Tài liệu Cắt đại tràng nội soi: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
CẮT ĐẠI TRÀNG NỘI SOI 
Nguyễn Hoàng Bắc*, Đỗ Minh Đại*, Từ Đức Hiền*, Lê Quan Anh Tuấn*, Nguyễn Đình Tường Lân*, 
Dương Phước Hưng*, Trần Văn Phơi*, Nguyễn Trung Tín*, Trần Thiện Trung * 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề. Cắt đại tràng nội soi đã được áp dụng rộng rãi để điều trị các tổn thương lành tính và ác 
tính của đại tràng. Phẫu thuật này hiện còn chưa được phổ biến trong nước. 
Mục tiêu. đánh giá tính an toàn và hiệu quả, xác định các tiêu chuẩn chọn bệnh của cắt đại tràng 
nội soi. 
Phương pháp nghiên cứu. Từ 10/2002 đến 01/2001 chúng tôi thực hiện 19 trường hợp cắt đại tràng nội 
soi. Trong đó, 18 trường hợp là ung thư đại – trực tràng và 1 trường hợp polyp tuyến nhánh to của đại tràng 
chậu hông. 
Kết quả. Trong 18 trường hợp mổ nội soi thành công, có 5 trường hợp (28%) cắt đa...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 637 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt đại tràng nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
CẮT ĐẠI TRÀNG NỘI SOI 
Nguyễn Hoàng Bắc*, Đỗ Minh Đại*, Từ Đức Hiền*, Lê Quan Anh Tuấn*, Nguyễn Đình Tường Lân*, 
Dương Phước Hưng*, Trần Văn Phơi*, Nguyễn Trung Tín*, Trần Thiện Trung * 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề. Cắt đại tràng nội soi đã được áp dụng rộng rãi để điều trị các tổn thương lành tính và ác 
tính của đại tràng. Phẫu thuật này hiện còn chưa được phổ biến trong nước. 
Mục tiêu. đánh giá tính an toàn và hiệu quả, xác định các tiêu chuẩn chọn bệnh của cắt đại tràng 
nội soi. 
Phương pháp nghiên cứu. Từ 10/2002 đến 01/2001 chúng tôi thực hiện 19 trường hợp cắt đại tràng nội 
soi. Trong đó, 18 trường hợp là ung thư đại – trực tràng và 1 trường hợp polyp tuyến nhánh to của đại tràng 
chậu hông. 
Kết quả. Trong 18 trường hợp mổ nội soi thành công, có 5 trường hợp (28%) cắt đại tràng phải, 6 trường 
hợp (33%) cắt đại tràng chậu hông, 5 trường hợp (28%) cắt đoạn đại – trực tràng, 2 trường hợp (11%) phẫu 
thuật Miles. Trong tất cả các trường hợp cắt đại tràng phải và đại tràng chậu hông, miệng nối đều được khâu 
nối tay ngoài cơ thể qua 1 đường rạch nhỏ. Trong 5 trường hợp cắt đoạn đại trực tràng, 2 trường hợp được 
nối tay và 3 trường hợp nối máy trong cơ thể. Thời gian mổ trung bình là 155 phút. 1 trường hợp phải 
chuyển mổ hở vì khối u to, dính nhiều vào cơ quan lân cận. Thời gian nằm viện trung bình là 6 ngày. Không 
xì miệng nối, không tử vong. 
Kết luận. Cắt đại tràng nội soi không quá khó về mặt kỹ thuật, có thể thực hiện được khi phẫu thuật 
viên nội soi có kinh nghiệm. Phẫu thuật tương đối dễ dàng đối với các sang thương lành tính hay sang 
thương còn nhỏ. Kết quả bước đầu tốt, với các tai biến và biến chứng không đáng kể. 
