suy tế bào gan- ứ mật, suy thận mạn – các bệnh lý tăng urea trong máu, bệnh nhân không hiểu cách đánh giá ngứa - buồn nôn và nôn và các thông tin thu thập khác. Bệnh nhân cũng bị loại khỏi nghiên cứu nếu được gây tê tủy sống bằng kim < 27G, gây tê tủy sống thất bại – phải chuyển sang gây mê để mổ, bệnh nhân sử dụng nhóm opioid để giảm đau sau mổ, tai biến do phẫu thuật, bệnh nhân dị ứng thuốc trong quá trình điều trị, bệnh nhân không thể hợp tác cung cấp thông tin do tình trạng bệnh. Nghiên cứu được thiết kế theo kiểu nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng. Bệnh nhân và người thu dữ liệu không biết bệnh nhân thuộc nhóm nào. Một BS GM, thuộc khoa GMHS BV ĐH Y Dược không tham gia vào quá trình điều trị bệnh nhân, làm một danh sách ngẫu nhiên, tạo 176 cái thăm ghi tên nhóm và số ngẫu nhiên cho vào phong bì. Khi có bệnh nhân đủ điều kiện đưa vào nghiên cứu, bác sĩ phụ trách phòng chờ trước mổ sẽ mở một phong bì để biết bệnh nhân thuộc nhóm nào, ghi số ngẫu nhiên vào tờ thu dữ liệu, đồng thời cho y lệnh truyền thuốc theo mô tả dưới đây. Nhóm O: Ondansetron 4 mg pha trong Natri clorua 0.9% 100 ml truyền tĩnh mạch trong 15 phút. Nhóm C: Natri clorua 0,9% 100 ml truyền tĩnh mạch trong 15 phút. Điều dưỡng phụ trách Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 99 phòng chờ trước mổ sẽ truyền thuốc theo y lệnh trước khi bệnh nhân vào phòng mổ 30 phút. Bệnh nhân được gây tê tủy sống L4-L5, hoặc L3-L4 với kim 27G hoặc 29G, bupivacaine 0,5% tăng trọng (liều tùy thuộc bác sĩ gây mê phụ trách phòng mổ), fentanyl 25 mcg, morphine 0,1 mg (tất cả không có chất bảo quản). Bệnh nhân được theo dõi liên tục từ lúc truyền ondansetron hoặc natri clorua 0,9%, ghi nhận các biến số ở các thời điểm 15 phút, 30 phút, 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 và 24 giờ sau gây tê tủy sống. Bệnh nhân được đánh giá về ngứa bao gồm: có ngứa hay không, mức độ, thời gian và yêu cầu điều trị ngứa. Ngứa được định nghĩa là cảm giác kích thích, khó chịu ở da, gây ra mong muốn hay phản xạ gãi. Ngứa là biến số nhị giá, giá trị là có hoặc không Bệnh nhân được xem là không có triệu chứng ngứa nếu bệnh nhân có thời gian khởi phát ngứa trước 2 giờ sau gây tê tủy sống và thời gian ngứa ngắn hơn 2,5 giờ. Mức độ ngứa được chia thành 3 độ: 1 = ngứa ít, 2 = ngứa vừa, 3 = ngứa nhiều. Bệnh nhân ngứa nhiều được điều trị theo phác đồ bệnh viện (naloxone tiêm mạch, dò liều). Bệnh nhân có sử dụng ondansetron còn được theo dõi thêm các tác dụng phụ của thuốc bao gồm đau đầu, mệt, hồi hộp và rối loạn nhịp tim. Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 16.0. Lực phân tích tính cỡ mẫu với nguy cơ sai lầm loại II là 0,1 và nguy cơ sai lầm loại 1 là 0,05. Tác giả Nguyễn Văn Minh et al(12) nhận thấy tỉ lệ ngứa sau sử dụng morphine 0,1 mg trong khoang dưới nhện là 50%. Giả định rằng sử dụng ondansetron làm giảm tỉ lệ ngứa 50%. Chún tôi tính được cỡ mẫu là 79 bệnh nhân cho mỗi nhóm. Chúng tôi giả định rằng tỉ lệ mất mẫu là 10%. Như vậy mỗi nhóm cần 88 bệnh nhân. Các biến số định lượng có phân phối chuẩn được trình bày theo giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Các biến số định tính được trình bày theo tần số và tỉ lệ phần trăm. Biến số định lượng được kiểm định bằng kiểm định t mẫu độc lập. Biến số định tính được kiểm định bằng kiểm định chi bình phương và Fisher. Chúng tôi cũng tính tỉ lệ giảm nguy cơ (RRR = Risk reduction rate) khi sử dụng ondansetron dự phòng và số cần điều trị. Các phép kiểm có giá trị p < 0,05 được xem là khác biệt có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Từ tháng 12/2015 đến tháng 05/2016, chúng tôi có 172 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, trong đó có 2 bệnh nhân bị loại. Bệnh nhân 1 (nhóm chứng): Suy hô hấp sau mổ. Bệnh nhân 2 (nhóm ondansetron): Gây tê tủy sống thất bại, phải chuyển qua gây mê toàn thể để mổ. Hai bệnh nhân này được theo dõi trong 24 giờ sau mổ. Kết quả cuối cùng nhóm Ondansetron có 86 bệnh nhân, nhóm chứng có 84 bệnh nhân. Bệnh nhân của hai nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới, cân nặng, chiều cao và phân độ ASA. Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học của dân số nghiên cứu Nhóm Ondansetron n (%) Nhóm chứng n (%) p Tuổi (năm)* 37±11 40±11 0,095 Giới nam 43 (50) 50 (59.5) 0,212 Cân nặng (kg)* 60±11 63±12 0,062 Chiều cao (cm)* 162±7 163±7 0,1 ASA 1 65 (76) 53 (63) 0,077 ASA 2 21 (24) 31 (37) *: trung bình ± độ lệch chuẩn Tỉ lệ ngứa Nhóm ondansetron có 32 bệnh nhân bị ngứa (chiếm 37%), nhóm chứng có 54 bệnh nhân bị ngứa (chiếm 64%), với p < 0,001. Tỉ lệ giảm nguy cơ - RRR = 0,43 với khoảng tin cậy 95% là 0,21 – 0,60, p < 0,001. Ondansetron Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 100 làm giảm nguy cơ bị ngứa xuống 43%. Số cần điều trị là 3,7. Chúng tôi cần phải điều trị 4 bệnh nhân để giảm một bệnh nhân bị ngứa so với nhóm chứng. Hình 1: So sánh tỉ lệ ngứa giữa hai nhóm nghiên cứu Mức độ ngứa ít – vừa – nhiều ở nhóm ondansetron là 34 – 41 – 25% và ở nhóm chứng là 28 – 61 – 11% với p = 0,12. Thời gian ngứa trung bình là 3,68±1,44 giờ ở nhóm ondansetron và 3,42±1,10 giờ ở nhóm chứng, với p = 0.347. Nhóm ondansetron có 16 (50%) và nhóm chứng có 29 (54%) bệnh nhân yêu cầu điều trị ngứa, với p=0,74. Tuy nhiên, sau khi được giải thích, không có bệnh nhân nào sử dụng naloxone để điều trị ngứa. Nhóm Ondansetron có 86 bệnh nhân, sau khi sử dụng Ondansetron 4 mg, theo dõi trong 24 giờ không có bệnh nhân nào bị nhức đầu, mệt, hồi hộp, rối loạn nhịp tim. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau khi tiêm morphine trong khoang dưới nhện, nhóm sử dụng ondansetron dự phòng có 37%, nhóm chứng có 64% bệnh nhân bị ngứa, có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu (p<0,001). So với nhóm chứng, việc sử dụng ondansetron dự phòng làm giảm 43% nguy cơ bị ngứa (RRR = 0,43, khoảng tin cậy 95% là 0,21 – 0,60, p < 0,001) với số cần điều trị là 4. Ngứa do thuốc phiện gây ra thường bắt đầu từ thân, mũi, quanh mắt và thường khu trú ở vùng mặt, vùng chi phối của dây thần kinh sinh ba(14). Ngứa thường xuất hiện sớm sau giảm đau, thời gian tiềm phục tùy loại, đường dùng và liều dùng của thuốc phiện. Ngứa do thuốc phiện ưa mỡ ví dụ như