Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 224
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở NGƯỜI BỆNH THUYÊN TẮC HUYẾT 
KHỐI TĨNH MẠCH SÂU CHI DƯỚI 
Nguyễn Thị Thanh Trúc* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (DVT) là bệnh gây tử vong hàng năm nhiều hơn bệnh AIDS, 
ung thư vú và tai nạn giao thông cộng lại. Ở người bị DVT chất lượng cuộc sống (CLCS) liên quan đến sức khỏe 
có thể bị ảnh hưởng đáng kể. Nghiên cứu này nhằm xác định mức độ CLCS và các yếu tố liên quan ở người bệnh 
(NB) có DVT. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 70 NB được chẩn đoán DVT tại Khoa 
Lồng ngực mạch máu, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2016 – 2019 theo 
phương pháp lẫy mẫu thuận tiện. Sử dụng thang đo SF-36 đánh giá điểm CLCS chung và điểm CLCS 8 
khía cạnh của NB. 
Kết quả: Điểm CLCS chung của người bệnh DVT ở mức trung bình, với điểm CLCS chung là 65,2 25,5 
điểm. Nhóm sức khỏe tinh thần có điểm CLCS (72,4 24,8 điểm) cao hơn so với nhóm sức khỏe thể chất (60,5 
26,7 điểm). Tìm thấy sự khác biệt điểm CLCS chung, điểm CLCS hai nhóm thể chất và tinh thần giữa các nhóm 
BMI, tiền sử bó bột hoặc chấn thương ở chân gần đây của NB. Có mối tương quan nghịch, trong đó nếu tuổi 
càng tăng thì điểm CLCS sẽ suy giảm (p <0,001). Ngoài ra ở nhóm NB có nguy cơ PE có điểm CLCS thấp hơn 
nhóm không có nguy cơ. 
Kết luận: Ở người bệnh bị DVT điểm CLCS dao động ở mức trung bình. Tìm thấy mối liên quan chặt chẽ 
giữa điểm CLCS với các yếu tố như: tuổi, BMI, tiền sử bó bột và nguy cơ PE của NB. Vì vậy, Bệnh viện cần chú 
trọng việc đánh giá nguy cơ mắc phải PE, thường xuyên theo dõi các hành vi sức khỏe cũng như tư vấn chế độ 
vận động, dinh dưỡng cho NB sau quá trình điều trị. 
Từ khóa: thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sâu, chất lượng cuộc sống 
ABSTRACT 
A STUDY OF QUALITY OF LIFE AND RELATED FACTORS 
ON PATIENTS WITH DEEP VENOUS THROMBOSIS 
Nguyen Thi Thanh Truc 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 224 – 229 
Introduction: Deep venous thrombosis (DVT) is the illness with an annual fatality rate that are greater 
than that of AIDS, Breast Cancer and Traffic Accident combine (Rathbun, 2009). The Quality of life (QoL) of 
patients with DVT decline drastically. This study to diversify the knowledge of QoL in DVT patients, with the 
aim to improve the QoL of DVT patients. 
Methods: The study selects 70 patients diagnosed with DVT in Thoracic – Vascular Surgery Department, 
University Medical Center from 2016 to 2019 with the convenience sampling method. The study use of the SF-36 
scoring method to evaluate the general QoL score and 08 QoL subcategories. 
Results: General QoL mean score among DVT patients who have received treatment at University Medical 
Center is 65.2 with a standard deviation (SD) of 25.5. Mental health subgroup component QoL mean score is 
72.4 (SD 24.8) higher than Physical health subgroup component QoL mean score with only 60.5 (SD 26.7). 
*Khoa Ngoại Lồng Ngực Mạch máu, Bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Thanh Trúc ĐT: 0909200712 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 225
Factors proved that associated with components QoL mean score including: BMI, cast in plaster/recent leg injury. 
