Đề tài Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp

Tài liệu Đề tài Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp: Lời mở đầu Đối với nền kinh tế Việt Nam, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Do đó, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. Nghị quyết Tru...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1037 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Đối với nền kinh tế Việt Nam, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Do đó, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đề ra những nội dung chủ đạo của việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước chỉ còn tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh. Để doanh nghiệp nhà nước thực hiện được nhiệm vụ này, cần phải tăng cường giám sát tài chính doanh nghiệp, trong đó, giám sát việc sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là rất quan trọng. Trong điều kiện hiện nay vốn ngân sách có giới hạn, Nhà nước càng cần phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn. Cục Tài chính doanh nghiệp là cơ quan được Nhà nước giao thống nhất quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp trong cả nước, đồng thời thực hiện vai trò chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Cục là quản lý vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Trong những năm vừa qua, Cục Tài chính doanh nghiệp đã ban hành các chính sách quản lý vốn nhà nước tương đối có hệ thống. Nhưng nội dung các chính sách này còn một số điểm chưa đầy đủ, hợp lý và chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, việc đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là rất cần thiết hiện nay. Từ sự cấp thiết đó, tôi xin chọn đề tài: “Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Trong luận văn này, tôi chỉ đề cập đến công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Luận văn được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa và các cán bộ Cục Tài chính doanh nghiệp- Bộ Tài chính đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Sinh viên thực hiện Nguyễn Diệu Hằng Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước I. Doanh nghiệp nhà nước 1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước Trong nền kinh tế, có hai hình thức sở hữu cơ bản về vốn và tài sản là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (bao gồm sở hữu của cá nhân và sở hữu của tập thể các cá nhân). Từ đó hình thành hai khu vực kinh tế là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Các đơn vị kinh doanh của khu vực kinh tế nhà nước được gọi là các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân gọi là doanh nghiệp tư nhân. Tìm hiểu về doanh nghiệp nhà nước, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng rất phức tạp với nhiều cách hiểu khác nhau và nhiều tiêu chí xác định khác nhau. Trên thế giới, có rất nhiều cách quan niệm và doanh nghiệp nhà nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự nghiệp (cảnh sát, chữa cháy, vệ sinh công cộng, y tế, giáo dục...) Có người lại phân biệt doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân bằng hai tiêu chí chủ yếu là công dân là những người chủ công nghiệp của nhà nước chứ không chỉ là khách hàng; về trình độ thương mại, doanh nghiệp nhà nước phải có toàn quyền tự chủ về quản lý. Cũng có ý kiến đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó quan niệm rằng: doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân thành hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất chỉ sản xuất ra những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính. Loại hai là các xí nghiệp công cộng. Loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung. Sản phẩm của nó thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó. ở nước ta, theo Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh nghiệp khác như: - Chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản xuất, cung ứng, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. - Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống nền kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nước có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước có địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập và tự chủ, đồng thời cũng hạn chế phần trách nhiệm về tài sản của Nhà nước đối với doanh nghiệp. - Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước chịu sự chi phối và tác động của môi trường kinh tế xã hội. Để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như vấn đề về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bảo hộ sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh... Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau: - Doanh nghiệp nhà nước do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn được thành lập để thực hiện các hoạt động công ích (thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do Nhà nước thành lập mà chỉ được Nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh. Mục tiêu hoạt động duy nhất của các loại hình doanh nghiệp này là lợi nhuận. - Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước tổ chức quản lý. Đó là tổ chức kinh tế của nhà nước, do đó doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý của Nhà nước. Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và bộ máy quản lý từng doanh nghiệp nói riêng; Nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp... - Tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn để thành lập nên nó thuộc sở hữu Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên số tài sản của Nhà nước giao cho. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh doanh của họ. 2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước Cách phân loại chủ yếu đối với doanh nghiệp nhà nước là căn cứ vào chức năng hoạt động của doanh nghiệp. Theo cách phân loại này, doanh nghiệp nhà nước được phân làm hai loại: - Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh: Đó là những doanh nghiệp hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. - Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích: Đó là những doanh nghiệp nhà nước mà toàn bộ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp đó thực hiện theo kế hoạch chính sách nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Lợi nhuận không phải là mục đích hàng đầu của loại hình doanh nghiệp này. 3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau: Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước luôn luôn phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến lược theo đường lối phát triển của Nhà nước, tạo điều kiện mọi mặt như đào tạo nhân lực, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, cải tạo cơ sở hạ tầng... để các thành phần kinh tế khác tham gia. Thông qua hướng phát triển của doanh nghiệp nhà nước mà các thành phần kinh tế khác biết được hướng đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, có thể mới tránh được cho các thành phần kinh tế khác đi chệch với đường lối mà Đảng ta đã vạch ra. Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước không chỉ đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là cải tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước được bố trí và xây dựng ở những khu vực, ngành nghề cần thiết để nâng cao đời sống nhân dân ở mọi vùng lãnh thổ, xoá bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, hình thành các trung tâm kinh tế mới, thúc đẩy trang bị kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong một số ngành công nghiệp quan trọng nhằm ngăn chặn sự độc quyền của tư nhân có thể gây thiệt hại chung cho xã hội. Có những sản phẩm, dịch vụ mang tính xã hội, không thương mại hoá được như giao thông đường thuỷ, những công trình kiến trúc mang tính lịch sử, bảo vệ phong cảnh thiên nhiên... Chính phủ phải chi để đảm bảo giao thông đường thuỷ, bảo tồn các di tích lịch sử và phong cảnh thiên nhiên; khu vực tư nhân không thể cung cấp các hàng hoá đó vì nó không có quyền sở hữu chúng. Doanh nghiệp nhà nước phải đảm nhiệm công việc này. Ngoài ra doanh nghiệp nhà nước còn phải có mặt trong những ngành thuộc kết cấu hạ tầng, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế- những ngành đòi hỏi vốn lớn, vốn thu hồi chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp, sản phẩm làm ra ít tính thương mại nên không hấp dẫn khu vực tư nhân. Thứ ba, chức năng bảo đảm sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn và một trong các mục tiêu hàng đầu khi thành lập doanh nghiệp là để đảm bảo vật chất cho các hoạt động của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo sức mạnh vật chất để Nhà nước có đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu, đường lối đề ra. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong việc góp vào tổng sản phẩm quốc dân và đóng góp và thu Ngân sách Nhà nước, nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước cũng có chức năng điều tiết nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Trong những trường hợp bất ổn xảy ra, doanh nghiệp nhà nước dùng lượng dự trữ hàng hoá của mình để kiềm chế giá, chống đầu cơ, tăng giá... Đây chính là những cách doanh nghiệp nhà nước hỗ trợ về vật chất giúp Nhà nước hướng nền kinh tế vào các mục tiêu đã định. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc kinh doanh với nội dung cơ bản là tự bù đắp chi phí và có lãi nhưng một phần lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước sẽ được dùng cho các chi phí quản lý sự nghiệp và các hoạt động của Nhà nước. II. Quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước 1. Khái quát về vốn trong doanh nghiệp Mỗi doanh nghiệp đều có những đặc thù riêng, song quá trình sản xuất kinh doanh đều có điểm chung là bắt đầu bằng các yếu tố đầu vào và kết thúc là các yếu tố đầu ra. Đầu vào là các yếu tố sản xuất như hàng hóa nguyên nhiện vật liệu hay các dịch vụ mà doanh nghiệp sử dụng kết hợp với nhau để sản xuất ra các đầu ra; đầu ra là sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ có ích sử dụng cho quá trình sản xuất khác hoặc để tiêu dùng. Để tạo ra các đầu ra thì trước hết doanh nghiệp cần phải có các yếu tố đầu vào có giá trị nhất định. Vì vậy, doanh nghiệp phải có một lượng tiền tệ để đảm bảo cho các yếu tố đầu vào này, lượng tiền tệ đó gọi là vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Hay nói cách khác vốn kinh doanh là năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn bằng hình thái giá trị của các vật tư, hàng hóa, nhà xưởng, máy móc thiết bị... phục vụ cho quá trình sản xuất. Sau quá trình sản xuất số vốn này kết tinh vào sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, các hình thái khác nhau của vật chất lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí bỏ ra và có lãi. Như vậy, số tiền ứng ra ban đầu phải được sử dụng có hiệu quả và được bảo toàn thì mới đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, việc tạo vốn, bảo toàn và làm cho đồng vốn sinh lời được hay không được quyết định bởi sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với nhau. Trong cạnh tranh tất yếu có “kẻ” thắng “người” thua; những doanh nghiệp kinh doanh phát triển, làm ra nhiều lợi