SUMMARY 
LAPAROSCOPIC COLORECTAL SURGERY 
Nguyen Hoang Bac, Đo Minh Đai, Tu Đuc Hien, Le Quan Anh Tuan, Nguyen Đinh Tuong Lan, 
Duong Phuoc Hưng, Tran Van Phoi, Nguyen Trung Tin, Tran Thien Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * 
Vol. 7 * Supplement of No 1 * 2003: 127 - 131 
Background. Laparoscopic colorectal sugery has become popular for benign and malignant lesions of 
the colon and rectum. However, this procedure hasn't been domestically disseminated. 
Objectives. The aim of this study is to evaluate the safety, efficacy and determine proper indications for 
laparoscopic colorectal resection. 
Methods. From October 2002 to January 2003, we performed 19 laparoscopic colectomies. 18 patients 
had colorectal cancer and 1 patient had a large tubular-villous adenoma polyp of the sigmoid colon. 
Results. Among the 18 successful laparoscopic colectomies, there are 5 right colectomies (28%), 6 
sigmoid colectomies (33%), 5 proctosigmoid resections (28%) and 2 abdominoperineal proctosigmoid 
resections (Miles procedure) (11%). All the anastomoses were made extra-corporeally by suturing through a 
small incision in patients who got right colectomy or sigmoid colectomy. Among 5 proctosigmoid resections, 
2 patients had extra-corporeal suturing anastomosis, the other 3 had intra-corporeal anastomosis with Endo-
* Bộ môn Ngoại tổng quát - Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 
Chuyên đề Ngoại khoa 127
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
Stapler. Mean operating time is 155 minutes. 1 patient has been converted to open because of a large tumor 
with excessive adhesion and infiltration to surrounding tissues. Mean hospital stay is 6 days. There was no 
mortality and no anastomosis leakage. 
Conclusions. Laparoscopic colectomy is technically feasible to experienced laparoscopic surgeons. The 
operation is favorable in benign lesions or small tumors. The preliminary results are good with unsignificant 
accidents and complications. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Từ 1990, phẫu thuật cắt đại tràng nội soi đã 
được tiến hành. Bước đầu, phẫu thuật nội soi được 
áp dụng cho các sang thương lành tính của đại 
tràng như bệnh túi thừa đại tràng, bệnh Crohn Cắt 
đại tràng nội soi có các ưu điểm so với mổ hở như 
thời gian nằm viện ngắn, hồi phục sớm, mất máu ít 
hơn, ít đau, thẩm mỹ (0, 0, 0). Đến nay, cắt đại 
tràng nội soi đã được nhiều tác giả áp dụng đối với 
ung thư đại trực tràng (0, 0, 0). Về mặt ung thư học, 
phẫu thuật nội soi có thể cắt đại tràng cách đủ xa 
khối u như mổ hở, lấy nhiều hạch và cắt mạch máu 
đại tràng tận gốc trong khi vẫn có được các ưu 
điểm của phẫu thuật nội soi (0). 
Có nhiều kỹ thuật khác nhau về mức độ di động 
đại tràng, cắt mạch máu, kích thước đường mở 
bụng đã được áp dụng. 
Ngày nay, các phẫu thuật viên thích phẫu tích, 
di động đại tràng, cắt mạch máu bằng nội soi rồi 
đưa đại tràng qua một vết mổ nhỏ. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm 
đánh giá tính an toàn và hiệu quả, xác định các tiêu 
chuẩn chọn bệnh của cắt đại tràng nội soi. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiền cứu, từ tháng 10-2002 đến 01-
2003, chúng tôi thực hiện 19 trường hợp cắt đại 
tràng nội soi tại bệnh viện Đại học Y Dược, bệnh 
viện Thống Nhất và bệnh viện Hoàn Mỹ, bệnh viện 
30-4. Trong đó, 18 trường hợp là ung thư đại - trực 
tràng và 1 trường hợp polyp tuyến nhánh to của đại 
tràng chậu hông. Tuổi trung bình là 63 tuổi (35 – 85 
tuổi). Nam chiếm 64%, nữ 36%. 