We also find negative linear correlation between age and QoL components mean score, which means the higher 
age lead to the decrease of QoL (p <0.001). Finally, we also found a trend that patients who PE risk score at high 
level have lower QoL means core than the control group. 
Conclusion: DVT patients have an average mean score of health related QoL. We found factors statistic 
significant associated with QoL including: age, BMI, cast in plaster/recent leg injury, PE risk score (p < 0.05). 
This finding suggest that nurse could play a bigger role such as: PE risk score evaluating, nutrition diet 
consultation, health risk behavior assessment during treatment procedure. Those would help to improve QoL 
score of DVT patients. 
Keywords: deep venous thrombosis, quality of life 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) biểu 
hiện lâm sàng chính là huyết khối tĩnh mạch sâu 
(DVT) và thuyên tắc phổi (PE). 
Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) là một 
chứng bệnh có liên quan đến tình trạng máu 
đóng cục trong các tĩnh mạch nằm sâu bên trong 
cơ thể, thường gặp nhất là các tĩnh mạch ở chân. 
Trong các nghiên cứu dịch tễ học ở Mỹ cho thấy 
thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch là bệnh gây tử 
vong hàng năm nhiều hơn bệnh AIDS, ung thư 
vú và tai nạn giao thông cộng lại(5). 
Trong năm 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 
2018 Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí 
Minh đã tiếp nhận 67, 70 và 35 trường hợp được 
chẩn đoán là DVT. 
Đánh giá CLCS liên quan đến sức khỏe ngày 
càng được xem là một kết quả quan trọng trong 
chăm sóc lâm sàng(1). Ở người bị DVT chất lượng 
cuộc sống (CLCS) liên quan đến sức khỏe có thể 
bị ảnh hưởng đáng kể. 
Nghiên cứu này nhằm xác định mức độ 
CLCS và các yếu tố liên quan ở người bệnh có DVT. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định thực trạng CLCS ở người bệnh 
(NB) thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sâu. 
Xác định mối liên quan giữa các yếu tố nhân 
khẩu, tiền sử bệnh đến CLCS của NB thuyên tắc 
huyết khối tĩnh mạch sâu. 
Xác định mối liên quan giữa các yếu tố lâm 
sàng, cận lâm sàng đến CLCS của NB thuyên tắc 
huyết khối tĩnh mạch sâu. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Người bệnh được chẩn đoán huyết khối tĩnh 
mạch sâu (DVT) tại Khoa Lồng ngực – mạch 
máu Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
từ năm 2016 đến năm 2019. 
Tiêu chuẩn chọn vào 
NB được chẩn đoán DVT tại bệnh viện Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ năm 2016, 2017 
và 2018 và các trường hợp mới mắc năm 2019, 
NB đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại ra 
NB có DVT do thai kỳ. NB mất các chức 
năng hoặc không đủ nhận thức để giao tiếp. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang. 
Cỡ mẫu và phương pháp thu thập 
Nghiên cứu tiến hành trên 70 NB được chẩn 
đoán DVT tại BV Đại học Y Dược TP. Hồ Chí 
Minh từ năm 2016, 2017, 2018 và NB mới mắc 
năm 2019. Tiến hành lấy mẫu thuận tiện, vì vậy 
nên có sự khác biệt về số lượng mẫu tại các năm. 
Công cụ nghiên cứu 
Nghiên cứu sử dụng thang đo SF-36 (Short-
form Health survey-36 questions) nhằm đánh 
giá CLCS của NB DVT. Kết quả nghiên cứu thử 
cho thấy độ tin cậy của thang đo SF-36 ở mức rất 
tốt, với giá trị Cronbach's alpha dao động từ 
0,81–0,96. Bảng câu hỏi gồm 3 phần: thông tin về 
đặc điểm NB; thông tin lâm sàng và cận lâm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 226
sàng; đánh giá CLCS bằng thang đo SF-36. 