fentanyl thường khởi phát sớm và nhanh hết hơn. Ngứa do morphine trong khoang dưới nhện thường khởi phát chậm, kéo dài và khó điều trị. Cơ chế gây ngứa của morphine trong khoang dưới nhện rất phức tạp và chưa được biết rõ. Nhiều cơ chế đã được chấp nhận, nhưng không có một cơ chế đơn thuần nào có thể giải thích cho tất cả mọi hiện tượng. Một số cơ chế đã được chấp nhận bao gồm(3,6,9,14): Có một “trung tâm ngứa” ở hệ thần kinh trung ương Kích hoạt sừng sau tủy sống và hoạt động đối kháng các chất dẫn truyền ức chế Điều hòa hoạt động phóng thích serotonin của tế bào thần kinh Lý thuyết về sự liên hệ giữa đau và ngứa Mặc dù đường dẫn truyền thần kinh của ngứa khác với đường dẫn truyền đau, chúng lại có tương tác rất gần. Hoạt động liên tục của hệ thống dẫn truyền đau ức chế hoạt động của các nơ ron dẫn truyền ngứa của tủy sống. Do đó, phong bế đau có thể làm kích hoạt ngứa (ví dụ, ngứa do morphine trong khoang dưới nhện) và ngứa có thể bị ức chế do đau (ví dụ tác dụng chống ngứa do gãi). Hệ thống serotonin dường như cũng đóng vai trò điều hòa, tạo sự cân bằng giữa cảm nhận đau và chống đau trong hệ thống thần kinh dẫn truyền đau. Thụ thể 5-HT3 có rất nhiều ở sừng sau tủy sống và nhân cảm giác của thần kinh sinh ba trong hành não. Tác giả Fan(5) đã chứng minh thụ thể serotonin 5-HT3 bị kích hoạt bởi morphine. Thuốc phiện trong khoang dưới nhện có thể kích thích trực tiếp thụ serotonin 5-HT3 ở tủy sống và hành não, và gây ra ngứa. Thuốc kháng thụ thể serotonin cũng có thể ức chế tác động kích thích trực tiếp của thuốc phiện trên các nơ ron không phụ trách đau ở sừng sau tủy sống và nhân cảm giác của thần kinh sinh ba. Vì vậy, việc sử dụng thuốc kháng thụ thể serotonin 5-HT3 có khả năng dự phòng ngứa do thuốc phiện trong trục thần kinh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 101 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ cho giả thuyết này, cho thấy những bệnh nhân sử dụng thuốc kháng thụ thể 5-HT3 dự phòng có tỉ lệ ngứa thấp hơn. Thuốc kháng thụ thể serotonin đã được chứng minh là có hiệu quả dự phòng và điều trị ngứa do morphine trong khoang dưới nhện trong nhiều nghiên cứu(7,8,11,13). Các thuốc kháng thụ thể serotonin 5-HT3 làm giảm tỉ lệ ngứa do morphine trong trục thần kinh nhưng không có tác dụng đối với các thuốc phiện tan trong mỡ. Một cơ chế đã được chấp nhận là morphine ít tan trong mỡ hơn nên có nồng độ trong dịch não tủy cao hơn và di chuyển về hướng đầu nhiều hơn(3). Một lý do khác là thuốc kháng thụ thể serotonin 5-HT3 có thể gắn vào thụ thể 5-HT3 trong tủy sống trước morphine nhưng sau thuốc phiện tan trong mỡ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã loại trừ những bệnh nhân bị ngứa do fentanyl. Dựa vào dược động học của fentanyl trong khoang dưới nhện và kết quả nghiên cứu khác, ngứa do fentanyl có đặc điểm là khởi phát sớm (trước 2 giờ sau tiêm fentanyl vào khoang dưới nhện) và thời gian ngứa ngắn (dưới 2,5 giờ)(2,3,6,9). Những bệnh nhân bị ngứa trong nghiên cứu của chúng tôi là do morphine trong khoang dưới nhện. Vì vậy, sự khác biệt về tỉ lệ ngứa giữa hai nhóm trong hai nhóm