Đề tài Tổng quan về bảo hiểm và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới

Tài liệu Đề tài Tổng quan về bảo hiểm và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới: CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM: Sự cần thiết của Bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội. Sau đây nhận định của Henry Ford (nhân vật nổi tiếng thế giới) về vai trò và sự cần thiết của Bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội: “New York không phải là nơi khai sinh ra lồi người, nhưng sản sinh ra những nhà bảo hiểm … Không có bảo hiểm, sẽ không có những tòa nhà chọc trời bởi không có một công nhân nào chấp nhận làm việc ở độ cao như vậy khi mà họ có thể rơi xuống chết người để lại một gia đình trong sự khốn khổ. Không có bảo hiểm, sẽ không có một nhà tư bản nào dám đầu tư hàng triệu đô la để xây dựng các tòa nhà lớn như vậy bởi vì một điếu thuốc có thể thiêu hủy nó thành một đám tro tàn. Không có bảo hiểm, không ai dám lái xe qua các phố. Một người lái xe giỏi cũng có ý thức rằng anh ta có thể đâm vào một người đi bộ bất cứ lúc nào”. Thật vậy trong cuộc sống, con người luôn bị những rủi ro rình rập là: Đau ốm, tai n...

docx66 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1081 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về bảo hiểm và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM: Sự cần thiết của Bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội. Sau đây nhận định của Henry Ford (nhân vật nổi tiếng thế giới) về vai trò và sự cần thiết của Bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội: “New York không phải là nơi khai sinh ra lồi người, nhưng sản sinh ra những nhà bảo hiểm … Không có bảo hiểm, sẽ không có những tòa nhà chọc trời bởi không có một công nhân nào chấp nhận làm việc ở độ cao như vậy khi mà họ có thể rơi xuống chết người để lại một gia đình trong sự khốn khổ. Không có bảo hiểm, sẽ không có một nhà tư bản nào dám đầu tư hàng triệu đô la để xây dựng các tòa nhà lớn như vậy bởi vì một điếu thuốc có thể thiêu hủy nó thành một đám tro tàn. Không có bảo hiểm, không ai dám lái xe qua các phố. Một người lái xe giỏi cũng có ý thức rằng anh ta có thể đâm vào một người đi bộ bất cứ lúc nào”. Thật vậy trong cuộc sống, con người luôn bị những rủi ro rình rập là: Đau ốm, tai nạn, động đất, khủng bố…… Mà không ai dám nói chắc là mình không bao giờ gặp phải. Bên cạnh cuộc sống hiện đại người ta phải đối phó với những rủi ro rất lớn về người và vật chất điển hình những vụ thiệt hại gây chấn động thế giới: Sự kiện khủng bố 11/09 ở Mỹ, khủng bố tàu điện ngầm ở Tây Ban Nha, vụ độâng đất ở Iran, vụ cháy ITC ở Việt Nam…vv… Tổn thất một khi phát sinh nó thiệt hại rất lớn về người và của, nó còn làm gián đoạn quá trình sản xuất, làm tê liệt nền kinh tế, nó gây hậu quả rất nghiêm trọng và kéo dài một gian mới khôi phục hoặc có thể là ngưng vĩnh viễn. Những rủi ro nói trên là nguồn gốc phát sinh trong hoạt động dự trữ bảo hiểm. Những biện pháp thông thường để xử lý rủi ro nói trên: Biện pháp phòng tránh, hạn chế tổn thất gồm: Né tránh rủi ro, phòng tránh rủi ro. Biện pháp khắc phục hậu quả rủi ro gồm: Chấp nhận tự gánh chịu (bằng cách tiết kiệm, lập qũy dự trữ, dự phòng), chuyển nhượng rủi ro (chuyển nhượng đơn thuần, chuyển nhượng trên nguyên tắc tương hỗ, phân tán rủi ro bằng cách cứu trợ, lập quỹ chung). Có nhiều loại quỹ dự trữ, bảo hiểm hoạt động theo cơ chế đó: Quỹ dự trữ quốc gia; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo hiểm thương mại…. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm. 1.1.2.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm thế giới. Như ta đã thấy, bảo hiểm xuất hiện như một phương thức xử lý rủi ro, tổn thất mà con người phải đối phó hàng ngày trong đời sống sinh hoạt sản xuất của mình. Cách xử lý đó dựa trên ý niệm “cộng đồng hóa rủi ro, hiểm họa”. Vào 4500 năm trước công nguyên, ở Ai Cập các người thợ đẽo đá đã biết thành lập “quỹ tương trợ” để giúp nạn nhân trong vụ tai nạn đẽo đá. Trung Quốc 4000 năm trước công nguyên. Người ta cho rằng ở thời kỳ này các nhà lái buôn Trung Quốc đã biết hợp tác tổ chức chuyên chở tài sản của mỗi người phân tán trên nhiều thuyền khác nhau. Cách làm như vậy, giúp cho mỗi người tránh việc phải gánh chịu tổn thất tồn bộ số hàng của mình. Đây chính là “phân tán rủi ro”. Ơû Babylon 1700 năm trước công nguyên và Athenes 500 năm trước công nguyên, người vay mượn với lãi suất cao, không phải trả nếu có rủi ro Hội bảo hiểm đầu tiên ra đời vào năm 1424 ở Ý cho vận chuyển đường biển và đường bộ. Anh quốc năm 1600, nữ Hồng Anh quốc cho phép các hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện trong thời gian 90 năm. Năm 1720, các doanh nghiệp bảo hiểm Lloyd’s ra đời và sau đó 60 năm, họ nắm giữ 90% rủi ro hàng hóa trên thế giới. Năm 1667 sáu công ty bảo hiểm ra đời sau một đám cháy lớn thiêu hủy 13000 tòa nhà ở Luân Đôn, bảo hiểm hỏa hoạn dần dần lan sang các nước châu Âu khác. Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở Anh vào năm 1762. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, bảo hiểm phát triển và đảm bảo cho nhiều rủi ro mới như: Mô tô, máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Ngày nay bảo hiểm trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng trong nền kinh tế, nó đóng góp rất lớn trong sự phát triển kinh tế và là động lực thúc đẩy cho các ngành còn lại. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Giai đọan trước 1975 Ở miền Nam lúc bây giờ có hơn 52 Công ty bảo hiểm trong và nước hoạt động tại Sài Gòn. Các công ty cũng thực hiện đa dạng các nghiệp vụ và cũng thành lập một hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm nhằm thực hiện các chức năng thông tin, tư vấn, đào tạo…… Ở miền Bắc: Ngày 17/12/1964 Công ty bảo hiểm Bảo Việt ra đời và hoạt động 15/01/1965 do nằm trong vùng chiến tranh hoạt động của Bảo Việt chưa phát triển mạnh, những nghiệp vụ chủ yếu: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm. Giai đoạn sau 1975 đến trước ngày 18/12/1993 Sau giải phóng, việc quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam đã dẫn đến thành lập công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (BAVINA), trên cơ sở quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm trước giải phóng, BIVINA một mặt thực hiện các hợp đồng cũ với khách hàng do các công ty bảo hiểm trước đây thực hiện ký kết và tiếp tục nhận các hợp đồng mới. Ngày 01/03/1976 Bộ Tài Chính ra quyết định chuyển công ty BIVINA thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo Việt / TPHCM). Bảo Việt lúc này là công ty bảo hiểm duy nhất của nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chế độ hạch tóan kinh tế thống nhất tồn ngành vào 01/01/1980. Bảo Việt là đơn vị trực thuộc Bộ Tài Chính có chức năng giúp Bộ Tài Chính thống nhất các quản lý bảo hiểm trong cả nước và trực tiếp tiến hành các nghiệp vụ bảo hiểm trong cả nước. Năm 1986 được nâng cấp lên thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam có chi nhánh ở tất cả tỉnh thành trong cả nước. Giai đoạn sau 18/12/1993 Ngày 18/12/1993 Nghị định 100/CP của Chính Phủ đã chấm dứt sự độc quyền của Bảo Việt, Từ Nghị định này Có nhiều công ty bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thành lập: Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico) Công ty cổ phần bảo hiểm nhà rồng (Bảo Long) Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC) Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) Các công liên doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm cũng lần lượt ra đời. Nhà nước cũng mở cửa cho các công ty bảo hiểm nước ngồi mở chi nhánh, đặt văn phòng đại diện để đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Với dự xuất hiện của các công ty bảo hiểm trong và ngồi nước, đã tạo sư cạnh tranh nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm, làm sôi động thị trường bảo hiểm mà lâu nay ngủ yên, giúp cho khách hàng lựa chọn được những sản phẩm dịch vụ tốt nhất. Vai trò, chức năng, tác dụng của bảo hiểm. Xét về khía cạnh kinh tế xã hội: Là hành lang bảo vệ an tồn cho mỗi cá nhân và tổ chức trước những rủi ro và sự cố bất ngờ dẫn đến tổn thất làm ngưng trệ những hoạt động diễn ra bình thường. Quỹ bảo hiểm được được tạo lập một cách có tổ chức khoa học nhằm đáp ứng kịp thời và bù đắp các tổn thất phát sinh, từ đó tái lập và đảm bảo cho tính thường xuyên liên tục của các quá trình xã hội. Như vậy trên phạm vi rộng tồn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò như một công cụ an tồn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và nền kinh tế. Với vai trò đó bảo hiểm thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống và phát huy tác dụng vốn có của mình: Thúc đẩy ý thức đề phòng – hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội. Xét về khía cạnh tài chính: Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc thu phí trước bồi thường sau nên vào một thời điểm nhất định, các tổ chức hoạt động bảo hiểm sẽ nắm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi và như vậy, các tổ chức hoạt động bảo hiểm hiển nhiên trở thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy, bảo hiểm không chỉ đóng vai trò như một công cụ an tồn mà còn có vai trò của một trung gian tài chính nắm giữ một phần quan trọng trong nền kinh tế. Với vai trò đó bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức quan trọng, đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, đó là tập trung, tích tụ vốn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được thường xuyên và liên tục. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm. Nguyên tắc số đông. Hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra một “sự đóng góp của số đông vào rủi ro của số ít” trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất, thể hiện ở mức phí phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi chủ tham gia không bị ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất của mình. Nguyên tắc trung thực. Khi hợp đồng bảo hiểm dược ký kết, xem như rủi ro của người được bảo hiểm chuyển sang cho nhà bảo hiểm khi người này đóng phí đầy đủ, nhà bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Lúc này sẽ có những nghi ngờ giữa hai bên như sau: Đối với nhà bảo hiểm: Không biết người được bảo hiểm có khai báo chính xác rủi ro hay không và khi rủi ro xảy ra thì do nguyên nhân khách quan hay cố ý. Đối với người được bảo hiểm: Khi họ đóng phí bảo hiểm cho nhà bảo hiểm, họ tự hỏi khi có rủi ro thì nhà bảo hiểm có bồi thường hay không hoặc có đủ khả năng bồi thường không. Như vậy để có sự tin tưởng hai bên trên hợp đồng bảo hiểm phải gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau và điều này đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc trung thực tuyệt đối. Ngồi ra đối với bảo hiểm nhân thọ còn thêm ba nguyên tắc: Nguên tắc lợi ích bảo hiểm. Nguyên tắc bồi thường. Nguyên tắc thế quyền. Phân loại bảo hiểm thương mại Có nhiều cách phân loại bảo hiểm: Phân loại theo đối tượng bảo hiểm, phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm, phân loại theo phương thức quản lý, phân loaị theo quy định hiện hành. Ơû đây ta chỉ nói đến phân loại theo phương thức quản lý. Phân loại theo phương thức quản lý: Bảo hiểm tự nguyện: Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hồn tồn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt của con người. Bảo hiểm bắt buộc: Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của tồn bộ nền kinh tế – xã hội. Các hoạt hoạt nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này. Thông thường, đối với các loại bảo hiểm bắt buộc này gần như hầu hết các nội dung cơ bản của hợp đồng chỉ là do nhà nước quy định: Người được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, rủi ro được đảm bảo, phí bảo hiểm,… Ví dụ: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ là bắt buộc người có đối tượng mua bảo hiểm chứ không bắt buộc mua bảo hiểm ở đâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo hiểm được ký kết vẫn còn nguyên vì người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo hiểm cho mình. Hơn nữa, các quy định của nhà nước liên quan đến điều kiện bảo hiểm chỉ ở mức tối thiểu, khách hàng bảo hiểm vẫn có thể thỏa thuận với nhà bảo hiểm để được đảm bảo cao hơn, tốt hơn, phù hợp với nhu cầu đảm bảo cho rủi ro đang có và khả năng của mình. Ơû các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, số lượng các loại bảo hiểm bắt buộc rất nhiều liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau và có xu hướng không ngừng tăng lên khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển một cách có tổ chức. Ơû Việt Nam hiện nay, ý nghĩa mục đích tốt đẹp đó được thể hiện qua loại hình bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách trên xe. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI. Nhu cầu và sự phát triển của bảo hiểm xe cơ giới. Sự tồn tại và phát triển của ngành bảo hiểm xe cơ giới không tách rời sự tồn tại và phát triển tất yếu của ngành bảo hiểm nói chung trong hệ thống kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, ổn định. Tuy nhiên cũng cần thấy các nhân tố trực tiếp, cụ thể khẳng định sự cần thiết của các loại hình này, đặc biệt đối với Việt Nam: Kinh tế ngày càng phát triển, kéo theo sự gia tăng về số lượng xe cơ giới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đó. Do cơ sở hạ tầng giao thông chật hẹp không đáp ứng kịp sự phát triển của phương tiện đi lại. Người dân điều khiển phương tiện không có ý thức chấp hành luật lệ giao thông nên số lượng xe cơ giới tăng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng tai nạn giao thông. Một khi tai nạn xảy ra không phải ai cũng có khả năng bồi thường cho người thứ ba để khôi phục lai lại tài sản đã bị thiệt hại. Để đáp ứng nhu cầu được bảo vệ của các chủ xe, để bảo vệ quyền lợi cho các nạn nhân, do đó loại hình bảo hiểm xe cơ giới ra đời. Bảo hiểm xe cơ giới được các nhà bảo hiểm triển khai ở miền Nam trước 1975, chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Sau 1975, loại hình này được tiếp tục duy trì ở thành phố Hồ Chí Minh và sau đó lan ra tồn miền Nam (1979) và cả nước (1980). Năm 1988, nghị định số 30/HDBT của hội đồng Bộ Trưởng và tiếp sau đó là NĐ 115/1997/NĐ-CP được ban hành đưa ra chế độ bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự đối với tất cả các chủ xe cơ giới. Việt Nam, bảo hiểm xe cơ giới thông thường gồm ba loại cơ bản sau: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Bảo hiểm vật chất xe. Bảo hiểm con người trong việc sử dụng xe. 1.2.2 Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận và bảo vệ quyền lợi bất khả xâm phạm về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mọi công dân. Vì vậy pháp luật buộc mọi người phải có trách nhiệm chung là không làm hại về tinh thần cũng như về vật chất của người khác. Nếu có hành vi vi phạm thì người bị thiệt hại được pháp luật bảo vệ có thể khiếu nại đòi bồi thường từ phía người gây thiệt hại. Xe cơ giới xếp vào nguồn gây nguy hiểm cao độ mà pháp luật qui định, do đó các chủ xe khó có thể tránh khỏi những sai sót làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Dĩ nhiên, lúc đó họ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với những sai sót đó mà ngay cả khi họ không có lỗi. Vậy có thể hiểu trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là phần trách nhiệm mà theo qui định của pháp luật một người hay nhiều người là chủ xe cơ giới phải bồi thường hậu quả đã gây ra cho một hay nhiều người hoặc đối tượng họ đảm nhận chuyên chở. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, hậu quả của trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự do việc sử dụng xe cơ giới gây ra là không thể bảo hiểm. Trong thực tế, trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới có thể biểu hiện dưới hai dạng là: TNDSCXCG trong hợp đồng và TNDSCXCG ngồi hợp đồng. Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ngồi hợp đồng. Như đã trình bày, TNDS là trách nhiệm bối thường thiệt hại. Trách nhiệm này phải phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Vậy trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ngồi hợp đồng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba trong các vụ tai nạn xe cơ giới gây ra. Tuy nhiên, trong thực tế, tại nạn do xe cơ giới gây ra có thể có nhiều nguyên nhân cho nên cần phải điều tra thật đầy đủ để xác minh rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Do đó, khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng cần chú ý một số trường hợp sau: Người lái xe gây ra tai nạn khi anh ta sử dụng vào việc riêng: Chủ xe vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng được đòi hỏi trách nhiệm của người lái xe. Tai nạn xảy ra khi xe đang giao cho người khác mượn: Người mượn phải bồi thường. Nếu chủ xe cho mượn cả lái xe thì chủ xe chịu trách nhiệm bồi thường. Tai nạn xảy ra khi xe lưu hành không có sự đồng ý của chủ xe: Người sử dụng không được phép của chủ xe phải bồi thường. Tai nạn do người vị thành niên gây ra: Họ không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì không có năng lực hành vi dân sự. Nếu người vị thành niên điều khiển xe gây tại nạn thì thông thường cha mẹ hoặc người dám hộ là người chịu trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng. Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng được xác định trên cơ sở những thỏa thuận dân sự giữa một bên là chủ xe với một bên là các đối tượng cần vận chuyển (hành khách, hàng hóa). Trách nhiệm này có thể đưa ra trên cơ sở quy định chung của pháp luật và có thể là những thỏa thuận riêng. Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng thường là trách nhiệm đối với hành khách trên xe và trách nhiệm đối với hàng hóa trên xe. Nội dung các loại hình bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo hiểm bắt buộc, được thực hiện theo nghị định số 115/1997/NĐ-CP ngày 17/12/1997 của Chính Phủ về chế độ bắt buộc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và quyết định 23/2003/QĐ-BTC (25/2/2003) của Bộ Tài Chính về việc ban hành quy tắc, biểu phí, mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe cơ giới. 1.2.3.1 Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 1.2.3.1.1 Khái niệm. Trong những vụ tai nạn giao thông đường bộ, trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm bắt buộc theo quy định của luật pháp, một người hay nhiều người phải bồi thường hậu quả của tai nạn đã gây ra cho một hoặc nhiều người khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba trong các vụ tai nạn xe cơ giới là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tài sản chung của xã hội, tài sản riêng của công dân hay tính mạng, sức khoẻ của người khác. Giải quyết bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là áp dụng một biện pháp thuộc về chế độ bắt buộc trách nhiệm dân sự. 1.2.3.1.2 Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự. Để giải quyết đúng đắn một vụ tai nạn giao thông, việc cần thiết đầu tiên phải là việc xác nhận rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh hay không. Cũng giống như việc xác nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng khác, trong trường hợp này thông thường trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phát sinh khi hội tụ đủ bốn điều kiện sau đây: Phải có thiệt hại: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét đến việc nghĩa vụ bồi thường có phát sinh hay không. Thông thường là thiệt hại về tài sản, tính mạng sức khoẻ con người. Những thiệt hại trên phải là những thiệt hại thực tế, thực sự xảy ra và có thể thanh tốn được. Tuy nhiên, những thiệt hại về con người là không thể tính tốn thành tiền được, ở những người khác nhau có thể khác nhau. Nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với những người bị thiệt hại và thân nhân của họ, tòa án có thể phán quyết bằng một khoản tiền nhất định. Phải có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật: Trong phạm vi phần này, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật được hiểu là hành vi gây tai nạn do không chấp hành hoặc chấp hành không đúng những quy định trong điều lệ về trật tự an tồn giao thông đường bộ. Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật này có thể đơn thuần chỉ là một vi phạm pháp luật về dân sự nhưng cũng có thể nặng hơn là một việc phạm pháp về hình sự. Trong trường hợp phạm pháp về hình sự, người gây tai nạn không những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải bị truy tố trước pháp luật. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại: Mối quan hệ này được hiểu là thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật, và ngược lại, hành vi trái pháp luật thực sự là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp hành vi trái pháp luật tuy không phải là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại đã xảy ra nhưng lại có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại thì được coi là mối quan hệ nhân quả với thiệt hại. Phải có lỗi của người gây thiệt hại: Đây là yếu tố quan trọng. Lỗi của người gây thiệt hại được đánh giá trên cơ sở độ sai phạm của anh ta. Người gây thiệt hại phải nhận thức được hoặc có thể nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật. Sau những vụ tai nạn giao thông đường bộ, mức độ lỗi của người gây ra tai nạn được đánh giá bằng việc xem xét, đo đạc hiện trường, kiểm tra phương tiện và kiểm tra lời khai nhân chứng của cơ quan chức năng. Dù người gây tai nạn là cố ý hay vô ý, họ đều có lỗi, tuy nhiên người gây tai nạn có thể thốt trách nhiệm nếu chứng minh được tai nạn xảy ra hồn tồn là do lỗi của nạn nhân. Cần lưu ý rằng, thông thường trách nhiệm dân sự sẽ phát sinh khi người gây tai nạn có lỗi trong việc điều khiển xe. Tuy nhiên có những trường hợp người gây tai nạn vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường khi anh ta không có lỗi. Đó là trường hợp tai nạn xảy ra vì cấu tạo của máy móc, vật liệu. 1.2.3.1.3 Đối tượng bảo hiểm. Là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng của chủ xe cơ giới gây ra. Trách nhiệm của chủ xe cơ giới bao gồm TNDS của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ lẫn trách nhiệm phát sinh do lỗi của người mà chủ xe giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đó. Đúng theo bản chất của BHTNDSCXCG đối với người thứ ba, đối tượng bảo hiểm sẽ không bao gồm những trường hợp sau: Thiệt hại xảy ra cho bản thân xe được bảo hiểm. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe xảy ra cho chủ xe, người điều khiển xe hoặc bật kì người nào khác đi trên xe được bảo hiểm. Thiệt hai của tài sản, hàng hố đang được chuên chở trên xe được bảo hiểm. Thiệt hại gây ra cho hai xe cùng chủ đâm va nhau. Trách nhiệm tài chính, trách nhiệm hình sự của lái xe. Các khoản tiền phạt mà chủ xe và lái xe phải chịu. 1.2.3.1.4 Phạm vi bảo hiểm. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có mục đích bảo hiểm cho những rủi ro thuộc về trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, những thiệt hại của bên thứ ba được xem xét bồi thường là những thiệt hại vật chất về người và những thiệt hại về tài sản được tính tốn theo những nguyên tắc nhất định. Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm được giới hạn trong phạm vi hạn mức trách nhiệm đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc đã ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Trong bảo hiểm dân sự của chủ xe, phạm vi bảo hiểm có thể mở rộng thêm với những rủi ro phụ. Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và theo yêu cầu của người được bảo hiểm mà nhà bảo hiểm có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm của mình cho những rủi ro khác. Giống như bất kì nghiệp vụ bảo hiểm nào, những bảo đảm bổ sung trong trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba kéo theo một khoản phí đóng thêm của người được bảo hiểm. 1.2.3.1.5 Loại trừ bảo hiểm. Nhà bảo hiểm còn có thể hoặc khước từ bồi thường hoặc áp dụng một số hình phạt đối với chủ xe, lái xe trong những trường hợp tai nạn xảy ra do họ đã vi phạm nghiêm trọng luật lệ giao thông: Xe không có giấy phép lưu hành. Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. Điều khiển xe trong tình trạng say rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác. Xe được sử dụng để chuyên chở chất cháy, chất nổ trái phép. Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định. Xe đi vào đường cấm. Xe có hệ thống lái bên phải. Xe đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao. DNBH không chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại, tổn thất xảy ra do: Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, hoặc của người bị thiệt hại. Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an tồn kỹ thuật và môi trường. Lái xe không có bằng lái hợp lệ (đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải có giấy phép lái xe); lái xe có nồng độ cồn, rượu, bia vượt mức quy định của pháp luật hiện hành, khi có kết luận bằng văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa (trừ khi có thoả thuận khác). Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm; xe đi đêm không có đủ đèn chiếu sáng theo quy định. Chiến tranh và các nguyên nhân tương tự chiến tranh. Thiệt hại có tính chất gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại. Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn. Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng bạc, đá quý, tiền và các loại giấy tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt. 1.2.3.1.6 Người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm hay là người thụ hưởng chính là nạn nhân, người bị thiệt hại hay còn gọi là người thứ ba khác. Khái niệm người thứ ba được sử dụng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là những nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông có thể là những người trực tiếp bị thương tật thân thể, cũng có thể là người có tài sản bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn. Tùy thuộc vào từng vụ tai nạn cụ thể, người thứ ba có thể một hay nhiều người, một thể nhân hay một pháp nhân dân sự hoặc thương mại. Tuy nhiên, không phải bất kỳ người nào là nạn nhân trong các vụ tai nạn cũng thuộc khái niệm người thứ ba. 1.2.3.1.7 Số tiền bảo hiểm. Là giới hạn mức trách nhiệm tối đa của nhà bảo hiểm cho một vụ tổn thất hoặc cho một năm tổn thất. Ơû Việt Nam số tiền bảo hiểm được tính theo vụ, bao gồm: Thiệt hại về người đối với người thứ ba: (người thứ ba là những người không phải là lái xe, người ngồi trên xe và sở hữu xe – trừ trường hợp chủ xe giao cho người khác chiếm hữu và sử dụng chiếc xe đó): Tối đa 30trđ/người/vụ (không giới hạn số người trong một vụ đâm va, không giới hạn số vụ đâm va trong một năm) Thiệt hại về tài sản đối với thứ ba: Tối đa 30trđ/vụ (không giới hạn số vụ đâm va trong một năm) 1.2.3.1.8 Phí bảo hiểm. Là số tiền đóng góp bắt buộc mà chủ xe phải có nghĩa vụ nộp cho NBH.Theo quy định, DNBH và chủ xe có trách nhiệm thực hiện theo biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu ban hành theo Quyết định 23. Ngồi ra Bộ Tài Chính cũng cho phép DNBH và chủ xe thoả thuận ở mức phí và mức trách nhiệm cao hơn (Điều 4, Quyết định 23). Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội ở từng thời kì và căn cứ trên lưu lượng xe mỗi năm cũng như số vụ tai nạn mà có sự điều chỉnh mức phí và mức trách nhiệm bảo hiểm sao cho phù hợp. Xét về khía cạnh kỹ thuật, theo GS-TS Hồ Xuân Phương, phí bảo hiểm xe cơ giới có thể được xác định theo phương pháp sau: Mức phí bảo hiểm / năm/ xe = Phí tuần + Phụ phí Phí thuần = Trong đó: Si : mức độ tổn thất bình quân thuộc trách nhiệm của NBH trong một vụ tai nạn năm thứ i. Ti : số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm của NBH , khi tính mức độ tổn thất bình quân Si, với những vụ tổn thất có mức độ vượt quá hạn mức trách nhiệm này thì chỉ được tính bằng hạn mức trách nhiệm. i = 1 " n: các năm lấy số liệu khảo sát. Phần phụ phí bao gồm những chi phí của NBH tính bình quân cho một phương tiện, những chi phí này bao gồm : hoa hồng ,môi giới ,chi phí quản lý hợp đồng, chi phí in ấn, trả lương,…… Và chi phí phụ khác và thuế. Nếu F là mức phí bảo hiểm phải đóng trong một năm, f là phí thuần, t là tỉ lêä phụ phí thì bảo hiểm có thể được xác định bằng công thức: F = Ngồi ra, khi xác định mức phí bảo hiểm, còn cần phải xem xét đến những yếu tố sau: Khu vực (vùng) hoạt động của xe. Loại xe và tuổi xe. Nghề nghiệp của lái xe. Tuổi đời và tham niên của lái xe. Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế cũng như điều kiện và khả năng thực thi mà NBH còn có những chế độ thưởng phạt. Chẳng hạn, để khuyến khích việc lái xe an tồn, NBH có thể sẽ giảm chi phí bảo hiểm phải đóng cho những chủ xe có nhiều năm không bị tai nạn. Ngược lại, NBH có thể áp dụng chế độ phạt đối với những chủ xe bằng việc tăng phí trong các trường hợp sau: + Lái xe ẩu bị nhiều tai nạn. + Xảy ra tai nạn trong tình hình say rượu, bia, ma tuý. + Chạy trốn sau tai nạn. + Vi phạm quy định về khai báo rủi ro, tổn thất. + Những vi phạm và man trá khác. Về việc hồn phí bảo hiểm, Điều 6 Quyết định 23 quy định : “ DNBH phải hồn trả lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian hủy bỏ, trừ trường hợp trong thời gian hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm liên quan đến chiếc xe có yêu cầu huỷ bỏ bảo hiểm.” Số tiền bồi thường : Số tiền bồi thường (STBT) được tính căn cứ vào lỗi của chủ xe và mức độ thiệt hại thực tế : STBT = Thiệt hại thực tế x mức độ lỗi của xe STBH Trong đó : Mức độ lỗi của xe : căn cứ vào hồ sơ tai nạn do CSGT hay cảnh sát điều tra cung cấp để xác định lỗi của chủ xe gây ra tai nạn : + Đối với những vụ tai nạn được giải quyết bằng thương lượng, hồ giải dân sự giữa các bên, CSGT nơi thụ lý tai nạn giao thông báo trước cho NBH thống nhất về phương pháp và cách thực hiện để buổi hồ giải có kết quả tốt, đồng thời cung cấp cho NBH hồ sơ tai nạn. + Đối với những vụ tai nạn giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự, trong vòng 30 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, cảnh sát điều tra sẽ cung cấp cho NBH kết quả điều tra tai nạn nhằm xác định lỗi và điều tra nguyên nhân của các bên có liên quan, đồng thời cung cấp chứng từ cần thiết để NBH có căn cứ pháp lý ban đầu để tạm ứng bồi thường. Thiệt hại thực tế của nạn nhân, bao gồm những thiệt hại về tài sản và những thiệt hại về người. Đối với những thiệt hại về tài sản, có thể chia làm hai trường hợp sau: + Trường hợp thứ nhất : Tài sản bị hư hỏng hồn tồn hoặc hư hỏng không thể sửa chữa được. Trong trường hợp này thiệt hại về tài sản được xác định bằng giá mua của tài sản cùng loại tương đương trên thị trường tự do hoặc chi phí hợp lý để làm lại tài sản đó. + Trường hợp thứ hai: Tài sản bị hư hỏng có thể sửa chữa được, thiệt hại được tính theo chi phí thực tế hợp lý để sửa chữa tài sản đó, nếu thì phải trừ đi giá trị hao mòn… Trong từng trường hợp còn phải tính đến lợi ích của chủ sở hữu tài sản trong việc sử dụng, khai thác tài sản đó. Theo điều 10, quyết định 23 có quy định là mọi tổn thất về tài sản sẽ được DNBH tiến hành giám định. Trường hợp chủ xe không thống nhất mức độ thiệt hại do DNBH xác định, hai bên sẽ thoả thuận chọn giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp thực hiện việc giám định. Kết luận của giám đinh viên được coi là kết quả cuối cùng. Trường hợp tài sản bị thiệt hại là những tài sản đặc biệt như vũ khí, trang thiết bị của lực lượng vũ trang … thì việc xác định thiệt hại phải dựa vào ý kiến của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đối với thiệt hại về người : Xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người là một công việc phức tạp bởi tính mạng con người là vô giá, sức khoẻ con người cũng khó thẩm định giá trị. Như vậy thiệt hại về tính mạng sức khoẻ con người chỉ có thể tính tốn đuợc nếu thống nhất một quan điểm đó là dựa vào hao phí vật chất để tạo điều kiện cho nạn nhân và gia đình họ có thể khắc phục được hậu quả tai nạn, ổn định đời sống. Theo quan điểm như vậy, để xác định thiệt hại về người một cách tương đối và hợp lý, có thể chia làm hai trường hợp sau đây: Trường hợp nạn nhân bị thương, được tính bằng những khoản chi phí sau: + Chi phí hợp lý cho việc cấp cứu, điều trị, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút… + Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc nạn nhân trong thời gian điều trị. Nếu người bị thiệt hại bị mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc nạn nhân và khoản tiền cấp dưỡng cho những người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng (nếu có). + Tuỳ từng trường hợp, thiệt hại về con người tính đến một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu như sự đau đớn về thể xác, sự hoảng loạn thần kinh… ngồi ra còn tính đến những chi phí đưa đón nạn nhân, phí tổn di chuyển bệnh viện, chi phí làm chân tay giả, mắt giả… Trường hợp nạn nhân bị chết, được tính đến những khoản sau: + Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc nạn nhân trước khi chết, mai táng phí hợp lý. + Tiền cấp dưỡng cho những người mà khi còn sống nạn nhân có nghĩa vụ cấp dưỡng như vợ, chồng, cha, mẹ, con … + Tiền bồi thường về tổn thất tinh thần cho những người thân thích, gần gũi nhất của nạn nhân. Trong trường hợp chủ xe có tham gia bảo hiểm trùng thì trách nhiệm của DNBH sẽ căn cứ theo tỷ lệ tương ứng với số tiền bảo hiểm mà DNBH đã nhận bảo hiểm. 1.2.3.2 Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hành khách trên xe. Đây cũng là loại hình bảo hiểm bắt buộc được thực hiện theo Nghị Định 115 và Quyết định 23. Tại Điều 5, nghị định 155 có quy định rõ: “ Chế độ BHTNDSCXCG quy định tại Nghị định này bao gồm bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng do xe cơ giới gây ra đối với người thứ ba, BHTNDSCXCG đối với hành khách trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách”. 1.2.3.2.1 Đối tượng bảo hiểm: Ngồi trách nhiệm dân sự đối với chủ xe cơ giới đối với những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của hành khách phát sinh trong qúa trình vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hành khách và chủ xe phải có nghĩa vụ bồi thường theo luật định . Tuy nhiên hiện nay có vài thay đổi đối với hoạt động kinh doanh vận tải hành khách. Theo Quyết định 19 ngày 3/2/2000 của Chính Phủ về việc bãi bỏ các loại giấy trái phép với quy định của luật doanh nghiệp thì các giấy trái phép sau trong lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ bị bãi bỏ: giấy phép vận tải hàng hố, giấy phép vận tải hành khách, giấy phép vận tải đường bộ. Mặt khác, theo Quyết định 729/1999/QĐ – BGTVT ngày 24/3/1999 của Bộ giao thông vận tải về quy chế hoạt động của chủ xe ô tô vận tải hành khách theo phương thức hoạt động. Theo quyết định này có hai phương thức đối với chủ xe kinh doanh vận tải hành khách: xe vận chuyển hành khách có bán vé tại bến bãi và vận chuyển hành khách theo hợp đồng. 1.2.3.2.2 Người được bảo hiểm: Là những hành khách trên xe cơ giới có đăng ký kinh doanh vận chuểyn hành khách bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ trong quá trình vận chuyển. 1.2.3.2.3 Số tiền bảo hiểm – phí bảo hiểm : Giống như BHTNDSCXCG đối với người thứ ba nhưng số tiền bảo hiểm chỉ tính đối với người thiệt mạng, không tính cho tài sản, hành lý của hành khách. 1.2.3.2.4 Phạm vi bảo hiểm – loại trừ bảo hiểm: Tương tự như BHTNDSCXCG đối với người thứ ba nhưng NBH chỉ chịu trách nhiệm bồi thường trong phạm vi số chỗ ngồi như đã kí kết trong hợp đồng bảo hiểm hay Giấy chứng nhận bảo hiểm. Số tiền bồi thường. Được tính như BHTNDSCXCG đối với người thứ ba nhưng chỉ tính đối với những thiệt hại về người. 1.2.3.3 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với hàng hố vận chuyển trên xe: Đây là loại bảo hiểm được thực hiện theo phương thức tự nguyện. Tuy nhiên, nhà nước khuyến khích các chủ xe tham gia để đảm bảo các an tồn cho các chủ xe và hàng hố. 1.2.3.3.1 Đối tượng bảo hiểm: Là trách nhiệm dân sự chủ xe đối với những thiệt hại của hàng hố chuyên chở trên xe. 1.2.3.3.2 Người được bảo hiểm: Chủ xe cơ giới có giấy phép đăng ký kinh doanh vận chuyển hàng hố hoặc người thuê xe kinh doanh vận chuyển hàng hố. 1.2.3.3.3 Số tiền bảo hiểm – phí bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm (STBH) được xác định theo số trọng tải đăng ký: STBH = Mức trách nhiệm bảo hiểm x số trọng tải đăng ký Hiện nay, mức bảo hiểm thấp nhất là 10 triệu đồng/ tấn / vụ với mức phí 60.000 đồng / tấn. Ngồi ra chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận theo mức trách nhiệm cao hơn. 1.2.3.3.4 Phạm vi bảo hiểm – loại trừ bảo hiểm : Phạm vi bảo hiểm : NBH nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe đối với hàng hố vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển giữa chủ xe và chủ hàng. Trách nhiệm dân sự chủ xe ởù đây là số tiền chủ xe phải chịu trách nhiệm bồi thường cho chủ hàng căn cứ theo “ thể lệ vận chuyển hàng hố bằng ô tô” ban hành kèm theo quyết định số 1690/QĐ – VT ngày 15/9/1990 của Bộ giao thông vận tải và bưu điện. Ngồi ra, DNBH còn thanh tốn cho chủ xe các chi phí cần thiết và hợp lý nhằm : Ngăn ngừa và làm giảm nhẹ tổn thất cho hàng hố khi xảy ra tai nạn. Bảo quản, xếp dỡ lưu kho, lưu bãi hàng hố trong quá trình vận chuyển do hậu quả của tai nạn. Giám định tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Loại trừ bảo hiểm : ngồi các loại trừ đã nêu ở phần BHDSCXCG đối với người thứ ba , DNBH không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong những trường hợp: Xe chở hàng trái phép Chủ xe, lái xe không có trách nhiệm trong việc trông coi, bảo quản hàng. Xe không thích hợp với loại hàng chuyên chở. Mất cắp Bắt giữ của cơ quan chức năng Hàng hố hư hỏng tự nhiên do không đủ phẩm chất, do bao bì đóng gói, sắp xếp không đúng yếu cầu kỹ thuật. 