Phương pháp phân tích 
Dữ liệu được nhập bằng phần mềm EpiData 
phiên bản 3.1, sau đó tập tin dữ liệu được 
chuyển sang phần mềm phân tích thống kê 
Stata, phiên bản 14. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Thực trạng chất lượng cuộc sống của người 
bệnh DVT 
Biến số Trung bình Độ lệch chuẩn 
Tổng điểm SF-36 65,2 25,5 
Nhóm thể chất 60,5 26,7 
Nhóm tinh thần 72,4 24,8 
Sự thay đổi sức khỏe 62,1 30,6 
8 khía cạnh CLCS 
Hoạt động thể chất 40 42,9 
Chức năng thể chất 66,3 26,5 
Chức năng cảm xúc 75,4 22,7 
Sức sống 60,9 47,1 
Sức khỏe tâm lý 78,3 17,8 
Hoạt động xã hội 68,6 28,7 
Cảm giác đau 75,6 28,1 
Sức khỏe tổng quát 59,4 23,6 
Kết quả nghiên cứu Bảng 1 cho thấy điểm 
CLCS tổng của NB DVT là 65,2 điểm, độ lệch 
chuẩn là 25,5 điểm (Giá trị nhỏ nhất – lớn nhất: 
13,8 – 97,2). Xét hai nhóm CLCS cho thấy nhóm 
sức khỏe tinh thần có điểm CLCS (72,4 24,8 
điểm) cao hơn so với nhóm sức khỏe thể chất 
(60,5 26,7 điểm). Kết quả điểm CLCS của NB 
DVT so với kỳ vọng của chúng tôi thì thấp hơn, 
tuy nhiên không chênh lệch nhiều (kỳ vọng là 70 
điểm). Cho thấy NB DVT tại bệnh viện Đại học 
Y Dược TP. Hồ Chí Minh có điểm CLCS theo 
thang đo SF-36 ở mức tốt (>60 điểm). Trong 8 
khía cạnh CLCS kết quả nhận thấy “Sức khỏe 
tâm lý” có điểm CLCS cao nhất (78,3 17,8 
điểm); “Cảm giác đau” và “chức năng cảm xúc” 
có điểm CLCS cao tiếp theo (với điểm CLCS lần 
lượt là 75,6 28,1, 75,4 22,7 điểm). 
Đối tượng tham gia nghiên cứu chủ yếu là 
nữ giới (67,1%). NB là người dân ở tỉnh (chiếm 
78,6%). Với NB mắc DVT từ năm 2017 chiếm tỉ lệ 
cao nhất với 38,6% (Bảng 2). 
Trên 50% NB có BMI ở chỉ số bình thường, 
14,3% NB bị béo phì, 2,9% NB bị gầy. 
Bảng 2. Đặc điểm dân số xã hội của người bệnh DVT 
Biến số Giá trị Tần số Tỉ lệ % 
Giới tính 
Nam 23 32,9 
Nữ 47 67,1 
Địa chỉ 
Tỉnh 55 78,6 
TPHCM 15 21,4 
Thời gian 
mắc bệnh 
2016 19 27,1 
2017 27 38,6 
2018 15 21,4 
2019 9 12,9 
Chỉ số BMI 
Gầy 2 2,9 
Bình thường 36 51,4 
Thừa cân 22 31,4 
Béo phì 10 14,3 
Tiền sử 
bệnh 
Béo phì 2 2,9 
Hút thuốc 16 22,9 
Bó bột hoặc chấn thương ở 
chân gần đây 
2 2,9 
Phẫu thuật vùng bụng hoặc 
vùng chậu gần đây 
3 4,3 
Trong các tiền sử, NB có hút thuốc lá là 
22,9% và một số NB có tiền sử bó bột, chấn 
thương ở chân gần đây hoặc phẫu thuật vùng 
bụng hoặc vùng chậu gần đây, chiếm dưới 5%. 
