Tài liệu Đề tài Đánh giá phương pháp gọt giác mạc bằng laser trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng – Trần Hải Yến: 32
ĐÁNH GIÁ PHƯƠNG PHÁP GỌT GIÁC MẠC BẰNG 
LASER 
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ GIÁC MẠC DẢI BĂNG 
TRẦN HẢI YẾN, NGUYỄN THỊ DIỆU THƠ 
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh 
LÊ MINH TUẤN 
Bộ môn Mắt ĐHYD TP. Hồ Chí Minh 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp gọt giác mạc bằng 
laser (Phototherapeutic Keratectomy – PTK) trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng 
(BLGMDB). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu loạt ca: 9 bệnh nhân(BN) với 11 
mắt được chẩn đoán BLGMDB và điều trị bằng phương pháp PTK từ 6/2006 -10/2007. 
BN được ghi nhận thị lực, khúc xạ, độ trong giác mạc, triệu chứng chủ quan trước và 
sau phẫu thuật và bệnh lý mắt đi kèm. Kết quả: Sau thời gian theo dõi hậu phẫu trung 
bình là 7 tháng (từ 2 đến 12 tháng), tất cả mắt đều có cải thiện độ trong so với trước mổ 
với 6/11 mắt đạt độ trong hoàn toàn (độ 0) . 3 mắt bị mờ đục giác mạc (haze) nhẹ,1 mắt 
hết mờ đục sau 3 tháng. Tất cả BN đều ghi nhận có cải thiện triệu chứng chủ quan như 
cộm xốn,...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 478 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá phương pháp gọt giác mạc bằng laser trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng – Trần Hải Yến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32
ĐÁNH GIÁ PHƯƠNG PHÁP GỌT GIÁC MẠC BẰNG 
LASER 
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ GIÁC MẠC DẢI BĂNG 
TRẦN HẢI YẾN, NGUYỄN THỊ DIỆU THƠ 
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh 
LÊ MINH TUẤN 
Bộ môn Mắt ĐHYD TP. Hồ Chí Minh 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp gọt giác mạc bằng 
laser (Phototherapeutic Keratectomy – PTK) trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng 
(BLGMDB). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu loạt ca: 9 bệnh nhân(BN) với 11 
mắt được chẩn đoán BLGMDB và điều trị bằng phương pháp PTK từ 6/2006 -10/2007. 
BN được ghi nhận thị lực, khúc xạ, độ trong giác mạc, triệu chứng chủ quan trước và 
sau phẫu thuật và bệnh lý mắt đi kèm. Kết quả: Sau thời gian theo dõi hậu phẫu trung 
bình là 7 tháng (từ 2 đến 12 tháng), tất cả mắt đều có cải thiện độ trong so với trước mổ 
với 6/11 mắt đạt độ trong hoàn toàn (độ 0) . 3 mắt bị mờ đục giác mạc (haze) nhẹ,1 mắt 
hết mờ đục sau 3 tháng. Tất cả BN đều ghi nhận có cải thiện triệu chứng chủ quan như 
cộm xốn, chói lóa. Về thị lực sau mổ: 6 mắt tăng, 2 mắt không đổi và 3 mắt giảm do tổn 
thương khác tại mắt. Có 4 mắt được phẫu thuật phaco và đặt kính nội nhãn, thị lực tăng 
rất cao với BCVA từ 2/10 đến 10/10. Kết luận: PTK là một phương pháp hữu hiệu 
trong điều trị BLGMDB, góp phần phục hồi tính trong suốt và bề mặt giác mạc trơn 
láng của giác mạc, giảm bớt những khó chịu của BN, tạo điều kiện thuận lợi cho các 
phẫu thuật nội nhãn, nếu cần, để giúp cải thiện thị lực cho BN. 