nhuận và bảo toàn được vốn thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh, còn những doanh nghiệp nào kinh doanh thua lỗ và mất dần vốn thì sẽ thất bại và có thể đi đến phá sản. Việc nhận thức đầy đủ về những đặc trưng của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn: - Thứ nhất, vốn được thể hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Tức là chỉ những giá trị tài sản được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh mới được gọi là vốn kinh doanh. - Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời: tiền tệ chỉ được coi là vốn khi chúng đựợc đưa vào sản xuất kinh doanh; chúng vận động, biến đổi hình thái biểu hiện và lại chở về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo cho quá trình đầu tư sau thì vốn đó phải có giá trị lớn hơn. - Thứ ba, vốn phải tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng, và được tích tụ thì mới có thể đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải khai thác mọi tiềm năng về vốn và thu hút, tận dụng các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài như liên doanh, góp vốn... để đầu tư vào kinh doanh. - Thứ tư, vốn có giá trị về mặt thời gian, do có sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như lạm phát, giá cả thay đổi, tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển nên sức mua của đồng tiền ở mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau. - Thứ năm, vốn phải gắn với chủ sở hữu, có như vậy vốn mới được quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả. - Thứ sáu, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình có hình thái vật chất cụ thể mà biểu hiện cả bằng những tài sản vô hình không có hình thái vật chất như phát minh khoa học, bằng sáng chế, lợi thế thương mại.. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp sẽ huy động bao nhiêu từ những nguồn nào để đáp ứng cho nhu cầu vốn của hoạt động sản xuất kinh doanh để tiết kiệm tối đa chi phí sử dụng vốn, đồng thời có biện pháp quản lý phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả 2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước Để đạt mục tiêu thành lập doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước phải thiết lập chế độ quản lý kinh tế và tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước như: chế độ đầu tư vốn, chế độ quản lý vốn và tài sản, chế độ quản lý doanh thu- chi phí, chế độ phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh... Mục tiêu của các chế độ đó là tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được các nhiệm vụ kinh tế, xã hội Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước là thuộc sở hữu toàn dân nhưng Nhà nước giao cho một số cá nhân, đơn vị quản lý điều hành. Bên cạnh đó, Nhà nước lại uỷ nhiệm cho Bộ Tài chính là cơ quan đại diện của Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý phần vốn của Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, có sự tách biệt giữa người quản lý vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có những mục tiêu không phù hợp nhau. Các doanh nghiệp nhà nước không phải đương đầu với nguy cơ bị những thế lực cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, vì vậy mối đe doạ bị mất việc do hoạt động kém hiệu quả của người sử dụng vốn là ít hơn so với trong khu vực tư nhân. Do đó người sử dụng vốn có thể tuân theo những động cơ có lợi khác. Những động cơ này có thể làm cho những người lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước hành động không nhất quán với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi những người này không nắm quyền sở hữu vốn của doanh nghiệp và cũng không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng cách tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ phải nhìn xa khi quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ từ Nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của Nhà nước không bị xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động theo đúng mục tiêu Nhà nước đề ra. Thứ hai, Nhà nước quản lý vốn tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ, quy định tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước và theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế độ, quy định đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước là một cách để giúp cho các cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp, theo dõi tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông qua công tác quản lý vốn, Nhà nước mới có những thông tin chính xác để đánh giá đúng chất lượng kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở các thông tin đánh giá này, Nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn và lao động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực hiện các mục tiêu xã hội. Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, phần lợi nhuận sau thuế là thuộc về Nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của Nhà nước. Vì vậy, để thu được tối đa khoản lợi nhuận sau thuế, Nhà nước phải quản lý phần vốn đầu tư của mình sao cho nó được sử dụng một cách hiệu quả, trên cơ sở đó tăng lợi nhuận sau thuế, tăng lợi ích Nhà nước. Tóm lại, việc quản lý vốn nhà nước của Nhà nước là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình. 3. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước Xét từ góc độ của bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước, nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước luôn tồn tại hai mặt cơ bản: một mặt là quản lý tình hình sử dụng vốn thông qua thiết lập cơ quan quản lý, cơ quan này có nhiệm vụ nghiên cứu, ban hành các chính sách chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện; mặt khác tham gia vào chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp và tổng hợp, phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp với tư cách là người chủ sở hữu doanh nghiệp. 3.1. Thiết lập cơ quan quản lý. Một vấn đề chung được tất cả các chính phủ quan tâm là làm thế nào để quản lý nguồn vốn thuộc sở hữu của mình tại các doanh nghiệp cho có hiệu quả. Trả lời cho câu hỏi này, mỗi nước đều tổ chức cho mình một bộ máy quản lý khác nhau, với những cách thức quản lý khác nhau. ở Pháp và Malaysia, Nhà nước trực tiếp cử nhân viên của mình làm công tác kiểm tra tại doanh nghiệp, nhân viên đó thuộc biên chế Bộ Tài chính. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp còn chịu sự điều tra của một nhân viên do toà án chỉ định, có chức năng kiểm tra tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, ở các doanh nghiệp còn có hội đồng quản trị, thành viên hội đồng này là đại diện của nhà nước, đại diện cho doanh nghiệp và đại diện của công nhân. Ngược lại, ở một số nước khác như Trung Quốc thì việc quản lý vốn nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước lại do các Công ty tài chính đảm nhận. Hoạt động của công ty tài chính là hoạt động kinh doanh, khác với việc cử đại diện của Bộ Tài chính làm công việc kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. ở Việt Nam, quan hệ giữa quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo hướng sau: Thứ nhất, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước bằng sự định hướng phát triển của khu vực này, bao gồm xác định mục tiêu, vai trò của các loại hình doanh nghiệp nhà nước, xác định lĩnh vực ưu tiên và lĩnh vực hạn chế, thành lập mới và thành lập lại doanh nghiệp nhà nước, quy định các tiêu chuẩn và điều kiện để thành lập doanh nghiệp nhà nước, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, với tư cách là chủ sở hữu, nhà nước nắm giữ các quyền quyết định quan trọng: giao mục tiêu kinh doanh hay công ích cho doanh nghiệp, quyết định chiến lược phát triển của doanh nghiệp, giám sát việc bảo toàn, phát triển vốn của doanh nghiệp. Thứ ba, phân chia quyền kiểm soát giữa các cơ quan quản lý nhà nước và hội đồng quản trị doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước bao gồm chính phủ, các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân. Cục Tài chính doanh nghiệp là cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài chính doanh nghiệp, trong đó có quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. 3.2 Ban hành các chế độ, chính sách về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống các chính sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn nhà nước đúng đắn sẽ kích thích sự chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng huy động mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất- kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách Nhà nước. Nguồn thu vào ngân sách Nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng quy mô đầu tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ còn thực hiện được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra. Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao gồm nhiều chính sách bộ phận: chính sách đầu tư, huy động vốn,chính sách quản lý và sử dụng vốn, chính sách bảo toàn vốn. Đây là bộ phận quan trọng hàng đầu của chính sách tài chính đối với doanh nghiệp. 3.2.1. Chính sách đầu tư vốn Một trong những nội dung của công tác quản lý vốn là phải xác định được nhu cầu thực sự về vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các trường hợp để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một các hợp lý. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên biến động tuỳ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp khác nhau với các đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu về vốn cũng khác nhau. Việc xác định chính xác nhu cầu về vốn của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng, quyết định hiệu quả việc đầu tư, giao vốn nhà nước cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp được hình thành do kết quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước khác đều được hình thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp qua các hình thức ghi thu- ghi chi (ví dụ: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này cho doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động, Nhà nước có thể cấp theo định mức một phần. Phần còn lại doanh nghiệp phải huy động trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà việc đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở các nước là khác nhau. ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo yêu cầu của Nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do Nhà nước quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác thì Nhà nước không cấp vốn. ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. Còn ở Malaysia, nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: - Vốn cố định ban đầu được Nhà nước cấp 100%. Hằng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của Nhà nước. - Vốn lưu động thì các công ty phải vay theo lãi suất thị trường. ở nước ta, doanh nghiệp nhà nước bao gồm những doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước, các công ty Nhà nước nắm cổ phần chi phối và các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Khi quyết định thành lập doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn thì Nhà nước có trách nhiệm đủ số vốn điều lệ. Việc giao vốn cho các doanh nghiệp nhà nước có thể hiểu nó giống với mô hình cho thuê ở một số nước. Người nhận vốn Nhà nước giao sẽ ký vào biên bản giao vốn, và có trách nhiệm bảo toàn và phát triển phần vốn được giao. Phần vốn này bao gồm cả vốn lưu động và vốn cố định. 3.2.2. Chính sách huy động vốn. Huy động vốn là một hoạt động tất yếu để mỗi doanh nghiệp có thể tự chủ động vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau với các hình thức khác nhau. Chính vì vậy, quản lý các hình thức huy động vốn của các doanh nghiệp là một nội dung cần thiết trong công tác quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước. Quản lý các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước, một mặt là việc cho phép các doanh nghiệp được huy động vốn dưới những hình thức nào, khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức nào, mặt khác đó là việc cơ quan quản lý trực tiếp góp phần tham gia tìm giải pháp cho việc huy động vốn trong phạm vi có thể của doanh nghiệp. Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động vốn một cách tự chủ và linh động trong môi trường kinh doanh thì nhìn chung, khu vực kinh tế nhà nước chỉ được phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định. Nhìn chung có các kênh huy động vốn sau: - Huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình. Đây là nguồn vốn đặc biệt, chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền được yêu cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước. - Huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để huy động vốn. - Huy động vốn bằng cách đi vay. Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng cách đi vay những khoản vay tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. - Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới, trái phiếu để bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội. - Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ này. 3.2.3. Chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất- kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả. Đối với tài sản tại doanh nghiệp, có thể có các hình thức sử dụng, xử lý sau: - Cho thuê các tài sản của mình, qua đó có thu nhập từ tiền thuê tài sản. Hết thời hạn cho thuê, doanh nghiệp thu hồi lại tài sản, việc bán lại tài sản cho người sử dụng thì phải được sự thông qua của chủ sở hữu tài sản, cụ thể ở đây là Nhà nước. - Khi huy động vốn từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp có thể dùng tài sản của mình là vật cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh. Việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay vốn phải tuân theo quy định của Nhà nước về quản lý tài sản công cũng như thoả mãn yêu cầu của tổ chức tín dụng cho vay. - Nhượng bán, thanh lý các tài sản không cần dùng, kém phẩm chất, lạc hậu về kỹ thuật nhằm thu hồi vốn, sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn. - Đem tài sản tham gia đầu tư, góp vốn với các doanh nghiệp khác theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn, tăng thu nhập; việc đầu tư phải tuân theo các quy định của pháp luật. 3.2.4. Chính sách bảo toàn vốn Bảo toàn vốn là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, ngược lại nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là để bảo toàn vốn, hai vấn đề bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn gắn bó với nhau và song song tồn tại hỗ trợ nhau trong quá trình quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo toàn được vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là thực hiện được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận tối đa tạo điều kiện để phát triển mở rộng quy mô hoạt động cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nếu vốn kinh doanh của doanh nghiệp không bảo toàn được, bị giảm dần do thua lỗ thì mục tiêu đầu tư vốn sẽ không thực hiện được. Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, Nhà nước quy định chính sách bảo toàn vốn, trong đó đề ra các biện pháp bảo toàn vốn để các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Các biện pháp đó bao gồm thực hiện đúng chế độ quản lý sử dụng vốn và tài sản, mua bảo hiểm tài sản và trích lập các khoản dự phòng. 3.3. Giám sát doanh nghiệp nhà nước. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình. Doanh nghiệp nhà nước là động lực thúc đẩy phân bố lại lao động xã hội, là công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và góp phần ổn định chính trị xã hội đất nước. Là một loại hình doanh nghiệp nên các doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm như các loại hình doanh nghiệp khác về tư cách pháp nhân, về điều kiện và mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, khác với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy, để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ lợi ích của mình với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước cần thiết phải thực hiện hoạt động giám sát. Hơn nữa, trong điều kiện chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, việc thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước từ sử dụng các công cụ trực tiếp là chủ yếu sang sử dụng các công cụ gián tiếp đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Giám sát sử dụng vốn nhà nước là một nội dung quan trọng của hoạt động giám sát tài chính- một bộ phận của giám sát doanh nghiệp nhà nước, đó là việc theo dõi, kiểm tra của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý nhằm hướng các hoạt động của khách thể quản lý theo đúng mục tiêu mà chủ thể quản lý đã lựa chọn, phù hợp với quy chế pháp luật hiện hành. Giám sát sử dụng vốn nhà nước vừa là một yêu cầu khách quan, vừa xuất phát từ chức năng quản lý nhà nước với doanh nghiệp, vừa do yêu cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu. Các yếu tố hợp thành của hoạt động giám sát tài chính bao gồm: chủ thể giám sát, khách thể giám sát, đối tượng giám sát, phương thức giám sát, mục tiêu giám sát. Chủ thể giám sát tài chính doanh nghiệp nhà nước trước hết là cơ quan nhà nước với hai chức năng vừa là cơ quan quản lý nhà nước, vừa là người chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, chủ thể giám sát tài chính doanh nghiệp có thể là những người đầu tư, góp vốn hoặc các chủ nợ. Chủ thể giám sát tài chính doanh nghiệp cũng có thể là bản thân doanh nghiệp (bộ máy quản lý, người lao động) với tư cách là người trực tiếp được giao quyền sử dụng tài sản, tiền vốn. Mối quan hệ về các lợi ích đan xen từ các góc độ khác nhau đòi hỏi và thúc đẩy họ quan tâm giám sát tài chính của doanh nghiệp. Khách thể giám sát tài chính là các doanh nghiệp nhà nước với tư cách như một hệ thống. Đối tượng giám sát sử dụng vốn nhà nước diễn ra trong các doanh nghiệp. Nó bao quát toàn bộ quá trình tuần hoàn chu chuyển của vốn nhà nước kể từ khâu huy động, sử dụng vốn và phân phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung giám sát sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp luôn được xem xét trên hai góc độ: góc độ quản lý nhà nước và góc độ chủ sở hữu doanh nghiệp. Giám sát sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp có thể được thực hiện theo các phương thức khác nhau như: giám sát từ xa, giám sát tại chỗ; giám sát toàn diện, giám sát chuyên đề, trọng điểm; giám sát định kỳ, giám sát đột xuất, giám sát thường xuyên; giám sát trước, trong và sau hoạt động tài chính. Mục tiêu của giám sát sử dụng vốn nhà nước là đảm bảo an toàn, hiệu quả của vốn nhà nước tại doanh nghiệp; đảm bảo cho việc chấp hành đúng đắn các chính sách và pháp luật về tài chính kế toán; tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của người lao động, ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm trong quản lý kinh tế tài chính với doanh nghiệp. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước Công tác quản lý vốn ở các nước khác nhau được tiến hành theo những cách thức, mô hình khác nhau, song luôn bao hàm đầy đủ các nội dung như trên. Những cách thức quản lý khác nhau sẽ đem lại hiệu quả khác nhau cho công tác quản lý vốn nhà nước. Công tác quản lý vốn nhà nước được thực hiện có hiệu quả không chỉ khẳng định vai trò của Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý và chủ sở hữu, mà còn làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước tăng lên. Các yếu tố tác động vào công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao gồm tổ chức bộ máy quản lý, sự phù hợp của hệ thống các văn bản pháp luật và năng lực, trình độ của cán bộ quản lý. - Tổ chức bộ máy quản lý Hiệu quả của công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trước hết phụ thuộc vào tổ chức bộ máy quản lý. Bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước là cơ quan trực tiếp tiến hành công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nói riêng đối với các doanh nghiệp. Không những thế, ở một số nước, đây còn là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ về quản lý vốn tại các doanh nghiệp (thông qua việc dự thảo các chính sách trình cơ quan có thẩm quyền ký ban hành). Cơ quan bộ máy quản lý gồm một cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Với mô hình này, việc giám sát doanh nghiệp được thực hiện theo phương thức từ xa, định kỳ theo quy định, tiến hành từ cấp địa phương đến trung ương. Công tác giám sát từ xa nếu được thực hiện đầy đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý có được cái nhìn tổng thể về toàn bộ hệ thống doanh nghiệp nhà nước của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc quản lý vốn nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan duy nhất, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý khác như đơn vị chủ quản, cơ quan thuế... Các cơ quan này cũng thực hiện việc giám sát tại chỗ đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp rất nhạy cảm với hoạt động giám sát tại chỗ này. Việc giám sát tại chỗ có thực sự phát huy hiệu quả, nghĩa là thấy và phản ánh được kịp thời những khó khăn doanh nghiệp đang gặp phải để tìm cách tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho những dự án đầu tư doanh nghiệp đang thực hiện... Đồng thời, các cơ quan quản lý phải tổ chức việc giám sát tại chỗ cho phù hợp, có gây ra cản trở đối với hoạt động của doanh nghiệp hay không và không để cho một số cán bộ lợi dụng việc giám sát ngay tại doanh nghiệp để làm lợi cho riêng mình. - Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan Trong nền kinh tế thị trường, nhìn chung, mục tiêu của các doanh nghiệp đều là tối đa hoá lợi nhuận. Hơn nữa, để đạt được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp có thể bất chấp những lợi ích chung của toàn xã hội để đạt được mục đích của mình. Để hạn chế những mặt tiêu cực đó, bên cạnh “bàn tay vô hình” còn có “bàn tay hữu hình”- sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước thể hiện qua các chính sách quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, qua hệ thống pháp luật... Các chính sách quản lý của nhà nước vừa trực tiếp, vừa gián tiếp tác động tới hiệu quả công tác quản lý vốn. Sự tác động trực tiếp thể hiện qua những chính sách trực tiếp liên quan tới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Đó là những