Đa phần NB trong trong nghiên cứu của 
chúng tôi có độ tuổi trên 40 với độ tuổi trung 
bình là 48,5 tuổi (độ lệch chuẩn: 14,8 tuổi), ở NB 
nam tuổi trung bình là 49 tuổi và ở nữ là 47 tuổi. 
Bảng 3. Các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng 
Biến số Giá trị Tần số Tỉ lệ % 
Vị trí DVT 
Chân phải 19 27,1 
Chân trái 49 70 
Cả hai chân 2 2,9 
Chẩn đoán PE 
Có 24 34,3 
Không 46 65,7 
Nguy cơ PE 
Có 41 58,6 
Không 29 41,4 
Người bệnh có DVT tại chân trái (70%) có tỉ 
lệ cao hơn chân phải, một số NB có DVT cả hai 
chân. Với thuyên tắc động mạch phổi (PE) có 
34,3% NB được chẩn đoán là có. Qua bảng điểm 
đánh giá nguy cơ PE cho thấy NB có nguy cơ bị 
PE (tổng điểm nguy cơ PE >4) tương đối cao, 
chiếm 58,6% (Bảng 3). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 227
Mối liên quan giữa các yếu tố với chất lượng 
cuộc sống của người bệnh DVT 
Kết quả Bảng 4 cho thấy có sự khác biệt điểm 
CLCS chung, điểm CLCS hai nhóm thể chất và 
tinh thần giữa các nhóm BMI (gầy, bình thường, 
thừa cân, béo phì), thời gian mắc bệnh (2016, 
2017, 2018 và 2019) với các giá trị p <0,05. 
Bảng 4. Mối liên quan giữa các biến số đặc tính dân số xã hội 
Biến số Giá trị Nhóm sức khỏe thể chất Nhóm sức khỏe tinh thần Điểm CLCS SF-36 
Thời gian mắc bệnh 
2016 58,1 ± 25,9 70,9 ± 26,7 63,2 ± 25,5 
2017 71,1 ± 22,2 81,6 ± 20,3 75,3 ± 20,7 
2018 65,5 ± 23,4 75,6 ± 21,4 69,4 ± 22,3 
2019 25,3 ± 15,7 42,3 ± 15,36 31,72 ± 14,4 
Giá trị p Anova <,001** <,001** <,001** 
Sự khác biệt 2019 < các năm còn lại 
Chỉ số BMI 
Gầy 94,1± 0 95,7 ± 2,0 94,9 ± 0,8 
Bình thường 59 ± 27,9 71,5 ± 26,8 63,8 ± 27,0 
Thừa cân 68,6 ± 22,1 79,2 ± 19,4 72,8 ± 20,6 
Béo phì 41,4 ± 21,9 56,1 ± 22,7 47,4 ± 21,3 
Giá trị p Anova 0,013* 0,048* 0,019* 
 Sự khác biệt Béo phì < Thừa cân 
* p <0,05, **p <0,001 
Bảng 5. Mối tương quan giữa biến số tuổi với điểm 
chất lượng cuộc sống 
Tuổi 
Nhóm sức 
khỏe thể chất 
Nhóm sức khỏe 
tinh thần 
Điểm CLCS 
SF-36 
Hệ số r -0,481 -0,358 -0,443 
Giá trị p <0,001** <0,002** <0,001** 
* p <0,05 **p <0,001 
Bảng 5 biểu thị mối tương quan giữa biến 
số tuổi với điểm CLCS chung, điểm CLCS sức 
khỏe thể chất và điểm CLCS sức khỏe tinh 
thần. Hệ số tương quan cho thấy mối tương 
quan giữa tuổi của NB với điểm CLCS sức 
khỏe thể chất mạnh nhất, đây là tương quan 
nghịch, trung bình (r=-0,481), có ý nghĩa thống 
kê (p <0,001). Tương quan nghịch, kém giữa 
tuổi của NB với điểm CLCS sức khỏe tinh thần 
(r=-0,358), có ý nghĩa thống kê (p=0,002). 