KẾT QUẢ 
Triệu chứng 
Triệu chứng Số trường hợp 
Rối loạn đi cầu 7 
Đau bụng 9 
Tiêu máu 12 
Tiêu phân nhầy 3 
Sờ thấy u 3 
Bụng chướng 1 
Cận lâm sàng: 
Soi đại tràng 18/19 trường hợp, có hẹp lòng ĐT: 
10/19 trường hợp 
SA bụng: chưa di căn gan 19/19, chưa có dịch ổ 
bụng 19/19, có hạch bụng 1/19 
CEA: 10 trường hợp, 8 trường hợp < 5ng/ml, 2 
trường hợp < 10 ng/ml 
Chẩn đoán 
Chẩn đoán Số trường hợp 
K manh tràng 2 
K đại tràng lên 3 
K đại tràng chậu hông 6 
K trực tràng 6 
Polyp tuyến nhánh ĐT chậu hông 1 
K manh tràng – Tắc ruột 1 
Vị trí u ở trực tràng 
Vị trí u Số trường hợp Nối máy 
20cm 2 2 
15cm 2 1 
7cm 1 0 
4cm 1 0 
Phương pháp phẫu thuật 
Phương pháp phẫu thuật Số trường hợp 
Cắt ĐT phải 5 
Cắt ĐT chậu hông 6 
Cắt đoạn Đại – trực tràng 5 
Phẫu thuật Miles 2 
Chuyên đề Ngoại khoa 128 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
Số Trocar: 9 trường hợp 4 Trocar, 10 trường hợp 
3 Trocar. Chúng tôi dùng 2 Trocar 10mm và 1 hoặc 
2 Trocar 5mm. 
Nối máy 3 trường hợp, ung thư trực tràng cách 
rìa hậu môn 15 cm, 20 cm và 20 cm 
Miệng nối ngoài cơ thể: 13/16 trường hợp 
Đường rạch: thành bụng chỉ 4-5cm (16 trường 
hợp), 6 cm (1), 8 cm (1) vì u quá to. 
Thời gian mổ trung bình 155 phút (110 – 240 
phút), 
Thời gian di động khối u: 40 phút (30 – 60 phút) 
1 trường hợp thủng đại tràng do phẫu tích bằng 
Sonosurg, 1 trường hợp xoắn miệng nối hồi – đại 
tràng ngang, phải làm lại miệng nối. 
Đánh giá giai đoạn theo Dukes: A: 1, B: 12, C: 4, 
D: 0. 
Giải phẫu bệnh: Carcinom tuyến biệt hóa rõ 4, 
vừa 10, kém 2. Bờ phẫu không còn tế bào ung thư. 2 
trường hợp có di căn hạch (1 K trực tràng, 1 K 
manh tràng). 
Thời gian có gas: trung bình 3 ngày (2-5 ngày), 
Thời gian nằm viện: trung bình 6 ngày (2-12 ngày) 
Nhiễm trùng vết mổ 2 trường hợp. Siêu âm 
kiểm tra sau mổ không ổ tụ dịch. 
BÀN LUẬN 
Cắt đại tràng cho những bệnh lành tính như túi 
thừa đại tràng, polyp đại tràng đã được công nhận và 
áp dụng rộng rãi. Với bệnh lý ung thư đại tràng 
nhiều tác giả còn tranh cãi vì tính lây lan của tế bào 
ung thư, kính thước đại tràng lớn khi khối u đã phát 
triển, khi đã gây hẹp lòng, do kích thước lớn của 
khối u, do khối u đã dính với tổ chức mô xung 
quanh làm khó bóc tách. Đặt biệt khả năng làm sạch 
tế bào ung thư của kỹ thuật mổ nội soi hạn chế hơn 
mổ hở kinh điển. Muốn hạn chế các nhược điểm 
trên, phẫu thuật viên nội soi phải có nhiều kinh 
nghiệm. Chính các yếu tố trên làm cản trở sự phát 
triển của phương pháp cắt đại tràng nội soi. 
Trong những ca đầu tiên để làm quen với kỹ 
thuật mổ nội soi cắt đại tràng, chúng tôi chọn 
những trường hợp u rất nhỏ, polyp ung thư hoá. 
