Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 118
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP TĂNG ÁP CỬA KHƠNG XƠ GAN 
VỚI CHUYỂN DẠNG HANG TĨNH MẠCH CỬA DO HỘI CHỨNG 
TĂNG TIỂU CẦU NGUYÊN PHÁT TIỀM ẨN 
Lưu Ngọc Mai*, Lâm Hồng Cát Tiên* 
TĨM TẮT 
Mở đầu: Chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa do huyết khối tĩnh mạch cửa mạn tính là một biến chứng của hội 
chứng tăng tiểu cầu nguyên phát - thể thường gặp nhất trong các rối loạn tăng sinh tủy. Ở bệnh nhân cĩ lách to 
và cường lách, chẩn đốn hội chứng tăng tiểu cầu nguyên phát cĩ thể bị bỏ sĩt khi bệnh nhân cĩ số lượng tiểu cầu 
bình thường. 
Báo cáo ca lâm sàng: Chúng tơi báo cáo 1 trường hợp bệnh nhân nữ 28 tuổi nhập viện vì vỡ giãn tĩnh 
mạch thực quản do tăng áp cửa khơng xơ gan với chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa. Bệnh nhân phát hiện lách to 
và thiếu máu thiếu sắt từ 3 năm trước nhưng khơng theo dõi điều trị. Xét nghiệm máu ban đầu cho thấy số lượng 
tiểu cầu bình thường. Bệnh nhân chỉ được chẩn đốn mắc hội chứng tăng tiểu cầu nguyên phát với đột biến gen 
JAK2 V617F khi số lượng tiểu cầu tăng cao sau can thiệp thuyên tắc bán phần lách để điều trị phịng ngừa vỡ 
giãn tĩnh mạch thực quản tái phát. 
Kết luận: Cần loại trừ rối loạn tăng sinh tủy ngay cả khi số lượng tiểu cầu bình thường ở bệnh nhân tăng 
áp cửa khơng xơ gan cĩ lách to. 
Từ khĩa: chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa, tăng tiểu cầu nguyên phát 
ABSTRACT 
LATENT ESSENTIAL THROMBOCYTHEMIA IN A PATIENT WITH NON-CIRRHOTIC PORTAL 
HYPERTENSION AND CAVERNOUS TRANSFORMATION 
Luu Ngoc Mai, Lam Hoang Cat Tien 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 118-122 
Background: Portal cavernoma due to chronic portal venous thrombosis (PVT) is a complication of essential 
thrombocythemia (ET) - the most common form of myeloproliferative neoplasms. The diagnosis of ET may be 
initially missed in patients with splenomegaly and hypersplenism because of normal platelet count. 
Case report: We present a young female patient admitted with esophageal variceal rupture associated with 
non-cirrhotic portal hypertension and cavernous transformation. The patient had a history of splenomegaly and 
iron deficiency anemia 3 years previously but was not followed up. The initial laboratory investigations revealed 
normal platelet count. The diagnosis of ET with positive JAK2 V617F mutation was only established when the 
peripheral thrombocytosis became relevant after performing partial splenic embolization to prevent recurrent 
gastroesophageal variceal bleeding. 
Conclusions: The diagnosis of myeloproliferative neoplasms should be considered in non-cirrhotic portal 
hypertension patients with splenomegaly but normal peripheral platelet count. 