chính sách quy định về nội dung quản lý vốn, phương pháp quản lý vốn, bộ máy quản lý vốn. Các chính sách này được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước cũng như hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Một hệ thống chính sách quản lý đúng đắn, đầy đủ sẽ đem lại hiệu quả quản lý cao và ngược lại, một hệ thống chính sách quản lý chưa đầy đủ, không đồng bộ, còn thiếu sót sẽ làm hạn chế hiệu quả của công tác quản lý. Sự tác động gián tiếp của chính sách quản lý của nhà nước tới hiệu quả công tác quản lý vốn nhà nước thể hiện ở chỗ: các chính sách quản lý của nhà nước có tạo ra được một môi trường thuận lợi cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không, hay tạo khó khăn cho công tác quản lý? Ví dụ: thị trường chứng khoán được thành lập có giúp cho quản lý tình hình huy động vốn của doanh nghiệp hiệu quả hơn không, hay là làm cho cơ quan quản lý không kiểm soát được doanh nghiệp huy động vốn như thế nào. Hoặc chính sách về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước có tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn nhà nước không. - Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý vốn nhà nước Năng lực của cán bộ quản lý trực tiếp tác động tới hiệu quả công tác quản lý vốn tại các doanh nghiệp nhà nước. Sự am hiểu của cán bộ về ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng nắm bắt tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc cán bộ quản lý đó có phân tích và đưa ra được những kết luận đúng đắn hay không, có dự thảo ra được những chính sách quản lý đúng đắn hay không. Các nhân tố trên đều có tác động đến hiệu quả công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy, nghiên cứu tác động của từng nhân tố cũng như tác động tổng hợp của các nhân tố tới hiệu quả công tác quản lý vốn là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó, ta có thể thấy được các nguyên nhân dẫn đến những bất hợp lý trong nội dung quản lý vốn, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp. I. Giới thiệu Cục Tài chính doanh nghiệp 1. Lịch sử hình thành Quản lý tài chính doanh nghiệp là một mảng quan trọng trong công tác của Bộ Tài chính. Trước yêu cầu thực tiến của việc quản lý tài chính các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp, lịch sử hình thành Cục Tài chính doanh nghiệp đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau: -Trước tháng 10/1995: là các vụ tài vụ thuộc Bộ Tài chính kết hợp với các vụ tài vụ thuộc các Bộ chuyên ngành thực hiện chức năng quản lý tài chính doanh nghiệp. -Từ tháng 10/1995 đến 10/1999 là Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp và trực thuộc Bộ Tài chính, được thành lập trên cơ sở các vụ tài vụ của Bộ Tài chính có nhiệm vụ quản lý thống nhất vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. -Từ tháng 10/1999 đến nay: Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp được tổ chức lại thành Cục Tài chính doanh nghiệp theo Nghị định 84/1999/NĐ- CP. Cục Tài chính doanh nghiệp là đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính. Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thành lập Chi cục Tài chính doanh nghiệp hoặc Phòng Tài chính doanh nghiệp trực thuộc Sở Tài chính- Vật giá. Có 10 tỉnh được thành lập Chi cục trực thuộc Sở Tài chính- Vật giá là: + Thành phố Hà Nội + Thành phố Hồ Chí Minh + Thành phố Hải Phòng + Thành phố Đà Nẵng + Tỉnh Quảng Ninh + Tỉnh Đồng Nai + Tỉnh Bình Dương + Tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu + Tỉnh Hải Dương + Tỉnh Thanh Hoá. 2. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Tài chính doanh nghiệp: -Thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả nước: Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp; chế độ quản lý, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp; chế độ hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp và các chế độ khác liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính; chế độ quản lý vốn nhà nước, chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp thống nhất trong cả nước. Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề có liên quan đến tài chính doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp. Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả nước. Tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính doanh nghiệp. -Quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập hoặc góp vốn: Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê, đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà nước; tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi quyền sở hữu. Giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các trường hợp chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước; giám sát việc phân phối lợi nhuận sau thuế, việc sử dụng các quỹ tại doanh nghiệp. Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản chi hỗ trợ cho doanh nghiệp. Kiến nghị các biện pháp xử lý vốn và tài sản vượt quá thẩm quyền của doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp trọng điểm, các Tổng công ty nhà nước; tham gia xây dựng và thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của các doanh nghiệp theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tham gia phương án giá sản phẩm và dịch vụ do Nhà nước quy định giá, tham gia việc xây dựng đơn giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp. Kiểm tra báo cáo tài chính, xác định khả năng hoàn trả nợ, mức độ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước hàng năm của doanh nghiệp. -Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo toàn và phát triển vốn thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp trong cả nước và theo ngành kinh tế. -Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ Tài chính ủy quyền. -Hướng dẫn các Sở Tài chính- Vật giá thống nhất quản lý nhà nước về tài chính đối với các doanh nghiệp trên địa bàn; quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp do tỉnh, thành phố thành lập hoặc góp vốn, tổng hợp, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trên địa bàn. -Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao. 3. Tổ chức bộ máy của Cục Tài chính doanh nghiệp: Cục Tài chính doanh nghiệp có Cục trưởng phụ trách và một số Phó Cục trưởng do Bộ Tài chính bổ nhiệm, miễn nhiệm. Bộ máy của Cục Tài chính doanh nghiệp gồm có: -Ban Tài chính doanh nghiệp: xây dựng, quốc phòng, an ninh, hải quan, dự trữ quốc gia, các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội gọi tắt là Ban Tài chính doanh nghiệp xây dựng. -Ban Tài chính doanh nghiệp giao thông- bưu điện -Ban Tài chính doanh nghiệp công nghiệp -Ban Tài chính doanh nghiệp thương mại- văn hoá- giáo dục -Ban Tài chính doanh nghiệp nông nghiệp- thủy sản -Ban Tài chính doanh nghiệp ngoài quốc doanh -Ban Cổ phần hoá -Ban Chính sách- Tổng hợp -Văn phòng Cục. II. Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước hiện nay Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh đó doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả, chưa thực sự thể hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế trong những năm 1991- 1995 đạt bình quân 8,2%/năm, năm 1996- 1997 đạt xấp xỉ 9%/năm. Năm 1998 mặc dù có nhiều khó khăn nhưng GDP vẫn tăng 5,8%. Năm 1999 tốc độ tăng chỉ còn 5,5%. Năm 2000 tốc độ tăng trưởng đạt 7,5%, năm 2001 đạt 6,8%. Trong đó, Các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp một phần quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế: tạo ra hơn 30% GDP, hơn 60% nguồn thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm và thu nhập cho 1,7 triệu lao động, đảm bảo cung cấp các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế như dầu khí, điện, than, xi măng, hàng không, bưu chính viễn thông... góp phần cân đối cung cầu hàng hoá. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, các doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng trung bình 9%/năm. Tính đến 1/1/2000, số lượng doanh nghiệp nhà nước hiện có là 5.500, trong đó có 732 doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp trung ương là 1802, doanh nghiệp địa phương là 3.698. Số doanh nghiệp đã cổ phần hoá từ trước đến nay là hơn 900 doanh nghiệp, riêng trong năm 2001 là 165 doanh nghiệp; trong đó: cổ phần hoá 131 doanh nghiệp; giao, bán, khoán, thuê 34 doanh nghiệp (thuộc khối địa phương: 33 và Tổng công ty: 1). Số doanh nghiệp hoàn thành chuyển đổi sở hữu trong năm 2001 đạt khoảng 230 doanh nghiệp, gần bằng năm 2000. Số lượng doanh nghiệp còn lại như trên là quá nhiều và dàn trải ở nhiều ngành lĩnh vực. Số doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành dịch vụ tài chính như kiểm toán, kế toán, bảo hiểm còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế và của các doanh nghiệp. Mô hình hoạt động của các doanh nghiệp cũng được tổ chức lại trên cơ sở các Tổng Công ty, Công ty, xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp, được tổ chức lại thành hai loại là Tổng Công ty (gồm các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập và doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc) và các doanh nghiệp độc lập. Đến nay, cả nước có 94 Tổng Công ty, trong đó có 17 Tổng Công ty 91 và 74 Tổng Công ty 90. Quy mô doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng chiếm chưa đến 20% tổng số các Tổng Công ty, ví dụ lĩnh vực xây dựng cả nước có 24 Tổng Công ty, chiếm 25% tổng số. Lợi nhuận của doanh nghiệp những năm qua tăng chưa tương xứng với sự quan tâm ưu đãi của Nhà nước về vốn, thị trường và những chính sách bảo hộ khác. TT Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001 1 2 3 4 Vốn nhà nước tại doanh nghiệp Doanh thu Lãi (đã trừ lỗ) Tỷ lệ lãi/vốn nhà nước Tỷ đ Tỷ đ Tỷ đ % 108.970 304.422 11.568 10,6 112.000 316.278 12.000 11,6 130.253 328.320 14.588 11,2 132.858 361.152 15.317 11,5 Số liệu trên đây là theo báo cáo của doanh nghiệp nên có thể chưa phản ánh đúng thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp (chưa được kiểm tra xác định lại của kiểm toán hoặc của các cơ quan chức năng). Nếu tính đúng cơ chế tài chính hiện hành (như tính đủ chênh lệch tỷ giá, dự phòng các khoản nợ khó đòi, khấu hao tài sản cố định...) thì số doanh nghiệp lỗ và số lỗ có thể tăng hơn nhiều. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp tăng qua các năm nhưng không nhiều. Năm 2000, số vốn nhà nước tại doanh nghiệp là 130.253 tỷ đồng, so với năm 1999 tăng 2,7%. Năm 2001 số vốn là 132.858, tăng 2% so với năm 2000. Vốn dùng cho đầu tư tài sản theo cơ chế hiện hành chủ yếu là doanh nghiệp phải tự huy động bằng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng, Nhà nước và các tổ chức khác. Từ năm 1995, Nhà nước để lại cho doanh nghiệp toàn bộ số khấu hao cơ bản tài sản cố định thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước để doanh nghiệp đầu tư. Tỷ lệ trích quỹ đầu tư đầu tư phát triển từ lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp được nâng từ 35% lên 50% cũng tạo thêm nguồn đầu tư cho doanh nghiệp. Với doanh thu hàng năm khoảng trên 300.000 tỷ đồng, các doanh nghiệp nhà nước cần có khoảng 75.000 tỷ đồng vốn lưu động. Hiện nay số vốn lưu động chỉ có khoảng 20.000 tỷ đồng, mới đáp ứng được 27% số vốn lưu động cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, trong 3 năm 1998- 2000, ngân sách nhà nước đã dành gần 8.000 tỷ đồng để đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước, cho vay tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng kinh doanh. Ngoài ra Nhà nước còn dành một phần ngân sách để bù chênh lệch lãi suất cho ngân hàng để chuyển tín dụng ngắn hạn thành tín dụng dài hạn. ở một số ngành đặc biệt như điện lực, dầu khí, Nhà nước còn thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để đầu tư. Nhà nước cũng cho phép một số địa phương được thực hiện các khoản phụ thu để ngoài giá Nhà nước quy định để có thêm nguồn đầu tư cho doanh nghiệp như phụ thu tiền điện, tiền lắp đặt điện thoại ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Tới đây, theo Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX, Chính phủ sẽ thực hiện không thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước tích tụ vốn đầu tư để đổi mới công nghề. Giải pháp này sẽ làm tăng năng lực tài chính của doanh nghiệp nhà nước lên khoảng 1.500 tỷ đồng/năm. Năm 2000, giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước (không bao gồm các ngân hàng) là 527.267 tỷ đồng, trong khi đó vốn nhà nước tại doanh nghiệp chỉ là 130.253 tỷ. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước phải vay, chiếm dụng vốn lẫn nhau hoặc nợ Ngân sách nhà nước. Bảng dưới đây cho biết tình hình nợ của các doanh nghiệp nhà nước cho đến 1/1/2001: TT Tiêu chí Đơn vị 1998 1999 2000 1 2 3 4 Tổng số nợ phải trả Tỷ lệ so với vốn nhà nước Tổng số phải thu Trong đó: khó đòi Tỷ đ % Tỷ đ Tỷ đ 123.193 113 67.993 1.658 183.664 164 105.602 2.629 353.410 367 187.091 1.926 Số nợ trên đây không bao gồm số nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Hiện nay, tổng nợ phải thu và nợ phải trả của khối doanh nghiệp nhà nước lên đến gần 300.000 tỷ đồng. Số nợ của doanh nghiệp nhà nước thường cao hơn số vốn nhà nước từ 13- 300%. Nhiều doanh nghiệp có số nợ lớn như Tổng Công ty điện lực (14.000 tỷ), Tổng Công ty Bưu chính viễn thông (hơn 11.000 tỷ), Tổng Công ty Rượu bia (hơn 4.500 tỷ). Nhiều doanh nghiệp có số nợ lớn gấp nhiều lần số vốn nhà nước tại doanh nghiệp như Tổng Công ty Mía đường 1 (gấp 6 lần), Tổng Công ty Gốm sứ thủy tinh (gấp 3,5 lần), Tổng Công ty Dệt may (gần 2,5 lần), Tổng Công ty Than (gấp 2 lần). Một số doanh nghiệp đầu tư đúng hướng, công nghệ thiết bị phù hợp nên khả năng thanh toán nợ tốt (Tổng Công ty Bưu chính viễn thông, Tổng Công ty cao su, Tổng Công ty xăng dầu...). Ngược lại, một số doanh nghiệp khác lại sử dụng vốn không phù hợp dẫn tới khả năng trả nợ kém như Tổng Công ty dâu tằm tơ. 74% nhà máy đường địa phương không có khả năng trả nợ đúng hạn, 50% số nhà máy xi măng lò đứng địa phương cũng mới trả được 10- 20% số nợ phải trả. Tổng Công ty Than có số nợ gấp 2 lần tổng số vốn Nhà nước song khả năng trả nợ rất thấp, đến 30/6/2000, số nợ vay đầu tư phải trả là 885 tỷ nhưng nguồn để trả chỉ có 702 tỷ, thiếu 183 tỷ đồng. Có khoảng 40 dự án vay vốn ODA với tổng số vốn vay 350 triệu USD gặp khó khăn trong việc trả nợ. Chính phủ đã có một số giải pháp xử lý nợ tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước. Đối với các khoản nợ liên quan đến ngân sách, Chính phủ hỗ trợ tiền thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước tính đến 31/12/1999 cho các dự án đầu tư được phê duyệt nhưng thiếu vốn, xoá số nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp kinh doanh bị lỗ. Đối với các khoản nợ ngân hàng quốc doanh, doanh nghiệp được khoanh nợ, cho phép xoá nợ lãi vay, chuyển nợ vay thành vốn ngân sách nhà nước cấp bổ sung cho doanh nghiệp hoặc xoá nợ lãi vay và khoanh nợ gốc, tuỳ từng trường hợp cụ thể. Tóm lại, trong những năm gần đay, các doanh nghiệp nhà nước đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng chưa thể hiện được đầy đủ vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Có nhiều nguyên nhân cho hiện tượng này, trong đó có nguyên nhân từ phía công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp hiện nay. III. Tình hình công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp. Nhà nước quản lý vốn của mình tại các doanh nghiệp nhà nước thông qua Cục Tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính. Công tác quản lý vốn nhà nước được thể hiện trên hai mặt: thực hiện vai trò chủ sở hữu và thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Hai chức năng này được Cục Tài chính doanh nghiệp thực hiện thông qua việc ban hành các cơ chế chính sách quản lý vốn nhà nước và hướng dẫn, kiểm tra giám sát việc tuân thủ các chính sách đó của doanh nghiệp. 1. Vai trò chủ sở hữu. Từ năm 1979, một thời kỳ thử nghiệm liên tục các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước: Mở đầu là Nghị định 25/CP ngày 21/1/1981 với ba phần kế hoạch. Tiếp theo là các Quyết định 146/HĐBT ngày 25/8/1982, Quyết định 156/HĐBT ngày 30/11/1984 và Quyết định 16/HĐBT ngày 26/6/1986 đã ra đời. Các Quyết định này ngày càng mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất kinh doanh lẫn trong lĩnh vực tài chính. Sau đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Chính phủ đã triển khai một số chính sách và biện pháp quan trọng nhằm củng cố, tăng cường vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Nghị định 59/CP của Chính phủ ban hành ngày 3/10/1996 đã đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn đổi mới quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước nói chung và quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Nghị định 59/CP là sự cụ thể hoá những quy định trong Luật doanh nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995. Những nội dung của Nghị định đã đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau gần 3 năm thực hiện, một số điều quy định trong Nghị định 59/CP không còn phù hợp, cần được sửa đổi, nếu không sẽ trở thành vật cản trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế. Ngày 20/4/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27/1999/NĐ-CP nhằm sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996. Những sửa đổi, bổ sung ghi trong văn bản của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực tế, phù hợp với những yêu cầu của cơ chế thị trường. 1.1. Đầu tư vốn và giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước. a) Đầu tư vốn Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan có thẩm quyền khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải bảo đảm đủ vốn thực có tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định của Nhà nước cho mỗi ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng ngân sách Nhà nước, Nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết. b) Giao vốn Doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước giao vốn thuộc sở hữu Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của Nhà nước. Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau: - Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn Nhà nước ghi trong quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được Nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu Nhà nước (nếu có). - Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia tách) là số vốn thuộc sở hữu Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên, sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của Nhà nước. Trước khi giao vốn, doanh nghiệp phải xác định rõ những tồn tại về mặt tài chính (tài sản thừa, thiếu, mất mát, hư hỏng, kém mất phẩm chất, tài sản ứ đọng chậm luân chuyển, không cần dùng, chờ thanh lý, công nợ khó đòi, các khoản lỗ luỹ kế, các khoản chi phí chưa có nguồn bù đắp và các tổn thất tài sản khác), nguyên nhân và trách nhiệm của những người liên quan đến các tồn tại để xử lý theo chế độ hiện hành. Những tồn tại tài chính do thực hiện chủ trương của Nhà nước thì doanh nghiệp phải kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xử lý. Những tồn tại chưa thể xử lý được thì ghi rõ trong hồ sơ giao vốn. Doanh nghiệp thành lập lại và doanh nghiệp tiếp nhận doanh nghiệp khác sáp nhập vào được kế thừa các quyền lợi và thực hiện mọi nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước trước khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách. Các khoản vốn tăng thêm do được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khi thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách theo Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được coi là vốn có nguồn gốc từ ngân sách: Các khoản vốn tăng thêm nói trên và vốn được Nhà nước cấp bổ sung sau khi đã giao vốn đều được tính vào số vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Việc giao vốn tiến hành chậm nhất 60 ngày sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với các Tổng công ty Nhà nước, sau khi nhận vốn chậm nhất 30 ngày Tổng công ty phải tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp thành viên. Tổng số vốn giao cho các doanh nghiệp thành viên (doanh nghiệp độc lập và phụ thuộc) không được thấp hơn số vốn Nhà nước giao cho Tổng công ty. Trong thời gian 15 ngày sau khi giao vốn xong cho các doanh nghiệp thành viên, Tổng công ty Nhà nước gửi báo cáo tổng hợp và biên bản giao vốn cho cơ quan quản lý tài chính và Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp. Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người được uỷ quyền là người giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước. Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) là người ký nhận vốn. Đối với các doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty Nhà nước, người giao vốn là Tổng giám đốc Tổng công ty, người nhận vốn là Giám đốc doanh nghiệp thành viên. Đối với các Tổng công ty Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ khi giao vốn phải có sự chứng kiến của đại diện cơ quan Quyết định thành lập doanh nghiệp. 1.2. Huy động vốn của các doanh nghiệp nhà nước Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước phải tự huy động vốn dưới các hình thức: phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết và các hình thức khác để phát triển kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn. Việc huy động vốn không được thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp và phải tuân theo các quy định của Pháp luật hiện hành. a) Doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn trong nước theo các hình thức sau: - Doanh nghiệp nhà nước được phát hành trái phiếu để huy động vốn phát triển kinh doanh. - Doanh nghiệp được ký hợp đồng, hợp tác kinh doanh hoặc liên kết với các tổ chức, cá nhân trong nước nhằm bổ sung vốn kinh doanh của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp được vay vốn của các tổ chức tín dụng (các Ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính...), các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp) để đầu tư phát triển. Về nguyên tắc lãi suất huy động vốn theo hình thức vay vốn, phát hành trái phiếu của doanh nghiệp theo lãi suất thực tế nhưng tối đa không quá tỷ lệ lãi suất trần do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cho các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào nguyên tắc này, lãi suất huy động vốn phải được ghi trong khế ước hoặc hợp đồng vay vốn và được hạch toán vào chi phí hoạt động tài chính của doanh nghiệp. b) Các hình thức huy động vốn từ nước ngoài bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước được vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của các tổ chức và cá nhân nước ngoài để phát triển kinh doanh, theo đúng các quy định của Chính phủ. Trường hợp đặc biệt được Nhà nước bảo lãnh vay vốn nước ngoài phải do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trường hợp không được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì tổ chức nào bảo lãnh, tổ chức đó chịu trách nhiệm về khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp theo quy định của hợp đồng đã ký. c) Trách nhiệm sử dụng và hoàn trả vốn huy động: Vốn huy động chỉ sử dụng vào mục đích kinh doanh không dùng vào mục đích khác. Vốn huy động phải được quản lý chặt chẽ, kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp phải trả nợ gốc và lãi theo đúng cam kết khi huy động vốn. Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) chịu trách nhiệm phê duyệt phương án huy động vốn. Nếu phương án huy động vốn không có hiệu quả dẫn đến tổn thất tài sản thì Hội đồng quản trị, Giám đốc chịu trách nhiệm tuỳ theo mức lỗ, số năm bị lỗ, nguyên nhân chủ quan gây ra lỗ và mức độ trách nhiệm cụ thể. Tổng giám đốc hoặc Giám đốc có trách nhiệm lập và thực hiện phương án huy động vốn, sử dụng vốn đúng mục đích có hiệu quả. Khi việc thực hiện dự án đầu tư không mang lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến không thu hồi được vốn Nhà nước hoặc không trả được nợ vay theo khế ước hoặc hợp đồng vay vốn, thì các thiệt hại do chủ quan gây ra, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm và trong phạm vi trách nhiệm, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc bị xử lý hành chính và bồi thường vật chất theo quy định của pháp luật. 1.3. Quản lý sử dụng vốn và tài sản - Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và quỹ để kinh doanh theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và quỹ khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và quỹ đó thì phải theo nguyên tắc có hoàn trả, như: dùng các quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi... để kinh doanh thì phải hoàn trả quỹ đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. - Quản lý công nợ: Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, quý) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, quá hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý. Nếu do chủ quan gây ra thì người phạm lỗi phải bồi thường. Khoản chênh lệch giữa thiệt hại và bồi thường của đương sự nếu thiếu được bù đắp bằng quỹ dự phòng tài chính của doanh nghiệp. Trường hợp nếu quỹ dự phòng tài chính không đủ bù đắp thì phần thiếu được hạch toán vào chi phí bất thường trong kỳ. Các khoản nợ thực sự không đòi được, doanh nghiệp hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, đồng thời phải tiếp tục theo dõi trên sổ kế toán (tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán) và đôn đốc thường xuyên để thu hồi. Số tiền thu được sau khi trừ chi phí thu nợ, hạch toán vào thu nhập bất thường của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp thực hiện chế độ khấu hao tài sản cố định theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản. Doanh nghiệp được quyền cho các tổ chức, cá nhân trong nước thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không được đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp... của doanh nghiệp khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu những tài sản đó. Đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật khi cho thuê, cầm cố, thế chấp phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp cho phép. Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn. Đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật khi nhượng bán phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản. Doanh nghiệp được thanh lý những tài sản kém, mất phẩm chất; tài sản lạc hậu bị hư hỏng không có khả năng phục hồi; tài sản lạc hậu kỹ thuật không có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả và không thể nhượng bán nguyên trạng được. Những tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật khi thanh lý phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê duyệt. Khi nhượng bán, thanh lý doanh nghiệp phải lập Hội đồng đánh giá thực trạng về mặt kỹ thuật, thẩm định giá trị tài sản. Tài sản đem nhượng bán phải tổ chức đấu giá, thông báo công khai. Nếu tài sản thanh lý dưới hình thức dỡ bỏ, huỷ, phải tổ chức Hội đồng thanh lý do Tổng giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp quyết định. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (thu nhập khác). 1.4. Bảo toàn và phát triển vốn Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn là: - Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của Nhà nước. - Thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh. - Doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác các khoản dự phòng sau đây: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho: là khoản giảm giá vật tư, hàng hoá tồn kho dự kiến sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo. Dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi: là các khoản phải thu dự kiến không thu được trong kỳ kinh doanh tới do khách nợ không có khả năng thanh toán. Dự phòng giảm giá các chứng khoán trong hoạt động tài chính. Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước (thời gian không quá 05 năm), được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh...) vào chi phí hoặc kết quả kinh doanh theo qui định của Nhà nước. 1.5. Phân phối và sử dụng các quỹ Nhà nước để lại khoản lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhằm mục đích chủ yếu bổ sung vốn kinh doanh, lập quỹ dự phòng tài chính để tự bù đắp một phần rủi ro; đồng thời chăm lo lợi ích vật chất cho người lao động trong doanh nghiệp. a) Phân phối lợi nhuận sau thuế Sau khi chuyển lỗ theo Điều 22 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập theo Luật định, lợi nhuận còn lại được phân phối theo trình tự sau đây: - Bù khoản lỗ các năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế. - Nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định hiện hành. - Trả tiền phạt vi phạm pháp luật Nhà nước như: vi phạm Luật thuế, Luật giao thông, Luật môi trường, Luật thương mại và quy chế hành chính..., sau khi đã trừ tiền bồi thương tập thể hoặc cá nhân gây ra (nếu có). - Trừ các khoản chi phí thực tế đã chi nhưng không được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế. - Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có). - Phần lợi nhuận còn lại được phân phối như sau: Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính. Khi số dư của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của doanh nghiệp thì không trích nữa. Trích tối thiểu 50% vào quỹ đầu tư phát triển. Trích 5% vào quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm. Khi số dư quỹ này đạt 6 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp yhì không trích nữa. Đối với một số ngành đặc thù (như ngân hàng thương mại, bảo hiểm,...) mà pháp luật quy định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế thì doanh nghiệp trích lập theo các quy định đó. Chia lãi cổ phần trong trường hợp phát hành cổ phiếu. Số lợi nhuận còn lại sau khi trích các quỹ nói trên được trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi. Mức trích tối đa cho cả 2 quỹ căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước (vốn Nhà nước nói ở đây là số trung bình cộng của số dư vốn Nhà nước tại các thời điểm 1/1 và cuối mỗi quý của năm), như sau: 3 tháng lương thực hiện cho các trường hợp doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận nói trên năm nay bằng hoặc cao hơn năm trước hoặc doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng kinh doanh đang trong thời gian được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nếu có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn năm trước khi đầu tư. 2 tháng lương thực hiện, nếu tỷ suất lợi nhuận năm nay thấp hơn năm trước. Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) sau khi lấy ý kiến tham gia của Ban chấp hành công đoàn quyết định tỷ lệ phân chia số tiền vào mỗi quỹ. Sau khi trích đủ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi theo mức quy định trên thì bổ sung toàn bộ số lợi nhuận còn lại vào Quỹ đầu tư phát triển. b) Mục đích sử dụng các quỹ - Quỹ đầu tư phát triển để: Bổ sung vào vốn kinh doanh của Nhà nước: đầu tư mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ, trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp; góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, góp vốn cổ phần theo quy định hiện hành. Căn cứ vào nhu cầu đầu tư và khả năng của quỹ, Hội đồng quản trị, giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định hình thức và biện pháp đầu tư theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Ngoài ra, doanh nghiệp phải trích nộp Quỹ đầu tư phát triển của Tổng công ty Nhà nước (nếu là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm. Trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể điều động một phần quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp để đầu tư phát triển doanh nghiệp Nhà nước khác. Bộ Tài chính, sau khi thống nhất với cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, quyết định việc điều động này. - Quỹ dự phòng tài chính để: Bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất và của tổ chức bảo hiểm và trích nộp để hình thành Quỹ dự phòng tài chính của Tổng công ty (nếu là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm. - Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm để: Trợ cấp cho người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên bị mất việc làm tạm thời theo quy định của Nhà nước; chi đào tạo lại chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang công việc mới, đặc biệt là đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ của doanh nghiệp. Quỹ này chỉ dùng trợ cấp cho người lao động mất việc làm do các nguyên nhân khách quan như: lao động dôi ra vì thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong khi chưa bố trí công việc khác, hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc. Đối với những doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty Nhà nước, mà việc trợ cấp mất việc làm do Tổng công ty đảm nhận theo Quy chế tài chính Tổng công ty thì doanh nghiệp thành viên trích nộp để hình thành Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc của Tổng công ty theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm. Mức trợ cấp cho từng trường hợp cụ thể do Giám đốc Quyết định sau khi có ý kiến của Chủ tịch công đoàn doanh nghiệp. - Quỹ phúc lợi để: Đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ sung vốn xâydựng các công trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp, góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi chung trong