1.2.3.3.5 Số tiền bồi thường (STBT): Thiệt hại thực tế của Mức độ lỗi STBT = Hàng hố vận chuyển X của chủ xe <= STBH Nếu bồi thường 100% thì sau khi bồi thường NBH có quyền lưu hành thu hồi giá trị của hàng hố. Ngồi ra NBH còn chi đòi đối với người thứ ba có lỗi và khi tính thiệt hại thực tế được áp dụng mức miễn thường. KẾT LUẬN CHƯƠNG I Trong cuộc sống chúng ta luôn phải đối mặt với những rủi ro đang rình rập ở mọi lúc mọi nơi, khi xã hội càng văn minh, hiện đại thì tổn thất phải gánh chịu từ những rủi ro tiềm ẩn càng thường xuyên và thảm khốc hơn. Dù muốn hay không mỗi chúng ta luôn phải đuơng đầu với những rủi ro mà không thể biết trước được mức độ thiệt hại mà nó gây ra, chính vì lẽ đó, bảo hiểm ra đời và khẳng định được vai trò quan trọng của nó trên tồn xã hội. Vì mục đích tốt đẹp của bảo hiểm mà nhà nước đưa vào loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Nó rất cần thiết đối với đời sống xã hội. Nó thay mặt chủ nhân thực hiện trách nhiệm dân sự đối với người bị thiệt hại mà không phải bất kỳ chủ nhân nào cũng đủ khả năng thực hiện trách nhiệm dân sự đó, góp phần khắc phục những hậu quả tài chính sau những vụ tai nạn do xe cơ giới gây ra. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX (PJICO SÀI GÒN). 2.1 GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM PETROLIMEX. 2.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển. Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX là một doanh nghiệp được thành lập vào ngày 15/06/1995 theo quyết định số 4 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, được phép kinh doanh mọi dịch vụ bảo hiểm trên phạm vi tồn lãnh thổ Việt Nam và quốc tế: Bao gồm các cổ đông lớn: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam-Petrolimex, Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, công ty tái bảo hiểm quốc Gia Việt Nam, Tổng Công Ty Thép Việt Nam, Công Ty Vật Tư Và Thiết Bị Tồn Bộ, Công Ty Điện Tử Hà Nội, CĐ Liên Hiệp Đường Sắt Việt Nam, Công Ty Thiết bị An Tồn. Các công ty này đều là những tổ chức kinh tế lớn nhà nước, có tiềm năng và cả uy tín trong và ngồi nước. Sau 8 năm hoạt động đã thiết lập được mạng lưới phục vụ rộng rãi khắp tồn quốc gồm chi nhánh và văn phòng đại diện. Trong số đó Pjico Sài Gòn là một trong những đơn vị hoạt động hiệu quả nhất và đóng góp nhiều nhất vào sự phát triển của công ty. Bảng 1: Thị phần của các công ty bảo hiểm ĐƠN VỊ BẢO HIỂM DOANH THU 2002 THỊ PHẦN 2002 Bảo Minh Sài Gòn 260 tỷ đồng 42% Bảo Việt Sài Gòn 148 tỷ đồng 24.1% Pjico Sài Gòn 40 tỷ đồng 6.5% Allianz 35 tỷ đồng 5.7% Bảo Long 32 tỷ đồng 5.2% PTI 30 tỷ đồng 4.9% UIC 25 tỷ đồng 4.08% VIA 15 tỷ đồng 2.45% BIDV 15 tỷ đồng 2.45% PVI 13 tỷ đồng 2.12% TỔNG CỘNG 613 tỷ đồng 100% Nguồn: Kế hoạch hoạt động kinh doanh năm Với lợi thế nằm ngay TP.HCM là địa bàn mà kinh tế phát triển nhất nước và đội ngũ cán bộ năng động, có kinh nghiệm, chiếm thị phần đáng kể trong 10 công ty cạnh tranh trên cùng địa bàn. Biểu 1: Doanh số tăng tăng trưởng của Pjico Nguồn: Báo cáo hoạt động của Pjico Mục tiêu đặt ra cho Pjico Sài Gòn là phải giữ vững vị trí và ngày càng nâng cao thị phần của Pjico tại địa bàn TP.HCM. Qua 8 năm hoạt động Pjico Sài Gòn đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Từ 7 cán bộ nhân viên trong những ngày đầu tại trụ sở 12 Lê Duẩn, đến nay Pjico Sài Gòn đã xây dựng được một đội ngũ trên 70 cán bộ nhân viên và hệ thống mạng lưới cộng tác viên, tổng đại lý, đại lý họat động tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Bến Tre,…Tổng doanh thu phí bảo hiểm Pjico Sài Gòn đạt gần 250 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân là 30.6% năm. Pjico Sài Gòn đã nhanh chóng triển khai rộng rãi các nghiệp vụ bảo hiểm trong các lĩnh vực bảo hiểm hàng hải, phi hàng hải. Số lượng khách hàng của Pjico Sài Gòn ngày một nhiều, thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Nhiều khách hàng, công trình lớn đã tham gia bảo hiểm ở Pjico Sài Gòn như: Diamod Plaza, Harbour View, BP Petco, Dệt Thái Tuấn, tàu chở dầu của ILACO, đội tàu của vận chuyển xăng dầu của VITACO. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động. Để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, việc chăm sóc khách hàng là mục tiêu hàng đầu của Pjico Sài Gòn, chính vì thế Pjico Sài Gòn đã triển khai bộ máy tổ chức, mạng lưới kinh doanh của mình trên tồn vùng. Sau 8 năm hoạt động, những ngày đầu thành lập chỉ với 7 CBCNV với 90% có trình độ Đại Học. Đội ngũ CBCNV năng động, được đào tạo chính quy, hiện công tác tại 8 phòng đại diện khu vực TP.HCM. Ngồi ra, Pjico Sài Gòn đã có trên 100 Đại lý, Tổng Đại lý, Cộng tác viên. Phương hướng tới, Pjico Sài Gòn sẽ mở rộng hoạt động tại một số tỉnh, Khu công nghiệp lớn, đặc biệt tại khu vực TP.HCM sẽ phủ kín các phòng BH Khu vực tại các Quận Huyện. Sơ đồ 1: bộ máy tổ chức Pjico Sài Gòn. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CHI NHÁNH PJICO SÀI GÒN PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÒNG BẢO HIỂM PHI HẰNG HẢI PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH PHÒNG QUẢN LÝ NGHIỆP VỤ PHÒNG BẢO HIỂM HẰNG HẢI PHÒNG BH KHU VỰC 1 PHÒNG BH KHU VỰC 2 PHÒNG BH KHU VỰC 3 PHÒNG BH KHU VỰC 4 PHÒNG BH KHU VỰC 6 PHÒNG BH KHU VỰC 7 PHÒNG BH KHU VỰC 8 PHÒNG BH KHU VỰC 9 GIÁM ĐỐC ÑAÏI LYÙ & COÄNG TAÙC VIEÂN Quy mô họat động. Với đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên nghiệp, năng động và tận tụy, đến nay Pjico đã phát triển về mọi mặt và thực sự trở thành một công ty bảo hiểm quốc gia với hệ thống phục vụ tồn quốc bao gồm 30 chi nhánh, 400 văn phòng đại diện, tổng đại lý và đại lý khắp cả nước. Ngay sau khi thành lập, Pjico nhanh chóng tiếp cận thị trường, triển khai trên 50 sản phẩm bảo hiểm và đang chiếm lĩnh thị trường trong các lĩnh vực như: Giao thông vận tải, xây dựng và lắp đặt công trình, xăng dầu và bảo hiểm xe cơ giới. Nghiệp vụ bảo hiểm hằng hải: Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, đường bộ, đường sông, đường hàng không. Bảo hiểm thân tàu. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu. Bảo hiểm nhà thầu đóng tàu.- Bảo hiểm tàu sông. Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải. Bảo hiểm xe cơ giới. Bảo hiểm kết hợp con người. Bảo hiểm học sinh, giáo viên. Bảo hiểm bồi thường cho người lao động. Bảo hiểm hành khách. Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản. Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng lắp đặt. Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp. Bảo hiểm máy móc. Bảo hiểm trách nhiệm. Bảo hiểm hổn hợp tài sản cho thuê. Nghiệp vụ tái bảo hiểm. Nhượng và nhận tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm. Các hoạt động khác. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan tới bảo hiểm: Giám định, điều tra, tính tốn phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba. Hợp tác đầu tư, tín dụng liên doanh liên kết với các bạn hàng trong và ngồi nước. 2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty và phương hướng hoạt động trong những năm tới. Tình hình kinh doanh của công ty năm 2003 có sự biến chuyển rất tích cực, giữ được nhịp độ tăng trưởng ở mức cao trên 51%. Thị phần của công ty cũng có xu hướng ổn định ngày càng tăng. Nộp ngân sách nhà nước 4,8 tỉ đồng, đời sống CBCNV được nâng lên đạt bình quân 2,8 triệu đồng/người/tháng. Biểu 2: tỷ trọng các nghiệp vụ bảo hiểm Biểu 3: Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh của Pjico năm 2003 Phương hướng hoạt động của Pjico năm 2004: Tập chung phấn đấu trở thành nhà bảo hiểm xe cơ giới chuyên nghiệp Thay đổi cơ cấu tổ chức của công ty phù hợp với nhu cầu hội nhập Hồn hảo ở khâu bồi thường. Năm 2004 mở thêm 2 đến 3 văn phòng mới. Chỉ tiêu tổng doanh thu phí bảo hiểm Pjico Sài Gòn là 70 tỉ đồng. Thu nhập bình quân người lao động: 3 triệu đồng/người/tháng. 2.2 MÔI TRƯỜNG KINH TẾ XÃ HỘI VÀ PHÁP LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI. 2.2.1 Môi trường kinh tế – xã hội. 2.2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam và thị trường bảo hiểm Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây khá cao, năm 2003 tình hình xã hội xấu đi do gặp dịch SARS bùng nổ ở châu Á nhưng GDP của Việt Nam vẫn đạt ở mức tăng tưởng cao là 7,24% đứng thứ 2 trên thế giới ( sau Trung Quốc) Bảng 2: Tốc độ tăng và cơ cấu GDP (%) Năm Tốc độ tăng (tính theo giá so sánh) Cơ cấu (tính theo giá thực tế) Tổng số Nông lâm nghiệp -thủy sản Công nghiệp-xây dựng Dịch vụ Tổng số Nông lâm nghiệp -thủy sản Công nghiệp - xây dựng Dịch vụ 2001 6,89 2,98 10,39 6,10 100,00 23,25 38,12 38,63 2002 7,04 4,06 9,44 6,54 100,00 22,99 38,55 38,46 2003 7,24 3,20 10,34 6,57 100,00 21,80 39,97 38,23 Nguồn: tổng cục thống kê Giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tồn ngành năm 2003 tăng được 10,34% cao hơn năm 2002 là 0,9%, cơ cấu trong GDP của công nghiệp – xây dựng năm 2003 là 39,97% tăng hơn năm 2002 là 1,42% . Đại dịch SARS năm 2003 đã làm cho doanh thu của ngành du lịch giảm . Điều đó đã ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ: 6,57% - chỉ tăng 0,03% so với năm 2002. cơ cấu trong GDP của ngành dịch vụ năm 2003 giảm 3,23% so với năm 2002 Ngành nông lâm nghiệp – thuỷ sản năm 2003 tăng 3,2%, tốc độ tăng giảm hơn so với năm 2002, cơ cấu của ngành nông lâm nghiệp – thuỷ sản cũng giảm. 2.2.1.2 Tình hình thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong năm 2003 ngành bảo hiểm Việt Nam tiếp tục có bước phát triển ổn định và vững chắc với tổng doanh thu phí bảo hiểm tồn thị trường ước đạt trên 10.490 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2002. trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 3.990 tỷ đồng , tăng 26% so với năm 2002 và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt trên 6500 tỷ đồng tăng gần 41% so với năm 2002. các doanh nghiệp bảo hiểm đã củng cố các nghiệp vụ mới, nâng cao chất lượng phục vụ, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau đã được cải thiện. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có 24 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia hoạt động, trong đó có 18 doanh nghiệp bảo hiểm gốc, một doanh nghiệp tái bảo hiểm, cùng với sự xuất hiện các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngồi như liên doanh bảo hiểm Việt-Úc, lên doanh bảo hiểm Bảo Minh-CMG, Groupama, hay các công ty 100% vốn nước ngồi như Manulife, Prudential, Allianz, đã làm thay đổi căn bản của ngành bảo hiểm ở trong cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ. Điều này minh chứng cho sự tăng trưởng mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam . Bảo hiểm phi nhân thọ – một năm nhiều thuận lợi. Năm 2003, với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,24%, xuất khẩu tăng 28%, nhập khẩu tăng 22%, đầu tư nước ngồi đã phục hồi và đạt mức tăng trưởng 30%, vốn đầu tư trong nước cũng tăng mạnh. Dường như các điều kiện thuận lợi về phát triển kinh tế trên đã góp phần tích cực vào việc phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển ngành bảo hiểm đến năm 2010 đã được Chính Phủ ban hành có tác dụng định hướng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh của đơn vị mình. Nghị định về xử phạt vật chất trong kinh doanh bảo hiểm được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Theo số liệu thống kê của Vinare, tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tồn thị trường năm 2003 đạt khoảng 3990 tỉ đồng, tăng 26% so với năm trước. Cũng trong năm 2003, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có thêm một công ty bảo hiểm phi nhân thọ (công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông) và ba công ty môi giới bảo hiểm được cấp giấy phép, trong đó có công ty nước ngồi là Gras Savoye. Ngồi trường hợp của Gras Savoye, các công ty mới thành lập này đều thuộc thành phần kinh tế tư nhân ra đời sau khi có định hướng của thủ tướng chính phủ cho phép các thành phần kinh tế không thuộc nhà nước tham gia bảo hiểm. Biểu 4: doanh thu phí bảo hiểm Nguồn: tổng cục thống kê. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu có doanh thu phí tăng 35% chủ yếu do yêu cầu tăng phí của các hội bảo hiểm tương hỗ quốc tế và một phần do số tàu tham gia bảo hiểm tăng. Các dịch vụ bảo hiểm khác có tốc độ tăng trưởng tương đương như những năm trước như bảo hiểm cháy 17%, bảo hiểm hàng hải 17%, bảo hiểm thân tàu 10%. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới có mức tăng trưởng đột biến trong 6 tháng đầu năm, tuy nhiên trong 6 tháng cuối năm đã có phần chững lại, tốc độ tăng trưởng cả năm ước đạt 40%. Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm, kể cả các công ty môi giới bảo hiểm diễn biến có chiều hướng phức tạp. Đây được xem là khúc mắc lớn nhất chưa được giải quyết triệt để trong hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ kể từ trước đến nay. Đối với bảo hiểm cháy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, cạnh tranh mang tính phi kĩ thuật diễn ra dưới hình thức giảm tỉ lệ phí, tăng hoa hồng, giảm mức khấu trừ, mở rộng điều kiện, điều khoản, đặc biệt là ở các dịch vụ khai thác từ các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Mức độ cạnh tranh càng quyết liệt hơn vào giai đọan cuối năm khi mà các dịch vụ tái bảo hiểm lớn, các dịch vụ có vốn đầu tư nước ngồi chuẩn bị tái tục cho năm mới. Trong bảo hiểm thân tàu, tình hình cạnh tranh gay gắt khiến cho tỷ lệ phí áp dụng cho một số tàu mới đưa vào khai thác rất thấp, không tương xứng với rủi ro được bảo hiểm và có trường hợp không đủ để trả phí tái bảo hiểm ra nước ngồi. Thách thức năm 2004: Năm 2004 sẽ là một năm mà ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ phải đối đầu với nhiều thách thức. Chính Phủ đặt quyết tâm lớn cho phát triển kinh tế trong năm 2004 với tốc độ tăng trưởng là 8,2%. Riêng với ngành bảo hiểm, việc mở cửa hơn nữa thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngồi nước tham gia vào thị trường, vì đó có nghĩa là việc cạnh tranh sẽ càng lớn hơn, đồng thời cũng là một thách thức lớn hơn. Đặc biệt, vị thế của ngành bảo hiểm trong việc quyết định Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2005 hay không cũng đang được đặt ra bởi trong các phương án đàm phán, lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm, bỏ phân biệt đối xử và bình đẳng trong hoạt động bảo hiểm là một trong những điều kiện tiên quyết. Như vậy, trong thời gian tới chắc chắn cánh cửa của thị trường bảo hiểm sẽ mở rộng và nếu doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam không chuẩn bị kĩ càng sẽ mất đi khả năng cạnh tranh ngay trên sân nhà. Theo khẳng định của bà Nguyễn Thị Băng Tâm, thứ trưởng bộ tài chính, năm 2004 sẽ chính thức xố bỏ dần cơ chế độc quyền bảo hiểm theo từng ngành như hiện nay. Tất cả các công ty bảo hiểm đều có quyền khai thác các dịch vụ ngang nhau trên tinh thần hiệu quả phục vụ, trách nhiệm hoạt động và uy tín với khách hàng là yếu tố quyết định. Bộ tài chính dự kiến sẽ điều chỉnh tăng vốn điều lệ cho Bảo Việt từ 586 tỷ đồng hiện nay lên 3000 tỷ đồng vào năm 2005 và lên 5000 tỷ đồng vào năm 2010. Các chỉ tiêu được đề ra: tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24% trên một năm. Tỷ trọng doanh thu phí của tồn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010. Đến năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002 và tạo việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. 2.2.1.3 Mạng lưới giao thông đường bộ. Bảng 3: tình hình xe cơ giới tham gia giao thông qua các năm. NĂM Tổng số Ô tô Mô tô 1992 1.974.261 270.036 1.074.225 1993 2.720.062 292.899 2.427.163 1994 3.330.000 330.000 3.000.000 1995 3.918.935 340.779 3.578.156 1996 4.595.250 386.976 4.208.274 1997 5.244.978 417.768 4.827.210 1998 5.643.000 443.000 5.200.000 1999 6.051.000 465.000 5.586.000 2000 6.965.562 486.608 6.478.954 2001 8.916.134 557.092 8.359.042 2002 10.880.401 607.401 10.273.000 2003 12.054.000 675.000 11.379.000 Nguồn: Tạp chí Bảo Việt Bảng 4: Tình hình tai nạn giao thông. Năm Số vụ Số người chết Số người bị thương T/L số người trên 100.000 xe cơ giới 1992 8.165 2.755 9.040 13,9 1993 11.678 +23,6% 4.350 +29,9% 12.590 +13,7% 15,9 1994 13.118 +10,9% 4.533 +4,8% 13.056 +10% 13,6 1995 15.376 +17,2% 5.430 +19,3% 16.920 +29,5% 13,8 1996 19.075 +24% 5.581 +2,7% 21.556 +27,3% 12,1 1997 19.159 +0,4% 5.680 +1,8% 21.905 +1,6% 10,8 1998 19.975 +4,3% 6.067 +6,8% 22.723 +3,7% 10,7 1999 20.733 +3,8% 6.670 +9,9% 23.911 +5,2% 10,9 2000 22.486 +8,5% 7.500 +12,4% 25.400 +6,2% 10,7 2001 25.040 +11,3% 10.477 +39,6% 29.188 +14,9% 11,7 2002 27.134 +8,3% 12.800 +22,15% 30.733 +5,3% 11,8 2003 19.852 -28,2% 11.319 -9,4% 20.400 -35,2% 9,4 Nguồn: Tạp chí Bảo Việt. Qua số liệu thống kê ở bảng trên có thể thấy tai nạn giao thông ở Việt Nam có những đặc điểm sau: Năm 1995, số vụ tai nạn xảy ra hơn 15.000, năm 1996 số vụ tăng khá cao, lên đến hơn 19.000; từ năm 1997 đến năm 2000 số vụ làm chết bình quân 6.500 người, riêng 2001 số người chết đột biến (10.866 người). Năm 2003 tai nạn giao thông giảm xuống (-9,4%), số bị thương giảm xuống (-35,2%). Năm 1993: xe máy tăng 42,42% (tăng 722.938 xe), năm 2000 xe máy tăng 11,6% và số người chết cũng tăng theo. Năm 2001 xe máy tăng 29,61% (1.880.088 Xe), số người chết vì tai nạn đường bộ cũng tăng theo: 39,69%. Xe máy chiếm 95% tổng số phương tiện cơ giới đường bộ và tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn (TP.HCM: 2.200.000 chiếm 27% số xe tồn quốc, Hà Nội 1 triệu xe máy). Năm 2003 là năm thiết lập lại trật tự an tồn giao thông, kết quả năm 2003 số vụ tai nạn so với 2002 giảm 7.802 vụ (giảm 28%), số lượng người chết giảm 1.178 người (giảm 9,4%), số người bị thương giảm 35,2%. Môi trường pháp lý: Các văn bản luật: Hiện nay, điều chỉnh hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới gồm các văn bản luật sau: 2.2.2.1 Bộ luật dân sự . Bộ luật dân sự ra đời có quy định về bồi thường thiệt hại như sau: Về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng : Trường hợp thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, ngồi chi phí cứu chữa nạn nhân, việc mất giảm thu nhập, chi phí hợp lý khác, bộ luật dân sự còn quy định: Tuỳ trường hợp, tồ án quyết định buộc người xâm phạm đến sức khỏe của người khác phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu (điểm 4 điều 613). Tuỳ từng trường hợp, tòa án tòa án quyết định buộc người gây thiệt hại do xâm phạm tính mạng phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người thân thích gần gũi nạn nhân (điểm 4, điều 614). Về thời hạn hưởng tiền cấp dưỡng trong trường hợp nạn nhân bị thiệt hại sức khỏe tính mạng thì hiện nay các công ty bảo hiểm cũng đang gặp một số khó khăn về tính tốn tiền bồi thường. Bộ luật dân sự, điều 616 quy định: Trường hợp người bị thiệt hại mất hồn tồn khả năng lao động, thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến chết. Trường hợp người bị thiệt hại chết, thì người mà người này cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong các trường hợp sau đây: + Người chưa thành niên hay đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng bồi thường cho đến khi 18 tuổi, trừ trường hợp người từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân. + Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến chết. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại chủ xe, bộ luật dân sự, điểm 1, điều 627 quy định: xe cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ nên chủ xe phải tuân thủ các quy định của pháp luật và phải bồi thường thiệt hại do xe cơ giới gây ra ngay cả khi không có lỗi. Do đó, việc bồi thường của người bảo hiểm sẽ tăng theo đến hết mức trách nhiệm tối đa. Về bồi thường thiệt hại theo hợp đồng: Bộ luật dân sự không chỉ quy định trách nhiệm của bên vận chuyển phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho hành khách trên xe mà còn mua bảo hiểm TNDS đối với hành khách theo quy định của pháp luật ( điều 553). Ngồi ra, nghĩa vụ bên vận chuyển hàng hóa phải mua BHTNDS đối với tài sản theo quy định của pháp luật ( điểm 4, điều 542 ). 2.2.2.2 Luật kinh doanh bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời đã tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc và một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ta. Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất đối với thị trường bảo hiểm nước ta vì trong suốt hơn 37 năm tồn tại và phát triển các doanh nghiệp nước ta chỉ hồn tồn dựa vào các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, luật kinh doanh bảo hiểm ra đời đã ảnh hưởng đến các văn bản ban hành trước đây cũng như việc thực hiện các văn bản này sau khi có luật, đặc biệt là đối với các văn bản BHTNDSCXCG. Các văn bản dưới luật. Nghị định 115/CP và quyết định 23 của bộ tài chính và hai văn bản mới nhất điều chỉnh hoạt động của nghiệp vụ BHTNDSCXCG. Quyết định 23 với những quy định mới về điều khoản loại trừ bảo hiểm có ý nghĩa tích cực trong việc mở rộng phạm vi bảo hiểm. Như vậy, hiện nay những xe đã tham gia bảo hiểm gây ra tai nạn ngồi lãnh thổ Việt Nam, xe đi đêm không đủ đèn chiếu sáng… vẫn nằm trong phạm vi bảo hiểm. Ngồi ra, với quyết định mới này, việc quy định về thời gian yêu cầu bồi thường; thời hạn khiếu nại bồi thường đã phù hợp vơi những quy định trong luật kinh doanh bảo hiểm. 2.2.3 Môi trường nghề nghiệp. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập vào ngày 9/7/1999 thực hiện chức năng là cầu nối giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thực hiện cơ chế tự quản, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hợp tác trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong hai năm 2002, 2003 hoạt động của hiệp hội đã có nhiều cố gắng nhằm thực hiện tốt chức năng và vai trò của mình, đặc biệt là những nỗ lực nhằm thực hiện triệt để Nghị định của chính phủ số 115/1997/NĐ-CP ngày 17/12/1997 về CĐBBTNDSCXCG. Tuy nhiên vai trò “trọng tài” của hiệp hội phụ thuộc rất lớn vào ý thức chấp hành của mỗi hội viên. Mặt khác, năng lực hiện tại của hiệp hội còn quá bất cập so với nhiệm vụ đặt ra (chỉ có 3 cán bộ chuyên trách ). Do vậy, dù rất cố gắng nhưng hiệu quả đạt được còn rất thấp so với yêu cầu của công ty hội viên cũng như của thị trường, nhiều vấn đề đã thông qua ở hiệp hội mà một số doanh nghiệp vẫn vi phạm. Hơn nữa việc thông tin cho nhau giữa các DNBH để tránh bảo hiểm trùng chưa được làm tốt và chưa bảo vệ quyền lợi của nạn nhân của các vụ tai nạn giao thông mà chủ xe bỏ trốn. Tuy nhiên, đối với nghiệp vụ BHTNDSCXCG thì có sự cố gắng lớn của hiệp hội, đặc biệt ngày 27/05/1998, hiệp hội đã ban hành bản thỏa thuận số 02HTBH về mức trách nhiệm và phí bảo hiểm tự nguyện và vào tháng 4/2001 đã được hiệp hội thông qua bổ sung sửa đổi. Hiệp hội cũng đang trong thời gian dự thảo biểu thống kê BHTNDSCXCG. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh, cùng nhau hợp tác phát triển. 2.3 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX (PJICO SÀI GÒN). 2..3.1 Tình hình khai thác: 2.3.1.1 Mục đích, ý nghĩa khai thác. Bất kì công ty bảo hiểm thương mại nào hoạt động cũng vì mục đích lợi nhuận và không ngừng gia tăng lợi nhuận. Công cụ khai thác bảo hiểm đóng một vai trò rất quan trọng trong việc kinh doanh bảo hiểm. Nó không những mang lại lợi nhuận cho công ty bảo hiểm mà còn có tác dụng rất tích cực trong việc hạn chế rủi ro hay tổn thất khi rủi ro xảy ra trong tồn xã hội, bởi vì ngồi việc khai thác bảo hiểm còn phải yêu cầu đồng thời hướng dẫn khách hàng đề phòng và hạn chế rủi ro góp phần giảm thiểu tổn thất cho cả cộng đồng. Ngồi ra, ở nước ta hiện nay ý thức tự tìm mua bảo hiểm của khách hàng (mặc dù có nhu cầu) còn kém, do đó công tác khai thác và tiếp cận khách hàng là rất quan trọng đối với các công ty bảo hiểm, nhất là khi thị trường đang có sự cạch tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm. 2.3.1.2 Quy trình khai thác. Sơ đồ 2: Qui trình khai thác Lập kế họach khai thác Đánh giá THỐNG KÊ Khách hàng mới Khách hàng cũ Giải đáp thắc mắc Thông báo tái tục Giấy yêu cầu Bảo hiểm Giám định rủi ro, tính phí Thiết lập hợp đồng, thu phí, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm Trước khi tiếp xúc với khách hàng, nhân viên khai thác hoặc đại lý bảo hiểm phải có bước nghiên cứu sơ bộ khách hàng nhằm nắm những thông tin cần thiết về khách hàng như: khách hàng mới hay cũ, các loại hình bảo hiểm nào sẽ được chào bán. Nếu là khách hàng mới: Sau khi có những thông tin cần thiết về khách hàng, khai thác viên (KTV) hoặc đại lý bảo hiểm (ĐLBH) chủ động tiến hành tiếp xúc với khách hàng, cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết có liên quan đến loại hình bảo hiểm mà khách hàng có nhu cầu bao gồm: quy tắc bảo hiểm, biểu phí, giấy yêu cầu bảo hiểm và giải đáp thắc mắc cho khách hàng. KTV không được áp đặt mức trách nhiệm hoặc phí bảo hiểm cho khách hàng mà phải hướng dẫn cho khách hàng chọn lựa đáp ứng nhu cầu của họ. Hiện nay, biểu phí của công ty có bốn mức trách nhiệm trong đó có một mức trách nhiệm bắt buộc tối thiểu của Bộ tài chính là 30/30 (Mức trách nhiệm tối đa về người là 30tr đ/người/vụ, về tài sản là 30tr đ/vụ) và ba mức trách nhiệm tự nguyện còn lại là 30/80, 50/80, 50/100. Sau đó, KTV xin số hợp đồng ở bộ phận thống kê, lập hợp đồng bảo hiểm và thu phí. Còn đối với khách hàng lẻ thì cần cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu là khách hàng cũ: Thông thường những khách hàng cũ là các doanh nghiệp nhà nước, các công ty, hợp tác xã… tham gia bảo hiểm với giá trị lớn. Chính vì những điều này mà các doanh nghiệp bảo hiểm khác luôn chú ý, mời tham gia bảo hiểm với các điều khoản ưu đãi như mức phí,… nhưng trên thực tế thì khách hàng cần nhất là chất lượng phục vụ cho nên KTV phải thường xuyên quan tâm và giúp đỡ khách hàng khi gặp khó khăn và đồng thời thực hiện những chiến lược chiêu khách, chiêu hàng, khuyến mãi như: Khi nhận thông tin về tai nạn, tổn thất phản hồi từ khách hàng thì KTV phải quan tâm và giúp đỡ khách hàng, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục để giám định bồi thường. Khai thác viên thiết lập hệ thống tái tục hợp đồng bảo hiểm khi hợp đồng cũ sắp hết hạn ( khoảng bốn tuần ), đây chính là khoảng thời gian quan trọng nhất trong việc tái tục hợp đồng, nên KTV phải thường xuyên liên lạc với khách đồng thời gởi cho khách một bản thảo hợp đồng tái tục đầy đủ cùng một thư mời tái tục hợp đồng. Nếu khách hàng muốn tái tục hợp đồng thì KTV làm thêm những công việc liên quan để soạn lại hợp đồng mới trong đó có thể thay đổi một số điều khoản bởi: Nếu khách hàng thay đổi nhu cầu bảo hiểm như : mức trách nhiệm, số lượng người tham gia bảo hiểm… thì yêu cầu khách hàng cung cấp thêm những thay đổi đó. Tuy nhiên đối với những khách hàng lớn, những khách đã mua bảo hiểm nhiều năm ở công ty mà không xảy ra tổn thất sẽ được xem xét giảm phí để khuyến khích khách hàng gắn bó với công ty. 2.3.1.3 Đánh giá tình hình thực hiện. 2.3.1.3.1 Doanh số khai thác. Bảng 5: Doanh số khai thác của PJICO qua các năm. (Đơn vị: 1.000.000 đ) DANH MỤC NĂM 2001 2002 2003 1. Tổng thu phí bảo hiểm TNDSCXCG 4219 6769 14036 a. Đối với người thứ ba 4119 6635 13912 Ô tô 4077 6080 9988 Gắn máy 42 555 3924 b. Đối với hành khách trên xe 5 7 7 c. Đối với hàng hóa vận chuyển trên xe 95 127 117 2. Tổng thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3442 5964 8965 Ô tô 3439 5964 8953 Gắn máy 3 0,195 12 3. Tổng thu phí bảo hiểm tai nạn 684 1033 1270 Hành khách 5 7 18 Con người theo chỗ ngồi trên xe và tài phụ xe 679 1026 1252 TỔNG 8345 13766 24271 Phí Gốc Tồn Nghiệp Vụ 27611 36026 52788 Tỷ trọng phí bh (TNDSCXCG/XCG) 50,56% 49,17% 57,83% Tỷ trọng phí bh (TNDSCXCG/Phí Gốc) 15,28% 18,79% 26,59% Tỷ trọng phí bh (XCG/Phí Gốc) 30,22% 38,21% 45,98% Nguồn: Tổng hợp và báo cáo của Pjico. 2.3.1.3.2 Đánh giá: Bảo hiểm xe cơ giới là nghiệp vụ mạnh nhất của Pjico, Pjico rất chú tâm vào thị trường bảo hiểm xe cơ giới và đang muốn trở thành nhà bảo hiểm xe cơ giới chuyên nghiệp. Con đường mà Pjico đang chọn được các nhà chuyên môn đánh giá là đi đúng hướng, qua con số thống kê cho thấy Pjico đã được đền bù xứng đáng. Ta thấy phí bh XCG/Phí gốc tăng đều qua các năm. Biểu 5: Tỷ trọng phí bảo hiểm XCG trong phí gốc qua các năm. Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Nguồn: báo cáo hoat động kinh doanh cuả Pjico Tỷ trọng phí bảo hiểm XCG trong phí gốc tăng trung bình gần 10%, đến năm 2003 tỷ trọng đã chiếm gần 46%, con số rất cao. Tuy nhiên không ngẫu nhiên mà tỷ trọng tăng như vậy mà có sự nỗ lực của tồn thể công ty và năm 2003 là năm nở rộ của bảo hiểm xe cơ giới. Đó cũng là cơ hội để công ty bảo hiểm Pjico phấn đấu trở thành nhà bảo hiểm xe cơ giới chuyên nghiệp. Ta thấy tỷ trọng phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong phí bảo hiểm xe cơ giới là khoảng 50% ở năm 2001, có phần chững lại năm 2002. Do có sự kiểm tra gắt gao bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự nên năm 2003 phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự có sự tăng mạnh trở lại, gần 9%. Tuy nhiên nếu nói về số tuyệt đối thì so với tiềm năng của tồn thị trường thì tổng thu phí về bảo hiểm trách nhiệm dân sự chưa cao, bởi vì với lượng xe cơ giới lưu thông ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận hiện nay rất lớn; đặc biệt Chính Phủ qui định về hai loại hình bảo hiểm bắt buộc đó là bảo hiểm TNDS đối với người thứ ba và bảo hiểm TNDS đối với hành khách vận chuyển trên xe. Do vậy cần phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền dến người dân đồng thời nâng cao nghiệp vụ cho khai thác viên nhằm khai thác triệt để loại các loại hình bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới. Những khó khăn, vướng mắc của công ty trong lĩnh vực khai thác. Chưa thực hiện được trình độ chuyên môn hóa khai thác, một người được quyền bán hết tất cả các dịch vụ nào mà mình tiếp cận được. Việc này cũng có phần ưu điểm là thuận lợi cho khách hàng vì thường một khách hàng có thể tham gia nhiều loại hình bảo hiểm, nhưng nó cũng có yếu điểm là cán bộ không chuyên sâu dẫn đến chất lượng dịch vụ không tốt. Hiện nay công việc điều tra rủi ro là rất kém, đôi khi không điều tra mà chỉ nghe theo khai báo của khách hàng ( khai báo không trung thực mục đích sử dụng xe ). Chẳng hạn xe tốc hành, taxi có cường độ hoạt động cao, mức độ rủi ro rất cao nhưng vẫn bán bảo hiểm như những xe khác, thậm chí khi bán qua hợp tác xã, qua ngân hàng với số lượng lớn vẫn còn giảm phí. Phần lớn các đại lý, cộng tác viên chỉ quan tâm đến việc bán bảo hiểm để nhận hoa hồng nên chỉ nhắm vào các đối tượng có phí lớn ( chẳng hạn đối với bảo hiểm vật chất, thì quan tâm đến loại TNDS) nên dịch vụ mang lại kém. Theo quy tắc và phí biểu hiện nay thì không có sự khác biệt giữa bảo hiểm bắt buộc với bảo hiểm tự nguyện. NĐBH khi tham gia mức tự nguyện thì chỉ được tăng thêm phần trách nhiệm bảo hiểm do mua mức cao còn tất cả những quy định, phạm vi bảo hiểm đều phải sử dụng theo quy tắc BHBBTNDSCXCG của Bộ Tài Chính ban hành vì vậy đã không khuyến khích NĐBH tham gia mức cao. Tình hình giám định. 2.3.2.1 Mục đích và ý nghĩa giám định. Giám định là một quy trình được thực hiện nhằm xác định nguyên nhân tai nạn có thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hay không. Giám định xác định mức độ tổn thất từ đó làm cơ sở cho việc hồn chỉnh hồ sơ bồi thường tiếp theo. Bên cạnh đó, giám định còn giúp cho việc tổng hợp được các nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông để có biện pháp xử lý và đề phòng tai nạn, hạn chế tổn thất cũng như phục vụ công tác tính phí khi khai thác. 2.3.2.2 Quy trình giám định. Sơ đồ 3: Quy trình xử lý tai nạn, giám định và xét bồi thường Nắm bắt thông tin Mệnh lệnh sơ bộ Dự kiến phương án và chuẩn bị giám định Thu thập và hướg dẫn chủ xe thu thập hồ sơ khiếu nại Tiến hành giám định Phân loại, xác định thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm Cùng chủ xe đánh giá sơ bộ thiệt hại, lựa chọn phương án khắc phục thiệt hại Bồi thường toàn bộ Bồi thường theo đánh giá thiệt hại Sữa chữa thiệt hại Đánh giá giá trị còn lại và thiệt hại Khảo sát thống nhất giá trị thiệt hại Lập và thống nhất dự toán sữa chữa Thu hồi tài sản Đối trừ Tiến hành sữa chữa Làm thủ tục chuyển giao tài sản Chủ xe cam kết chấm dứt đòi bồi thường Thu cũ hoặc đối trừ Giám định bổ sung Xử lý tài tài sản thu hồi Hoàn chỉnh hồ sơ Bồi thường Quyết toán nghiệm thu 2.3.2.2.1 Nhận tin và xử lý thông. Khi tiếp nhận thông tin tai nạn cần nắm rõ những nội dung sau : Tình hình tai nạn: biển kiểm sốt xe, tên chủ xe, thời gian bị nạn, địa điểm xảy ra tai nạn, sơ bộ ban đầu về tai nạn, thiệt hại ban đầu, điện thoại liên lạc… Đã báo cho cơ quan chức năng nào chưa? Đã có biện pháp nào hạn chế tổ thất chưa? Hiện trạng có giữ nguyên không?... Xác định loại hình tham gia bảo hiểm, thời hạn, mức trách nhiệm. Sau khi nhận tin, giám định viên hướng dẫn chủ xe hoặc lái xe: Tiến hành các biện pháp nhằm hạn chế tổn thất. Bảo vệ hiện trường tai nạn, tài sản. Khai báo với cơ quan, chính quyền địa phương để tham gia giải quyết tai nạn. Thống nhất cùng chủ xe, lái xe về thời gian, địa điểm giám định (trường hợp vụ việc phức tạp cần thuê cơ quan giám định chuyên nghiệp đi cùng). Tuy nhiên cán bộ giám định chỉ được phép tiến hành giám định khi có sự phân công của lãnh đạo trực tiếp quản lý trong phạm vi phân cấp. 2.3.2.2.2 Tiến hành công tác giám định. Kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ: Giấy chứng nhận bảo hiểm, đăng ký xe, giấy kiểm định an tồn kỹ thuật, giấy phép lái xe và những chứng từ liên quan khác. Chụp hình giám định thiệt hại: Giám định viên cần tiến hành công tác chụp hình giám định thiệt hại đảm bảo các hình ảnh thể hiện nội dung sau: Thể hiện được tồn cảnh của hiện trường tai nạn, hoặc tồn bộ khung cảnh bị tai nạn. Hình ảnh thể hiện rõ biển kiểm sốt xe bị tai nạn, những chi tiết các bộ phận hư hỏng, hàng hố bị hư từng loại. Nếu là nguyên nhân loại trừ thì phải thể hiện rõ những chi tiết kỹ thuật để chứng minh. Hình ảnh phải được dán thành 1 bảng ảnh theo kết cấu tổng thành xe cơ giới và ghi rõ có đánh dấu những thiệt hại và thuyết minh thiệt hại đó (cuối bản ảnh phải ghi rõ tên cán bộ chụp và ngày tháng năm chụp, ký ghi rõ họ tên). Lập biên bản giám định: Đây là khâu quan trọng đòi hỏi phải tỉ mỉ, không bỏ sót, thể hiện được các thiệt hại, mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả xảy ra. Có thể lập biên bản thiệt hại sơ bộ ban đầu, sau đó, nếu cần thiết thì tiên hành giám định chi tiết, để phục vụ công tác bồi thường đúng, đủ chính xác tùy theo mức độ thiệt hại nặng nhẹ của tai nạn. Nội dung biên bản (theo mẫu đính kèm). 2.3.2.2.3 Giám định thiệt hại. Giám định thiệt hại vật chất xe: Trường hợp thiệt hại nhẹ, nguyên nhân đơn giản và rõ ràng, bằng quan sát giám định viên có thể đánh giá, xác định mức độ thiệt hại, lập biên bản giám định đơn giản và một lần. Trường hợp thiệt hại phức tạp, hư hỏng nhiều cụm chi tiết khó đánh giá bằng quan sát thông thường thì ngồi biên bản giám định lần đầu còn phải lập thêm bản giám định thiệt hại chi tiết bổ sung trong quá trình sữa chữa. Biên bản giám định phải lập theo hệ thống, theo cấu tạo xe hoặc theo tổng thành. Trường hợp hư hỏng nặng, mức độ thiệt hại lớn ( liên quan đến các chi tiết máy bên trong, các cụm tổng thành đắt tiền như động cơ, hộp sô…, việc giám định bổ sung sẽ được thực hiện khi tháo rời, biên bản bổ sung này sẽ được kèm theo đề xuất phương án sữa chữa bổ sung. Khi lập biên bản này cần phải ghi thêm số máy, số khung, số trục sơ, số sản xuất của bộ phận bị thiệt hại để đối chiếu với lý lịch hoặc sổ đăng ký sở hữu tài sản. Chú ý : Trường hợp tai nạn có dấu hiệu trừ nguyên nhân loại trừ bảo hiểm, có thể phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn, điều tra kỷ thuật hình sự hoặc của viện kiểm sát ( cần nghiên cứu kỹ điều khoản loại trừ của các quy tắc bảo hiểm xe cơ giới của Pjico để liên hệ với biên bản giám định mà có kết luận nguyên nhân thuộc phạm vi bảo hiểm hay không. Giám định thiệt hại hàng hóa trên xe: Trước hết giám định viên cần xác định xem hàng hóa trên xe có tham gia bảo hiểm hay không. Lập biên bản giám định thiệt hại ( tốt nhất là tại hiện trường ): xác định số lượng, trọng lượng, chủng loại hàng hóa trên xe, cách đóng gói, xếp hàng, số hàng hóa hư hỏng, rơi vải, mất… Đánh giá, phân loại, tổng hợp thiệt hại. Cùng chủ hàng, chủ xe đàm phán, đánh giá phương án giải quyết Hướng dẫn chủ xe đền bù cho khách hàng. Thu thập các chứng từ cần thiết cho việc bồi thường TNDS về hàng hóa của chủ xe đối với chủ hàng hóa ( hóa đơn, chứng từ đền bù, sữa chữa…). Thu hồi hàng hóa cũ, hỏng ( nếu cần thiết ). Giám định thiệt hại tài sản người thứ ba: Nếu tài sản là xe cơ giới : thì như giám định thiệt hại vật chất xe. Nếu tài sản là loại đặc chủng vượt quá khả năng chuyên môn thì sau khi giám định sơ bộ cần mời cơ quan chuyên môn khác. Trường hợp tổn thất liên quan đến con người trên xe và người thứ ba khác: Cần dựa vào các chứnh từ của cơ quan y tế có thẩm quyền và của cơ quan có chức năng khác (giấy ra viện, bệnh án, chứng tử, chứng thương, biên bản của hội đồng giám định y khoa, phim chụp X-quang…). 2.3.2.2.4 Hướng dẫn chủ xe, lái xe thực hiện tiếp những công việc sau khi giám định. Sau giám định, cần hướng dẫn chủ xe thực hiện tiếp các công việc sau: Hướng dẫn chủ xe thu thập đầy đủ các giấy tờ, chứng từ cần thiết để khiếu nại bồi thường ngay từ lúc tiếp nhận thông tin tai nạn hoặc trong quá trình giám định. * Ví dụ : Chứng nhận bảo hiểm, đăng ký xe, bằng lái, đăng kiểm xe… Hướng dẫn chủ xe tiến hành cẩu kéo, bảo vệ tài sản… Trước khi sữa xe, chủ xe phải cùng Pjico thỏa thuận phương án sữa chữa, giá sửa chữa, nơi sửa chữa… Trong trường hợp có liên quan đến người thứ ba, cần nhắc nhở chủ xe phải có trách nhiệm đòi người thứ ba hoặc có giấy ủy quyền đòi người thứ ba cho Pjico. 2.3.3 Tình hình bồi thường. 