Key words: portal cavernoma, cavernous transformation, essential thrombocythemia 
GIƠI THIỆU 
Chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa (portal 
cavernoma) được đặc trưng bởi một mạng lưới 
dày đặc các tĩnh mạch bàng hệ ngoằn ngoèo 
*Bộ mơn Nội – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Lưu Ngọc Mai ĐT: 0985108132 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 119
vùng rốn gan và/hoặc quanh tĩnh mạch cửa, 
hình thành để bù trừ lại sự suy giảm lưu lượng 
máu tĩnh mạch cửa đến gan do huyết khối tĩnh 
mạch cửa mạn tính. Ở người lớn, sự phát triển 
chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa luơn liên 
quan đến huyết khối xảy ra trước đĩ, trong khi 
ở trẻ em thì chuyển dạng hang cĩ thể do bất 
thường bẩm sinh(9). Chuyển dạng hang tĩnh 
mạch cửa cĩ thể gặp trong nhiều bệnh lý như 
xơ gan, ung thư, sau chấn thương hay phẫu 
thuật ổ bụng, nhiễm trùng ở lách, các bệnh lý 
liên quan đến tình trạng tăng đơng hay do sử 
dụng thuốc tránh thai đường uống kéo dài. 
Khi khơng cĩ xơ gan hoặc bệnh lý mạch máu 
trong gan, các yếu tố nguy cơ hình thành 
huyết khối tĩnh mạch hiện diện ở 75% các bệnh 
nhân bị huyết khối tĩnh mạch cửa(9). Trong đĩ, 
yếu tố nguy cơ hệ thống thường gặp nhất là 
các rối loạn tăng sinh tủy (chiếm tỉ lệ 25 - 35%). 
Yếu tố nguy cơ tại chỗ hầu hết liên quan đến 
các tình trạng viêm nhiễm trong ổ bụng và chỉ 
chiếm một phần ba số bệnh nhân. 
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nữ, 28 tuổi, cĩ tiền sử phát hiện 
lách to từ 3 năm trước. Xét nghiệm máu ở thời 
điểm này ghi nhận số lượng bạch cầu là 7,25 
G/L, tiểu cầu là 291 G/L, hemoglobin là 10,9 g/L 
với MCV là 75,9 fL và MCH là 23,4 pg, điện di 
hemoglobin và định lượng sắt huyết thanh bình 
thường, định lượng nồng độ ferritin máu giảm 
cho thấy cĩ tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Xét 
nghiệm chức năng gan, thận bình thường. MSCT 
bụng ghi nhận lách to, tĩnh mạch cửa trong gan 
teo hẹp, hình ảnh dãn tĩnh mạch vùng rốn gan 
ơm lấy ống mật chủ. Bệnh nhân khơng được chỉ 
định làm thêm xét nghiệm tầm sốt nguyên 
nhân lách to, chỉ được điều trị bù sắt đường 
uống khoảng 3 tháng thì tổng phân tích tế bào 
máu trở về bình thường. Sau đĩ bệnh nhân tự 
ngưng tái khám. 
Đợt bệnh này, bệnh nhân nhập cấp cứu bệnh 
viện Nguyễn Tri Phương vì ĩi ra máu bầm đen 
kèm tiêu phân đen 2 ngày. Bệnh nhân khơng sốt, 
khơng đau bụng, mệt và chĩng mặt khi thay đổi 
tư thế. Khám lâm sàng ngồi biểu hiện da xanh, 
niêm nhạt, điều đáng chú ý là lách to độ 4, mật 
độ chắc, khơng đau. Bệnh nhân khơng cĩ các 
triệu chứng lâm sàng của bệnh gan mạn như 
vàng da, sao mạch, lịng bàn tay son. Khám 
bụng khơng báng, gan khơng sờ chạm. Xét 
nghiệm máu tại thời điểm cấp cứu ghi nhận 
hemoglobin 36 g/L, hematocrit 13,9%, MCV 71,6 
fL, MCH 18,6 pg, bạch cầu 26,97 G/L, tiểu cầu 
742 G/L. Bệnh nhân được truyền dịch, truyền 
hồng cầu lắng 4 đơn vị. Sau 2 ngày, kết quả xét 
nghiệm máu cho thấy hematocrit tăng lên là 
23,7%, số lượng bạch cầu là 11,47 G/L, tiểu cầu là 
366 G/L. Xét nghiệm các chỉ số PT, APTT, 
fibrinogen, chức năng gan và chức năng thận 
đều trong giới hạn bình thường. Xét nghiệm tầm 
sốt viêm gan siêu vi B, C âm tính. Các xét 
nghiệm tự miễn (ANA, Anti-dsDNA, Anti-Sm, 
Anti LKM-1) đều âm tính. Hoạt tính protein S và 
protein C giảm nhẹ, lần lượt là 55,6% và 50%. 