nghiên cứu là do hiệu quả dự phòng của ondansetron đối với morphine. Mặc dù đã sử dụng thuốc để dự phòng ngứa, tỉ lệ ngứa ở nhóm sử dụng ondansetron trong nghiên cứu của chúng tôi còn cao, lên đến 37%. Việc này chứng tỏ mức độ phức tạp trong cơ chế bệnh sinh của ngứa. Bên cạnh thụ thể serotonin, ngứa do morphine trong khoang dưới nhện liên quan đến thụ thể µ, dopamine D2, gapabentin, glycine và hệ thống prostaglandin(3,6,9,14). Vì vậy, việc phòng ngừa và điều trị ngứa cần phối hợp nhiều loại thuốc với nhau để mang lại hiệu quả tốt hơn cho bệnh nhân. Trong nghiên cứu của chúng tôi, mức độ ngứa ít và vừa ở nhóm ondansetron là 34% và 41% so với 28% và 61% ở nhóm chứng, không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được ngoài việc làm giảm tỉ lệ ngứa do opioid trục thần kinh, sử dụng ondansetron dự phòng còn giúp giảm mức độ ngứa(2,7,8). Chúng tôi cho rằng cần phải thực hiện nghiên cứu với mẫu lớn hơn để tìm sự khác biệt về mức độ ngứa giữa hai nhóm, tương tự như kết quả nghiên cứu và đề xuất của tác giả Pirat và Chaluruxananan(4,13). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm ondansetron và nhóm chứng không có sự khác biệt về yêu cầu điều trị ngứa với tỉ lệ lần lượt là 50% và 54%. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được ngoài việc làm giảm tỉ lệ ngứa do opioid trục thần kinh, sử dụng ondansetron dự phòng còn giúp giảm yêu cầu điều trị ngứa(2,7,8,11,13). Kết quả nghiên cứu cho nếu số bệnh nhân có yêu cầu điều trị ngứa thấp 0%, 11%(8,11) thì việc sử dụng thường quy ondansetron có thể không cần thiết ở những bệnh nhân không bị ngứa hoặc bị ngứa mà không có yêu cầu điều trị. Điều này còn được củng cố qua 2 phân tích gộp cho thấy số cần điều trị để giảm ngứa khá cao là 7 và 10(2,7). Tuy nhiên, vì không có các yếu tố mạnh đủ để tiên lượng bệnh nhân có bị ngứa hay không, và giả định rằng hầu hết bệnh nhân đều không muốn bị phiền nạn này, chúng tôi cho rằng việc sử dụng ondansetron dự phòng có thể mang lại sự hài lòng cho một số lượng lớn bệnh nhân vì tỉ lệ cao dân số bệnh nhân bị ngứa do morphine trong khoang dưới nhện. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có bệnh nhân nào bị tác dụng phụ của ondansetron với liều 4 mg. Nhiều nghiên cứu cũng chứng minh tính an toàn của ondansetron(2,7). Tuy nhiên, một số báo cáo ca lâm sàng về tác dụng phụ gây rối loạn nhịp và co giật của ondansetron đã được công bố(1,10). Mặc dù ondansetron liều thấp được báo cáo là an toàn nhưng bệnh nhân vẫn có thể gặp nguy hiểm nếu có bệnh tiềm ẩn không có biểu hiện lâm sàng trước đó, hoặc đôi khi xảy ra ở những bệnh nhân không có tiền sử gì đặc biệt. Do đó, bệnh nhân cần được theo dõi sát khi sử dụng thuốc. Những bệnh nhân có Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 102 nguy cơ cao chỉ nên sử dụng thuốc kháng serotonin trong bệnh viện. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng ondansetron dự phòng có tác dụng làm giảm tỉ lệ ngứa do morphine trong khoang dưới nhện, tuy nhiên chưa thấy sự khác biệt về mức độ, thời gian và yêu cầu điều trị ngứa giữa hai nhóm nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Azza HA, Hanan HS (2013), "Repeated generalized seizures shortly after single intramuscular dose is an additional reasonable cause to restrict the use of ondansetron: A case report", Advances in Biological Chemistry, 3 pp. 518-520. 