2.3.3.1 Mục đích và ý nghĩa bồi thường. Bồi thường là khâu cuối cùng để hòan thành một sản phẩm bảo hiểm, chính bồi thường thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm. Việc giải quyết bồi thường nhanh gọn, chính xác và kịp thời sẽ giúp cho người được bảo hiểm, khắc phục những khó khăn tài chính, đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất không bị gián đọan, bù đắp được phần nào tổn thất về vật chất và tinh thần của nạn nhân và gia đình họ. Hơn nữa, việc bồi thường kịp thời góp phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội. Còn đối với nhà bảo hiểm thì uy tín sẽ được nâng cao và giúp cho viêc khai thác được dễ dàng, thuận lợi hơn. 2.3.3.2 Qui trình bồi thường. 2.3.3.2.1 Hướng dẫn chủ xe, lái xe lập hồ sơ bồi thường. Sau giám định, cần hướng dẫn chủ xe thực hiện tiếp các công việc sau: Hướng dẫn chủ xe thu thập đầy đủ các giấy tờ, chứng từ cần thiết để khiếu nại bồi thường ngay từ lúc tiếp nhận thông tin tai nạn hoặc trong quá trình giám định. Hồ sơ bao gồm: BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hành khách trên xe: hồ sơ gồm: Tờ khai tai nạn của chủ xe. Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm. Giấy tờ liên quan đến xe (giấy phép lưu hànhm giấy phép lái xe, giấy đăng ký xe. Biên bản giám định. Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường. Biên bản khám nghiệm xe. Biên bản kết luận điều tra tai nạn Biên bản hòa giải (trường hợp hòa giải) Quyết định của tòa án (nếu có) Các chứng từ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba (nếu có) Các giấy tờ để giải quyết thiệt hại. Về người: Hóa đơn chứng từ, viện phí, các chi phí y tế liên quan đến việc điều trị, tiền tàu xe, mai táng phí, giấy chứng nhận thu nhập của nạn nhân (có xác nhận của chính quyền địa phương). Về tài sản: Dự tốn hợp đồng sữa chữa, các chứng từ liên quan đến việc sửa chữa, mua mới tài sản bị thiệt hại. Biên bản giám định, ảnh chụp thiệt hại chi tiết. Thông báo tai nạn giao thông (nếu cần tạm ứng ban đầu) Biên bản thống kê thiệt hại, hóa đơn, hợp đồng, bản nghiệm thu sửa chữa. Sơ đồ hiện trường, biên bản kê khai của lái xe, phụ xe, do GĐV lập (các vụ việc không có cơ quan giải quyết). Cách tính bồi thường theo hướng dẫn của 1873/PHH năm 4997 và 1274/QLNV 2000 của công ty ban hành. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới: Hồ sơ gồm: Tờ khai tai nạn của chủ xe. Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm. Giấy tờ liên quan đến xe (giấy phép lưu hành, giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe) Biên bản giám định. Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường. Biên bản khám nghiệm xe. Biên bản kết luận điều tra tai nạn Biên bản hòa giải (trường hợp hòa giải) Quyết định của tòa án (nếu có) Các chứng từ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba (nếu có) Các giấy tờ giải quyết thiệt hại: dự tóan, hợp đồng sửa chữa thay thế của xe sau tai nạn. Các chứng từ liên quan khác. Chú ý khi xét bồi thường vật chất xe: những bộ phận được thay thế mới, hoặc đã được bồi thường tòan bộ giá trị xe thì phải thu hồi lại những bộ phận bị hư hỏng đó hoặc đối trừ trong bản tính bồi thường. Cách tính bồi thường theo hướng dẫn của 1873/PHH năm 4997 và 1274/QLNV 2000 của công ty ban hành. Bảo hiểm tai nạn nguời ngồi trên xe và lái phụ xe: hồ sơ gồm: Tờ khai tai nạn của chủ xe. Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm. Giấy tờ liên quan đến xe (giấy phép lưu hành, giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe) Biên bản giám định. Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường. Biên bản khám nghiệm xe. Biên bản kết luận điều tra tai nạn Các giấy tờ liên quan đến người thứ ba (nếu có) Giấy tờ để giải quyết thiệt hại người: Hóa đơn chứng từ viện phí, mai táng phí. Thông báo tai nạn giao thông (nếu cần tạm ứng ban đầu) Cách tính bồi thường theo hướng dẫn của 1873/PHH năm 4997 và 1274/QLNV 2000 của công ty ban hành. Bảo hiểm TNDS của chủ XCG đối với hàng hóa vận chuyển trên xe: Tờ khai tai nạn của chủ xe. Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm. Giấy tờ liên quan đến xe (giấy phép lưu hành, giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe) Biên bản giám định, ảnh chụp thiệt hại (chi tiết) Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường. Biên bản khám nghiệm xe. Biên bản kết luận điều tra tai nạn Biên bản hòa giải (trường hợp hòa giải) Quyết định của tòa án (nếu có) Các chứng từ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba (nếu có) Giấy đăng ký kinh doanh vận chuyển hành hóa. Các giấy tờ để giải quyết thiệt hại. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa giữa chủ xe với chủ hàng. Các hóa đơn chứng từ, hóa đơn liên quan đến giá trị hàng hóa, sửa chữa, chi phí hợp lý nhằm ngăn ngừa, giảm nhẹ tổn thất cho hàng hóa, bảo quản xếp dỡ, lưu kho bãi, giám định tổn thất. Biên bản thống kê thiệt hại xe. Các chứng từ có liên quan khác. Cách tính bồi thường theo hướng dẫn của 1873/PHH năm 4997 và 1274/QLNV 2000 của công ty ban hành. 2.3.3.2.2 Tiến hành bồi thường. Có hai phương án: Phương án 1: Bồi thường theo chi phí thực tế giới hạn bằng mức trách nhiệm bảo hiểm bao gồm các chi phí sau: Chi phí hợp lý cứu chữa nạn nhân: Chi phí cấp cứu bao gồm : chi phí cấp cứu ban đầu, chi phí lưu chuyển bệnh viện, chi phí đi lại khám chữa thương tích của nạn nhân, chi phí đi lại của người chăm sóc (nếu phải có). Các chi phí y tế khác liên quan đến việc điều trị tai nạn như : tiền thuốc, máu, dịch truyền, chụp phim, chi phí phẫu thuật, làm chân tay giả, mắt giả, viện phí… Tiền bồi dưỡng, tiền công chăm sóc nạn nhân: Tiền bồi dưỡng(TBD): TBD = 0.1% * MTN/ngày * số ngày điều trị Số ngày điều trị : tính từ ngày bị tai nạn cho đến khi vết thương điều trị ổn định nhưng tối đa không quá 180 ngày. Chi phí mai táng : là những khoản chi cho việc đưa tang, chôn cất người chết, tìm kiếm xác (nếu có), các khoản chi trên giải quyết theo chi phí thực tế nhưng tối đa không vượt quá 50% mức trách nhiệm bảo hiểm. Mất giảm thu nhập: Thu nhập làm cơ sở tính mất hoặc giảm thu nhập là thu nhập thực tế ổn định ít nhất 6 tháng liền của bản thân nạn nhân trước khi xảy ra tai nạn. Sau khi xảy ra tai nạn, nếu nạn nhân còn thu nhập thì mức chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi xảy ra tai nạn là thu nhập bị giảm. Trường hợp không xác định được mức giảm có thể bồi thường theo tỷ lệ giảm sút sức khỏe nhân với mức thu nhập thực tế trước khi xảy ra tai nạn. Tỷ lệ giảm sút sức khỏe được căn cứ vào biên bản giám định y khoa hoặc căn cứ vào bản quy định tỷ lệ thương tật bốn hạng ban hành kèm theo thông tư số 32/TT/LB ngày 27/11/1985 của bộ Y tế – thương binh xã hội. Sau khi xảy ra tai nạn nếu nạn nhân không còn thu nhập nữa thì thu nhập bị mất là thu nhập trước khi xảy ra tai nạn, trường hợp này thường xảy ra với nạn nhân bị thương nặng, tàn phế không thể phục hồi được. Trong thời gian điều trị thương tích, nếu nạn nhân bị mất hoặc giảm thu nhập thì cũng được giải quyết bồi thường cho thời gian đó. Thu nhập bị mất đối với gia đình nạn nhân là thu nhập của nạn nhân trừ đi phần chi tiêu của nạn nhân khi còn sống thì tạm thời quy định mức chi tiêu cho nạn nhân là 60%, phần còn lại chi tiêu nuôi dưỡng gia đình là 40%. Trường hợp khi còn sống nạn nhân không có trách nhiệm nuôi dưỡng hay trợ cấp cho người khác thì không phải bồi thường mất thu nhập cho gia đình nạn nhân. Thời gian tính bồi thường mất giảm thu nhập thông thường được tính là 3 năm. Trong trường hợp nạn nhân là lao động chính phải nuôi dưỡng hay trợ cấp cho nhiều người, gia đình thực sự khó khăn thì thời gian tính đến 5 năm. STBT = các chi phí trên * mức độ lỗi của chủ xe tham gia bảo hiểm và giới hạn bằng mức trách nhiệm Phương án 2 : Bồi thường theo định mức khốn: Trong thực tế nhiều trường hợp chủ xe quá khó khăn trong việc thu thập các chứng từ chi phí hoặc không có điều kiện thu thập đầy đủ thì áp dụng cách trả tiền bảo hiểm theo định mức. STBT = ( Tỷ Lệ Trả Tiền Bảo Hiểm * MTN * Mức Độ Lỗi Của Chủ Xe Tham Gia Bả Hiểm) (Tỷ lệ trả tiền BH * MTN * Mức độ lỗi của chủ xe tham gia bảo hiểm )> Số tiền chủ xe bồi thường cho nạn nhân thì STBT = Số tiền bồi thường của Chủ xe cho nạn nhân. Số tiền bồi thường của chủ xe cho nạn nhân phải được cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết tai nạn giao thông xác nhận Trường hợp chết : Căn cứ vào chi phí thực tế mà chủ xe và lái xe phải bồi thường cho gia đình nạn nhân( chi phí này được các cơ quan chức năng có thẩm quyền xác nhận ) và so sánh mức trách nhiệm bảo hiểm để tính tốn bồi thường. ( Chi phí thực tế x Mức độ lỗi của chủ xe) mà nhỏ hơn hoặc bằng MTN thì STBT = Chi phí thực tế. ( Chi phí thực tê(* Mức độ lỗi của chủ xe ) mà lớn hơn MTN thì STBT = MTN. Chú ý : Đối với hành khách trên cơ sở hợp đồng vận chuyển cũng được tính bồi thường theo các mục trên. 2.3.3.3 Đánh giá tình hình bồi thường. 2.3.3.3.1 Tình hình bồi thường : Bảng 6: Tình hình bồi thường của Pjico qua các năm. DANH MỤC NĂM TỶ LỆ 2001 2002 2003 2003/2002 1. Chi bồi thường bảo hiểm TNDSCXCG 2056 4045 5694 40,77% a. Đối với người thứ ba 2046 4025 5569 38,36% Ô tô 2026 3986 5433 36,3% Gắn máy 20 39 136 248,72% b. Đối với hành khách trên xe 0 5 13 160% c. Đối với hàng hóa vận chuyển trên xe 10 15 112 646,67% 2. Chi bồi thường bảo hiểm vật chất XCG 1594 4125 6118 48,32% Ô tô 1594 4125 6118 48,32% Gắn máy 0 0 0 0 3. Chi bồi thường bảo hiểm tai nạn 73 292 283 -3,08% Hành khách 0 10 25 150% Con người theo chỗ ngồi trên xe và tài phụ xe 73 282 258 -8,51% TỔNG 3723 8462 12095 42,93% Tỷ lệ chi bồi thường(TNDSXCG/XCG) 55,22% 47,8% 47% Tỷ lệ chi bồi thường(TNDSXCG/BH gốc) 14,76% 28,87% 26% Nguồn : tổng hợp và báo cáo của Pjico. 2.3.3.3.2 Đánh giá : Năm 2003, bồithường của tồn công ty tăng 42,93%, riêng đối với hàng hóa vận chuyển trên xe chi bồi thường tăng đến 646.67% một con số rất cao. Còn hành khách trên xe và xe gắn máy bồi thường cũng tăng rất cao từ 150% đến 248,72%. Tình hình bồi thường tăng cao như vậy cũng có mặt lợi và mặt hại : mặt lợi là tăng cao chất lượng và uy tín của sản phẩm bảo hiểm, làm cho khách hàng có cái nhìn tốt về bảo hiểm từ đó có ý thức về việc mua bảo hiểm, không còn nghĩ là bị lừa gạt. Còn mặt hại là làm cho tình hình kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến thua lỗ. Còn so về tỷ trọng bồi thường chiếm trong tồn ngành : Trong năm 2002 tổng chi bồi thường bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là 4.045 triệu đồng chiếm 47,8% tổng chi bồi thường xe cơ giới và chiếm 28,87% tổng chi bồi thường. Sang năm 2003 tổng chi bồi thường bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là 5.694 triệu đồng chiếm 47% tổng chi bồi thường xe cơ giới và chiếm 26% tổng chi bồi thường trong năm. Như vậy sang năm 2003 việc chi bồi thường BHTNDSCXCG tăng hơn các năm trước nhưng xét về tỷ trọng thì lại giảm. KẾT LUẬN CHƯƠNG II Pjico Sài Gòn là chi nhánh có doanh thu cao nhất của Pjico. Với chính sách mở cửa, hội nhập hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều công ty bảo hiểm đang hoạt động, cạnh tranh ngày càng quyết liệt và thị trường bảo hiểm ở phía nam là quyết liệt nhất đặc biệt là ở Thành Phố Hồ Chí Minh, trong đó nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là loại hình bảo hiểm cạnh tranh diễn ra gay gắt nhất. Với chi nhánh Pjico Sài Gòn mới thành lập tuy còn non trẻ nhưng doanh thu phí không ngừng tăng lên qua các năm trong đó bảo hiểm xe cơ giới có doanh thu cao nhất trong các nghiệp vụ bảo hiểm của chi nhánh, đó chính là kết quả không ngừng nỗ lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên của chi nhánh. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ gia nhập wto chúng ta mở cửa hồn tồn thị trường bảo hiểm nó tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức vì vậy công ty Pjico nói chung và chi nhánh Pjico Sài Gòn nói riêng cần nỗ lực hơn nữa trong việc khai thác, giám định, bồi thường, chăm sóc khách hàng chu đáo tận tình nhằm thu hút khách hàng. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIÊU QỦA HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX – SÀI GÒN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1 VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC. 3.1.1 Hồn thiện khung pháp lý cho hoạt động nghiệp vụ BHTNDSCXCG nói chung và chế độ BHBBTNDSCXCG nói riêng. Ơû nước ta hệ thống pháp luật có nhiều đặc điểm riêng, đó là các văn bản dưới luật thường ban hành trước các văn bản luật, làm cho hệ thống pháp luật cón nhiều bất cập, chồng chéo đôi khi còn trái ngược nhau. Nghị định 30 - HĐBT ra đời 1988 quy định bắt buộc mua BHTNDSCXCG, cho đến khi bộ luật dân sự ra đời năm 1995 mới được quy định thành luật. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải hạn chế ban hành những văn bản dưới luật trước khi ban hành các văn bản luật cũng như cần phải tránh việc mâu thuẫn lẫn nhau giữa các văn bản luật. Theo khoản 4, điều 542 của bộ luật dân sự có quy định về quyền và nghĩa vụ của bên vận chuyển : “ Mua BH TNDS đối với tài sản theo quy định của pháp luật”. Nhưng hiện nay, Nhà nước chưa có văn bản nào hướng dẫn việc thực hiện chúng, việc tham gia BH cho hàng hố chỉ phụ thuộc vào ý thức của chủ xe. Nghị định 115 là chế độ BHBB, tất cả mọi chủ xe đều phải tham gia BH kể cả người nước ngồi sử dụng xe trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, việc chủ xe không tham gia BH đầy đủ và dẫn đến việc không bảo vệ quyền lợi người bị thiệt hại là lỗi của các cơ quan kiểm sốt nhà nước. Nghị định 115 mới đầu đọc thấy có vẻ như mở rộng hơn nhưng khi phân tích thấy thu hẹp hơn Nghị định 30. Hơn nữa, nó trái với mục đích của việc bắt buộc, trái với luật dân sự là bảo vệ quyền lợi người bị hại do xe cơ giới nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ở Pháp, bồi thường trong BHTNDSCXCG gồm các khoản thiệt hại gia sản và ngồi gia sản. Trong đó thiệt hại ngồi gia sản chính là bồi thường về tinh thần. Chính vì vậy, để bộ luật dân sự có tính thực thi hơn và phù hợp với tập quán quốc tế, Nhà nước cần phải nghiên cứu để đưa vào điều khoản bồi thường thiệt hại tinh thần. Ơû nước ta, theo quyết định 229 và hiện nay là Quyết định 23/2003/QD (BTC có giới hạn mức trách nhiệm. Hơn nữa, con người lại có trách nhiệm ngang với hàng hố (30 triệu đồng/ người / vụ). Mặt khác, mức trách nhiệm cho một vụ tai nạn là quá thấp so với tình hình hiện nay. Vì vậy, Bộ Tài Chính cần phải nâng mức trách nhiệm tối thiểu lên cao hơn. 3.1.2 Kiểm tra, xử phạt một cách thường xuyên liên tục: Trong năm vừa qua việc kiểm tra, xử phạt vi phạm chế độ BHBBTNDSCXCG tại Tp.HCM nói riêng và cả nước nói chung đã tiến hành một cách nghiêm túc, điều này làm người dân mua BHBBTNDSCXCG nhiều hơn. Chính vì vậy, công tác kiểm tra, xử phạt phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục và đồng bộ trên cả nước, để tạo cho mọi người có thói quen mua BHTNDSCXCG. Do đó các doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Công An. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần trích ra một tỷ lệ phần trăm phí thích hợp nhằm chuyển giao cho cảnh sát giao thông để có kinh phí trong bồi dưỡng cán bộ, chi phí điều hành kiểm tra xử phạt một cách thuận lợi hơn. 3.1.3 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền: Việc tuyên truyền, phổ biến cho người dân hiểu rõ chế độ BHBBTNDSCXCG được quy định tại điều 12 của NĐ 115 do Bộ Văn Hố Thông Tin chịu trách nhiệm. Nhưng nhiệm vụ này của Bộ Văn Hố Thông Tin chưa được làm tốt, điều này thể hiện qua sự hiểu biết của người dân còn quá mập mờ, có rất nhiều người không biết đối tượng nào bị bắt buộc, loại nào là không bắt buộc và thậm chí, có người không hề biết có việc bắt buộc các chủ xe phải mua BH. Mục đích của BHBBTNDSCXCG là tốt đẹp và mang tính xã hội sâu sắc, nhưng làm thế nào để người dân hiểu được sự cần thiết của loại hình BHBB này và tự nguyện đi mua BH để bảo vêï quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình. Đó mới là mục tiêu chứ không phải cứ trông chờ vào áp lực của việc xử phạt của CSGT. Vì vậy, Bộ VHTT cần phải có kế hoạch cụ thể trong việc tuyên truyền BHBBTNDSCXCG đến với mỗi người dân, chẳng hạn như liên hệ với đài truyền hình trung ương và địa phương cũng như những phương tiện thông tin về BHBBTNDSCXCG sau mỗi chương trình nào đó vào những giờ có nhiều người theo dõi chương trình truyền hình. 3.1.4 Hạn chế tai nạn giao thông đường bộ Kiểm tra, xử phạt những người điều khiển phương tiện lưu thông và không có giấy phép. Tuyên truyền luật lệ an tồn giao thông, cần đưa môn luật giao thông thành môn học bắt buộc ở các cấp học. Môn học phải được coi là môn học chính khóa trong các trường và là môn thi bắt buộc như các môn khác. Xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng các con đường. Cấm lưu hành các loại xe cũ, hư hỏng. Tiến hành kiểm tra chất lượng kỹ thuật định kỳ. 3.2 VỀ PHÍA HIỆP HỘI BẢO HIỂM VIỆT NAM: Tăng cường năng lực của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để đủ sức đảm trách vai trò “ trọng tài” của các công ty hội viên. Về điểm này, muốn thực hiện được đòi hỏi cơ chế tài chính của hiệp hội phải được các hội viên tán thành, khuyến khích thu hút nhân tài về làm cho hiệp hội. Chúng ta cần có đội ngũ chuyên trách, giỏi về chuyên môn và ngoại ngữ. Cần có chính sách về tài chính thích hợp đủ lôi kéo được người có năng lực làm việc cho hiệp hội. Hiệp hội cần có quyền hạn đủ mạnh để xử phạt những hội viên vi phạm những thỏa thuận hợp tác. Muốn vậy, cần những quy định rất rõ ràng về mức phạt cho từng truờng hợp vi phạm. Mặt khác, các công ty là hội viên của hiệp hội phải được hưởng một số ưu đãi từ chính sách quản lý của nhà nước nhằm khuyến khích các công ty tham gia vào hiệp hội. Khi hiệp hội thực hiện tốt vai trò trọng tài, đẩy lùi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thì công việc của cơ quan nhà nước sẽ được giảm nhẹ. Đưa hoạt động kinh doanh bảo hiểm thành hoạt động có tổ chức thống nhất, phối hợp có hiệu quả cao với các tổ chức nghề nghiệp khác trong nền kinh tế cũng như hợp tác với các tổ chức bảo hiểm khác trên thế giới. Thúc đẩy công tác tuyên truyền tới rộng rãi quần chúng về sự có mặt của các hội viên cũng như hoạt động của các hội viên. Có hệ thống cảnh báo sớm cũng như đánh giá phân loại năng lực của các công ty bảo hiểm hiện đang hoạt động trên thị trường giúp khách hàng yên tâm khi đã quyết định lựa chọn các công ty bảo hiểm. Các doanh nghiệp hiện nay cạnh tranh không lành mạnh (chủ yếu là hạ phí, hoa hồng cao chứ không đi vào nâng cao chất lượng phục vụ). Ví dụ cá nhân tham gia bảo hiểm một lúc ở hai công ty cùng một loại hình bảo hiểm. Khi có tai nạn xảy ra cá nhân này đòi bồi thường ở cả hai công ty để tiến hành trục lợi, nếu hai công ty này không thông tin cho nhau mà cùng một lúc bồi thường đủ cho người này thì số tiền bồi thường người này nhận sẽ gấp đôi. Do vậy thông qua hiệp hội bảo hiểm các công ty bảo hiểm cần phải thông tin với nhau để tránh trường hợp khách hàng trục lợi bất chính. Khi có sự tranh chấp giữa khách hàng và công ty bảo hiểm về việc bồi thường thì cần có sự hồ giải của một bên có uy tín nhằm đảm bảo quyền lợi cho đôi bên. Do vậy hiệp hội cần thành lập một ban với đội ngũ là những chuyên gia giàu kinh nghiệm lành về nghiệp vụ để làm trung gian hồ giải một cách khách quan đem lại lòng tin cho khách hàng để họ mua bảo hiểm. Về phía công ty Pjico: Về mặt nghiệp vụ khai thác: Song song với việc trao dồi kiến thức chuyên môn, khai thác viên cần phải rèn luyện đạo đức nghề nghiệp và thái độ phục vụ đối với khách hàng. Khai thác viên không chỉ am hiểu sản phẩm của công ty mà còn nắm vững thông tin của đối thủ cạnh tranh, không chỉ giải đáp thắc mắc về loại hình bảo hiểm mà mình đang khai thác mà còn có thể biết và giải thích cho khách hàng những thắc mắc về bất kỳ loại bảo hiểm nào mà họ quan tâm mặc dù họ chưa có ý định mua. Khi bán bảo hiểm vật chất xe khai thác viên cần kiêm tra, chụp hình lưu giữ lại trong hồ sơ hợp đồng. Cần thống kê tình hình khai thác của mình, tìm ra mặt mạnh để tập trung khai thác triệt để đồng thời cố gắng tìm những thị trường còn bỏ ngỏ. Để duy trì và gia tăng số lượng xe gắn máy tham gia BH, Pjico cần phải: + Tổ chức thêm các điểm bán bảo hiểm tại khu vực dân cư, trường học, cơ quan, doanh nghiệp để tạo điều kiện cho việc tiếp nhận thông tin và tham gia bảo hiểm của người dân dễ dàng hơn. Hiện nay, rất nhiều công ty đã có hình thức chọn gia đình đại lý ở vị trí thuận tiện làm điểm giao dịch, vừa là nơi tập trung của nhóm đại lý, vừa làm điểm bán BH trực tiếp. + Tổ chức thuyết trình, giới thiệu về BH tại địa bàn. Xây dựng mối quan hệ giữa Pjico với lãnh đạo các đơn vị và những người có vai trò ảnh hưởng tới người khác. + Các phòng quản lý công ty có trách nhiệm thống kê theo dõi những đối tượng là những xe có giá trị cao, ít xảy ra tai nạn như xe nước ngồi, xe liên doanh, xe khối hành chính để đề ra mức phí phù hợp áp dụng cho đối tượng này. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng cáo về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và BHTNDSCXCG là việc làm đặc biệt cần thiết đối với nước ta, bảo hiểm còn rất xa lạ đối với người dân. Vì vậy, Pjico phải làm sao để tên tuổi của mình có vị thế trên thị trường, đẩy mạnh công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: tivi, radio, pano, áp phích quảng cáo trên các tuyến đường giao thông nơi công cộng hoặc nơi có nhiều người qua lại, in các tờ bướm cho mọi người tìm hiểu, in decal dán lên xe mỗi khi họ tham gia bảo hiểm. Về công tác giám định, bồi thường. Như chúng ta đã biết, mục đích của việc tham gia bảo hiểm của người dân là thấy được tác dụng lớn lao của bảo hiểm khi mang lại an tồn về tài sản và tính mạng của họ. Khi giám định viên nhận được thông tin tai nạn phải kiểm tra kỹ các giấy tờ cần thiết, nếu thấy không hợp lệ thì cần phải giải thích rõ ràng cho khách hàng hiểu, tránh trường hợp kiểm tra giấy tờ không kỹ càng, đến khi khách hàng thu thập thêm chứng từ thì mới phát hiện và lúc ấy từ chối cũng sẽ làm cho khách hàng mất thiện cảm, thậm chí tẩy chay và không tái tục hợp đồng bảo hiểm và như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác khai thác. Ngồi ra giám định viên cần phải luôn quan tâm, hướng dẫn khách hàng thu thập đầy đủ các giấy tờ và cần có sự cảm thông chia sẻ nhằm khắc phục tinh thần đối với khách hàng. Chi nhánh nên triển khai công tác trực và giải quyết tai nạn 24/24, có như vậy mới có thể nâng cao dịch vụ nhằm cạnh tranh với các công ty bảo hiểm khác. Bồi thường phải nhanh chóng, hữu hiệu phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo với thái độ cởi mở là một xu thế cạnh tranh với các công ty bảo hiểm khác. Trong trường hợp từ chối bồi thường thì nhân viên bồi thường phải giải thích thật rõ ràng cụ thể cho khách hàng hiểu rõ để họ khỏi phải có nhiều khúc mắc và thỏa mãn được vấn đề mà tai nạn của họ không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm phải bồi thường. Trong trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường thì cần phải hướng dẫn khách hàng thu thập đủ hồ sơ chứng từ một cách tận tình chu đáo thể hiện được sự nhiệt tình của nhân viên công ty. Để hồn thiện được công tác khai thác, giám định bồi thường thì đòi hỏi công ty phải luôn nâng cao trình độ, bồi dưỡng kiến thức cho nhân viên; bên cạnh đó cần phải có chế độ khen thưởng cho nhận viên làm việc tốt. Chi nhánh cũng cần quan tâm đến việc bồi thường tại hiện trường (giám định & bồi thường tại chỗ) đối với các trường hợp tai nạn nhỏ (ví dụ: dưới 1 triệu đồng), nhằm làm tăng tính hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới. Về công tác phòng và hạn chế tổn thất: Xây dựng đường lánh nạn ở những con đèo nguy hiểm, lắp gương cầu cho những khúc cua ngoặc, xây dựng hệ thống lan can đề phòng tai nạn ở những nơi gần vực thẳm, sông biển… Phối hợp với các công ty bảo hiểm khác có khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới để tìm ra biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất hiệu quả hơn. Kết hợp với các cơ quan hữu quan tuyên truyền, giáo dục về luật giao thông, truyền đạt kinh nghiệm đề phòng và hạn chế tổn thất hiệu quả hơn. Tóm lại, rủi ro tồn tại khách quan và nằm ngồi ý thức của con người, làm sao để hạn chế những tổn thất mất mát là điều rất có ý nghĩa đối với công ty bảo hiểm, đối với xã hội và cả người tham gia bảo hiểm vì không ai mua bảo hiểm mà lại muốn tổn thất xảy ra để nhận tiền bảo hiểm… KẾT LUẬN CHƯƠNG III Để thực hiện tốt nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, đặc biệt là bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Nhà nước cần phải hồn thiện khung pháp lý; tăng cường kiểm tra xử phạt; tuyên truyền hạn chế tai nạn giao thông đường bộ… Hiệp hội bảo hiểm cần nâng cao vai trò quan trọng của mình là làm trọng tài góp phần đẩy lùi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hiện nay, nâng cao tiền lương cho cán bộ hiệp hội để họ có trách nhiệm cao hơn đối với hiệp hội. Pjico Sài Gòn cần rà sốt lại quy trình giám định, bồi thường bỏ những thủ tục không cần thiết, nhằm giúp cho việc bồi thường được nhanh chóng chính xác, giúp khắc phục hậu quả tai nạn một cách nhanh chóng, mang lại niềm tin cao độ của khách hàng đối với công ty.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBH04.docx
Tài liệu liên quan