Đề tài Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới

Tài liệu Đề tài Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới: Chương I. Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới. I. Tổng quan về Bảo hiểm 1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân: - Các rủi ro do thiên nhiên gây ra như bão, lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc, sương muối, dịch bệnh... làm ảnh hưởng đến sản xuất, đến đời sống và sức khoẻ con người; - Các rủi ro do biến động của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển làm tăng năng suất lao động thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người; nhưng mặt khác cũng gây nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn ô tô... và làm tăng nguy cơ mất việc làm của người lao động. - Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi ro này chịu tác động của nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi...

doc71 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I. Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới. I. Tổng quan về Bảo hiểm 1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân: - Các rủi ro do thiên nhiên gây ra như bão, lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc, sương muối, dịch bệnh... làm ảnh hưởng đến sản xuất, đến đời sống và sức khoẻ con người; - Các rủi ro do biến động của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển làm tăng năng suất lao động thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người; nhưng mặt khác cũng gây nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn ô tô... và làm tăng nguy cơ mất việc làm của người lao động. - Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi ro này chịu tác động của nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hoả hoạn... Bất kể nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân... và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra - đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro. - Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. + Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất. Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại... để tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm... Tránh né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được. + Ngăn ngừa tổn thất - Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức độ thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để giảm thiểu các tai nạn lao động người ta tổ chức các khoá học nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; để phòng chống hoả hoạn, người ta thực hiện tốt phòng cháy chữa cháy... + Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Ví dụ, như khi có hoả hoạn, để giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu những tài sản còn dùng được hay trong một vụ tai nạn giao thông, để giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị... Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết hậu quả. - Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. + Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất phải tự chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia thành hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người ta gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và có thể phải vay mượn để khắc phục hậu quả của tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trữ dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất... +Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng. Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang lại những lợi ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm. 2. Bản chất và tác dụng của bảo hiểm 2.1 Bản chất của bảo hiểm * Các định nghĩa về bảo hiểm " Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên" Định nghĩa này chỉ mới đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa rõ phương thức sử dụng nó. "Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm tham gia cam kết bồi thường ( theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia bảo hiểm nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba". Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp phải rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại trong phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm. Đây là định nghĩa mang tính chung nhất của bảo hiểm. Có định nghĩa chỉ rõ đặc trưng riêng của một loại bảo hiểm. Chẳng hạn " Bảo hiểm xã hội la sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do giảm hoặc mất khả năng lao động thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước". Định nghĩa này chỉ rõ mục đích của bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ thông qua sử dụng quỹ huy động từ người tham gia )người sử dụng lao động và người lao động) và sự tài trợ của Nhà nước để trợ cấp cho người lao động bị giảm sức lao động (do ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp...) hoặc mất sức lao động (hết tuổi lao động...). * Bản chất của bảo hiểm Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người thạm gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Thực chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, không bằng nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa, phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì cũng không được phân phối (trừ một số sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí). Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc "Số đông bù số ít". Nguyên tắc này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như trong quá trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro. Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. Bảo hiểm với nguyên tắc "Số đông bù số ít" cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên. 2.2 Tác dụng của Bảo hiểm Bảo hiểm nói chung hay bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hay bảo hiểm thương mại nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực. - Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi ro gây ra. Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Từ đó, họ khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia. - Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp. Khi tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa cháy; cùng ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh nạn... - Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi phục lại đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất mang tính thảm hoạ, mang tính xã hội rộng lớn. Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế, tức tăng thu cho ngân sách. - Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một số lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài việc chi trả trợ cấp hay bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ thời gian dài mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu...nghĩa là dùng đầu tư vào hoạt động kinh tế để sinh lời. Và như vậy góp phần tăng nguồn vốn cho nền kinh tế, làm cho hệ thống tài chíng sôi động hơn v.v... -Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán rủi ro và chấp nhận rủi ro - hình thức tái bảo hiểm giữa các công ty của các nước. Như vậy bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước góp phần ổn định thu chi ngoại tệ cho ngân sách. - Bảo hiểm thu hút số lượng lao động nhất định cho xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong nước (GDP) của quốc gia. -Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế - xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với một giá khiêm tốn ( phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những rủi ro khôn lường. Chính vì vậy, ông Wiston Chuchill - một chính khách đã nói: " Nếu có thể, tôi sẽ viết từ "Bảo hểm" trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình ra khỏi thảm hoạ không lường trước được". II Môi giới bảo hiểm 1. Sự cần thiết và vai trò của MGBH * Sự cần thiết Có thể nói bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ hết sức đặc biệt. Người mua bảo hiểm trả tiền để nhận được lời cam kết sẽ được chi trả bồi thường khi gặp rủi ro tổn thất. Còn trong trường hợp không gặp rủi ro tổn thất có nghĩa người mua bảo hiểm đã may mắn và không được nhận tiền bảo hiểm từ nhà bảo hiểm. Đặc tính này khiến việc tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm đến khách hàng không dễ dàng. Chính vì vậy, sự ra đời của kênh phân phối môi giới bảo hiểm là cần thiết góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung. Trong khi thị trường bảo hiểm ngày càng phát triển, số lượng người tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều, có nhiều khách hàng do chưa hiểu hết hoặc vì một lý do nào đó mà chưa nghiên cứu kỹ về những điều kiện, điều khoản hoặc phân vân không biết phải lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm nào. Môi giới ra đời nhằm giải quyết những vướng mắc đó, môi giới bảo hiểm là người đại diện cho quyền lợi của khách hàng cung cấp những thông tin cần thiết để người tham gia yên tâm khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Hoặc khi xảy ra những khiếu nại bồi thường, môi giới sẽ giúp cho khách hàng có được những quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng. Chính vì thế, môi giới ra đời là một tất yếu khách quan làm cho môi trường bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo những lợi ích cho khách hàng cũng như lợi ích của tất cả các bên tham gia bảo hiểm. * Vai trò của MGBH Môi giới bảo hiểm có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành Bảo hiểm, bởi môi giới là cầu nối giữa khách hàng và các doanh nghiệp cung ứng những sản phẩm bảo hiểm, đứng về phía khách hàng và đảm bảo quyền lợi cho họ. Môi giới bảo hiểm làm cho sản phẩm dịch vụ bảo hiểm ngày càng đa dạng và hoàn hảo hơn. - Nhờ có môi giới, người mua bảo hiểm không còn phải mất nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu về các công ty bảo hiểm, nghiên cứu các điều khoản, điều kiện bảo hiểm,tỷ lệ phí, mức phí bảo hiểm...mà vẫn có được những thông tin chính xác có chất lượng cho quyết định mua bảo hiểm của mình. Nhờ thế lợi ích bảo hiểm thực sự được đảm bảo một cách tốt nhất. a. Công ty môi giới bảo hiểm sẽ thay mặt người mua bảo hiểm trực tiếp xây dựng, đàm phán, thu xếp hợp đồng bảo hiểm (đơn bảo hiểm) với các công ty bảo hiểm gốc, sao cho có lợi nhất cho người mua bảo hiểm; Trong trường hợp bảo hiểm thông qua hình thức đấu thầu, Công ty môi giới bảo hiểm có thể tham gia vào quá trình chuẩn bị hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu giúp cho người mua bảo hiểm có được những hợp đồng bảo hiểm hoàn hảo nhất; b. Không may có những thiệt hại do những rủi ro bất ngờ không lường trước được xảy ra, nếu được người mua bảo hiểm uỷ quyền, Công ty môi giới bảo hiểm sẽ là người tham gia thực hiện các thủ tục đòi bồi thường (giám định, lập hồ sơ khiếu nại, xác định mức bồi thường cao nhất...), thậm chí tham gia các thủ tục tố tụng pháp lý khi cần thiết để bảo vệ lợi ích cho người mua bảo hiểm; c. Mọi dịch vụ môi giới bảo hiểm cung cấp dịch vụ khách hàng đều là miễn phí. Người mua bảo hiểm không phải trả bất kỳ một khoản nào cho công ty môi giới. Công ty môi giới được hưởng một khoản hoa hồng nhất định từ phí bảo hiểm mà Công ty bảo hiểm gốc thu được để đảm bảo cho hoạt động của mình; d. Việc mua bảo hiểm thông qua công ty môi giới cũng là một nhân tố góp phần tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm, lợi ích của người mua bảo hiểm được đề cao, từ đó thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển và góp phần phát triển kinh tế. 2.2 So sánh Đại lý bảo hiểm và Môi giới bảo hiểm * Giống nhau: - Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều là những trung gian bảo hiểm, chịu trách nhiệm tư vấn, thu xếp và ký kết hợp đồng bảo hiểm. - Đều được hưởng hoa hồng từ doanh nghiệp bảo hiểm theo phần trăm nhất định so với phí bảo hiểm thu được. -Đại lý và Môi giới đều thực hiện thu phí bảo hiểm của khách hàng (nếu được sự cho phép của doanh nghiệp bảo hiểm) - Đại lý và Môi giới đều phải được đào tạo về những kiến thức bảo hiểm, chịu trách nhiệm với nghề nghiệp của mình. * Khác nhau: - Đại lý đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động vì lợi ích chung của doanh nghiệp bảo hiểm. - Môi