Nồng độ anti thrombin III bình thường. 
Fibroscan gan cho kết quả F0. MSCT bụng ghi 
nhận lách to, khơng thấy hình ảnh thân tĩnh 
mạch cửa và tĩnh mạch lách, rất nhiều tĩnh mạch 
bàng hệ vùng rốn lách và vùng rốn gan bao 
quanh ống mật chủ, cho thấy cĩ chuyển dạng 
hang tĩnh mạch cửa (Hình 1). Nội soi tiêu hĩa 
trên phát hiện tĩnh mạch thực quản giãn độ 3 cĩ 
dấu son, giãn tĩnh mạch phình vị kiểu GOV-2. 
Bệnh nhân được can thiệp cột thắt tĩnh mạch 
thực quản và điều trị nội khoa ổn định. 
Khi tình trạng xuất huyết tiêu hĩa ổn, xét 
nghiệm máu kiểm tra cho thấy bạch cầu 9,27 
G/L, hemoglobin 74 g/L, hematocrit 25,4%, tiểu 
cầu 363 G/L. Bệnh nhân được chuyển đi can 
thiệp nội mạch gây thuyên tắc bán phần động 
mạch lách để phịng ngừa vỡ giãn tĩnh mạch 
tái phát, bảo tồn khoảng 60% nhu mơ lách. Sau 
thủ thuật chụp mạch kỹ thuật số xố nền 
(Digital Subtraction Angiography – DSA), tiểu 
cầu máu tăng dần từ 559 G/L (ngày làm thủ 
thuật) lên 855 G/L (sau 5 ngày) và lên 1002 G/L 
(sau 20 ngày). Bệnh nhân được chuyển đến 
chuyên khoa huyết học và được thực hiện sinh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 120
thiết tủy, kết quả phù hợp hội chứng tủy tăng 
sinh, hướng tăng tiểu cầu nguyên phát (hình 
2). Bệnh nhân được làm thêm xét nghiệm tìm 
đột biến gen JAK2 V617F cho kết quả dương 
tính. Chẩn đốn hội chứng tăng tiểu cầu 
nguyên phát được xác định và bệnh nhân 
được khởi động điều trị hydroxyurea phối hợp 
với aspirin, song song với việc theo dõi xét 
nghiệm tổng phân tích tế bào máu. Sau xuất 
viện, bệnh nhân vẫn cịn đau tức nhẹ vùng hạ 
sườn trái, xét nghiệm số lượng tiểu cầu giảm 
cịn 656 G/L ở thời điểm 3 tháng sau can thiệp 
nội mạch. 