Từ khóa: Phương pháp gọt giác mạc bằng laser, bệnh lý giác mạc dải băng 
(BLGMDB) 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Cuối thập niên 80 thế kỷ trước, 
phẫu thuật LASER Excimer đã được 
thực hiện nhằm tạo hình lại bề mặt giác 
mạc, điều trị trước hết là cận, sau đó đến 
viễn và loạn thị. Đến nay, nó đã trở thành 
lựa chọn hàng đầu trong điều trị tật khúc 
xạ. Năm 1990, LASER Excimer được 
nghiên cứu sử dụng để điều trị các tổn 
thương giác mạc nông dưới tên là 
Phototherapeutic keratectomy (PTK), 
phẫu thuật cắt gọt giác mạc quang học 
bằng LASER. Đến năm 1995, PTK đã 
được FDA của Mỹ công nhận. Ưu điểm 
của phương pháp PTK là lấy đi mô giác 
mạc với độ chính xác cao và ít gây tổn 
thương mô lành kế cận, giúp tạo bề mặt 
nhẵn mịn[4]. Những thương tổn giác mạc 
nằm ở nhu mô trước (<100µm), bao gồm 
loạn dưỡng giác mạc nông, sẹo nông và 
những tổn thương không đều trên bề mặt 
giác mạc, được điều trị tốt nhất bằng 
phương pháp PTK. Trên 15 năm ứng 
dụng PTK cho thấy LASER Excimer là 
33
một công cụ rất hữu hiệu gia tăng tỷ lệ 
thành công trong điều trị bệnh giác mạc, 
cải thiện thị lực BN, giúp tránh những 
phẫu thuật can thiệp như ghép giác mạc 
phiến hoặc xuyên. 
 BLGMDB là một tình trạng thoái 
hóa giác mạc, biểu hiện bởi sự phát triển 
từ từ của tổn thương đục màu trắng xám 
trên giác mạc nông. Có sự lắng đọng 
canxi trên màng đáy, màng Bowman và 
nhu mô trước. Khi tổn thương lan đến 
trục thị giác sẽ làm giảm thị lực và gây 
chói lóa. Ngoài ra, nó còn gây kích thích 
rất nhiều nếu lớp biểu mô bị tróc ra. Điều 
trị BLGMDB bao gồm lấy đi những lắng 
đọng canxi gây đục và phục hồi bề mặt 
láng mịn cho giác mạc. Thông thường, 
BLGMDB được điều trị bằng phương 
pháp cạo giác mạc bằng tay kết hợp với 
hóa chất ethylenediaminetetraacetic acid 
(EDTA). Phương pháp cắt gọt giác mạc 
cơ học cũng có thể được sử dụng để lấy 
đi những lắng đọng canxi nông. Tuy 
nhiên nhược điểm của các phương pháp 
này là bề mặt nhu mô giác mạc sau khi 
cạo thường không được đều đặn. Do đó 
phương pháp PTK đã được các tác giả 
trên thế giới nghiên cứu ứng dụng để 
điều trị BLGMDB, giúp tái tạo bề mặt 
nhẵn mịn của giác mạc. 
 So với các tổn thương giác mạc 
nông gây sẹo gặp ở bệnh viện Mắt 
TPHCM, BLGMDB tương đối thường 
gặp hơn cả. Chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của 
phương pháp PTK trong điều trị bệnh lý 
này 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP 
 Đây là một báo cáo loạt ca: phân 
tích trên 11 mắt của 9 BN được chẩn 
đoán BLGMDB và được điều trị tại khoa 
Khúc xạ bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 
6/2006 đến tháng 10/2007. Trong số 9 
BN, có 7 nam và 2 nữ. Tuổi trung bình là 
18 (từ 8 đến 46 tuổi). Có 4 trường hợp bề 
mặt dải băng thô ráp và có vùng tróc biểu 
mô, các trường hợp còn lại biểu mô 
phẳng. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm mắt 
độc nhất, viễn thị, hở mi, quặm mi, có 