giới đại diện cho khách hàng, đứng về phía khách hàng, đảm bảo quyền lợi và dịch vụ bảo hiểm tốt nhất cho họ. - Đại lý làm việc cho một doanh nghiệp nhất định trong khi đó Môi giới hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ doanh nghiệp bảo hiểm nào. 2.3 Phân loại Môi giới bảo hiểm a) Môi giới bảo hiểm gốc: Là tổ chức hoặc cá nhân đứng ra dàn xếp các vấn đề bảo hiểm giữa khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm. Có những người cần mua bảo hiểm nhưng không biết phải mua như thế nào và mua ở đâu. MGBH gốc làm việc với khách hàng để xác định nhu cầu bảo hiểm, sau đó đàm phán thoả thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để có được phạm vi bảo hiểm và phí bảo hiểm tốt nhất, thoả mãn nhu cầu của khách hàng. MGBH gốc thực hiện nhiều công việc cho DNBH và được nhận môi giới phí từ DNBH hoặc trực tiếp từ khách hàng. Hoạt động MGBH gốc mang lại nhiều lợi ích: - MGBH gốc tư vấn cho khách hàng về quản lý rủi ro một cách hiệu quả nhất. Đây là lĩnh vực chuyên môn của MGBH, trong khi khách hàng chỉ biết rõ nhất về công việc kinh doanh của họ. Điều này tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời tư vấn về thủ tục khiếu nại để đảm bảo cho khách hàng có được mức bồi thường thoả đáng; - Môi giới luôn thông báo cho khách hàng biết về những văn bản quy phạm pháp luật mới nhất về bảo hiểm và các lĩnh vực có liên quan, giúp khách hàng xem xét các vụ đã bồi thường để nhận biết những hạn chế và do đó có thể giảm bớt các vụ khiếu nại trong tương lai. Điều này cũng tiếc kiệm cho doanh nghiệp bảo hiểm; -Môi giới giới thiệu khách hàng mới cho doanh nghiệp bảo hiểm; in các văn bản, hợp đồng bảo hiểm; chuyển giao những ý tưởng và mẫu HĐBH mới trên thị trường bảo hiểm thế giới cho các DNBH trong nước, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của bảo hiểm quốc gia trên trường quốc tế. - Tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu các khoản thuế liên quan đến phí bảo hiểm... b) Môi giới tái bảo hiểm: Là người hỗ trợ,giúp đỡ các DNBH gốc làm việc với các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong việc bảo hiểm cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trên thế giới đều yêu cầu môi giới tái bảo hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn với khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp DNBH phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết. Thông qua môi giới tái bảo hiểm, các DNBH sẽ có được sự an toàn về tài chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao hơn cho xã hội. Hoạt động môi giới tái bảo hiểm mang lại nhiều lợi ích: - Môi giới tái bảo hiểm thay mặt cho DNBH tiếp cận với nhiều doanh nghiệp tái bảo hiểm. Do có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tái bảo hiểm, giá bảo hiểm dành cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc được giảm xuống nên tiếc kiệm được ngoại tệ và tăng được lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm; -Các DNBH gốc nhận được khối lượng dịch vụ lớn hơn, do đó khách hàng sẽ được đảm bảo tài chính tốt hơn; - Môi giới tái bảo hiểm hỗ trợ các DNBH gốc lập kế hoạch đối phó với những tổn thất mang tính thảm hoạ như bão, lốc, động đất...xảy ra hàng năm. MGBH là tổ chức trung gian, có nhiều kinh nghiệm và đại diện cho người mua bảo hiểm, vì vậy hoạt động MGBH là rất cần thiết. Nếu không có hoạt động MGBH trong nước, các DNBH và người tham gia bảo hiểm sẽ sử dụng MGBH nước ngoài, gây bất lợi cho nền kinh tế trong nước nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng. Hoạt động MGBH còn mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia: - Tạo thêm công ăn việc làm, hạn chế chảy máu ngoại tệ do giữ được dịch vụ trong nước, tăng nguồn thu từ thuế và góp phần đưa công nghệ cao vào đất nước. - Tăng khả năng kiểm soát của Chính phủ đối với hoạt động của các DNBH có trụ sở nước ngoài. - Tăng khả năng quản lý của Chính phủ đối với các nội dung chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm như: Nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy định biểu phí bảo hiểm... Như vậy, MGBH có vai trò rất lớn, thể hiện qua việc hỗ trợ Nhà nước tăng cường an toàn tài chính và sự ổn định. 3. Trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền lợi của MGBH 3.1 Trách nhiệm của MGBH - Phải cung cấp thông tin trung thực trong quá trình tư vấn, môi giới cho khách hàng bảo hiểm. Đồng thời phải có trách nhiệm bảo mật thông tin cho khách hàng và cho các doanh nghiệp bảo hiểm. - Khi tổn thất xảy ra, nếu được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền bồi thường thì MGBH có trách nhiệm thanh toán số tiền đó cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. - MGBH chịu trách nhiệm về uy tín của DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm), nghĩa là giới thiệu cho khách hàng những DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm) có uy tín chứ không chịu trách nhiệm về tài chính của DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm). Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, nhất là trong môi giới tái bảo hiểm, môi giới phải chịu trách nhiệm nghề nghiệp về khoản thiệt hại do lỗi của họ gây ra nếu tư vấn sai. Để tránh bất trắc và bảo vệ mình trong những trường hợp tai nạn bất thường và cũng để khách hàng yên tâm, tin tưởng vào môi giới, hầu hết các MGBH đều mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Ở một vài quốc gia, việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này bắt buộc. Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định doanh nghiệp MGBH phải: "a) Thực hiện môi giới trung thực; b) Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm; c) Bồi thường thiệt hại cho bên mua bảo hiểm do hoạt động MGBH gây ra" (Khoản 2, điều 91, mục 2, chương IV). Hơn nữa, "doanh nghiệp MGBH phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động MGBH tại DNBH hoạt động ơ Việt Nam" (Điều 92, mục2, chương IV). Đồng thời MGBH không được thực hiện các hành vi sau đây: - Ngăn cản bên mua bảo hiểm cung cấp các thông tin liên quan đến HĐBH hoặc xúi giục bên mua bảo hiểm không kê khai các chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm; - Khuyến mại khách hàng dưới hình thức hứa hẹn cung cấp các quyền lợi bất hợp pháp để xúi giục khách hàng giao kết hợp đồng bảo hiểm; - Xúi giục bên mua bảo hiểm huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm hiện có để mua hợp đồng bảo hiểm mới. 3.2. Nhiệm vụ của MGBH Một là, vận động, tuyên truyền và khai thác dịch vụ bảo hiểm. Cụ thể là xác định, phân tích và thẩm định các rủi ro khác nhau; thu thập các thông tin cần thiết và thoả thuận các điều kiện và điều khoản bảo hiểm với DNBH thích hợp nhất. Hai là, hướng dẫn người tham gia bảo hiêm ký kết hợp đồng bảo hiểm mới hoặc thay đổi hợp đồng bảo hiểm cũ. Môi giới theo dõi việc thực hiện hợp đồng như khiếu nại đòi bồi thường và tiến hành các dịch vụ quản lý rủi ro gồm: - Xác định và thẩm định khu vực rủi ro; - Tư vấn về các biện pháp thích hợp để giảm nhẹ rủi ro; - Lập các chương trình quản lý tốt rủi ro; - Giúp đỡ lập kế hoạch chống thiên tai và kế hoạch trước tổn thất. Nếu được DNBH uỷ quyền, MGBH phải thu phí bảo hiểm của khách hàng, sau đó thanh toán số phí bảo hiểm đó cho DNBH theo thời hạn đã thoả thuận. Nếu không có thoả thuận về thời gian thanh toán, MGBH phải thanh toán số phí bảo hiểm nói trên cho doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian sớm nhất, thường không quá 7 ngày kể từ ngày nhận được phí bảo hiểm. Khi tổn thất xảy ra, MGBH giúp người tham gia bảo hiểm làm thủ tục đòi DNBH chi trả, bồi thường. Nếu DNBH uỷ quyền cho MGBH trả tiền thì MGBH phải thanh toán số tiền đó cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định: "Nội dung hoạt động của MGBH bao gồm: 1. Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản,phí bảo hiểm, DNBH cho bên mua bảo hiểm; 2. Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiêm; 3. Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và bên mua bảo hiểm; 4. Thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện HĐBH theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm " (Điều 90, mục 2, chương IV). Ngoài ra, các doanh nghiệp MGBH nước ngoài có thể đặt văn phòng đại diện tại nước sở tại. Thời gian hoạt động của văn phòng này thường được giới hạn, hết thời hạn hoạt động được phép xin gia hạn. Nhiệm vụ của văn phòng đại diện thuộc doanh nghiệp MGBH nước ngoài là: + Làm văn phòng liên lạc, nghiên cứu thị trường, xúc tiến xây dựng các dự án đầu tư của doanh nghiệp MGBH nước ngoài, thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các dự án do doanh nghiệp MGBH nước ngoài tài trợ tại nước sở tại và các hoạt động khác phù hợp với pháp luật nước sở tại; + Văn phòng đại diện của doanh nghiệp MGBH nước ngoài không được thực hiện các hoạt động kinh doanh tại nước sở tại, phải báo cáo định kỳ hoạt động theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên của nước sở tại; + Khi kết thúc hoạt động phải thực hiện đầy đủ thủ tục và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nước sở tại. 3.3 Quyền lợi của MGBH MGBH được DNBH trả tiền hoạt động (gọi là hoa hồng môi giới bảo hiểm) và các khoản tiền khác. MGBH được đào tạo về nghiệp vụ bảo hiểm. MGBH được DNBH hỗ trợ các phương tiện hoạt động như phương tiện quản lý (máy vi tính,internet,...). Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, "doanh nghiệp MGBH được hưởng hoa hồng môi giới bảo hiểm. Hoa hồng MGBH được tính trong phí bảo hiểm" (Khoản 91, mục 2, chương IV). Như vậy Môi giới bảo hiểm được đào tạo chuyên nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ, …. 4. Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động Môi giới bảo hiểm Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các kênh: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện, thông qua các trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Trên thế giới, môi giới bảo hiểm thu xếp đến 90% tổng lượng dịch vụ bảo hiểm, trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ xấp xỉ 100% dịch vụ bảo hiểm do đại lý phân phối. Thực tế cho thấy, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng của thị trường. Môi giới bảo hiểm tư vấn giúp khách hàng đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm, lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với mức phí bảo hiểm hợp lý, hỗ trợ việc giải quyết và thương lượng bồi thường, giúp cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho các giao dịch bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Các nước có thị trường bảo hiểm phát triển thì hoạt động môi giới càng hoạt động mạnh mẽ, thể hiện đúng vai trò của nhà môi giới chuyên nghiệp, như các nước trong khu vực, hoạt động môi giới bảo hiểm cũng phát triển ngày càng mạnh. Tại Singapore có 36 công ty môi giới bảo hiểm và 158 công ty bảo hiểm, tỷ lệ giữa môi giới bảo hiểm và công ty bảo hiểm là 1:5, tức cứ bình quân 5 công ty bảo hiểm ra đời sẽ có một công ty môi giới bảo hiểm. Tại Malaysia có 63 công ty môi giới bảo hiểm và 53 công ty bảo hiểm, tỷ lệ này là 1:1, cứ có một công ty bảo hiểm thì sẽ xuất hiện hơn 1 công ty môi giới bảo hiểm, đây là con số khá cao so với thị trường bảo hiểm nói chung. Tại Indonexia có 66 công ty môi giới bảo hiểm và 169 công ty môi giới. tỷ lệ này khoảng 1:3. Trong khi ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có 7 công ty môi giới bảo hiểm và 30 doanh nghiệp bảo hiểm. Con số này thật nhỏ bé và khiêm tốn so với 82 triệu dân cư, lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, con số các công ty bảo hiểm lẫn công ty môi giới bảo hiểm đều là rất nhỏ bé và quá ít so với thị trường. Cùng với sự phát triển đa dạng của các loại hình bảo hiểm, người dân cần có nhiều kênh phân phối thông tin để hiểu rõ về thị trường và đa dạng các trung gian bảo hiểm đã ra đời, trong đó môi giới bảo hiểm là một dạng trung gian được các gia đình và các cơ sở sản xuất kinh doanh tin dùng và sử dụng là nhà tư vấn cho mình. Người được bảo hiểm có thể nhận được từ sự tư vấn độc lập từ một người môi giới về một loạt các vấn đề bảo hiểm mà không phải trả chi phí trực tiếp cho người tư vấn, theo quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với môi giới dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn vì chỉ những điểm rắc rối hoặc những nhu cầu đặc biệt mới cần đàm phán chi tiết, nhờ vậy tiếc kiệm được thời gian và tiền bạc đối với những vấn đề thông thường. Ở hầu hết các thị trường phức tạp như Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc, Nhật Bản…, phần lớn là bảo hiểm thương mại được thực hiện qua môi giới bảo hiểm. Các tổ chức môi giới lớn thường là các công ty xuyên quốc gia, một số tổ chức công nghiệp cũng là thành lập công ty môi giới riêng của họ, các công ty này đựơc xem như một công ty môi giới bảo hiểm nội bộ sẽ phụ trách thu xếp các loại hình bảo hiểm công nghiệp của công ty đó. III. Môi giới bảo hiểm xe cơ giới. 1. Vai trò của Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới. 1.1. Vai trò của Môi giới bảo hiểm xe cơ giới Môi giới bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ của môi giới bảo hiểm nói chung, là cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng có nhu cầu mua bảo hiểm xe cơ giới bảo vệ cho tài sản vật chất xe hoặc trách nhiệm có liên quan khi tham gia giao thông. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm, số lượng người tham gia bảo hiểm xe cơ giới ngày càng nhiều, nhu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ bảo hiểm hoàn hảo là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm gốc cũng có lúc gặp phải những khó khăn trong vấn đề thu xếp, ký kết hợp đồng bảo hiểm, thủ tục khiếu nại bồi thường... Khách hàng cũng vậy, không phải ai cũng có thể lựa chọn được công ty bảo hiểm có dịch vụ tốt nhất, phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình. Để giải quyết những vấn đề đó, chỉ có những nhà môi giới chuyên nghiệp mới có thể cung cấp những thông tin cần thiết cho khách hàng về sản phẩm, chất lượng dịch vụ của các công ty bảo hiểm, đảm bảo lợi ích cho khách hàng một cách tốt nhất, đồng thời vẫn đem lại lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm và cho toàn xã hội. Cụ thể: - Môi giới bảo hiểm xe cơ giới thu thập thông tin đánh giá rủi ro và xây dựng chương trình quản trị rủi ro hữu hiệu nhất cho người tham gia bảo hiểm ( chủ yếu là bảo hiểm cho đoàn xe lớn). - Thu thập, cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường bảo hiểm Việt Nam và thị trường tái bảo hiểm trong nước và ngoài nước… - Tư vấn cho người tham gia bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, giúp cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn công ty bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của mình. - Đàm phán, thu xếp giao kết hợp dồng bảo hiểm giữa người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm . - Hỗ trợ lập hồ sơ khiếu nại, tham gia đàm phán giải quyết khiếu nại với công ty bảo hiểm để cho công tác giải quyết bồi thường diễn ra nhanh chóng, đảm bảo lợi ích của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp bảo hiểm. 1.2. Sơ lược về bảo hiểm xe cơ giới: Sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới góp phần khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, giúp cho chủ xe cơ giới cũng như người bị nạn nhanh chóng ổn định đời sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới bao gồm các loại chính như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, bảo hiểm vật chất thân xe, bảo hiểm tai nạn lái, phụ và người ngồi trên xe. 1.2.1.Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Đối tượng bảo hiểm Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có đối tượng bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh phải bồi thường khi xe cơ giới lưu hành gây thiệt hại cho người thứ ba. Trách nhiệm ở đây có thể là do sự bất cẩn trong quá trình điều khiển xe hoặc trách nhiệm đối với tài sản có nguồn nguy hiểm cao độ. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm: Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật lệ giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định khác của nhà nước … Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thư ba. Chủ xe(lái xe) phải có lỗi. Chúng ta cũng cần chú ý rằng, bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của tai nạn nhưng loại trừ: Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe; Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái… Hành khách, những người có mặt trên xe; Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên và các tài sản khác được cất dữ trên xe; Hàng hoá chuyên chở trên xe. Phạm vi bảo hiểm Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác chỉ nhận bảo hiểm cho các rủi ro bất ngờ xảy ra và gây thiệt hai cho người thứ ba, bao gồm: Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba; Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập; Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm(kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả); Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cưu và chăm sóc nạn nhân. Các trường hợp loại trừ: Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại; Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo qui định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ. Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ. Thiệt hại do chiến tranh bạo động Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn. Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác. Ngoài ra công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với các tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quí, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quíhiếm, thi hài, hài cốt … Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm được tính cho đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện(thường tính theo năm) là: P = f + d Trong đó : P-Phí bảo hiểm trên đầu phương tiện f-Phí thuần d-Phụ phí phí thuần được tính theo công thức : f = Trong đó : Si: Số vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong năm i. Ti : Thiệt hại bình quân đối với mỗi vụ tai nạn trong năm i. Ci : Số xe thực tế hoạt động trong năm i. n : số năm thống kê, thường từ 3à5 năm, i = (1, n). 1.2.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe Đây là loại hình bảo hiểm được áp dụng cho những chủ xe được cơ quan chức năng của Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh vận tải hành khách. Đối tượng được bảo hiểm: là tính mạng và tình trạng sức khoẻ của hành khách trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách của doanh nghiêp. Phạm vi bảo hiểm: Tai nạn gây thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khỏe và tài sản của hành khách trên xe. Chi phí cần thiết cấp cứu, chăm sóc nạn nhân. Các trường hợp loại trừ: Xe chở quá số người đã đăng ký. Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Phí bảo hiểm P = f + d Trong đó : P-Phí bảo hiểm f-Phí thuần d-Phụ phí 1.2.3.Bảo hiểm vật chất xe cơ giới Đối tượng bảo hiểm Là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất thân xe là để được bồi thường những thiệt hại về vật chất thân xe khi rủi ro xảy ra đối với xe của mình. Người bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ hoặc từng bộ phận của xe. Phạm vi bảo hiểm Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm: Tai nạn do đâm va, lật đổ; Cháy, nổ, bão lụt, sét, mưa đá; Mất cắp toàn bộ xe; Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác. Ngoài ra, nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe cơ giới xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm; Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất; Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm; Các trường hợp loại trừ: Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hỏng thêm do sửa chữa; Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà không do tai nạn gây ra; Mất cắp bộ phận xe; Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Phí bảo hiểm Được tính theo công thức: P = f + d Trong đó : P-Phí bảo hiểm trên đầu phương tiện f-Phí thuần d-Phụ phí phí thuần được tính theo công thức : f = (Với i = 1,2,…,n) Trong đó : Si: Số vụ tai nạn xảy ra trong năm i. Ti : Thiệt hại bình quân đối với mỗi vụ tai nạn trong năm i. Ci : Số xe hoạt động thực tế trong năm i. 1.2.4.Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trên xe. Đây là loại hình bảo hiểm áp dụng cho những xe cơ giới có giấy phép kinh doanh vận tải hàng hoá. Khi nhận hàng để chở, chủ xe phải có nghĩa vụ đưa hàng hoá đến địa điểm giao hàng cuối cùng một cách đầy đủ và nguyên vẹn vì thế chủ xe phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại của hàng hoá mà họ nhận chở xảy ra do lỗi của họ. Đối tượng bảo hiểm Là phần trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với chủ cửa hàng khi xe đang lưu hành gây thiệt hại về hàng hoá theo hợp đồng vận chuyển giữa chủ xe và chủ hàng. Hàng hoá ở đây là những hàng hoá thông thường, không thuộc nhóm hàng cấm kinh doanh, vận chuyển theo quy định của pháp luật. Phạm vi bảo hiểm Là trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển, là số tiền chủ xe phải chịu trách nhiệm bồi thường cho chủ hàng khi có tai nạn làm thiệt hại về hàng hoá vận chuyển trên xe theo “thể lệ vận chuyển hàng hoá bằng ô tô” ban hành kèm theo quyết định số 1690/QT-VT ngày 15/9/1990 của Bộ giao thông vận tải và Bưu điện. Ngoài ra nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe chi phí cần thiết, hợp lý nhằm: Ngăn ngừa, giảm nhẹ tổn thất thêm cho hàng hoá; Bảo quản, xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi hàng hoá trong quá trình vận chuyển do hậu quả của tai nạn; Các trường hợp loại trừ: Vi phạm các điểm loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba; Hành hoá lưu thông trái phép; Vàng bác đá quý (dạng nguyên thuỷ hoặc đã tinh chế); Tiền, các loại ấn chỉ, hoá đơn có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm; Thi hài, hài cốt; Mất cắp, trộm cướp; Tổn thất hàng hoá do sự bắt giữ của cơ quan chức năng nhà nước; Tổn thất hàng hoá do bị xô lệch, va đập trong quá trình vận chuyển mà không phải do đâm va, lật đổ; Phí bảo hiểm P = f + d Trong đó : P-Phí bảo hiểm f-Phí thuần d-Phụ phí 1.2.5.Bảo hiểm tai nạn lái, phụ và người ngồi trên xe Đối tượng bảo hiểm Là lái xe, phụ xe, người áp tải, và những người khác được trở trên xe. Phạm vi bảo hiểm Những người này bị tai nạn khi đang ngồi trên xe, lên xuống xe, trong quá trình xe đang tham gia giao thông. Các trường hợp loại trừ: Đối tượng được bảo hiểm cố ý gây thiệt hại. Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Phí bảo hiểm P = f + d Trong đó : P-Phí bảo hiểm f-Phí thuần d-Phụ phí Trong loại trên, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo hiểm bắt buộc (được quy định tại Luật dân sự, Luật kinh doanh bảo hiểm và các nghị định của Chính phủ) mà đối tượng bảo hiểm là những thiệt hại về người và tài sản do người sử dụng xe gây ra cho người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Khắc phục hậu quả tai nạn hay bồi thường cho người tham gia bảo hiểm là khâu cuối cùng trong quá trình bán sản phẩm bảo hiểm. Đây là việc thực hiện cam kết bồi thường bảo hiểm của nhà bảo hiểm, thể hiện rõ tính chất xã hội và tính chất nhân đạo của bảo hiểm. Chỉ có ở đây người ta mới nhận thấy vai trò của bảo hiểm nói chung và các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nói riêng. Theo ông Phạm Ngọc giao, Phó phòng bảo hiểm xe cơ giới, Bảo Việt Việt Nam, thị trường bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng trưởng một cách nhanh chóng, và được dự báo là còn tiếp tục phát triển. Từ mức doanh thu phí của năm 2002 là 637,123 tỷ đồng đã tăng lên 969,39 tỷ đồng năm 2003, 1.355,972 tỷ đồng năm 2004, và đến năm 2005, doanh thu phí các nghiệp vụ xe cơ giới trên thị trường đạt 1.600 tỷ đồng, bằng 30% doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Trong khi số xe ô tô tham gia mua bảo hiểm chiếm tới 90% số ô tô hiện có thì xe máy chỉ đạt chưa tới 30%. Trong thời gian tới, được dự báo là số xe tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều, vì vậy môi giới trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới càng có nhiều cơ hội để phát triển và thực hiện tốt vai trò của nhà môi giới chuyên nghiệp. 