Những u chưa ăn lan tới thanh mạc. Khi u nhỏ, 
công việc chuẩn bị đại tràng tốt hơn. Một yếu tố rất 
quan trọng để tránh xì miệng nối, là đại tràng được 
chuẩn bị sạch. Mổ nội soi khác với mổ hở là chúng 
ta không sờ nắn được đoạn đại tràng trên và dưới u 
để đánh giá có phân trong đại tràng không? 
Một bệnh nhân trước mổ được chẩn đoán là tắc 
ruột do ung thư manh tràng. Khám lâm sàng, bụng 
không chứng nhiều, khối u không sờ chạm. Từ 
những kinh nghiệm mổ tắc ruột nội soi, chúng tôi 
mạnh dạn chỉ định cắt đại tràng nội soi cho bệnh 
nhân này. Do tắc ruột nên phẫu trường hẹp hơn vì 
nhiều quai ruột non chướng hơi, thao tác khó khăn 
hơn. 
Nhiều tác giả đề cập đến vấn đề di căn vị trí đặt 
trocar sau mổ nội soi cho những bệnh ác tính(12,13,17). 
Cơ chế di căn có thể do gieo rắc tế bào khi lôi kéo 
khối u qua một vết mổ nhỏ, do dụng cụ cầm nắm 
vào khối u, tế bào gieo rắc khi thoát khí ra ngoài(13). 
Reilly và cộng cự trong một báo cáo tiền cứu nghiên 
cứu 1711 bệnh nhân cắt đại tràng ung thư bằng 
phẫu thuật mở thấy 1,5% có di căn vết mổ. Prasad 
cho biết tỷ lệ di căn vết đặt trocar sau cắt đại tràng 
nội soi xấp xỉ 4%. Psaila(15) theo dõi sau 28 tháng cả 
2 nhóm mổ nội soi và mổ mở đều không ghi nhận 
có di căn tại vết mổ. Di căn vết mổ thường xảy giữa 
tháng thứ 3 tới tháng thứ 9 sau mổ(12). Các bệnh 
nhân của chúng tôi chưa thấy có dấu hiệu di căn vết 
đặt trocar và vết rạch thành bụng sau 3 tháng theo 
dõi. Bệnh nhân cần được theo dõi lâu dài để đánh 
giá chính xác vấn đề này. 
Để tránh tế bào ung thư di căn vết mổ thành 
bụng, khi lôi đại tràng ra ngoài, vết mổ cần được che 
chắn tốt. Ngày nay rất nhiều hãng sản xuất dụng cụ 
nội soi đã cho ra đời nhiều loại bao khác nhau để bảo 
vệ thành bụng. Chúng tôi dùng găng tay, cắt bỏ 
phần các ngón, dùng phần cổ và bàn tay để che vết 
mổ trước khi lôi đại tràng ra ngoài. 
Ung thư đại trực tràng là một bệnh lý rất phổ 
biến ở Việt Nam nó đứng hàng thứ 3 sau ung thư dạ 
dày và ung thư gan, trong đó ung thư trực tràng 
chiếm nhiều nhất 40- 50% (14). Cắt đại tràng nội 
soi có thể thực hiện cho mọi đoạn của đại tràng, cho 
Chuyên đề Ngoại khoa 129
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
các vị trí u khác nhau. Những khối u ở đoạn thấp bắt 
buộc phải nối máy, vì không thể đem đầu dưới ra 
ngoài ổ bụng. Khâu nối bằng máy giúp cho thời gian 
mổ ngắn lại, dễ thao tác trong hơn khi thực hiện 
phẫu thuật nội soi. Nhưng làm tăng chi phí cuộc mổ 
lên rất cao. Với những khối u trực tràng có thể cắt 
nối thì cần phải sử dụng ít nhất một stapler thẳng 
và một stapler vòng. Nếu khẩu kính trực tràng lớn 
thì phải dùng hai stapler thẳng, chi phí cao hơn. 