ngành, hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng thoả thuận. Chi cho các hoạt động thể thao, văn hoá, phúc lợi công cộng của tập thể công nhân viên doanh nghiệp. Đóng góp cho quỹ phúc lợi xã hội (các hoạt động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng...). Trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp. Ngoài ra có thể chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã nghỉ hưu, mất sức lâm vào hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, xây nhà tình nghĩa, từ thiện. Trích nộp để hình thành Quỹ phúc lợi tập trung của Tổng công ty (nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định. Giám đốc doanh nghiệp phối hợp với Ban chấp hành công đoàn doanh nghiệp để quản lý và sử dụng quỹ này. - Quỹ khen thưởng để: Thưởng cuối năm hoặc thưởng thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Mức thưởng do Giám đốc doanh nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của tổ chức Công đoàn và trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác của mỗi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thưởng cho những cá nhân và đơn vị bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ kinh tế đã hoàn thành tốt những điều kiện của hợp đồng, đóng góp có hiệu quả vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức thưởng do Giám đốc doanh nghiệp quyết định. Trích nộp để hình thành Quỹ khen thưởng tập trung của Tổng công ty (nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định. 2. Vai trò quản lý nhà nước Cục Tài chính doanh nghiệp thực hiện vai trò quản lý nhà nước thông qua giám sát các doanh nghiệp nhà nước. Việc giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng thanh toán nợ đối với từng doanh nghiệp để xem xét quyết định việc tăng thêm hoặc giảm bớt số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp và quyết định thưởng phạt đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp. Ngoài ra, giám sát doanh nghiệp còn để đánh giá việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ tài chính, chuẩn mực kế toán hiện hành và đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phục vụ cho việc ban hành, hoàn thiện các chính sách vĩ mô và chế độ đối với doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực, thực hiện việc hỗ trợ đối với những trường hợp cần có sự hỗ trợ của nhà nước nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời và phát triển doanh nghiệp. Các hình thức giám sát doanh nghiệp nhà nước bao gồm: Giám sát từ bên trong là giám sát nội bộ do các tổ chức của doanh nghiệp như kiểm toán nội bộ, ban kiểm soát, thanh tra nhân dân và do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện. Giám sát từ bên ngoài là giám sát do các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc giám sát bên ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức: Giám sát gián tiếp là theo dõi và kiểm tra từ xa thông qua báo cáo tài chính, thống kê và chế độ báo cáo khác do các cơ quan chức năng của nhà nước quy định, thông qua báo cáo công khai tài chính tại thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Giám sát trực tiếp được thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra, thanh tra, khảo sát nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có thể thông qua các công ty tư vấn (bao gồm công ty tư vấn tài chính kế toán, thuế, các công ty kiểm toán độc lập, công ty đánh giá tài sản...) để thực hiện các dịch vụ về giám sát doanh nghiệp. Giám sát trước, trong quá trình thực hiện và sau khi thực hiện Giám sát trước khi thực hiện là việc kiểm tra tính khả thi của các dự án như kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn; dự án đầu tư xây dựng hoặc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, dự án huy động vốn... Giám sát trong quá trình thực hiện là theo dõi, kiểm tra, thanh tra tính hiệu lực của các quy định pháp luật, nguyên tắc quản lý điều hành cảu doanh nghiệp và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp. Giám sát sau khi thực hiện là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra các kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo kết quả hoặc quyết toán định kỳ và giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật hoặc quyết định của chủ sở hữu hoặc Điều lệ doanh nghiệp. IV. Đánh giá công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp Từ khi Luật Doanh nghiệp nhà nước được ban hành năm 1995, Chính phủ đã triển khai một số chính sách quan trọng về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước như Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996, Nghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 2/4/1999. Bộ Tài chính cũng đã ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện như Thông tư 62/1999/TT-BTC ngày 7/6/1999 hướng dẫn quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước, Thông tư 64/1999/TT-BTC ngày 7/6/1999 hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận sau thuế và quản lý các quỹ trong doanh nghiệp nhà nước... Do đó, việc quản lý sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước đã có hệ thống văn bản pháp lý tương đối đồng bộ. Tuy nhiên khi xem xét tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước và phân tích từng vấn đề cũng như quá trình triển khai thực hiện các chính sách quản lý vốn nhà nước, có thể thấy rằng bên cạnh những mặt tích cực, hợp lý, vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần phải hoàn thiện thêm trong thời gian tới. 1. Ưu điểm 1.1. Quyền chủ động của doanh nghiệp được mở rộng Khác với các chính sách về quản lý sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trước khi có Luật doanh nghiệp nhà nước, chính sách về quản lý sử dụng vốn nhà nước hiện nay đã trao cho doanh nghiệp quyền chủ động trong nhiều vấn đề cơ bản, quyết định hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể như sau: Doanh nghiệp được chủ động quyết định hình thức huy động vốn theo quy định của pháp luật. Theo đó, doanh nghiệp cũng phải tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn của mình. Mức khống chế tổng dư nợ vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ của doanh nghiệp tại thời điểm vay vốn đã được huỷ bỏ. Nhờ đó, các doanh nghiệp đã chủ động trong việc huy động các nguồn vốn bằng nhiều hình thức khác nhau để bổ sung vốn trong hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã khai thác tốt nguồn vốn nội bộ của người lao động trong doanh nghiệp nên đã mở rộng kinh doanh, giảm được chi phí. Doanh nghiệp được tự quyết định đối với các tài sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng, bao gồm các quyền được cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý, trừ các tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật.. 1.2. Đề cao trách nhiệm bảo toàn vốn của doanh nghiệp Đã có những quy định cụ thể để doanh nghiệp có thể bảo toàn được số vốn Nhà nước giao. Hầu hết các khoản chi phí thực tế của doanh nghiệp được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp để lấy thu nhập bù đắp, giúp doanh nghiệp không bị mất vốn. Các khoản tổn thất tài sản, kể cả công nợ không thu hồi được, sau khi trừ đi tiền bồi thường của tổ chức bảo hiểm, của tập thể, cá nhân vi phạm đều được tính vào chi phí. Ngoài ra, doanh nghiệp còn được hạch toán vào trong chi phí các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ khó đòi, dự phòng giảm giá chứng khoán, dự phòng chênh lệch tỷ giá để phân tán bớt các khoản rủi ro có thể xảy ra nhằm bảo vệ số vốn được giao. Các quy định vè phân phối lợi nhuận sau thuế như: cho phép bù đắp khoản lỗ các năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế trước khi thu sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, trích tối thiểu 50% phần lợi nhuận sau khi trừ các khoản phải trả vào quỹ đầu tư phát triển... tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn. 1.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác Doanh nghiệp nhà nước là đơn vị kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý, trong đó có phần vốn Nhà nước giao. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh thị trường một cách bình đẳng với các hình thức doanh nghiệp khác. Trong các cơ chế tài chính trước Luật doanh nghiệp nhà nước, nhiều quy định xử lý các vấn đề tài chính chỉ áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước như đưa chênh lệch khi thanh lý, nhượng bán tài sản bổ sung vốn, tính vào chi phí khoản thu sử dụng vốn ngân sách, chế độ bảo toàn vốn... Những quy định này tạo sự mất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cơ chế tài chính hiện hành đã khắc phục được những điểm này như: chênh lệch thanh lý, nhượng bán tài sản được tính vào lợi nhuận của doanh nghiệp và phải chịu thuế; thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Những quy định này tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kích thích tính cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. 1.4. Công tác giám sát đã đạt được một số kết quả. - Đã giúp Nhà nước nắm được tình hình vốn, tài sản của doanh nghiệp trong cả nước, của doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương một cách hệ thống. - Đã tổng hợp đánh giá được kết quả kinh doanh hàng năm; tình trạng và khả năng bảo toàn, phát triển vốn của từng doanh nghiệp, ngành, địa bàn và cấp quản lý. - Kết hợp tổng hợp, phân tích, đánh giá phân loại doanh nghiệp nhà nước về hiệu quả kinh doanh, quy mô kinh doanh đã giúp cho các ngành và địa phương có căn cứ tin cậy để tổ chức sắp xếp hoặc cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước. - Đã bước đầu thiết lập được hệ thống cơ sở dữ liệu doanh nghiệp nhà nước, phục vụ cho việc phân tích, đánh giá hoạt động doanh nghiệp nhà nước. - Đã giúp cho doanh nghiệp chấn chỉnh công tác quản lý vốn; khắc phục được những tồn tại, yếu kém trong công tác quản lý, tăng thu cho ngân sách hàng năm hàng trăm tỷ đồng. 2. Hạn chế 2.1. Tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước chưa hợp lý Hiện nay, Cục Tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Việc một cơ quan cùng lúc thực hiện cả hai nhiệm vụ này có ưu điểm là thống nhất chỉ đạo về chính sách kinh tế tài chính quốc gia đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhưng các quyết sách của Cục đưa ra có thể bị lẫn lộn giữa nhiệm vụ quản lý nhà nước và chủ sở hữu. Do đó, hoạt động của doanh nghiệp bị can thiệp bởi cơ quan quản lý. Đồng thời doanh nghiệp cũng nảy sinh ra tính ỷ lại vào nhà nước. 2.2. Cơ chế đầu tư vốn chưa đầy đủ và phù hợp. Trong quy chế tài chính hiện nay còn một số vấn đề về đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước chưa được đề cập. Doanh nghiệp nhà nước được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu, nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Nhưng trong thực tế, nhiều doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp lại không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển nhưng trong năm 1998 có tới khoảng 80% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Như vậy, do không có qui định ràng buộc trách nhiệm đầu tư vốn của người quyết định thành lập doanh nghiệp nên đã xảy ra tình trạng doanh nghiệp được thành lập nhưng không được cấp đủ vốn điều