các bệnh lý khác ở nhãn cầu đang tiến 
triển như viêm màng bồ đào bệnh lý 
collagen toàn thân, bệnh tự miễn, suy 
giảm miễn dịch, tiểu đường. BN được đo 
thị lực không kính và có kính, đo bề dày 
giác mạc, chụp bản đồ giác mạc bằng 
máy Orbscan II, khám mắt toàn diện 
bằng sinh hiển vi. Mức độ trong suốt của 
giác mạc được đánh giá theo 5 mức: 
 Độ 0: Giác mạc trong suốt 
 Độ I: Dấu vết đục với mật độ tối 
thiểu, thấy được qua chiếu sáng trực tiếp 
và khuyếch tán 
 Độ II: Đục màng khói thấy dễ dàng 
với chiếu sáng trực tiếp tại chỗ 
 Độ III: Đục nhiều che phủ một 
phần chi tiết mống mắt 
 Độ IV: Đục rất nặng che hoàn toàn 
chi tiết mống mắt 
 Tất cả các BN được điều trị bằng 
chế độ PTK của máy laser 
TECHNOLAS 217Z 100 (Bausch & 
Lomb) với tê tại chỗ bằng proparacain 
0.5%. Biểu mô được bóc đi bằng dao 
Hockey nếu bề mặt thô ráp, bằng 
LASER hoặc dao Epi K nếu bề mặt mịn 
nhẵn. Sau khi lấy biểu mô, nhu mô được 
phủ dung dịch làm nhẵn (smoothing 
agent) như carboxymethylcellulose 0.5% 
34
(Refresh Plus, Allergan) để giúp tạo bề 
mặt nhu mô mịn màng sau khi chiếu 
LASER. Số lượng điểm bắn, tần suất 
điểm bắn, kích thước và chiều sâu vùng 
chiếu LASER được chọn tùy theo kích 
thước và chiều sâu của tổn thương. Độ 
sâu vùng chiếu laser thay đổi từ 35µm 
đến 80µm, kích thước vùng quang học 
chiếu laser (optic zone) từ 6,5mm đến 
7mm. Sau khi phẫu thuật BN được gắn 
kính tiếp xúc, nhỏ thuốc kháng sinh và 
corticoid. BN được hẹn tái khám 1 ngày, 
3 ngày, 1 tuần đánh giá mức độ lành biểu 
mô, đo thị lực không kính, và tháo kính 
tiếp xúc khi biểu mô lành hoàn toàn. Sau 
mổ 1 tháng, 3 tháng , 6 tháng BN được 
khám đánh giá mức độ trong suốt của 
giác mạc, nhãn áp (do nhỏ corticoid dài 
ngày), thị lực không kính, sau chỉnh 
kính, bản đồ giác mạc, triệu chứng chủ 
quan của BN. 
 Các bệnh lý mắt đi kèm bao gồm: 6 
mắt có di chứng viêm màng bồ đào cũ, 
trong đó có 3 mắt kèm đục thể thủy tinh 
(TTT) từ đục dưới bao sau đến đục gần 
toàn bộ, 2 mắt có đục TTT, 2 mắt đã 
được mổ TTT có gắn kính nội nhãn, 1 
mắt đã được mổ cắt bè củng mạc vì 
glôcôm trẻ em. Một BN có hội chứng 
thận hư đi kèm viêm màng bồ đào cũ hai 
mắt. 
III. KẾT QUẢ 
 Thời gian theo dõi từ 2 tháng đến 
12 tháng, trung bình là 7 tháng. Độ trong 
giác mạc được cải thiện đáng kể so với 
trước phẫu thuật. Trước phẫu thuật: 2 
mắt độ II, 5 mắt độ III và 4 mắt độ IV. 
Sau mổ 6 mắt độ 0, 4 mắt độ I và 1 mắt 
độ II . Giác mạc của tất cả các mắt trong 
nghiên cứu đều có bề mặt giác mạc trơn 
láng hơn và trong hơn ở các mức độ khác 
nhau so với trước khi can thiệp: 5/11 mắt 
cải thiện từ 3 độ trong trở lên. Tất cả các 
BN đều ghi nhận cải thiện nhiều về triệu 
chứng chủ quan như cộm xốn, chói lóa 
Biểu đồ 1: Đánh giá độ trong giác mạc trước và sau mổ 
 Về thị lực, trước mổ có 9/11 mắt có 
thị lực < 1/10, 6 mắt thị lực tăng so với 
trước mổ, 2 mắt không đổi, 3 mắt có thị 