Stapler thẳng thường có hai loại 35mm và 45mm. 
Để tiết kiệm chúng tôi chọn loại 45mm. Stapler 
vòng có nhiều kích thước như 25, 29, 33mm. Chọn 
lựa máy nối phụ thuộc kích thước đầu ruột, thường 
chúng tôi chọn loại 33mm để tránh hẹp lòng ruột về 
sau. Trong mổ hở kinh điển, chỉ sử dụng nối máy 
cho ung thư ở đoạn 5-10cm cách rìa hậu môn. 
Trong phẫu thuật nội soi, ngay cả những ung thư 
đoạn 1/3 trên cũng thường phải dùng máy nối. 
Chúng tôi chỉ sử dụng máy nội khi không thể nối 
bằng tay ngoài cơ thể. Trong 5 trường hợp cắt đạon 
đại-trực tràng thì 2 được nối bằng tay với vị trí khối 
u cách rìa hậu môn 15 và 22cm. 3 dùng máy nối, với 
vị trí u 20cm , 20cm và 15cm (máy nối hỏng nên cố 
gắng đem ra ngoài nối bằng tay). 
Trong điều kiện nước ta, khâu nối tay ngoài cơ 
thể là chọn lựa đầu tiên vì tính kinh tế. 
11 trường hợp cắt đại tràng phải và đại tràng 
chậu hông, một đường rạch nhỏ thành bụng thường 
4cm, vừa để đem bệnh phẩm ra ngoài vừa thực hiện 
miệng nối ngoài cơ thể. 1 bệnh nhân sau khi thực 
hiện miệng nối, thấy miệng nối bị xoắn phải làm lại 
miệng nối. Do đường mổ quá nhỏ, không thám sát 
quai ruột không tốt. Vì vậy, phải kiểm tra thật kỹ 
chiều của quai ruột trước khi quyết định nối. 
Hai trường hợp vị trí u thấp, 4 và 7cm phải làm 
phẫu thuật Miles. Đường rạch thành bụng ở hố chậu 
trái chỉ đủ để làm hậu môn nhân tạo. Đại trực tràng 
kèm khối u được lôi ra ngoài qua đường dưới. Qua 2 
trường hợp bóc tách toàn bộ trực tràng qua nội soi, 
chúng tôi thấy khả năng bóc tách bằng nội soi rất có 
ưu điểm trong loại phẫu thuật này vì phẫu trường 
rộng, kính soi với nguồn sáng tốt giúp nhìn thấy rõ 
từng thành phần, mạch máu quanh trực tràng. So 
với mổ mở, vùng này là vùng tối, bóc tách khó khăn, 
dễ chảy máu, nhất là chảy máu trước xương cùng. 2 
bệnh nhân của chúng tôi sau khi bóc tách trong thì 
nội soi, máu mất chỉ vài ml. 
Một bệnh nhân có khối u ở đại tràng lên, soi 
thấy u hẹp lòng đại tràng, trên lâm sàng sờ thấy u. 
Sau khi thắt các nhánh mạch máu đại tràng phải, 
hạ đại tràng góc gan, bóc tách đại tràng ngang 
chúng tôi phải quyết định chuyển mổ hở vì khối u 
to, dính chặt thành bụng sau. Cần đánh giá giai 
đoạn, kính thước khối u chính xác thì khả năng 
thành công của phẫu thuật nội soi mới cao. Những 
khối u chưa ăn lan ra thanh mạc, chưa dính vào các 
tạng xung quanh phậu thuật nội soi thực hiện khá 
dễ dàng. 
KẾT LUẬN. 
Cắt đại tràng nội soi không quá khó về mặt kỹ 
thuật, có thể thực hiện được khi phẫu thuật viên nội 
soi có kinh nghiệm. Phẫu thuật tương đối dễ dàng 
đối với các sang thương lành tính hay sang thương 
còn nhỏ. Kết quả bước đầu tốt, với các tai biến và 
biến chứng không đáng kể. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1 Braga M, Vignali A, Gianotti L et al. Laparoscopic 
versus open colorectal surgery: a randomized trial on 
short-term outcome. Ann Surg 2002 Dec;236(6):759-66; 
discussion 767. 