lệ, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng ngân sách Nhà nước, Nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, chưa có tiêu chuẩn thống nhất về lợi nhuận, hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngành nghề kinh doanh... để xác định doanh nghiệp nhà nước nào được đầu tư bổ sung. Thêm vào đó, phương thức đầu tư, mức đầu tư vốn cũng không được quy định cụ thể. Hơn nữa, cơ chế cấp bổ sung vốn như vậy còn mang nặng tính hành chính. Đối với vốn lưu động, doanh nghiệp nhà nước được tự bổ sung vốn từ nguồn lợi nhuận sau thuế thông qua trích lập quỹ đầu tư phát triển. Trong tổng số vốn nhà nước hiện nay là 110 ngàn tỷ thì vốn bổ sung của doanh nghiệp từ nguồn quỹ đầu tư phát triển là 22,5 ngàn tỷ. Ngoài ra, hàng năm Ngân sách dành một khoản hỗ trợ vốn lưu động cho doanh nghiệp, năm 2000 là 34 tỷ. Với doanh thu hàng năm khoảng 300.000 tỷ đồng, các doanh nghiệp nhà nước cần khoảng 75 ngàn tỷ đồng vốn lưu động. Như vậy vốn lưu động của các doanh nghiệp thiếu khoảng 55 tỷ. Trong thực tế, có những doanh nghiệp thực sự thiếu vốn. Nhưng có không ít các doanh nghiệp thiếu vốn do sử dụng vốn của mình không hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng vốn của nhau, vốn lưu động quay vòng luẩn quẩn làm cho tình hình tài chính của các doanh nghiệp trở nên phức tạp, thiếu vốn ngày càng trầm trọng. Đối với vốn cố định, mặc dù đã có cơ chế để lại khấu hao cơ bản cho doanh nghiệp nhưng việc sử dụng thường đạt hiệu quả không cao vì lâu nay việc cải tạo trang thiết bị, xây dựng, mua sắm mới tài sản cố định thường chủ yếu dựa vào nguồn cấp phát vốn của Ngân sách nhà nước. Nếu tiếp tục thực hiện cấp phát vốn thì không tạo được động lực cho doanh nghiệp sử dụng vốn một các hiệu quả, không ỷ lại vào Ngân sách nhà nước. 2.3. Vấn đề sở hữu doanh nghiệp nhà nước Theo Điều 1, Luật Doanh nghiệp nhà nước hiện hành, doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là “tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước là do Nhà nước đầu tư 100% vốn. Nói cách khác, 100% vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên, trong Nghị định 27/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn quy định doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu “nhưng không được làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp”. Quy định này không phù hợp với thực tế. Doanh nghiệp nhà nước không thể chỉ phát hành cổ phiếu trong nội bộ khu vực nhà nước, sẽ có một bộ phận cổ phiếu được phát hành ra các thành phần kinh tế khác. Khi đó, hình thức sở hữu của doanh nghiệp nhà nước sẽ thay đổi. Thực chất, khi doanh nghiệp nhà nước phát hành cổ phiếu thì doanh nghiệp đang thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước- một hình thức đa dạng hoá các hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước. 2.4. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự được chủ động. Mặc dù đã được trao quyền chủ động huy động vốn và sử dụng tài sản trong phạm vi quản lý của doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp vẫn phải tuân theo một số hạn chế. Cơ quan quản lý vẫn giữ quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp như phê chuẩn phương án huy động vốn, góp vốn liên doanh... Khi cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán hay thanh lý tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, doanh nghiệp phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản. Những quy định này đã hạn chế tính chủ động và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quy định còn khống chế các khoản chi giao dịch, tiếp khách, hội họp... bằng 7% tổng chi phí thực tế của doanh nghiệp. Do yêu cầu về khoản chi này ở từng doanh nghiệp, từng ngành nghề khác nhau là khác nhau nên việc khống chế một mức chi đối với mọi loại hình doanh nghiệp là không phù hợp. Nếu doanh nghiệp có thể thu được hiệu quả cao hơn từ việc bỏ ra thêm một khoản chi phí giao dịch thì nên trao quyền quyết định về mức chi này cho doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm ngành và nhu cầu của mình, doanh nghiệp xác định mức chi phù hợp. Đồng thời việc doanh nghiệp được tự quyết định khoản chi này cũng góp phần tăng cường trách nhiệm của những người quản lý doanh nghiệp. 2.5. Chế độ phân phối lợi nhuận sau thuế Chế độ thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước: Nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/1991 về thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước quy định các doanh nghiệp nhà nước hàng năm phải nộp ngân sách số tiền bằng 2,4% đến 6% (tuỳ ngành nghề kinh doanh) số vốn doanh nghiệp được nhà nước giao quản lý và sử dụng. Từ năm 1991 đến trước Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996, khoản này được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp. Từ năm 1997 đến nay, doanh nghiệp nộp thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước từ lợi nhuận sau thuế. Mục đích của khoản thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước là nhằm đảm bảo công bằng trong việc sử dụng các nguồn vốn, thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách. Tuy nhiên, cơ chế lại quy định các doanh nghiệp lỗ không phải nộp khoản này còn các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì phải nộp. Như vậy, cả hai mục đích trên đều không đạt được, vừa tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, vừa không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. Mức thu sử dụng vốn ngân sách được tính trên số vốn nhà nước có tại doanh nghiệp. Như vậy khoản thu này không gắn với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng lại lấy từ lợi nhuận sau thuế. Điều này dẫn tới một số doanh nghiệp sau khi nộp thu sử dụng vốn thì không còn nguồn để trích lập các quỹ, ảnh hưởng đến việc bảo toàn vốn cũng như quyền lợi của người lao động. Mặt khác, nếu coi nhà nước như một nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp thì việc nộp thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước trước khi chia lãi cho đối tác góp vốn kinh doanh (nếu có) là không công bằng. Chế độ trích lập các quỹ Đối với lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp phải trích lập các loại quỹ sau: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi và khen thưởng, chưa kể các quỹ đặc biệt mà các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực đặc thù phải trích lập. Thực tế, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa cao, số doanh nghiệp không có lợi nhuận, thua lỗ chiếm tỷ lệ lớn. Những doanh nghiệp có lợi nhuận tăng so với năm trước không nhiều. Một số lớn doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì còn rất ít lợi nhuận. Trong điều kiện nguồn lợi nhuận sau thuế hạn chế đó, việc chia ra quá nhiều loại quỹ trong doanh nghiệp thực sự làm phân tán nguồn tài chính của doanh nghiệp. Nội dung sử dụng các quỹ còn quá lớn, phân tán, tạo ra mâu thuẫn căng thẳng giữa nhu cầu chi và khả năng của các quỹ. Chế độ còn quy định mức trích tối đa cho hai quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi là 2 hoặc 3 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước. Quy định này phần nào không khuyến khích người lao động tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh vì không gắn quyền lợi của họ với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp làm ra bao nhiêu lợi nhuận thì vẫn chỉ được trích lập hai quỹ này tối đa theo lương của người lao động, có nghĩa là người lao động không thể được hưởng hơn một mức nhất định. Đây là một vấn đề bất hợp lý, cản trở sự nỗ lực đi lên của doanh nghiệp. 2.6. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp chưa cụ thể Doanh nghiệp được huy động các nguồn vốn khác nhau để hình thành nguồn vốn kinh doanh theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay, hoàn trả cả gốc và lãi cho người vay theo cam kết; được sử dụng vốn, tài sản để thực hiện các dự án đầu tư theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp huy động vốn bằng mọi giá, không tính đến hiệu quả nên rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn tới phá sản; nhiều chương trình sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Nhưng vì chưa có cơ chế nào quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của người quản lý điều hành nên hậu quả thường do Nhà nước phải gánh chịu, tìm cách giải quyết. 2.7. Hiệu quả công tác giám sát doanh nghiệp nhà nước chưa cao. - Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý của đại diện chủ sở hữu. Việc giám sát chưa tập trung đánh giá, phát hiện khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý kịp thời. - Hệ thống cơ sở dữ liệu chưa hoàn chỉnh ở cấp Trung ương và địa phương; chất lượng dữ liệu còn hạn chế; chưa có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp quy mô lớn, vừa và nhỏ. - Kênh thông tin từ doanh nghiệp lên các cơ quan tài chính thường chậm và không đầy đủ. Do đó việc phân tích đánh giá tình hình doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, chậm và hạn chế tác dụng của giám sát sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. - Công tác giám sát còn nhiều chồng chéo, trùng lặp, còn gây khó khăn phiền hà cho doanh nghiệp. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục tài chính doanh nghiệp 1. Mục tiêu cơ bản khi thực hiện đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Từ trước đến nay, đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước luôn được Nhà nước quan tâm. Trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. ... Xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực sản phẩm cần ưu tiên phát triển. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện quyền chủ sở hữu của nhà nước với chức năng điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp.” Trên cơ sở đó, mục tiêu của công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2001- 2005 là: Tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng, lành mạnh, thông thoáng, ổn định cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường kinh doanh của cơ chế thị trường, hội nhập khu vực và quốc tế. Tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp, giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước chỉ quản lý về mặt giá trị dưới hình thức đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân kinh tế, có quyền của người kinh doanh, chi phối các yếu tố sản xuất và nắm giữ quyền quản lý và tài sản của doanh nghiệp. Các khoản tài trợ, các chính sách ưu đãi phải dần được xoá bỏ, thay vào đó là các chính sách tài trợ cho các mục tiêu, các hoạt động mang tính xã hội mà doanh nghiệp chỉ được hưởng khi thực hiện các mục tiêu, hoạt động đó. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp bổ sung vốn kinh doanh từ khả năng tài chính của mình và huy động vốn của xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, ổn định và tăng thu nhập cho người lao động, tăng mức đóng góp cho Ngân sách Nhà nước. Nhà nước chỉ nắm giữ những doanh nghiệp nhà nước cần sở hữu 100% thuộc các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế hoặc những ngành mà doanh nghiệp thuộc các t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12057.DOC
Tài liệu liên quan