2. So sánh bán bảo hiểm xe cơ giới qua Đại lý và Môi giới Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều là những trung gian bảo hiểm, là cầu nối giữa khách hàng tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm, đều được hưởng hoa hồng theo một tỷ lệ nhất định so với phí bảo hiểm thu được. Thực hiện việc thu phí của khách hàng nếu được sự cho phép của doanh nghiệp bảo hiểm, Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, cần phải phân biệt sự khác nhau giữa Đại lý và Môi giới trong việc bán bảo hiểm xe cơ giới. Đại lý đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền để mời chào người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, Đại lý có thể là tổ chức hoặc cá nhân đáp ứng đầy đủ những quy định của pháp luật. Nhưng Môi giới bảo hiểm lại là một tổ chức, doanh nghiệp hoạt động độc lập với doanh nghiệp bảo hiểm, đại diện cho quyền lợi và lợi ích cho khách hàng, thu thập thông tin về doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm, biểu phí…, tư vấn cho khách hàng lựa chọn doanh nghiệp nào có phí bảo hiểm và dịch vụ phù hợp nhất. - Nếu như Đại lý làm việc cho một doanh nghiệp bảo hiểm nhất định, chào bán những sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp đó, thì Môi giới bảo hiểm lại hoạt động độc lập, chào bán tất cả các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng lựa chọn. Đại lý bán bảo hiểm xe cơ giới rất nhiều, điều kiện để hoạt động đại lý đơn giản hơn hoạt động môi giới. Phần lớn Môi giới bảo hiểm trong nghiệp vụ xe cơ giới thường tư vấn cho những hợp đồng bảo hiểm có giá trị bảo hiểm cao, đặc biệt là xe ô tô và những đoàn xe lớn của các doanh nghiệp. IV. Thực trạng hoạt động Môi giới bảo hiểm tại Việt Nam trong thời gian qua 1.Thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đánh dấu sự hình thành bằng việc ra đời Công ty bảo hiểm Việt Nam (hiện nay là tổng công ty bảo hiểm Việt Nam- Bảo Việt) vào ngày 15/01/1965. Tuy nhiên bước ngoặt trong quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam là việc Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1965, Nghị định này đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, cho phép nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào thị trường: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cùng với Luật Kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 1/4/2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành gồm Nghi định 42, 43 và Thông tư 71, 72; tiếp sau đó là Thông tư 98, 99 ngày 19/10/2004 sửa đổi Thông tư 71,72; Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010 được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 175/QĐ-TTg; đã tạo hành lang pháp lý cao nhất cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thị trường bảo hiểm đã ra đời và phát triển mạnh mẽ, góp phần hình thành và từng bước đồng bộ hoá thị trường dịch vụ chất lượng cao trong cả nước. Sau 40 năm kể từ khi bảo hiểm Việt Nam hình thành và hơn 20 năm thực hiện chính sách cải cách và mở cửa thúc đẩy hội nhập quốc tế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như huy động nguồn nội lực trong nước, ngành bảo hiểm đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể về chất lượng, thực sự trở thành tấm lá chắn giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân an tâm sản xuất và sinh hoạt, ổn định tài chính khi có rủi ro xảy ra. Để thực sự thấy được sự thay đổi và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy qua một số chỉ tiêu: Cơ cấu thị trường Từ năm 1964 đến năm 1993 Việt Nam mới chỉ có một công ty bảo hiểm ở Việt Nam là Bảo Việt hoạt động. Từ năm 1993 đến năm 2000 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có tới 17 doanh nghiệp trong đó có 5 doanh nghiệp Nhà nước, 4 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 3 doanh nghiệp cổ phần, 5 liên doanh. Từ năm 2000 đến 2005 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có tới 30 doanh nghiệp được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm 3 doanh nghiệp Nhà nước, 10 công ty cổ phần, 6 doanh nghiệp liên doanh và 11 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Như vậy, sau 5 năm ( 2000-2005) vừa qua số lượng các doanh nghiệp trên thịt trường đã tăng gần gấp đôi so với giai đoạn trước trong đó chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần ( 5 doanh nghiệp mới thành lập) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( thêm 8 doanh nghiệp mới). hai doanh nghiệp Nhà nước là Bảo Minh và VINARE đã hoàn tất quá trình cổ phần hoá trong năm 2004 và hiện đang chuyển hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần; do đó số lượng doanh nghiệp Nhà nước hiện chỉ còn 3 doanh nghiệp. b.Số lượng doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đã tăng nhanh trong giai đoạn này, nếu như năm 2000 chỉ có một doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thì đến năm 2006 đã có tới 7 doanh nghiệp môi giới, trong đó có 4 doanh nghiệp cổ phần, 2 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép mới là Savoye va Marsh, riêng Aon chuyển từ giấy phép liên doanh sang 100% vốn nước ngoài. Năm 2005 tổng phí môi giới bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm đạt 908 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2004, chiếm 16,41% tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường của năm. Đây là con số đáng khích lệ bởi môi giới bảo hiểm Việt Nam mới được hình thành và chủ yếu là môi giới bảo hiểm nước ngoài ( tổng số phí bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 83,77% tổng số phí bảo hiểm thu xếp), trong khi tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua các công ty môi giới trong nước chiếm 16,23% tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua môi giới ( tỷ trọng của năm 2004 chỉ đạt 12,2%) Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng gần gấp đôi trong năm 2005 đã có tới 17 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bảo hiểm nhân thọ với tiềm năng được đánh giá cao và chưa được khai thác hết tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2005 đã có 3 giấy phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ được cấp cho Prevori Vie, ACE INA và New York life. Xu hướng phát triển của thị trường đã phản ánh những định hướng lớn của Chính phủ đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2010 là sắp xếp lại và nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp Nhà nước (cổ phần hoá Bảo Minh và VINARE); phát triển hoạt động môi giới bảo hiểm ( cho phép thành lập thêm các doanh nghiệp môi giới trong nước dưới hình thức công ty cổ phần và cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài có đủ điều kiện; tiếp tục mở rộng thị trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập. c.Quy mô thị trường Tổng phí bảo hiểm của toàn thị trường đã tăng hơn 4 lần trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2005, từ 3.075 tỷ đồng năm 2000 lên 13.547 tỷ đồng năm 2005. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này la 42%, tuy nhiên đà tăng trưởng có xu hướng giảm dần trong 2 năm gần đây. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,57% năm 1999 lên 2,03% năm 2005. Bảo hiểm phi nhân thọ có tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn này là 28%, cao hơn nhiều so với giai đoạn 1993-1994 với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 10%. Sự tăng trưởng của bảo hiểm phi nhân thọ có một nguyên nhân khách quan là nhờ vào sự tăng trưởng của các hoạt động kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội liên tục tăng đều qua các năm, trung bình là 15%/năm. Song động lực chính của sự tăng trưởng là nhờ sự nỗ lực không ngừng của các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường tiếp cận khách hàng, cải cách công nghệ quản lý. Nhờ vậy mà thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có tốc độ tăng trưởng khá ổn định ở mức cao trong 5 năm vừa qua. Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh trên thị trường vẫn tiếp tục diễn ra khá gay gắt, biểu hiện ở tỷ lệ phí bảo hiểm trung bình cho các rủi ro thân tàu, hàng hoá tiếp tục giảm. Chất lượng khai thác bảo hiểm cũng có xu hướng giảm sút. Nhiều công ty vì chạy theo doanh thu đã chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng rủi ro được bảo hiểm, trong khi đó điều kiện, điều khoản đưa ra lại rất cạnh tranh, tỷ lệ phí và mức khấu trừ thấp. Bảo hiểm nhân thọ có tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn này là 60%. Do thị trường bảo hiểm nhân thọ mới bắt đầu hoạt động từ năm 1997 nên tốc độ tăng trưởng của những năm đầu (1997-1999) rất cao, tới trên 200%. Các công ty bảo hiểm nhân thọ đã tích cực mở rộng thị trường, tăng cường các kênh phân phối và đội ngũ đại lý. Từ năm 2000 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của bảo hiểm nhân thọ vẫn duy trì ở mức cao, song chiều hướng giảm dần khi quy mô của thị trường đã đạt đến mức nhất định. d. Những đóng góp cho nền kinh tế Ngành bảo hiểm đã có những đóng góp thiết thực nhằm ổn định đời sống kinh tế xã hội. Với hơn 600 sản phẩm bảo hiểm hiện đang có mặt trên thị trường, các công ty bảo hiêm đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng góp phần nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, giải quyết bồi thường. Nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm cũng được cải thiện đáng kể. Ngành bảo hiểm đã thực hiện tốt vai trò là kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Tính đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp bảo hiểm đã đầu tư hơn 23.000 tỷ đồng vào các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Công tác đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng được cải thiện và đi vào chiều sâu nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao như góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần,c ho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu Chính phủ, mua cổ phiếu, gửi tiết kiệm ngân hàng. Hiệu quả và an toàn trong công tác đầu tư ngày càng được chú trọng. Bên cạnh đó, ngành bảo hiểm cũng góp phần tạo nên nhiều việc làm cho xã hội. Riêng đội ngũ đại lý bảo hiểm đã lên tới 125.000 người với thu nhập ổn định. e. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường đã thực sự được tăng cường với sự ra đời của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ngày 24/12/1999. Đến nay, hiệp hội đã thực sự là ngôi nhà chung, mang tiếng nói chung, thể hiện sự hợp tác liên kết của các doanh nghiệp hội viên. Trong thời gian qua, hiệp hội đã chủ động phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng quy tắc biểu phí cho một số sản phẩm bảo hiểm bắt buộc và kiến nghị một số giải pháp về thuế đối với doanh nghiệp bảo hiểm và đại lý bảo hiểm để đảm bảo ổn định phát triển kinh doanh bảo hiểm.thông qua hoạt động của các ban không chuyên, hiệp hội đã đưa ra đề xuất để các doanh nghiệp có sự hợp tác song phương về một số nghiệp vụ bảo hiểm. Bảng 1: Chỉ tiêu phát triển ngành bảo hiểm từ năm 1993-2005 Chỉ tiêu Năm 1993 Năm 1996 Năm 1999 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2005 1.Doanh thu phí bảo hiểm - Bảo hiểm phi nhân thọ - Bảo hiểm nhân thọ 700 700 1.264 1263 0,95 2.091 1.606 484 6.992 2.624 4.368 12.527 4.727 7.800 13.663 5.535 8.128 2. Tỷ trọng phí bảo hiểm/ GDP 0,37% 0,46% 0,52% 1,3% 2% 2,6% 3.Vốn kinh doanh 145 397 980 1.900 6.608 4. Bồi thường bảo hiểm 120 760 789 1.400 2.465 5. Dự phòng nghiệp vụ - 149 705 3.549 5.630 23.696 ( Nguồn: Chiến lược kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2001-2010) Về kết cấu thị trường Bảng 2: Kết cấu thị trường Năm 1993 Năm 1996 Năm 1999 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1. Tổng số DNBH 2 8 15 20 24 26 30 2. Doanh nghiệp bảo hiểm Phi nhân thọ 1 6 10 13 14 14 16 3. Doanh nghiệp tái bảo hiểm 1 1 1 1 1 1 4. Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 3 4 4 5 8 5. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 1 1 1 2 .5 6 7 ( Nguồn: Tổng kết thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2005) 2.Hoạt động môi giới bảo hiểm trong thời gian qua. 2.1.Vai trò của hoạt động môi giới đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam Sự phát triển sôi động của các doanh nghiệp bảo hiểm đã kéo theo các hoạt động môi giới, tư vấn bảo hiểm cũng phát triển không kém. Hoạt động môi giới, tư vấn bảo hiểm hiện nay đã diễn ra chủ yếu dưới hịnh thức các trung gian bảo hiểm, gồm các đại lý và môi giới, tư vấn, hỗ trợ, cung cấp thông tin hai chiều cho khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm. Những dịch vụ môi giới, tư vấn bảo hiểm chủ yếu đang được cung cấp hiện nay bao gồm: thông tin về loại hình bảo hiểm, phí bảo hiểm và các thông tin có liên quan đến hoạt động bảo hiểm cho khách hàng; đàm phán, thu xếp việc ký kết hợp đồng với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp bảo hiểm và đối tượng có nhu cầu bảo hiểm; cung cấp cho khách hàng dịch vụ giám sát và quản lý rủi ro, nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro cho tài sản, tính mạng và trách nhiệm được bảo hiểm; ngoài ra, môi giới bảo hiểm còn thực hiện tư vấn cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu bảo hiểm về các vấn đề có liên quan đến dịch vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công ban đầu ghi nhận về tốc độ và quy mô thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, hiện vẫn còn những tồn tại gây cản trở sự phát triển của ngành bảo hiểm, cụ thể là: - Quy mô thị trường bảo hiểm còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh nhằm đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế chung; các nghiệp vụ bảo hiểm phát triển mới tập trung vào những loại hình bảo hiểm dễ thực hiện và không đòi hỏi nhiều kiến thức nghiệp vụ như là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, tài sản và thiệt hại kinh doanh, bảo hiểm con người,…còn các nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và nền kinh tế thị trường đang rất phát triển như là bảo hiểm hàng không, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tín dụng thương mại… thì dường như các công ty bảo hiểm chưa khai thác hết tiềm năng thị trường, đó cũng là một trong những nguyên nhân cho thấy sự cần thiết của hoạt động môi giới bảo hiểm. - Môi trường thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn bị hạn chế trên một số mặt, môi giới bảo hiểm là lĩnh vực khá mới mẻ đối với thị trường, dẫn đến cơ chế pháp lý đối với hoạt động này là chưa chặt chẽ và chưa đầy đủ. Tập quán mua bảo hiểm đối với doanh nghiệp và người dân chưa trở thành thói quen, sự hiểu biết của người dân về loại hình bảo hiểm còn mơ hồ. Chính vì thế môi giới bảo hiểm ra đời là rất cần thiết, giúp cho thị trường bảo hiểm phát triển hơn. - Mặc dù sự xuất hiện của môi giới trên thị trường vào thời gian này là muộn hơn so với các nước trên thế giới, nhưng là cần thiết và tất yếu, bởi nó cần thiết cho sự phát triển của một thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Các doanh nghiêp bảo hiểm thường hạ thấp phí bảo hiểm, tăng cường quảng cáo thu hút khách hàng…và nhiều khi mức phí hạ thấp hơn các công ty nhận tái, dẫn đến không ít các công ty bảo hiểm có tiềm năng nhỏ không thể có được các hợp đồng và đương nhiên với mức phí thấp như vậy các công ty nhận bảo hiểm sau khi nhận đựơc hợp đồng bảo hiểm sẽ thờ ơ và không thực sự quan tâm đến khách hàng. Để đảm bảo sự cân bằng cho vấn đề này, khách hàng sẽ được đảm bảo quyền lợi và giúp cho cạnh tranh công bằng hơn. Với chuyên môn và kinh nghiệm làm việc, nhà môi giới bảo hiểm sẽ đồng hành cùng khách hàng trong việc đánh giá và phân tích thị trường bảo hiểm một cách chính xác, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các công ty. Tại chiến lược kinh doanh bảo hiểm của Chính phủ từ năm 2001-2010 đã cho thấy sự cần thiết của hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam. Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các kênh: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện, thông qua trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Trên thế giới, môi giới bảo hiểm thu xếp đến 90% tổng lường dịch vụ bảo hiểm, trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ xấp xỉ 100% dịch vụ bảo hiểm do đại lý phân phối. Thực tế cho thấy, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng của thị trường. Một số giải pháp mà Bộ đưa ra nhằm phát triển thị trường môi giới bảo hiểm tại Việt Nam: Môi giới bảo hiểm tư vấn giúp khách hàng đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm, lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với mức phí bảo hiểm hợp lý, hỗ trợ việc giải quyết và thương lượng bồi thường, không chỉ giúp cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiếc kiệm đựơc thời gian và chi phí cho các giao dịch bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Với lợi ích to lớn mà môi giới bảo hiểm mang lại, căn cứ tình hình thực tế của thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay, cần thiết cho phép thành lập thêm các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm theo nguyên tắc và điều kiện sau: Các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm sẽ được thành lập và hoạt động theo hướng đa dạng hoá, bao gồm các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo cơ cấu hài hoà giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành lập thêm các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm trong nước là các công ty cổ phần, Nhà nước không đầu tư vốn trong các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh môi giới bảo hiểm. Các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm muốn thành lập cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện của Bộ Tài chính, đặc biệt là các công ty môi giới của nước ngoài. (Trích từ trang 24 đến trang 26, chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010 của Bộ Tài chính). Như vậy môi giới bảo hiểm rất cần thiết đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. 2.2 Kết quả hoạt động môi giới bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Năm 1993, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã chính thức ghi nhận mô hình môi giới bảo hiểm bằng việc ra đời công ty môi giới bảo hiểm Aon Inchibrok, đây là công ty liên doanh giữa tập đoàn Aon toàn cầu và Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ( Bảo Việt), Aon là một tập đoàn lớn đã có kinh nghiệm về hoạt động môi giới bảo hiểm, đồng thời là công ty có tiềm năng tài chính vững mạnh, cho nên hoạt động môi giới tại Việt Nam Aon nhanh chóng thể hiện khả năng làm việc và được thị trường ghi nhận. Tới năm 2001, thị trường bảo hiểm Việt Nam có thêm một công ty môi giới bảo hiểm trong nước là Việt Quốc, đến năm 2003 có thêm 3 công ty môi giới: Đại Việt, Á Đông và Marsh. Năm 2004, Sarvoy cũng đã được cấp phép hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam. Năm 2005, công ty môi giới bảo hiểm Thái Bình Dương chính thức đi vào hoạt động. Tháng 4/ 2006 công ty môi giới bảo hiểm Cimeco được cấp phép đi vào hoạt động. Tính đến năm 2006 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có 8 công ty môi giới bảo hiểm, trong đó có 3 công ty môi giới nước ngoài và 5 công ty môi giới trong nước. Thời gian đầu, khi môi giới bảo hiểm mới tham gia vào thị trường, doanh thu phí môi giới bảo hiểm thu được vẫn còn thấp, chỉ tập trung vào Aon. Tuy nhiên, theo luật pháp Việt Nam quy định thì công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài chỉ được thực hiện môi giới bảo hiểm cho các đơn vị sản xuất kinh doanh nước ngoài, dẫn đến một số hạn chế cho kết quả hoạt đông kinh doanh của công ty. Tới thời điểm hiện tại, các công ty môi giới đang bắt đầu thể hiện tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, doanh thu phí môi giới bảo hiểm vẫn tập trung vào công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài. Các công ty môi giới bảo hiểm trong nước vẫn đang trong quá trình làm quen với thị trường và bắt đầu thể hiện vai trò của mình đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung. Bảng 3: Thị phần các công ty môi giới bảo hiểm tại Việt Nam năm 2005 Stt Công ty môi giới bảo hiểm Thị phần (%) 1 Công ty môi giới bảo hiểm Aon Inchi Brok 60,6% 2 Công ty môi giới bảo hiểm Marsh 17,6% 3 Công ty môi giới bảo hiểm Sarvoy 6,07% 4 Công ty môi giới bảo hiểm Đại Việt 6,7% 5 Công ty môi giới bảo hiểm Việt Quốc 5,7% 6 Công ty môi giới bảo hiểm Á Đông 4,01% ( Nguồn: Tổng kết kinh doanh thị trường bảo hiểm năm 2005- Bộ Tài chính) Dẫn đầu trong các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là công ty môi giới bảo hiểm Aon với thị phần chiếm 60,1%. Tổng phí bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm năm 2005 đạt 908 tỷ đồng tăng 57% so với năm 2004, chiếm 16,41% tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường trong năm. Trong đó bảo hiểm trong nước chiếm 16,23% tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua môi giới, các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài chiếm tới 83,77% tổng phí bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm. Bảng 4: Tình hình kinh doanh môi giới bảo hiểm năm 2005 Loại hình bảo hiểm % trong môi giới bảo hiểm 1. Bảo hiểm hàng không 27,34% 2. Bảo hiểm tài sản và thiệt hại 24,63% 3. Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người 7,91% 4. Bảo hiểm xe cơ giới 4,48% 5. Bảo hiểm trách nhiệm chung 3,36% 6. Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển 3,08% 7. Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu 1,84% 8. Bảo hiểm cháy 1,25% 9. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 1,54% 10. Nghiệp vụ khác 24,45% ( Nguồn: Tổng kết tình hình kinh doanh môi giới bảo hiểm Việt Nam năm 2005- Bộ Tài chính) Nhìn vào bảng trên ta thấy trong năm 2005, môi giới bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm tỷ trọng tương đối thấp 4,48%, trong khi nghiệp vụ bảo hiểm hàng không 27,34%, bảo hiểm tài sản và thiệt hại là 24,63%. Điều này cho thấy môi giới trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường. Số lượng xe trên thị trường ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhưng số lượng xe tham gia bảo hiểm thông qua các công ty môi giới chưa nhiều, phần lớn là ký kết hợp đồng trực tiếp với các công ty bảo hiểm. Một thực tế cho thấy mặc dù số lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm ngày càng tăng, nhưng số tiền bảo hiểm cho mỗi hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới đặc biệt là xe máy là không lớn nên thường là người tham gia bảo hiểm không thông qua tư vấn của của các công ty môi giới. Các công ty môi giới thường tham gia tư vấn cho những đoàn xe ô tô tham gia bảo hiểm có số tiền bảo hiểm cao, chủ yếu là xe của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, hay những đoàn xe lớn của tổ chức thuộc Chính phủ… Hoa hồng môi giới trong năm 2005 đạt 68,9 tỷ đồng tăng 74% so với năm 2004. Trong đó hoa hồng môi giới trong nghiệp vụ xe cơ giới chiếm 8,7% so với tổng số hoa hồng môi giới thu được toàn thị trường, xếp thứ 3 sau hoa hồng môi giới của nghiệp vụ Bảo hiểm tài sản và thiệt hại (37,2%), Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người (17,1%). Như vậy so với tổng hoa hồng môi giới thu được của toàn thị trường thì hoa hồng môi giới trong nghiệp vụ xe cơ giới cũng khá hơn các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Ví dụ như Bảo hiểm hàng không, mặc dù tình hình khai thác môi giới đứng đầu các nghiệp khác chiếm 27,34% nhưng hoa hồng môi giới trong nghiệp vụ này chỉ đạt 1,88% so với tổng hoa hồng môi giới thu được của toàn thị trường trong năm. Chương II. Thực trạng hoạt động môi giới bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Quốc I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt quốc. 1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty cổ phần môi giới Việt Quốc được thành lập theo quyết định số 19 GP/ KDBH ngày 06/12/ 2001. * Tên công ty: Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc. * Tên tiếng anh: Viet Quoc Insurance Broker Joint stock company * Địa chỉ trụ sở chính: 28 Trần Nhật Duật- Quận Hoàn Kiếm- Thành phố Hà Nội. * Địa chỉ chi nhánh: 59/ 12A Bis Điện Biên Phủ- phường 15- Quận Bình Thạnh- Thành phố Hồ Chí Minh. * Hình thức pháp lý: Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm * Điện thoại: 049284828 * Fax: 04.9284822 * Email: vqicobr@.fptvn 2. Lĩnh vực, phạm vi và địa bàn hoạt động. - Lĩnh vực kinh doanh: Môi giới Bảo hiểm. - Các nghiệp vụ được phép tiến hành kinh doanh. + Hoạt động kinh doanh môi giới Bảo hiểm > Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm. > Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm. > Đàm phán, thu xếp, giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. > Thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm. + Hoạt động môi giới tái bảo hiểm. + Hoạt động khác theo quy định của pháp luật. - Địa bàn hoạt động: Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc được phép hoạt động trên phạm vi cả nước. - Đối tượng khách hàng: Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc được phép hoạt động môi giới bảo hiểm cho các đối tượng là tổ chức, cá nhân Việt Nam và các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam. 3. Vốn điều lệ và cơ cấu vốn điều lệ. Vốn điều lệ của công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc là 6.000.000.000( sáu tỷ) đồng Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn của các cổ đông như sau: Cổ đông Số vốn góp tính bằng tiền tỷ lệ sở hữu Chu Thị Phương Dung 4.800.000.000 80% Chu Quân 600.000.000 10% Trần Thị Hải Yến 600.000.000 10% 4. Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc. Đại hội đồng cổ đông Ban giám đốc: Tổng giám đốc, giám đốc điều hành, Hội đồng quản trị Phòng nghiệp vụ I Phòng nghiệp vụ II Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh Phòng hành chính kế toán - Đại hội đồng cổ đông: Gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết và là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc. - Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý của Công ty cổ phần môi giới Bảo Hiểm Việt Quốc, có toàn quyền nhân danh Việt Quốc để giải quyết mọi vấn đề liên quan. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của công ty do đại hội đồng cổ đông bầu ra. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị được quy định trong điều lệ công ty. - Ban giám đốc: Đứng đầu ban giám đốc là tổng giám đốc, giúp việc cho tổng giám đốc là giám đốc điều hành. Tổng giám đốc do hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của ban giám đốc được quy định trong điều lệ công ty. - Các bộ phận nghiệp vụ: + Phòng nghiệp vụ 1. + Phòng nghiệp vụ 2. + Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. II. Thực trạng hoạt động của Công ty thời gian qua. Kể từ khi có nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, thị trường bảo Việt Nam đã có sự phát triển nhanh về nhiều mặt: tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 23% năm, riêng giai đoạn 2001-2005 đạt trên 32%, số lượng các công ty bảo hiểm gốc với nhiều hình thức sở hữu ( nhà nước, cổ phần, liên doanh, 100% vốn nước ngoài) được tăng dần hằng năm tạo nên một thị trường nhiều người bán cung cấp dịch vụ cho khách hàng, các sản phẩm bảo hiểm truyền thống được đẩy mạnh kết hợp với sự ra đời của một số sản phẩm bảo hiểm mới và chất lượng phục vụ ngày càng tốt hơn cho khách hàng. Tuy nhiên, sự phát triển đó so với khách hàng và tiềm lực của nền kinh tế thì vẫn còn nhỏ bé. Có thể thấy được điều này qua thực tế doanh thu phí bảo hiểm mỗi năm còn đạt ở mức thấp 0.6% GDP, giai đoạn 2005 đã có nhiều chuyển biến nhưng chưa đáng kể đạt 2% GDP. Trong khi đó ở các nước phát triển tỷ lệ này là 14% và các nước trong khu vực là 5%. Ngoài ra ngành bảo hiểm cũng chưa đủ mạnh để đáp ứng được đòi hỏi của phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an toàn tài chính cho các tổ chức, doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong giai đoạn hiện nay. Những hạn chế nói trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam chưa nhiều, trình độ chuyên môn của các nhân viên bảo hiểm còn hạn chế, nhận thức và thực tế về xây dựng hệ thống đại lý của các DNBH cũng như phát triển các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có tính chuyên nghiệp cao còn chưa đầy đủ. Lợi ích và hiệu quả của việc sử dụng môi giới bảo hiểm ở Việt Nam chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn và chưa thành tập quán như ở một số nước khác trong khu vực. Luật kinh doanh Bảo hiểm được Quốc Hội thông qua tháng 12/2000 ( có hiệu lực từ ngày 01/04/2001) các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành luật đã được ban hành và gần đây nhất 2006 Luật kinh doanh bảo hiểm đã được sửa đổi bổ sung. Trong đó địa vị pháp lý của các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đã được xác định rõ ràng và khuyến khích phát triển với 7 hình thức doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Đây là hành lang pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm ra đời, tham gia đóng góp vào sự pháp triển tích cực của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Cuối năm 2001, Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc ra đời là công ty môi giới bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam được phép thành lập và hoạt động trong lĩnh vực tư vấn môi giới bảo hiểm. Với phương châm phấn đấu trở thành người môi giới chuyên nghiệp, Việt Quốc đã và đang tập hợp được nhiều chuyên viên giỏi trong các lĩnh vực nhằm hướng dẫn, tư vấn mang lại lợi ích cao nhất cho khách hàng trong việc thu xếp bảo hiểm cũng như trong quá trình giải quyết khiếu nại khi có rủi ro xảy ra. Đối với một tổ chức hay cá nhân tham gia bảo hiểm, việc đánh giá đầy đủ và đúng mức độ các rủi ro, chuyển giao rủi ro cho các công ty bảo hiểm thông qua hợp đồng bảo hiểm là một việc cần thiết và hết sức quan trọng, cần được xem xét đánh giá kỹ lưỡng để có được một chương trình quản trị rủi ro tốt nhất, những hợp đồng bảo hiểm trọn gói, hiệu quả nhất (với công việc như đánh giá và lựa chọn các công ty bảo hiểm gốc, điều kiện, điều khoản, mức khấu trừ, mức phí bảo hiểm, các chi phí hỗ trợ đề phòng hạn chế tổn thất, quy trình và khả năng thực thi của quá trình giải quyết khiếu nại bồi thường của công ty bảo hỉêm gốc, các công ty nhận tái bảo hiểm, phương thức thu xếp hợp đồng bảo hiểm trực tiếp hay qua tư vấn của công ty môi giới hay tổ chức đấu thầu bảo hiểm…) đó là những vấn đề mà Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc đã và đang quan tâm nhằm phục vụ kịp thời, mang lại lợi ích kinh tế cao nhất cho người mua bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm. 1. Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm cung cấp những dịch vụ sau: - Thu thập thông tin, phân tích đánh giá rủi ro để có thể hiểu đầy đủ về xác suất và mức độ tổn thất có thể xảy ra về tài sản và trách nhiệm của người mua bảo hiểm, đề xuất những biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. Qua đó xây dựng một chương trình quản lý rủi ro hoàn chỉnh và có một cái nhìn tổng thể về nhu cầu bảo hiểm toàn công ty nhằm thu xếp các hợp đồng bảo hiểm có lợi nhất, an toàn nhất. Theo kinh nghiệm trên thế giới, các tập đoàn kinh doanh lớn thường sử dụng một công ty môi giới bảo hiểm chuyên nghiệp để thu xếp các hợp đồng bảo hiểm ở công ty bảo hiểm có uy tín để bảo vệ kinh doanh trên phạm vi toàn cầu của họ. - Thu thập thông tin và cung cấp đầy đủ, trung thực cho người mua bảo hiểm về khả năng tài chính và chất lượng con người, trình độ tổ chức quản lý kinh doanh của công ty bảo hiểm gốc. Trong điều kiện hiện nay số lượng các công ty bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam sẽ ngày càng tăng, tình hình hiệu quả kinh doanh cũng như yếu tố con người, khả năng tổ chức thực hiện của từng công ty bảo hiểm cũng có nhiều thay đổi hàng năm, hình thức sở hữu doanh nghiệp cũng có thể thay đổi…cho nên việc nắm vững tình hình về các công ty bảo hiểm là không thể xem nhẹ và công ty môi giới Bảo hiểm là người khách quan cung cấp đầy đủ cho người mua bảo hiểm - Thu thập, cung cấp cho người mua bảo hiểm bản chào phí bảo hiểm của một số công ty bảo hiểm có khả năng lựa chọn. Sau đó Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm sẽ phân tích, tư vấn cho người mua bảo hiểm lựa chọn công ty bảo hiểm nào đưa ra những điều khoản, mức phí bảo hiểm cạnh tranh nhất. Các yếu tố khác mà Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm phải xem xét, tư vấn và kĩ năng chuyên môn của nhân viên công ty bảo hiểm trong việc giải quyết khiếu nại và đền bù được công ty bảo hiểm thanh toán có đầy đủ, kịp thời hay không. Đối với tổ chức hay cá nhân , khi có rủi ro xảy ra, việc được bù đắp kịp thời, đầy đủ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng như cá nhân trong đời sống hàng ngày. - Góp ý kiến về những điều khoản, điều kiện cụ thể về nội dung đơn bảo hiểm, kiểm tra tất cả các tài liệu liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhằm tránh những sai sót về mặt kỹ thuật bảo hiểm, sai sót về số học, phạm vi bảo hiểm không đầy đủ, hiểu sai về điều khoản…dẫn đến hậu quả tranh chấp pháp lý có thể xảy ra. Thực tế cho thấy sự tham gia của Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm với tư cách là người tư vấn cho khách hàng, hoạt động vì lợi ích khách hàng sẽ khách quan và chính xác hơn. - Thu xếp và đàm phán với công ty bảo hiểm và công ty tái bảo hiểm để đảm bảo an toàn (đặc biệt với những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn). Trong đó việc thu thập, cung cấp thông tin tư vấn cho khách hàng kiểm soát chương trình tái bảo hiểm là một vấn đề cần thiết không thể xem nhẹ.. Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm có khả năng nắm bắt nhanh nhạy thông tin trên thị trường bảo hiểm và cung cấp cho khách hàng thông qua mối quan hệ đa phương với công ty bảo hiểm gốc, công ty tái bảo hiểm và công ty môi giới tái bảo hiểm. - Khi có khiếu nại, Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm hỗ trợ khách hàng chuẩn bị hồ sơ khiếu nại, tham gia đàm phán giải quyết khiếu nại với công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm. Việc này tiết kiệm được nhiều thời gian cho khách hàng. Trong những trường hợp có tranh chấp pháp lý, nếu được uỷ quyền công ty môi giới sẽ đại diện cho khách hàng tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng. - Trong trường hợp bảo hiểm thông qua hình thức đấu thầu, Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm có thể tham gia vào quá trình chuẩn bị hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu như đã nêu trên giúp cho người mua bảo hiểm có được những hợp đồng bảo hiểm hoàn hảo nhất 2.Lợi ích khi sử dụng tư vấn - môi giới bảo hiểm. Vai trò, vị trí của đơn vị tư vấn bảo hiểm được thể hiện qua sơ đồ sau: Công ty Bảo hiểm cấp đơn BH Người mua Bảo hiểm Công ty Bảo hiểm cấp đơn BH H. đồng H. đồng bảo hiểm tái Tư vấn thỏa hỗ trợ thuận Bảo vệ quyền lợi NĐBH Công ty môi giới BH Các công ty môi giới tái BH Quan hệ hợp tác Qua sơ đồ trên ta thấy Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm hoạt động với vai trò hướng dẫn, tư vấn bảo hiểm để mang lại lợi ích cao nhất cho người mua bảo hiểm. Có thể tóm tắt các lợi ích mà Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm đem lại như sau: + Người mua bảo hiểm không còn phải mất nhiều thời gian và công sức tìm hiểu về công ty bảo hiểm, nghiên cứu các điều khoản, điều kiện bảo hiểm, tỷ lệ phí, mức phí bảo hiểm… mà vẫn có được những thông tin chính xác có chất lượng cho quyết định mua bảo hiểm của mìnhk. Nhờ thế lợi ích bảo hiểm thực sự được đảm bảo một cách tốt nhất. + Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm sẽ thay mặt người mua bảo hiểm trực tiếp xây dựng, đàm phán thu xếp hợp đồng bảo hiểm (đơn bảo hiểm) với các công ty bảo hiểm gốc, sao cho có lợi nhất cho người mua bảo hiểm. Trong trường hợp bảo hiểm thông qua hình thức đấu thầu, Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm có thể tham gia vào quá trình chuẩn bị hồ sơ mời thầu…giúp cho người mua bảo hiểm có được những hợp đồng bảo hiểm tốt nhất. + Không may có những rủi ro bất ngờ không lường trước được xảy ra, nếu được người mua bảo hiểm uỷ quyền, Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm sẽ là người tham gia thực hiện các thủ tục đòi bồi thường ( giám định, lập hồ sơ khiếu nại, xác định mức bồi thường cao nhất…), thậm chí tham gia thủ tục tố tụng khi cần bảo vệ lợi ích cho người mua bảo hiểm. `+ Khi người mua bảo hiểm đã có bộ phận quản lý bảo hiểm riêng rồi thì việc sử dụng Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm trong việc thu xếp, thực hiện hợp đồng bảo hiểm không làm mất đi chức năng, vai trò tham mưu của bộ phận quản lý bảo hiểm đã có. Sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận đó và Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm sẽ làm cho chất lượng công tác tham mưu cho lãnh đạo đơn vị trong lĩnh vực bảo hiểm được tốt hơn. + Người mua bảo hiểm không phải trả thêm bất kì một khoản nào cho Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm. Theo thông lệ và chế độ hiện hành, Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm được hưởng một khoản hoa hồng nhỏ từ phí bảo hiểm mà công ty bảo hiểm gốc thu được để đảm bảo cho hoạt động của mình. + Việc mua bảo hiểm thông qua Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm là một nhân tố góp phần tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm, lợi ích của người mua bảo hiểm được đề cao, từ đó thúc đẩy thị trường bảo hiểm pháp triển và góp phần pháp triển nền kinh tế. Những dịch vụ mà Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm cung cấp chắc chắn sẽ giúp cho các công ty, các cơ quan, cá nhân mua bảo hiểm tiết kiệm được nhiều thời gian công sức và các chi phí khác. 3. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp từ năm 2003 đến nay. Đơn vị: tỷ đồng Năm Doanh thu 2003 2004 2005 2006 Xây dựng- lắp đặt 2.6 4.1 5.6 6.1 Tàu 0.315 0.420 0.480 0.600 Cầu- đường 0.360 0.448 0.670 1.2 Xe cơ giới 0.500 0.600 0.680 0.800 Nghiệp vụ khác 0.825 0.332 0.870 0.100 Tổng doanh thu 4.6 5.9 8.5 8.8 Nguồn: Công ty Cổ phần Môi giới Bảo hiểm Việt Quốc Bảng 5: Doanh thu của Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc từ năm 2003 đến nay. Biểu đồ: doanh thu của công ty MGBH Việt Quốc từ khi thành lập đến nay. Theo tỷ lệ phần trăm về từng nghiệp vụ qua các năm chúng ta có bảng tổng hợp tỷ lệ phần trăm như sau: Đơn vị: % Năm Doanh thu 2003 2004 2005 2006 Xây dựng- lắp đặt 56.52 69.49 56.88 69.32 Tàu 6.85 7.12 5.65 6.82 Cầu- đường 7.83 7.59 7.88 16.64 Xe cơ giới 10.87 10.17 8.00 9.09 Nghiệp vụ khác 17.93 5.63 10.24 1.14 Tổng doanh thu 100 100 100 100 Bảng 6: (%) về tỷ lệ doanh thu về từng nghiệp vụ môi giới bảo hiểm của Công ty cổ phần môi giới Bảo hiểm Việt Quốc từ 2003 đến nay. Qua bảng doanh thu và biểu đồ trên ta có thể thấy: Doanh thu của Công ty từ năm 2003 đến nay liên tục tăng với tốc độ tăng bình quân 26.61%. Năm 2003: Sau một năm Công ty chính thức đi vào hoạt động doanh thu đã đạt 4.6 tỷ đồng. Với một Công ty môi giới Bảo hiểm mới đi vào hoạt động kết quả này là điều đáng khích lệ. Chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất trong tổng doanh thu của Công ty đó là nghiệp vụ môi giới bảo hiểm xây dựng lắp đặt chiếm 56.52% đạt 2.6 tỷ Năm 2004: Doanh thu của công ty đạt 5.9 tỷ đồng tăng 57.67% so với năm 2003. Cho thấy cùng với sự phát triển của thị trường Bảo hiểm, Công ty đã đạt doanh thu cao hơn, đồng nghĩa với việc hoạt động kinh doanh của công ty hiệu quả hơn rất nhiều so với năm 2003. Trong đó nghiệp vụ môi giới bảo hiểm xây dựng - lắp đặt tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng cao chiếm 69.49% đạt 4.1 tỷ đồng còn lại là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới và các nghiệp vụ khác Năm 2005: Doanh thu tăng 36.58% so với năm 2004 đạt 8.5 tỷ đồng. Qua một năm chúng ta thấy công ty đã có những kết quả đáng mừng trong hoạt động kinh doanh. Năm 2004 doanh thu của công ty mới đạt 5.9 tỷ đồng thì sang năm hoạt động thứ 3 (2005) doanh thu của công ty đã đạt 8.5 tỷ. Khẳng định uy tín hoạt động của công ty. Xây dựng lắp đặt vẫn là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu cao nhất trong tổng doanh thu của công ty đạt 5.6 tỷ chiếm 56.88% tổng doanh thu của công ty. Năm 2006: Doanh thu của Công ty đạt 8.8 tỷ đồng tăng 8.93% so với năm 2005. Điều này cho thấy một thực tế sự phát triển của thị trường bảo hiểm trong năm qua có nhiều biến động. Ngày càng nhiều những công ty môi giới bảo hiểm cạnh tranh trên thị trường, cạnh tranh giữa công ty bảo hiểm gốc với những nhà môi giới bảo hiểm làm cho môi giới chưa thực hiện tốt vai trò của mình dẫn đến giảm khách hàng tham gia bảo hiểm qua các công ty môi giới, khiến cho tốc độ tăng doanh thu của công ty giảm hơn so với 3 năm trước.Tuy nhiên nghiệp vụ môi giới bảo hiểm Xây dựng - Lắp đặt lại có bước phát triển đáng kể đạt 6.1 tỷ chiếm 69.32% tổng doanh thu của Công ty. Bên cạnh đó nghiệp vụ cầu đường cũng có những bước phát triển mới và đã đạt kết quả đáng kể đạt 1.2 tỷ chiếm 16.64% tổng doanh thu của Công ty. Đó là những kết quả mà công ty đã đạt được từ khi công ty chính thức đi vào hoạt động, đó là những kết quả đáng khích lệ. II. Thực trạng hoạt động MGBH xe cơ giới tại Việt Quốc 1 Tình hình bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Nam Sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới góp phần khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, giúp cho các chủ xe cơ giới cũng như người bị nạn nhanh chóng đẩy mạnh cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nghiệp vụ bảo hiểm xe bao gồm các loại chính như: bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, bảo hiểm vật chất thân xe, bảo hiểm tai nạn lái, phụ và người ngồi trên xe. Trong 3 loại trên, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là loại hình bắt buộc (được quy định tại Luật dân sự, Luật KDBH và các quy định của Chính phủ) mà đối tượng bảo hiểm là những thiệt hại về người và tài sản do người sử dụng xe gây ra cho người khác và phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Mặc dù số lượng người tham gia chưa nhiều song bảo hiểm xe cơ giới song bảo hiểm xe cơ giới hiện vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng doanh thu của tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2005 doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới trên thị trường đạt 1600 tỷ đồng, bằng 30% doanh thu toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.Trong khi số xe ô tô tham gia mua bảo hiểm chiếm tới 90% số ô tô hiện có thì xe máy chỉ đạt chưa tới 30%. Theo ông Phạm Ngọc Giao, Phó phòng bảo hiểm xe cơ giới Bảo Việt hà Nội, thị trường bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng trưởng một cách nhanh chóng và được dự báo vẫn còn tiếp tục phát triển. Từ mức doanh thu phí của năm 2002 là 637,123 tỷ đồng đã tăng lên 969,39 tỷ đồng (2003),1355,972 tỷ đồng (2004) và hơn 1601 tỷ đồng năm 2005. Năm 2006, doanh thu bảo hiểm xe cơ giới dự kiến sẽ không giảm so với năm 2005. Song mức tăng trưởng sẽ không đạt như ý muốn. Sự thay đổi trong chính sách thuế đối vối ô tô cũ nhập khẩu là một trong những nguyên nhân tác động đến sự sụt giảm doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm này, trong 3 tháng đầu năm 2006, mức tăng trưởng thực tế của nghiệp vụ này chỉ đạt 10% thay vì mức tăng 15% như dự kiến. Trong khi đó, số tiền bồi thường ngày càng ra tăng. Số tiền bồi thường các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới hàng năm cũng tăng rất nhanh, từ 264 tỷ đồng (năm2002) đã tăng lên đến trên 1000 tỷ đồng (năm 2005). Con số này cho thấy hai điều: hậu quả do tai nạn giao thông gây ra hàng năm là rất lớn và các nghiệp vụ xe cơ giới đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định đời sống sinh hoạt và kinh doanh của rất nhiều nạn nhân của tai nạn giao thông . 2.Hoạt động môi giới bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Quốc 2.1. Tình hình thực hiện các lĩnh vực môi giới bảo hiểm * Về lĩnh vực thuỷ điện, thuỷ lợi: Đây là lĩnh vực mũi nhọn và thế mạnh của của Công ty, với năng lực và uy tín đã được khẳng định trên thị trường, Công ty đã được uỷ quyền làm nhà tư vấn, môi giới bảo hiểm cho các công trình thuỷ điện , thuỷ lợi trọng điểm quốc gia, có số tiền bảo hiểm lên đến hàng nghìn tỷ đồng: Dự án nhà máy Điện Uông Bí mở rộng ( số tiền bảo hiểm trên 7.000 tỷ đồng), xây dựng nhà máy Thuỷ điện Tuyên quang ( số tiền bảo hiểm 3.000 tỷ đồng), xây dựng nhà máy Thuỷ điện Phú Mỹ 2.1 mở rộng- Phần đuôi hơi ( số tiền bảo hiểm trên 1.700 tỷ đồng), xây dựng nhà máy Thuỷ điện Quảng Trị ( số tiền bảo hiểm trên 1.200 tỷ đồng), đê chắn sóng Dung Quất, xây dựng công trình đầu mối thuỷ lợi hồ chứa nước Cửa Đạt ( số tiền bảo hiểm 3.200 tỷ đồng), xây dựng nhà máy Thuỷ điện Bắc Bình, công trình thuỷ điện Cửa Đạt… * Về lĩnh vực giao thông: Với vai trò là nhà môi giới, tư vấn bảo hiểm, Công ty đã giúp các chủ đầu tư thu xếp Hợp đồng bảo hiểm và lựa chọn nhà bảo hiểm uy tín bảo hiểm cho các công trình giao thông chính có gía trị đầu tư lớn như: Chương trình bảo hiểm hàng không năm 2005-2006, Xây dựng cầu Bãi Cháy- Quảng Ninh, Xây dựng cầu Vĩnh Tuy, cầu Rạch Miễu, cầu Cần Thơ…công tác cải tạo, nâng cấp quốc lộ 2,Quốc lộ 3m Quốc lộ 6, các dự án nâng cấp và xây dựng hệ thống đường sắt Việt Nam, Cục đường sắt tiểu 1: Hạ Long- Cái Lân và cầu Vượt Bàn cờ, dự án hạ tầng Tả Ngạn, dự án nâng cấp đường Lam Kì Khởi Nghĩa- Nguyễn Văn Trỗi, dự án nâng cấp mở rộng đường quốc lộ 53 tỉnh Long An,… * Về lĩnh vực nhà máy xi măng: Để đảm bảo sự an toàn trong việc xây dựng và hoạt động của các nhà máy xi măng - ngành cung cấp chủ yếu nguyên vật liệu cho ngành xây dựng, Việt Quốc đã tư vấn bảo hiểm thành công cho dự án xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng (số tiền bảo hiểm là 1.207 tỷ đồng), nhà máy xi măng Sông Giang ( số tiền bảo hiểm trên 2.600 tỷ đồng), nhà máy xi măng Thăng Long ( số tiền bảo hiểm trên 2.908 tỷ đồng) * Về lĩnh vực xây dựng công trình, nhà cao tầng: Cùng với sự phát triển của đất nước, những năm qua các khu công nghiệp, khu đô thị mới được mọc lên và các công trình quan trọng khác của quốc gia cũng cần được xây dựng thêm vì vậy nhu cầu môi giới bảo hiểm đối với các công trình này cũng ngày càng cần thiết. Thấu hiểu được vai trò và sự cần thiết của mình đối với lợi ích hợp lý của khách hàng, Việt Quốc đã tham gia tư vấn bảo hiểm cho dự án xây dựng trung tâm Hội Nghị Quốc gia Mỹ Đình ( số tiền bảo hiểm trên 3.400 tỷ), xây dựng các khu trung cư cao tầng như Tân Hồng Ngọc, Phú Thọ Hoà ( Thành phố Hồ Chí Minh), xây dựng nhà làm việc của các ban Đảng, phòng họp của Ban chấp hành trung ương Đảng, nhà công vụ của ban TCQT trung ương ở Miền Nam, nhà khách Quộc hội… * Về lĩnh vực bảo hiểm đóng tàu: Việt Quốc cũng đã tham gia tư vấn trong lĩnh vực bảo hiểm tàu thuỷ như: Tư vấn bảo hiểm cho đội tàu của Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Nhà máy đóng tàu Nam Triệu, Đội tàu Tổng Cục Hải Quan. Đặc biệt, năm 2005 Việt Quốc đã thu xếp cho việc đóng mới 15 tàu trọng tải 53000 tấn của Vinashin (tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam), đội tàu của công ty sản xuất thương mại và đóng tàu Hung Hậu (thành phố Hồ Chí Minh). * Về lĩnh vực bảo hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hoá, xuất nhập khẩu: Bảo hiểm tài sản là một trong những lĩnh vực có nhu cầu bảo hiểm lớn nhất hiện nay. Hiểu rõ được điều này, Việt Quốc đã và đang mở rộng thị trường trong lĩnh vực này và đã thực hiện thu xếp bảo hiểm cho nhiều công ty của nhà nước, công ty TNHH và công ty cổ phần đầu tư và phát triển khác như: bảo hiểm hoả hoạn trung tâm thương mại Tràng Tiền của công ty TNHH đầu tư và thương mại Tràng Tiền, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cho công ty TNHH sản xuất và dịch vụ máy tính Thế Trung (CMS), bảo hiểm tài sản cụm cảng hàng không miền Trung, công ty LĐSHX cáp sợi quang (Vina-GSC), nhà máy nước Thủ Đức, công ty thép Hoà Phát. * Về lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới: Lưu lượng giao thông nước ta ngày càng phát triển, hàng ngày tai nạn giao thông được thông tin ngày một nhiều. Để đảm bảo sự rủi ro cho các chủ xe cơ giới cũng như những người tham gia giao thông, pháp luật đã quy định về vấn đề bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới. Với sự tín nhiệm của các cơ quan của Đảng, Việt Quốc đã tư vấn trong việc mua bảo hiểm cho toàn bộ xe cơ giới của Ban tài chính - Quản trị trung ương, và văn phòng Trung ương Đảng. 2.2. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong thời gian qua. - Thuận lợi: + GDP của nước ta luôn tăng cao trong thời gian qua (nước ta là một trong ba nước có tốc độ phát triển cao nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương), riêng năm 2006 GDP nước ta tăng 8,2%. Điều này sẽ tạo điều kiện nâng cao đời sống nhân dân cũng như gián tiếp nâng cao nhu cầu bảo hiểm và môi giới bảo hiểm + Xuất nhập khẩu, đầu tư, ODA, FDI, xây dựng…làm cho nhu cầu bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tăng dẫn đến nhu cầu về môi giới bảo hiểm tăng, đó là một trong những điều kiện thuận cho ngành môi giới bảo hiểm nói chung cũng như cho công ty nói riêng. + Được sự tin tưởng của các đối tác, của các công ty bảo hiểm cũng như của khách hàng + Môi giới bảo hiểm được sự quan tâm của Đảng và nhà nước tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển. - Khó khăn: +Công ty mới thành lập, quy mô chưa lớn, vì vậy là khó cạnh tranh với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài thuộc các tập đoàn môi giới bảo hiểm hàng đầu thế giới đã phát triển hàng trăm năm. + Nhận thức của người dân cũng như các doanh nghiệp về môi giới bảo hiểm còn hạn chế. Người dân cũng như người tham gia bảo hiểm chưa nhận thức đúng đắn về vai trò và lợi ích của môi giới bảo hiểm, dẫn đến thị trường môi giới nhỏ hẹp. + Cạnh tranh giữa công ty bảo hiểm và công ty môi giới bảo hiểm gay gắt. Cũng như giữa các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm với nhau là khó khăn chung cũng như của từng công ty bảo hiểm trong đó có công ty môi giới bảo hiểm Việt Quốc. + Đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm và hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cũng là một trong những yếu tố thuận lợi của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. 2.3. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực Bảo hiểm xe cơ giới từ năm 2003 đến nay. Bảng 7: Doanh thu nghiệp vụ môi giới bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Quốc 2003-2006 Năm 2003 2004 2005 2006 Doanh thu (tỷ đồng) 0.500 0.600 0.680 0.800 Nguồn: Công ty Cổ phần Môi giới bảo hiểm Việt Quốc Biểu đồ doanh thu nghiệp vụ MGBH xe cơ giới trong giai đoạn 2003-2006 Lưu lượng giao thông nước ta ngày càng phát triển, hàng ngày tai nạn giao thông được thông tin ngày một nhiều. Để đảm bảo sự rủi ro cho các chủ xe cơ giới cũng như những người tham gia giao thông, pháp luật đã quy định về vấn đề bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới một số nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới khác. Việt Quốc đã đạt được những kết quả nhất định trong lĩnh vực này. Nhìn vào bảng 1- doanh thu các nghiệp vụ môi giới bảo hiểm tại Việt Quốc ta thấy, doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tăng lên qua 4 năm đi vào hoạt động, từ 0,5 tỷ đồng năm 2003 tăng lên 0,6 tỷ đồng năm 2004 và 0,680 tỷ đồng năm 2005, cho tới năm 2006 doanh thu của Việt Quốc trong lĩnh vực xe cơ giới đạt được là 0,8 tỷ đồng tăng 0,3 tỷ đồng so với năm đầu hoạt động 2003 và tăng 0,12 tỷ đồng so với năm 2005. Từ bảng 2- phần trăm doanh thu các nghiệp vụ môi giới bảo hiểm tại Việt Quốc, ta thấy nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới năm 2003 chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng doanh thu, so với các năm khác là 10,87% trong khi năm 2006 nghiệp vụ này chiểm tỷ lệ chỉ là 9,09% trong tổng doanh thu từ các nghiệp vụ. Điều này cho thấy một thực tế đó là, về số tuyệt đối doanh thu của nghiệp vụ này có tăng hơn qua 4 năm, nhưng tốc độ tăng của nó chậm hơn tốc độ tăng của tổng doanh thu từ các nghiệp vụ, nên tỷ lệ trong tổng doanh thu giảm dần sau 4 năm hoạt động. Số hợp đồng khai thác trong nghiệp vụ xe cơ giới của Công ty không ngừng tăng lên, Công ty đã tư vấn cho nhiều khách hàng tham gia mua bảo hiểm xe cơ giới và được sự tín nhiệm của khách hàng, tiếp tục tư vấn trong những lần tái tục hợp đồng. Sở dĩ có sự tăng lên trong doanh thu của nghiệp vụ, là do hoạt động của công ty hàng năm có những đổi mới trong cơ cấu tổ chức và đề ra những kế hoạch hành động mới phù hợp với điều kiện của thị trường. Cùng với sự nhiệt tình năng nổ của các cán bộ Công ty, giúp cho hiệu quả hoạt động của công ty không ngừng tăng lên theo thời gian. Với sự tín nhiệm của các cơ quan của Đảng, Việt Quốc đã tư vấn trong việc mua bảo hiểm cho toàn bộ xe cơ giới của Ban Tài chính - Quản trị trung ương, và văn phòng Trung ương Đảng, đoàn xe lớn của Tổng Công ty Viễn thông Quân đội đại diện phía Nam - Vietel. Phần lớn Việt Quốc tham gia tư vấn cho những đoàn xe ô tô tham gia bảo hiểm có giá trị bảo hiểm cao với số lượng xe lớn, vì vậy doanh thu từ nghiệp vụ này xếp ở vị trí thứ 2 sau nghiêp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt của Công ty. Mặc dù đạt được những kết quả đáng khích lệ trong 4 năm qua trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nhưng mức tăng của nghiệp vụ này qua các năm là chưa cao, cụ thể: Năm 2003 là năm Công ty mới thực sự đi vào hoạt động trên thị trường, doanh thu môi giới trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đạt 0,5 tỷ đồng, kết quả khởi đầu đáng khích lệ. Đến năm 2004 sau một năm, doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm này tăng lên 0,1 tỷ đồng đạt được 0,6 tỷ đồng. Từ năm 2004 đến 2005 mức độ tăng thấp nhất đạt 0,68 tỷ đồng, tăng 0.08 tỷ. Đến năm 2006 doanh thu của nghiệp vụ này đạt được là 0,8 tỷ đồng tăng 0,12 tỷ đồng so với năm 2005. Nhìn vào kết quả ta thấy, trong khi thị trường bảo hiểm xe cơ giới tiềm năng rất lớn, số người tham gia bảo hiểm xe cơ giới khá nhiều nhưng doanh thu của các công ty môi giới nói chung và Việt Quốc nói riêng lại chưa đạt được kết quả cao. Vì vậy trong thời gian tới, với những thay đổi trong hoạt động của mình, Việt Quốc sẽ đạt được những kết quả cao hơn trong tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó có bảo hiểm xe cơ giới. Mục đích của những thay đổi đó nhằm tăng hiệu quả hoạt động của Công ty, mang lại những lợi ích thiết thực cho khách hàng, cho doanh nghiệp bảo hiểm và góp phần vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. 2.4 Những mặt còn tồn tại: - Tuy là công ty môi giới bảo hiểm trong nước hoạt động khá hiệu quả nhưng so với tiềm năng của thị trường bảo hiểm và các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động trong thị trường môi giới bảo hiểm nước ta, thị phần của công ty còn chiếm tỷ lệ doanh thu khá khiêm tốn. - Hầu hết các công trình lớn có vốn đầu tư nước ngoài khi tham gia tư vấn môi giới bảo hiểm đều chọn các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài. - Nhiều cá nhân và tổ chức không biết về sự có mặt của Việt Quốc.Vì vậy trong thời gian tới công ty cần nâng cao nghiệp vụ cũng như tăng cường tuyên truyền quảng cáo về công ty hơn nữa. * Nguyên nhân: - Sở dĩ có những mặt hạn chế trên là do những nguyên nhân khách quan trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các nhà môi giới bảo hiểm. Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay xuất hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm gốc và những nhà môi giới, doanh nghiệp bảo hiểm trả lại cho khách một tỷ lệ phần trăm nhất định dưới dạng hoa hồng. Do đó người mua bảo hiểm không mặn mà khi thông qua môi giới mặc dù họ biết thông qua môi giới họ không mất thêm tiền phí tham gia. Điều này làm cho môi giới không thể hiện tốt vai trò của họ khiến cho hoạt động của công ty gặp không ít khó khăn. - Mặt khác,vì môi giới trong nước mới thành lập và quy mô nhỏ nên tỷ lệ những hợp đồng bảo hiểm thông qua các công ty môi giới không cao. Vì vậy trong thời gian tới, công ty phải có những chiến lược cho hoạt động của mình để khẳng định vị thế của công ty cũng như để nâng cao vai trò và lợi ích của môi giới bảo hiểm nói chung trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và đem lại những đóng góp thiết thực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế – xã hội của quốc gia. Chương III: Một số giải pháp đối với hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Quốc I Phương hướng hoạt động của Công ty trong thời gian tới Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới Việt Quốc định hướng phát triển như sau: Trước mắt Việt Quốc có kế hoạch đào tạo, nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, viên chức về nghiệp vụ bảo hiểm, kỹ năng khai thác khách hàng trong môi giới bảo hiểm, đặc biệt, luyện cho cán bộ đạo đức nghề nghiệp, luôn đặt lợi ích khách hàng lên hàng đầu. Phát triển đội ngũ cán bộ lớn mạnh về chất lượng cũng như về số lượng. Luôn học hỏi và nâng cao kiến thức, nghiệp vụ. Đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng, quản lý sâu sát các hợp đồng bảo hiểm đã và đang được triển khai nhằm tạo lòng tin của khách hàng với môi giới bảo hiểm Việt Quốc nói riêng và lĩnh vực môi giới bảo hiểm nói chung. Thường xuyên liên hệ với khách hàng và nhà bảo hiểm gốc để thực sự trở thành cầu nối hữu hiệu nhất giữa khách hàng và công ty bảo hiểm gốc. Tư vấn cho khách hàng chọn tìm được nhà bảo hiểm tốt nhất. Luôn cập nhật và nắm vững pháp luật về bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Kịp thời đề xuất sửa đổi pháp luật về kinh doanh b ảo hiểm cho phù hợp với tình hình thực tế khi Việt Nam ra nhập WTO. Tăng cường mối quan hệ với thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế nhằm nắm bắt được kịp thời những diễn biến mới nhất trên thị trường để có được sự tư vấn, môi giới cho khách hàng được hiệu quả nhất. II. Mốt số kiến nghị 1.Đối với các Công ty bảo hiểm Hoạt động môi giới bảo hiểm là hoạt động có tính thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh hơn và tạo nên tính cạnh tranh trên thị trường có một cách trật tự, các công ty bảo hiểm gốc kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm cần phải tạo điều kiện để môi giới bảo hiểm phát triển. Môi giới bảo hiểm về thực chất là một kênh trung gian, mang lại hợp đồng bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm do đó rất cần các nhà bảo hiểm hỗ trợ các công ty môi giới trên mọi phương diện: phương diện hỗ trợ quản lý như máy tính, internet, văn bản liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm trực tiếp như điều khoản, quy tắc, biểu phí của loại hình bảo hiểm mà công ty kinh doanh. Sự nhiệt tình của các công ty bảo hiểm gốc là yếu tố quan trọng giúp hoạt động môi giới phát triển. Môi giới bảo hiểm xe cơ giới đòi hỏi các nhà môi giới cần phải có chuyên môn nghiệp vụ để có thể tư vấn cho khách hàng một cách trung thực và hiệu quả về thị trường bảo hiểm Việt Nam. Các công ty bảo hiểm hỗ trợ những thông tin cho các công ty môi giới hoạt động dễ dàng, giúp nhà môi giới trong việc tư vấn những trường hợp trong hoặc ngoài trách nhiêm bồi thường của các công ty bảo hiểm để tránh tình trạng thiếu thông tin, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và giảm thiểu tình trạng trục lợi bảo hiểm thường xảy ra trong lĩnh vực xe cơ giới. Một thực tế cho thấy trên thị trường bảo hiểm Việt Nam số lượng xe lưu hành khá nhiều nhưng số lượng người tham gia bảo hiểm xe cơ giới là chưa tương xứng với tiềm năng thị trường. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần tạo điều kiện cho môi giới hoạt động để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin từ phía khách hàng để sáng tạo ra những sản phẩm bảo hiểm mới đem lại lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng, để thu hút ngưới tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều. Tạo điều kiện thuận lợi cho môi giới hoạt động hiệu quả. 2.Về phía Nhà nước. Thị trường bảo hiểm Việt Nam hình thành và phát triển được hơn 40 năm nhưng so với thế giới vẫn là ngành kinh tế trẻ, đặc biệt môi giới bảo hiểm vẫn còn tương đối lạ lẫm trên thị trường, không phải doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nào cũng phát triển một cách đúng đắn và tốt nhất. Thời gian đầu khi hình thành môi giới bảo hiểm, hệ thống luật pháp vẫn còn thiếu chặt chẽ và chưa thực sự có tính thúc đẩy thị trường môi giới bảo hiểm Việt Nam phát triển, thời gian gần đây hệ thống luật pháp về kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã hoàn thiện từng bước và tiến tới kích thích môi giới bảo hiểm Việt Nam phát triển. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2001 đến 2010 cần được các ban ngành, cơ quan giúp đỡ và thúc đẩy phát triển. Cụ thể: Đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm phi nhân thọ nhằm mục đích góp phần ổn định kinh tế và xã hội, khôi phục tình hình tài chính của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm sau khi xảy ra tổn thất hoặc thiệt hại tài chính, để các doanh nghiệp có thể tiếp tục h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13018.DOC
Tài liệu liên quan