Bảng 6. Mối liên quan giữa các yếu tố tiền sử bệnh 
Biến số Giá trị Nhóm sức khỏe thể chất Nhóm sức khỏe tinh thần Điểm CLCS SF-36 
Bó bột hoặc chấn 
thương ở chân gần đây 
Có 14,3 7,7 40,1 1,3 24,3 5,5 
Không 61,9 25,8 73,3 24,6 66,4 24,8 
Giá trị p T-test <,012* 0,062 <,02* 
Sự khác biệt Có < Không Có < Không 
Nguy cơ PE 
Có 54,2 4,6 66,7 4,2 59,1 27,1 
Không 69,5 4,2 80,5 3,5 73,8 20,5 
Giá trị p T-test <,017* <,021* <,016* 
Sự khác biệt Có < Không Có < Không Có < Không 
* p <0,05, **p <0,001 
Kết quả Bảng 6 tìm thấy mối liên quan giữa 
tiền sử bó bột hoặc chấn thương ở chân gần đây 
của NB với điểm CLCS chung, điểm CLCS về 
thể chất, với giá trị p lần lượt là p=0,012, p=0,021. 
Điểm CLCS sức khỏe chung, nhóm sức khỏe thể 
chất và sức khỏe tinh thần ở NB có nguy cơ PE 
thấp hơn so với nhóm không có nguy cơ bị PE, 
với giá trị p lần lượt ở nhóm sức khỏe thể chất, 
sức khỏe tinh thần và CLCS chung là p=0,017, 
p=0,021 và p=0,016. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận điểm 
Hoạt động thể chất (PF) là thấp nhất tương tự 
khi nghiên cứu Hedner cũng kết luận điểm PF là 
một trong hai điểm thấp nhất ở NB DVT(3). Tuy 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 228
nhiên các nghiên cứu Korlarr và Tian, điểm PF 
lại khá cao, do đó đội ngũ điều dưỡng tại Việt 
Nam cần chú trọng đến hoạt động thể chất của 
NB và có các phương pháp hỗ trợ (Hình 1). 
Chúng tôi tìm thấy sự tương đồng với 
nghiên cứu của Tian khi điểm sức khỏe tinh thần 
là cao nhất, đặc biệt cả 2 nghiên cứu đều được 
tiến hành tại Châu Á. Do đó vấn đề sức khỏe 
tinh thần của NB Châu Á là rất tốt. 
Hình 1. Điểm trung bình các khía cạnh trong các 
nghiên cứu 
Tỷ lệ nữ giới (67,1%), kết quả này tương tự 
với nghiên cứu của Gombert (2018)(2) tại Đức với 
tỉ lệ nam là 43,4%. 
So sánh với nghiên cứu khác bao gồm: 
nghiên cứu của tác giả Kahn (2005) tại Canada(4) 
và tác giả Gombert (2018)(2) tại Đức cho thấy BMI 
trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp 
hơn. Cụ thể trong nghiên cứu của tác giả Kahn 
cho thấy BMI trung bình là 27,6 ± 6 (Kahn, 2005) 
và nghiên cứu của Gombert cho thấy BMI trung 
bình là 26,13 ± 3,86 (Gombert, 2018). 
Hình 2. Tuổi trung bình của người bệnh DVT trong 
các nghiên cứu 
Tuổi trung bình của NB DVT trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên 
cứu khác(3,6). Sự khác biệt này có thể là do số 
lượng cỡ mẫu hoặc đặc điểm nhân khẩu học xã 
hội ở các quốc gia khác nhau. 