lực giảm. Có 4 BN (4 mắt), sau mổ PTK 
giác mạc trong đã tạo điều kiện thuận lợi 
cho phẫu thuật phaco và đặt kính nội 
nhãn, thị lực sau mổ đạt rất cao, với 
BCVA 1 mắt là 2/10, 2 mắt đạt 8/10 và 1 
0
6
0
4
2
1
5
0
4
0
1
2
3
4
5
6
Độ 0 Độ I Độ II Độ III Độ IV
35
mắt đạt 10/10. Một BN thị lực ST (-) 
trước mổ với tình trạng dải băng thô ráp, 
yêu cầu được phẫu thuật vì lý do thẩm 
mỹ và giảm bớt khó chịu cho mắt. Riêng 
ba mắt bị giảm thị lực: trường hợp thứ 
nhất là hai mắt trên cùng một BN có 
viêm màng bồ đào cũ. Trước mổ: thị lực: 
MP ĐNT 3,5 m, MT 1/10; đục giác mạc 
2 bên độ III. Sau mổ 1 tuần, độ trong 
suốt giác mạc 2 mắt ở độ I, thị lực MP 
2/10, MT 3/10. Đến 1 tháng sau mổ, hai 
mắt xuất hiện mờ đục nhẹ, tuy nhiên 
chưa làm thay đổi thứ hạng theo tiêu 
chuẩn qui định trong thang đánh giá độ 
trong (vẫn ở mức độ I) và thị lực không 
suy giảm, BN được điều trị corticoid tại 
chỗ. Thời điểm 2 tháng sau phẫu thuật, 
mờ đục vẫn không tiến triển tiếp, độ 
trong giác mạc vẫn duy trì độ I, tuy nhiên 
thị lực BN giảm còn MP ĐNT 3m, MT 
ĐNT 4m. Chúng tôi hẹn BN quay lại để 
làm thêm một số khám nghiệm, nhưng 
BN bỏ tái khám nên không đánh giá 
được thị lực, tình trạng mờ đục sau đó 
cũng như chưa xác định được nguyên 
nhân gây giảm thị lực. Một trường hợp 
BN nam khác, trước mổ ghi nhận 
BLGMDB trên mắt đã mổ lấy thể thủy 
tinh có đặt kính nội nhãn, khi khám phát 
hiện màng đục trắng sau IOL, thị lực 
BBT. Mục tiêu của phẫu thuật trên BN 
này là giải phóng trục thị giác để có thể 
tiến hành cắt bao sau hoặc cắt dịch kính 
tiếp theo nhằm cải thiện thêm thị lực cho 
BN. Sau mổ 1 tuần, thị lực BN đạt ĐNT 
0,2 m, giác mạc đục độ II (do sẹo dày 
nên không thể chiếu laser hết bề dày của 
sẹo). BN bỏ không tái khám. Sau mổ 6 
tháng BN quay trở lại với thị lực ST (+), 
giác mạc giữ độ II, siêu âm B phát hiện 
bong võng mạc toàn bộ. 
Trước mổ, tất cả BN bị đục giác 
mạc nhiều nên không thể đo khúc xạ, vì 
vậy không thể đánh giá được sự thay đổi 
khúc xạ sau mổ của BN. Sau phẫu thuật 
PTK, dù giác mạc trong hơn nhưng do 
phần lớn BN kèm theo đục thủy tinh thể, 
Hình 1A. Hình ảnh trước mổ: bệnh nhân 
Nguyễn Thành N, 15 tuổi. Có tiền căn 
viêm màng bồ đào. Thị lực ĐNT ,.5m. 
Hình 1B. Hình ảnh sau mổ PTK 3 
tháng, sau mổ đục thủy tinh thể và 
đặt kính nội nhãn 2 tháng. BCVA = 
8/10. 
36
nên chỉ thu thập được khúc xạ của 2 BN, 
và cả hai đều có xu hướng loạn thị hỗn 
hợp. 
Biến chứng: không có biến chứng 
xảy ra trong lúc mổ. Có 3 mắt bị mờ đục 
nhẹ. Một mắt xuất hiện mờ đục sau 1 
tháng, được điều trị bằng corticoid nhỏ 
mắt (Predforte 1%), mờ đục biến mất sau 
3 tháng. Hai mắt của một BN khác cũng 
xuất hiện mờ đục sau 1 tháng, đã được 
nêu ở trên. Không có trường hợp nào bị 
nhiễm trùng. Không ghi nhận trường hợp 
tái phát nào, có thể vì thời gian theo dõi 
hậu phẫu ngắn (tối đa là 12 tháng). 
Chúng tôi không tiến hành nghiên cứu 
thống kê số liệu vì số lượng BN ít. 