2. Bonnet M P, Marret E, Josserand J, et al. (2008), "Effect of prophylactic 5-HT3 receptor antagonists on pruritus induced by neuraxial opioids: a quantitative systematic review", Br J Anaesth, 101 pp. 311-319. 3. Bujedo BM, Santos SG, Azpiazu AU (2012), "A review of epidural and intrathecal opioids used in the management of postoperative pain", J Opioid Manag, 8 (3), pp. 177-192. 4. Charuluxananan S, Kyokong O, Somboonviboon W, et al. (2003), "Nalbuphine versus ondansetron for prevention of intrathecal morphine-induced pruritus after cesarean delivery", Anesth Analg, 96 pp. 1789-1793. 5. Fan P (1995), "Nonopioid mechanism of morphine modulation of the activation of 5-hydroxytryptamine type 3 receptors", Mol Pharmacol, 47 (3), pp. 491-495. 6. Gehling M, Tryba M (2009), "Risks and side-effects of intrathecal morphine combined with spinal anaesthesia: a meta-analysis", Anaesthesia, 64 (6), pp. 643-651. 7. George RB, Allen TK, Habib AS (2009), "Serotonin receptor antagonists for the prevention and treatment of pruritus, nausea, and vomiting in women undergoing cesarean delivery with intrathecal morphine: A systematic review and meta-analysis", Anesth Analg, 109 pp. 174-182. 8. Koju RB, Gurung BS, Dongol Y (2015), "Prophylactic administration of ondansetron in prevention of intrathecal morphine-induced pruritus and post-operative nausea and vomiting in patients undergoing caesarean section", BMC Anesthesiology, 15 (1), pp. 1-6. 9. Kumar K, Singh SI (2013), "Neuraxial opioid-induced pruritus: an update", J Anaesthesiol Clin Pharmacol, 29 pp. 303-307. 10. McKechnie K, Froese A (2010), "Ventricular tachycardia after ondansetron administration in a child with undiagnosed long QT syndrome", Can J Anaesth, 57 (5), pp. 453-457. 11. Moustafa AAM, Baaror AS, Abdelazim IA (2016), "Comparative study between nalbuphine and ondansetron in prevention of intrathecal morphine induced pruritus in women undergoing cesarean section", Anesth Essays, 10 pp. 238-244. 12. Nguyễn Văn Minh, Hồ Khả Cảnh, Trần Thị Thu Lành (2007), "Đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ của morphin kết hợp bupivacain trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai", Tạp chí Khoa học (Đại học Huế), 7 (41), pp. 99-105. 13. Pirat A, Tuncay SF, Torgay A, et al. (2005), "Ondansetron, orally disintegrating tablets versus intravenous injection for prevention of intrathecal morphine-induced nausea, vomiting, and pruritus in young males", Anesth Analg, 101 (5), pp. 1330-1336. 14. Szarvas S, Harmon D, Murphy D (2003), "Neuraxial opioid induced pruritus: a review", J Clin Anesth, 15 pp. 234-239. Ngày nhận bài báo: 15/02/2017 Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017 Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_cua_ondansetron_trong_viec_phong_ngua_ngua_sau_tiem.pdf
Tài liệu liên quan