Hình 1: MSCT bụng cĩ cản quang thì tĩnh mạch: 
lách to, chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa (A), nhiều 
tuần hồn bàng hệ vùng rốn lách (B)
Hình 2: Nhuộm HE lam tủy xương: Dịng mẫu tiểu 
cầu hiện diện 15 mẫu tiểu cầu/1 quang trường 40x, 
một số kích thước lớn, phân thùy nhiều (QT40x) 
THẢO LUẬN 
Sự hình thành chuyển dạng hang tĩnh mạch 
cửa là một quá trình bù trừ để nối tắt cho tĩnh 
mạch cửa bị tắc nghẽn. Đây là hiện tượng để 
giúp gan duy trì chức năng bình thường. Sau khi 
huyết khối thành lập, tĩnh mạch cửa cĩ thể tái 
thơng hoặc khơng được tái thơng. Ở những bệnh 
nhân mà tĩnh mạch cửa khơng được tái thơng 
hoặc chỉ tái thơng một phần, các tĩnh mạch bàng 
hệ (thường là các tĩnh mạch cạnh đường mật) sẽ 
dãn ra và mở rộng. Quá trình này mất một 
khoảng thời gian, từ một tuần tới một năm(3). Vì 
vậy, chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa được xem 
là một dấu hiệu của huyết khối tĩnh mạch cửa 
mạn tính. Tuy nhiên, nếu sự thành lập chuyển 
dạng hang tĩnh mạch cửa khơng đủ để đảm 
nhận lưu lượng máu từ lách và mạc treo tràng 
thì tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch cửa trước 
xoang hoặc xơ gan sẽ xảy ra sau đĩ(4). Bệnh nhân 
cĩ huyết khối tĩnh mạch cửa mạn tính thường 
khơng cĩ triệu chứng cơ năng. Biểu hiện lâm 
sàng cĩ thể cĩ lách to, thiếu máu, xuất huyết tiêu 
hĩa(4). Vàng da ứ mật cĩ thể xuất hiện do sự chèn 
ép đường mật bởi các mạch máu bàng hệ quấn 
quanh ống mật. 
Ở người lớn, nguyên nhân thường gặp gây 
chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa là xơ gan và 
bệnh ung thư(4). Những nguyên nhân khác bao 
gồm phẫu thuật bụng, bệnh lý tụy, nhiễm 
trùng lách, các tình trạng tăng đơng, và sử 
dụng thuốc tránh thai đường uống. Trong một 
nghiên cứu của Ogren và cs tại Thụy Điển trên 
23796 mẫu sinh thiết cho thấy tần suất huyết 
khối tĩnh mạch cửa mạn tính là 1%. Trong số 
đĩ, 28% bị xơ gan, 67% liên quan đến ung thư 
gan mật nguyên phát và thứ phát, 3% cĩ rối 
loạn tăng sinh tủy(6). Rối loạn tăng sinh tủy là 
nhĩm bệnh lý thường gặp nhất trong những 
trường hợp huyết khối tĩnh mạch cửa mạn 
tính khơng xơ gan và khơng liên quan bệnh lý 
ác tính. Đây là một nhĩm các rối loạn liên quan 
đến tình trạng tăng đơng, bao gồm hội chứng 
tăng tiểu cầu nguyên phát, đa hồng cầu 
nguyên phát và xơ hĩa tủy. Hội chứng tăng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 121
tiểu cầu nguyên phát thường liên quan đến các 
biến chứng thuyên tắc các mạch máu lớn trong 
ổ bụng(5). 
Trong trường hợp ca lâm sàng của chúng 
tơi, bệnh nhân được chỉ định chụp cắt lớp vi 
tính đa lát cắt (multislice‐CT- MSCT) bụng cĩ 
cản quang vì cĩ tăng áp lực tĩnh mạch cửa 
nhưng khơng xơ gan. Kết quả cho thấy cĩ 
chuyển dạng hang tĩnh mạch cửa, gợi ý bệnh 
nhân cĩ huyết khối tĩnh mạch cửa mạn tính. 
Chẩn đốn rối loạn tăng sinh tủy chưa được 
nghĩ đến vì tiểu cầu ban đầu chỉ tăng nhẹ và 
trở về mức bình thường khi tình trạng xuất 
huyết tiêu hĩa ổn. Sau can thiệp tắc mạch lách 
bán phần nhằm làm giảm áp tĩnh mạch cửa để 
phịng ngừa vỡ giãn tĩnh mạch tái phát, số 
lượng tiểu cầu tăng lên rất nhanh. Sự tăng tiểu 
cầu này cĩ thể bị quy kết là tăng phản ứng sau 
can thiệp thuyên tắc lách. Tuy nhiên tiểu cầu 
tiếp tục gia tăng thêm sau đĩ cho thấy hội 
chứng tăng tiểu cầu nguyên phát đã bị che lấp 
do lách to và cường lách. 