Bảng 1: Kết quả so sánh trước và sau mổ trên từng bệnh nhân 
Trước mổ Sau mổ (*) 
Biến chứng 
Bệnh lý đi kèm và các 
xử trí sau PTK (nếu 
có) 
BCVA 
Độ 
trong 
GM 
BCVA 
Độ 
trong 
GM 
Bệnh nhân 
1 
MT ĐNT 
0.5m 
Độ III 1/10 Độ 0 VMBĐ cũ, đục TTT 
Bệnh nhân 
2 
MP ĐNT 
1m 
Độ IV 8/10 Độ 0 Mờ đục nhẹ, 
hết sau 3 
tháng 
Bệnh nhân được mổ 
phaco và đặt IOL sau 
mổ PTK 
Bệnh nhân 
3 
MT 3/10 Độ III 10/10 Độ I Bệnh nhân được mổ 
phaco và đặt IOL sau 
mổ PTK 
Bệnh nhân 
4 
MP ĐNT 
2.5m 
Độ IV 2/10 Độ 0 VMBĐ cũ. Bn được mổ 
phaco và đặt IOL sau 
mổ PTK 
Bệnh nhân 
5 
MT ST (-) Độ IV ST (-) Độ 0 VMBĐ cũ, dính góc tiền 
phòng, đục thể thủy tinh 
Bệnh nhân 
6 
MP ĐNT 
3.5m 
Độ III ĐNT 3m Độ I Mờ đục nhẹ 
sau mổ 1 
tháng 
2M: VMBĐ cũ, hội 
chứng thận hư 
MT 1/10 Độ III ĐNT 4m Độ I Mờ đục nhẹ 
sau mổ 1 
tháng 
Bệnh nhân 
7 
MP BBT Độ III ST (+) Độ II Đã mổ lấy TTT và đặt 
IOL trước PTK. Bong 
võng mạc được phát 
hiện 6 tháng sau mổ 
PTK 
Bệnh nhân 
8 
MP ĐNT 
0.5m 
Độ IV 8/10 Độ I VMBĐ cũ. Bn được mổ 
phaco và đặt IOL sau 
mổ PTK 
37
Bệnh nhân 
9 
MP ĐNT 
1m 
Độ II ĐNT 1m Độ 0 Đã cắt bè củng mạc do 
glaucoma, lõm gai 8/10 
MT ĐNT 
1m 
Độ II ĐNT 4m Độ 0 Đã mổ lấy TTT, đặt IOL 
(*): Kết quả lần khám cuối cùng sau mổ. 
IV. BÀN LUẬN 
 BLGMDB là một tình trạng thoái 
hóa giác mạc, do sự lắng đọng của các 
loại muối canxi trên bề mặt giác mạc, cụ 
thể là ở màng đáy biểu mô, màng 
Bowman và nhu mô trước. Tổn thương 
khi lan tới trục thị giác sẽ gây giảm thị 
lực, chói lóa và khó chịu nếu lớp biểu mô 
bị tróc ra. Thường gặp bệnh lý này ở 
những BN có rối loạn chuyển hóa canxi 
hoặc phosphate, hoặc trong những bệnh 
lý tại mắt như viêm màng bồ đào kéo dài, 
teo nhãn cầu, glôcôm tuyệt đối. Bệnh có 
thể gây ra do một số loại chất bảo quản 
của thuốc nhỏ mắt pilocarpin, chất nhầy, 
thuốc nhỏ mắt corticoid có chứa 
phosphate, hoặc do dầu silicon trong tiền 
phòng [3]. Mục tiêu điều trị trong 
BLGMDB không phải là điều trị nguyên 
nhân mà chủ yếu là lấy đi phần giác mạc 
đục để giải phóng trục thị giác và giúp 
BN dễ chịu trong trường hợp bề mặt dải 
băng thô ráp. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, tất cả các trường hợp đều có 
cải thiện về độ trong giác mạc đáng kể 
với 6/11 mắt đạt được độ trong hoàn toàn 
(độ 0). Hơn nữa tất cả mắt đều có bề mặt 
giác mạc trơn láng sau mổ, giúp BN cải 
thiện nhiều về triệu chứng chủ quan như 
khó chịu, chói lóa Nghiên cứu tương 
tự của tác giả O’Brart và cộng sự cho 
thấy sau phẫu thuật PTK kết quả cải 
thiện đáng kể về độ chói lóa, độ nhạy 
tương phản và sự khó chịu của BN [1]. 
Hơn nũa cũng trong nghiên cứu này, khi 
khảo sát mô học của một mẫu giác mạc 
bị thoái hóa dải băng được điều trị bằng 
PTK, người ta nhận thấy rằng ở vùng 
được chiếu laser, biểu mô có hình thái 
bình thường so với biểu mô bất thường ở 
vùng thoái hóa chưa được chiếu laser. 