2 Brundell SM, Tucker K, Texler M et al. Variables in 
the spread of tumor cells to trocars and port sites 
during operative laparoscopy. Surg Endosc 2002 
Oct;16(10):1413-9. 
3 Champault GG, Barrat C, Raselli R et al. Laparoscopic 
versus open surgery for colorectal carcinoma: a 
prospective clinical trial involving 157 cases with a 
mean follow-up of 5 years. Surg Laparosc Endosc 
Percutan Tech 2002 Apr;12(2):88-95. 
4 Feliciotti F, Paganini AM, Guerrieri M et al. Results of 
laparoscopic vs open resections for colon cancer in 
patients with a minimum follow-up of 3 years. Surg 
Endosc 2002 Aug;16(8):1158-61. 
5 Fleshman JW, Nelson H, Kim HC et al. Early results 
of laparoscopic surgery for colorectal cancer. Dis Colon 
Rectum 1996 Oct;39(10):53-58. 
6 Frankling ME, Rosenthal D. et al. Prospective 
comparison of open vs. laparoscopic colon surgery for 
carcinoma.: Five-year results. Dis Colon Rectum. 1996 
Oct;39(10):35-46. 
7 Hahnloser D, Chanson Ch, Nassiopoulos K et al. 
Laparoscopic surgery of colorectal cancer. Apropos of 
103 interventions. Swiss Surg 2002;8(5):203-8. 
Chuyên đề Ngoại khoa 130 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
8 Lechaux D, Trebuchet G, Le Calve JL. Five-year results 
of 206 laparoscopic left colectomies for cancer. Surg 
Endosc 2002 Oct;16(10):1409-12. 
13 Neuhaus, Texler, Hewtt. PoRt-site metastases following 
laparoscopic surgery. British Journal of Surgery 1998, 
85, 735-41 
9 Lezoche E, Feliciotti F, Paganini AM et al. 
Laparoscopic colonic resection. J Laparoendosc Adv 
Surg Tech A 2001 Dec;11(6):401-8. 
14 Phạm Hoàng Anh, Nguyễn Bá Đức, Nguyễn Mạnh 
Quốc. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh ung thư dạ dày 
ở Việt Nam, hội thảo lần 2, Hà nội, 28-30/11/2001 
10 Lezoche E, Feliciotti F, Paganini AM et al. 
Laparoscopic vs open hemicolectomy for colon cancer. 
Surg Endosc 2002 Apr;16(4):596-602. 
15 Psaila, S.H. Bulley, P. Outcome following laparoscopic 
resection for colorectal cancer. British Journal of 
Surgery 1998, 85, 662-64 
11 Lujan HJ, Plasencia G, Jacobs M et al. Long-term 
survival after laparoscopic colon resection for cancer: 
complete five-year follow-up. Dis Colon Rectum 2002 
Apr;45(4):491-501. 
16 Tan M, Guo B, Wu Z et al. Laparoscopic colorectomy 
for colorectal cancer. Zhonghua Wai Ke Za Zhi 2002 
Oct;40(10):769-72. 
17 Vukasin P, Ortega AE, Green FL et al. Wound 
recurrence following laparoscopic colon cancer 
resection. Dis Colon Rectum 1996 Oct;39(10):20-23. 
12 Nduka CC, Monson JR. Abdominal wall metastases 
following laparoscopy. British Journal of Surgery 1994, 
81, 648-52 18 Winslow ER, Fleshman JW, Birnbaum EH et al. 
Wound complications of laparoscopic vs open colectomy. 
Surg Endosc 2002 Oct;16(10):1420-5. 
Chuyên đề Ngoại khoa 131
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 cat_dai_trang_noi_soi.pdf cat_dai_trang_noi_soi.pdf