Bảng 1: Tiêu chuẩn chẩn đốn hội chứng tăng tiểu 
cầu nguyên phát theo WHO 2016(1) 
Tiêu chuẩn chính 
 1. Số lượng tiểu cầu ≥450 × 10
9
/L 
 2. Sinh thiết tủy cho thấy sự tăng sinh chủ yếu dịng mẫu 
tiểu cầu với tăng số lượng mẫu tiểu cầu kích thước lớn, 
trưởng thành với nhân đa thùy. Khơng cĩ sự tăng đáng kể 
hay chuyển trái của dịng bạch cầu hạt hoặc dịng hồng 
cầu. Rất hiếm khi thấy tăng sợi reticulin trong tủy. 
 3. Khơng đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đốn của WHO đối 
với bệnh bạch cầu mạn dịng tủy BCR-ABL1 (+), đa hồng 
cầu nguyên phát, xơ tủy vơ căn, hội chứng rối loạn sinh tủy 
và các bệnh lý ác tính dịng tủy khác. 
 4. Hiện diện đột biến JAK2, CALR, hoặc MPL. 
Tiêu chuẩn phụ 
 Hiện diện một dấu ấn đơn dịng hoặc khơng cĩ bằng 
chứng tăng tiểu cầu phản ứng. 
Tiêu chuẩn chẩn đốn hội chứng tăng tiểu 
cầu nguyên phát địi hỏi phối hợp nhiều yếu tố 
(Bảng 1). Theo hướng dẫn của tổ chức y tế thế 
giới năm 2016, chẩn đốn hội chứng tăng tiểu 
cầu nguyên phát địi hỏi đáp ứng đủ 4 tiêu 
chuẩn chính hoặc 3 tiêu chuẩn chính đầu tiên 
kèm theo tiêu chuẩn phụ(1). Gần đây, sự phát 
hiện ra đột biến V617F ở gen Janus Kinase 2 ở 
nhiều bệnh nhân tăng tiểu cầu nguyên phát đã 
cung cấp một chiến lược chẩn đốn phân tử mới. 
Hiện nay, việc tầm sốt đột biến JAK2 V617F là 
bước đầu tiên để chẩn đốn hội chứng tăng sinh 
tủy(10). Đột biến này hiện diện ở 24% những bệnh 
nhân huyết khối tĩnh mạch cửa khơng xơ gan và 
khơng do bệnh lý ác tính(8). Ở ca lâm sàng này, 
bệnh nhân thỏa đầy đủ 4 tiêu chuẩn chính để 
chẩn đốn hội chứng tăng tiểu cầu nguyên phát. 
Tuy nhiên, vào thời điểm ban đầu, dấu chứng 
quan trọng nhất để nghĩ đến rối loạn tăng sinh 
tủy là sự hiện diện của lách to nhưng số lượng 
tiểu cầu bình thường và cĩ lúc giá trị tiểu cầu 
tương đối cao. Thơng thường ở những bệnh 
nhân cĩ bệnh lý gan mạn cĩ lách to và cường 
lách, tiểu cầu thường giảm hoặc ở giới hạn dưới 
của mức bình thường (Bảng 1). 