Điều đó cho thấy biểu mô giác mạc bất 
thường ở vùng dải băng có khả năng 
phục hồi những đặc tính bình thường của 
mình khi môi trường nuôi dưỡng bên 
dưới được cải thiện [1]. Và có lẽ nhờ 
phục hồi các đặc tính bình thường của 
biểu mô giác mạc vùng điều trị đã giúp 
cải thiện các triệu chứng chủ quan của 
BN. Tác giả Dogru và cộng sự trong 
nghiên cứu khảo sát các thông số về tình 
trạng bề mặt nhãn cầu sau phẫu thuật 
PTK cho nhiều bệnh lý giác mạc nông 
như loạn dưỡng Avellino, dạng lưới, 
dạng hạt, BLGMDB và sẹo giác mạc 
nông đã cho thấy có sự cải thiện về cảm 
giác giác mạc, thời gian phá vỡ phim 
nước mắt (BUT), chất lượng lớp lipid 
của phim nước mắt, và tình trạng chuyển 
sản tế bào vảy kết mạc [6]. Họ đã kết 
luận rằng nhờ cải thiện độ trong suốt và 
độ trơn láng của bề mặt giác mạc với 
phương pháp PTK, phim nước mắt cũng 
được cải thiện cùng với sự sản xuất 
mucin tốt hơn do biểu mô khỏe mạnh 
hơn. 
 Về thị lực, chúng tôi nhận thấy 
trước mổ hầu hết BN đều có thị lực rất 
thấp với 10/11 BN có thị lực dưới 1/10. 
Điều đó có thể lý giải được vì ngoài tính 
chất mờ đục của giác mạc tổn thương, 
38
phần lớn BN đều có bệnh lý mắt kèm 
theo như viêm màng bồ đào cũ, đục TTT, 
glôcôm. Cũng vì lý do đó mà phần lớn 
thị lực sau mổ cải thiện ít so với trước 
mổ mặc dù giác mạc đã trong hơn đáng 
kể. Tuy nhiên sau mổ PTK, giác mạc 
trong đã tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu 
thuật phaco đặt kính nội nhãn trên 4 mắt 
có bệnh lý đục TTT đi kèm, thị lực sau 
mổ đạt rất cao với 3 trong số 4 trường 
hợp có BCVA ≥ 8/10. Có lẽ đây là điểm 
thuận lợi rất lớn của phẫu thuật PTK 
trong BLGMDB. Giải phóng trục thị giác 
cùng với việc tái tạo bề mặt giác mạc 
trơn láng đã giúp cho các phẫu thuật nội 
nhãn, nếu cần được tiến hành trên BN, 
trở nên thuận lợi hơn, từ đó giúp cải 
thiện hơn nữa thị lực của người bệnh. 
 Có 3 mắt bị mờ đục nhẹ sau phẫu 
thuật 1 tháng. Thường mờ đục là do ánh 
sáng bị tán xạ bởi các tế bào giác mạc bị 
hoạt hóa ở vết thương. Một nguyên nhân 
khác của mờ đục là do sự lắng đọng của 
các sợi collagen mới và không đều đặn 
[4]. Điều trị mờ đục thường bằng 
corticoid nhỏ mắt tại chỗ. Đa số các 
trường hợp mờ đục sẽ hết sau 3 đến 6 
tháng sau mổ [10]. Ngày nay với việc sử 
dụng mitomycin C 0,02% tại vùng chiếu 
laser trong lúc mổ tương tự như trong 
phẫu thuật PRK hoặc Epi LASIK hứa 
hẹn sẽ giúp giảm nguy cơ mờ đục sau 
phẫu thuật [8]. 
 Chúng tôi không thể đánh giá được 
sự thay đổi khúc xạ vì không ghi nhận 
được khúc xạ của BN. Sau mổ chỉ ghi 
nhận được khúc xạ của 2 mắt nên khó lý 
giải được kết quả này vì số lượng quá ít 
(cả hai mắt đều có loạn thị hỗn hợp). 
V. KẾT LUẬN 
 Tóm lại, phương pháp PTK là một 
phương pháp an toàn và hữu hiệu trong 
điều trị thoái hóa giác mạc dải băng, giúp 
phục hồi tính trong suốt, tái tạo bề mặt 
trơn láng của giác mạc, cải thiện những 
khó chịu của BN, tạo điều kiện thuận lợi 
cho các phẫu thuật nội nhãn nếu cần để 
cải thiện thị lực. Những bệnh lý đi kèm 
với BLGMDB có thể làm hạn chế khả 
năng cải thiện thị lực cho BN. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. D P O’ BRART, D S GARTRY, C P LOHMANN, A L PATMORE, M G KERR 
MUIR AND J MARSHALL, Treatment of band keratopathy by excimer laser 
phototherapeutic keratectomy: surgical techniques and long term follow up. Br. J. 