Mối liên quan giữa các yếu tố với chất lượng 
cuộc sống của người bệnh DVT 
Kết quả của chúng tôi tương đồng với 
nghiên cứu của Kahn(4) và Utne(7). Kahn nhận 
thấy khi NB có chỉ số BMI càng cao thì điểm 
CLCS tại nhóm sức khỏe tinh thần và thể chất 
đều suy giảm. Utne cũng nhận thấy BMI >30 
kg/m2 có liên quan đến việc suy giảm điểm số 
CLCS. 
Kết quả của chúng tôi khác Kahn khi tác giả 
kết luận không có mối liên hệ giữa tuổi và 
CLCS(3). Tuy nhiên khi đánh giá bằng các thang 
đo chuyên môn như VEINES-QOOL và 
VEINES-Sym, tác giả lại không tìm thấy sự ảnh 
hưởng của bất động đến CLCS(3). Kết quả này 
gợi ý cho chúng tôi trong việc lựa chọn thang đo 
đánh giá CLCS cho phù hợp. 
KẾT LUẬN 
Các yếu tố dân số xã hội của NB DVT không 
khác biệt so với thế giới như tuổi trên 40 và BMI 
nằm ở mức thừa cân. 
Điểm sức khỏe tâm lý là cao nhất và thấp 
nhất là điểm hoạt động thể chất. Kết quả này 
tương tự như những nghiên cứu khác tiến hành 
tại Châu Á. 
Các yếu tố dân số xã hội có liên quan đến 
CLCS ở NB DVT bao gồm: tuổi, thời gian mắc 
bệnh, chỉ số BMI. 
Các yếu tố lâm sàng có liên quan đến CLCS 
ở NB DVT bao gồm: có tiền sử bó bột hoặc chấn 
thương gần đây, có nguy cơ PE. 
ĐỀ XUẤT 
Các yếu tố quan trọng cần chú ý khi thực 
hành chăm sóc NB DVT: tuổi, chỉ số BMI, tiền sử 
bố bột hoặc chấn thương gần đây. Đây là những 
yếu tố có liên quan đến CLCS ở NB. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 229
Đánh giá nguy cơ mắc phải PE, thường 
xuyên theo dõi các hành vi sức khỏe cũng như 
tư vấn chế độ vận động, dinh dưỡng cho NB sau 
quá trình điều trị. 
Theo dõi tiến cứu để ghi nhận sự cải thiện 
CLCS của NB sau khi được điều trị. 
Có thể tiến hành nghiên cứu theo thiết kế 
nhóm – chứng và tiến hành lẫy mẫu đa trung 
tâm để có cỡ mẫu lớn hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Eiser C, Jenney M (2007). Measuring quality of life. Arch Dis 
Child, 92(4):348-350. 
2. Gombert A (2018). Patency rate and quality of life after 
ultrasound-accelerated catheter-directed thrombolysis for deep 
vein thrombosis. Phlebology, 33(4):251-260. 
3. Hedner E, Carlsson J, Kulich KR, Stigendal L, Ingelgård A, 
Wiklund I (2004). An instrument for measuring health-related 
quality of life in patients with Deep Venous Thrombosis (DVT): 
development and validation of Deep Venous Thrombosis 
Quality of Life (DVTQOL) questionnaire. Health and Quality of 
Life Outcomes, 2:30-30. 
4. Kahn SR (2005). Prospective evaluation of health-related quality 
of life in patients with deep venous thrombosis. Arch Intern Med, 
165(10):1173-1178. 
5. Rathbun S (2009). The Surgeon General’s Call to Action to 
Prevent Deep Vein Thrombosis and Pulmonary Embolism. 
AHA Journals, 119(15) :e480–e482. 
6. Tian Y, Luo J, Cao Q, Bai C, Magovia S (2015). Life quality 
changes within 26 month after the non-surgical treatment in 
patients with deep vein thrombosis. Int J Clin Exp Med, 
8(4):5999-6007. 
7. Utne KK (2016). Health-related quality of life after deep vein 
thrombosis. Springerplus, 5(1):1278. 
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019