Điều trị hội chứng tăng tiểu cầu nguyên phát 
thường bao gồm aspirin và các thuốc làm giảm 
tế bào máu như hydroxyurea. Khi cĩ sự thành 
lập huyết khối tĩnh mạch cửa mạn tính, vai trị 
của kháng đơng cịn tranh cãi. Ở những bệnh 
nhân cĩ các bệnh lý gây tăng đơng khơng điều 
chỉnh được, việc điều trị kháng đơng kéo dài nên 
được xem xét vì cĩ bằng chứng cho thấy giúp 
giảm nguy cơ huyết khối tái phát mà khơng làm 
tăng nguy cơ xuất huyết(2). Tiền sử xuất huyết 
tiêu hĩa hoặc nội soi cĩ tĩnh mạch thực quản 
giãn lớn kèm dấu son khơng phải là chống chỉ 
định của kháng đơng. Tuy nhiên, ở những bệnh 
nhân cĩ huyết khối tĩnh mạch cửa mà tình trạng 
tăng đơng khơng nặng, nguy cơ và lợi ích của 
việc sử dụng kháng đơng cịn chưa rõ ràng. Các 
giãn tĩnh mạch ở thực quản dạ dày hình thành 
sau khi huyết khối xuất hiện khoảng 1 năm và cĩ 
nguy cơ vỡ gây xuất huyết. Mục tiêu điều trị ở 
thời điểm này là phịng ngừa xuất huyết tiêu 
hĩa, sử dụng ức chế beta khơng chọn lọc hoặc 
cột thắt tĩnh mạch thực quản để phịng ngừa tiên 
phát và phối hợp cả hai để phịng ngừa thứ 
phát(7). Hiện nay, với việc phịng ngừa và kiểm 
sốt hiệu quả cả tình trạng xuất huyết và huyết 
khối, tiên lượng của bệnh nhân chủ yếu phụ 
thuộc vào độ tuổi và tiến triển của bệnh lý nền(9). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 122
KẾT LUẬN 
Nhìn chung, đối với những bệnh nhân 
tăng áp cửa khơng xơ gan cĩ chuyển dạng 
hang tĩnh mạch cửa do huyết khối tĩnh mạch 
cửa mạn tính, cần loại trừ rối loạn tăng sinh 
tủy, đặc biệt là hội chứng tăng tiểu cầu nguyên 
phát khi cĩ lách to nhưng số lượng tiểu cầu 
trong giới hạn bình thường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arber DA, Orazi A, Hasserjian R et al (2016). “The 2016 
revision to the World Health Organization classification of 
myeloid neoplasms and acute leukemia”. Blood, 127(20):2391-
2405. 
2. Condat B, Pessione F, Hillaire S et al (2001). “Current outcome 
of portal vein thrombosis in adults: risk and benefit of 
anticoagulant therapy”. Gastroenterology, 120(2):490–497. 
3. De Gaetano AM, Lafortune M, Patriquin H et al (1995). 
« Cavernous transformation of the portal vein: patterns of 
intrahepatic and splanchnic collateral circulation detected 
with Doppler sonography”. AJR Am J Roentgenol, 165 (5): 
1151-1155. 
4. Harmanci O, Bayraktar Y (2007). “Portal hypertension due to 
portal venous thrombosis: etiology, clinical outcomes”. World 
J Gastroenterol,13:2535–2540. 
5. Landolfi R, Di Gennaro L, Falanga A (2008). “Thrombosis in 
myeloproliferative disorders: pathogenetic facts and 
speculation”. Leukemia, 22:2020–2028. 
6. Ogren M, Bergqvist D, Bjưrck M et al (2006). « Portal vein 
thrombosis: prevalence, patient characteristics and lifetime 
risk: a population study based on 23,796 consecutive 
autopsies”. World J Gastroenterol, 12:2115–2119. 
7. Plessier A, Rautou PE, Valla DC (2012). « Management of 
hepatic vascular diseases”. J Hepatol, 56 Suppl 1:25-38. 
8. Qi X, Yang Z, Bai M, et al (2011). « Meta-analysis: the 
significance of screening for JAK2V617F mutation in Budd-
Chiari syndrome and portal venous system thrombosis”. 
Aliment Pharmacol Ther, 33:1087–1103. 
9. Valla DC, Cazals-Hatem D (2018). “Vascular liver diseases on 
the clinical side: definitions and diagnosis, new concepts”. 
Virchows Archiv, 473(1): 3–13. 
10. Vardiman JW, Thiele J, Arber DA et al (2009). « The 2008 
revision of the World Health Organization (WHO) 
classification of myeloid neoplasms and acute leukemia: 
rationale and important changes”. Blood, 114:937–951. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019