Ophthalmol. 1993; 77: 702-708. 
2. DIGHIERO P; BOUDRAA R; ELLIES P et al : Therapeutic photokeratectomy for 
the treatment of band keratopathy. J Fr Ophthalmol. 2000; 23 (4): 345-349. 
3. GEORGE O. WARING III, JOYCE N. MBEKEANI. Chapter 10: Corneal 
degenerations. In Corneal disorders, clinical diagnosis and management 
(Leibowitz, Waring, editors), second edition, Philadelphia, 303-313, 
1998,W.B.Saunder company. 
39
4. LIANE M. CLAMEN, DIMITRI T. AZAR: Phototherapeutic keratectomy: 
Indications, Contraindications, and preoperative Evaluation. In Corneal surgery: 
Theory, technique & tissue (Frederick S. Brightbill, editor), third edition , St 
Louis, 733 – 744, 1999, Mosby. 
5. M. ASHRAF FAROOQ, WALTER J. STARK: PTK and lamellar surgery to treat 
corneal opacities and scars. In Custom LASIK, Surgical techniques and 
Complications (Lucio Buratto, Stephen Brint, editors) , Thorofare, NJ, 386-387, 
2003, Slack incorporated. 
6. MURAT DOGRU et al: Ocular surface changes after excimer laser 
phototherapeutic keratectomy. Ophthalmology 2000; 107: 144-1152. 
7. OG STEWART AND AJ MORRELL: Management of band keratopathy with 
excimer laser phototherapeutic keratectomy: visual, refractive, and symptomatic 
outcome. Eye 2003; 17: 233-237. 
8. PETER S. HERSH, SHAWN R. KLEIN, MICHAEL D. WAGONER: 
Phototherapeutic keratectomy. In Cornea (Krachmer, Mannis, Holland, editors), 
second edition, volume 2, Surgery of cornea and conjunctiva, Philadelphia, 1735-
1747, 2005, Elsevier Mosby. 
9. SHIRO AMANO, TETSURO OSHIKA, YOSHIKO TAZAWA, et al: Long-term 
follow-up of excimer laser phototherapeutic keratectomy. Jpn J Ophthalmol 1999; 
43: 513-516. 
10. TIMOTHY B. CAVANAUGH: Phototherapeutic Keratectomy: Operative 
Techniques, Complications, and Results. In Corneal surgery: Theory, technique & 
tissue (Frederick S. Brightbill, editor), third edition, St Louis,745 – 761, 1999, 
Mosbaam 
SUMMARY 
MANAGEMENT OF BAND KERATOPATHY 
WITH EXCIMER PHOTOTHERAPEUTIC KERATECTOMY 
Purpose: to evaluate the efficacy of PTK in the management of band 
keratopathy. Objectives and methods: Case series report: 9 patients (eleven eyes) with 
band keratopathy were treated with excimer PTK between June 2006 and November 
2007. Analysis was performed on patients’ pre- and postoperative visual acuity, 
refraction, corneal clarity, symptoms and associated or previous ocular pathology. 
Results: With mean follow-up of 7 months (ranging from 2 to 12 months), corneal 
clarity was improved significantly in all eyes postoperatively with 6/11 eyes crystalline 
clear. Three eyes had mild haze one month after the surgery, haze disappeared after 3 
months in one eye. All the patients had improvement in symptoms regarding 
discomfort, glare. The visual acuity was increased in 6 eyes, unchanged in 2 eyes, and 
40
decreased in 3 eyes postoperatively due to non-corneal pathologies. Four eyes that 
underwent phaco and IOL implantation following PTK had BCVA improved 
substantially to 0.2 - 1.0. Conclusion: PTK is an effective treatment for band 
keratopathy in terms of increasing corneal clarity, restoring smooth corneal surface, 
lessening patients’ symptoms, and faciliting intraocular procedures for better visual 
improvement. 
Key words: phototherapeutic keratectomy (PTK) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 de_tai_danh_gia_phuong_phap_got_giac_mac_bang_laser_trong_di.pdf de_tai_danh_gia_phuong_phap_got_giac_mac_bang_laser_trong_di.pdf