Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 263
VAI TRÒ CỦA XÉT NGHIỆM ĐỘT BIẾN EGFR HUYẾT TƯƠNG 
QUA 3 CA LÂM SÀNG 
Phan Thanh Thăng*, Lê Thượng Vũ**, Lê Tuấn Anh***, Hồ Trọng Toàn*, Trần Thanh Tùng*, 
Nguyễn Thúy Hằng****, Trần Bích Thư*****, Nguyễn Trường Sơn* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Đột biến T790M thứ phát là nguyên nhân chính gây khángEGFR TKIs ở hầu hết bệnh nhân 
NSCLC. Phát hiện sớm đột biến này giúp chọn lựa hướng điều trị mới, hiệu quả cao hơn, ít tác dụng phụ hơn cho 
bệnh nhân. 
Phương pháp: Phát hiện đột biến EGFR trong huyết tương bằng kỹ thuật scorpions ARMS. 
Ca lâm sàng: Cả 3 bệnh nhân đều NSCLC giai đoạnIV, có ít nhất một đột biến EGFR nhạy thuốc (E19 Del, 
L858R) trong mẫu tế bào, mô sinh thiết. Hai bệnh nhân được điều trị bằng erlotinib; một trường hợpcó đáp ứng 
một phần từ tháng thứ 7, sau đó bệnh ổn định đến tháng thứ 21; và một trường hợp có đáp ứng một phần sau 3 
tháng, sau đó bệnh ổn định đến tháng thứ 8. Sau thời gian này, cả hai diễn tiến nặng và tái phát bệnh. Bệnh nhân 
còn lại được điều trị bằng afatinib, có đáp ứng một phần từ tháng thứ 4, sau đó ổn định bệnh đến tháng thứ 8. Cả 
3 bệnh nhân được xét nghiệm EGFR huyết tương và phát hiệnthêm đột biến T790M. Một trường hợp được 
chuyển hướng điều trị bằng osimertinib, đangđược theo dõi tiếp. 
Kết luận: Bên cạnh giá trị chẩn đoán cao và không xâm lấn, xét nghiệm EGFR huyết tương giữ vai trò cực 
kỳ quan trọng giúp theo dõi đột biến T790M thứ phát. 
Từ khóa: EGFR T790M, NSCLC, scorpions ARMS, cfDNA 
ABSTRACT 
THE ROLE OF PLASMA TEST FOR EGFR MUTATIONS: THREE CASE REPORTS 
Phan Thanh Thang, Le Thuong Vu, Le Tuan Anh, Ho Trong Toan, Tran Thanh Tung, 
Nguyen Thuy Hang, Tran Bich Thu, Nguyen Truong Son 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 263 - 269 
Introduction: Acquired EGFR T790M mutation is the main cause of TKIs resistance in NSCLC. Early 
detection of this mutation help clinicians in choosing the alternative treatment with the higher efficiency and low 
side effect for patients timely. 
Methods: EGFR mutations in plasma were detected by scorpions ARMS technique. 
Case reports: Three NSCLC patients stage IV carried TKIs sensitivity EGFR mutant (exon 19 deletion or 
L858R point mutation in exon 21) in effusion fluid or tumor tissue sample were received erlotinib or gefitinib as 
firstline treatment. Treated by erlotinib, one patient got partial response (PR) after 7 months, then archives stable 
disease up to 21stmonth; and one patient got PR just after 3 months, then stable disease to 8th month. After that, 
both of cases experienced disease progression. Treated by afatinib, good response was archived in third patient after 
4th month, and stable disease for 8 months.EGFR plasma testing found additional T790M mutant beside the 
* Đơn vị Sinh học phân tử - Di truyền, bệnh viện Chợ Rẫy ** Khoa Nội Hô hấp, bệnh viện Chợ Rẫy 
*** Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Chợ Rẫy **** Khoa Giải phẫu bệnh lý, bệnh viện Chợ Rẫy 
***** Khoa Sinh học-Công nghệ Sinh học, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Phan Thanh Thăng ĐT: 0977 148 046 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 264
primary mutation in all of 3 cases. One patient has been being treated by alternative EGFR TKIs, osimertinib, and 
continued following up. 
Conclusion: Beside the high diagnostic values, non-invasive EGFR plasma testing plays an important role 
in monitoring of secondary T790M mutation. 
Key words: EGFR T790M, NSCLC, scorpions ARMS, cfDNA. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ 
(NSCLC- non-small cell lung cancer) mang đột 
biến EGFR (epidermal growth factor receptor) 
nhạy thuốc gồm mất đoạn exon 19 hay đột 
biến điểm L858R ở exon 21, khi được điều trị 
bằng liệu pháp đích EGFR TKIs (tyrosine 
kinase inhibitors) như erlotinib hay gefitinib 
có tỉ lệ đáp ứng cao, kéo dài được thời gian 
sống không bệnh so với hóa trị liệu thông 
thường(7,19). Đáng tiếc thay, sau một quá trình 
điều trị, phần lớn bệnh diễn tiến theo chiều 
hướng kháng lại liệu pháp này, do nhiều cơ 
chế khác nhau như xuất hiện đột biến thứ 
phát, khuếch đại gen MET, HER2 hay chuyển 
dạng sang ung thư phổi tế bào nhỏ(18,19). Đột 
biến thứ phát EGFRT790M được ghi nhận là 
nguyên nhân phổ biến nhất,với hơn 50% các 
trường hợp kháng thuốc có đột biến(6,18,19) 
Xét nghiệm tìm đột biến kháng TKIs để lựa 
chọn hướng điều trị mới cho bệnh nhân NSCLC 
đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, không 
phải trường hợp nào cũng sinh thiết lại được, 
đặc biệt là bệnh nhân giai đoạn tiến xa. Phát hiện 
đột biến T790M bằng cách sử dụng cfDNA 
(circulating free DNA) có nguồn gốc từ tế bào 
bướu, lưu hành tự do trong huyết tương bệnh 
nhân NSCLC có nhiều ưu điểm vượt trội(2,6,11). 
Scorpions ARMS là kỹ thuật có độ chính xác cao, 
thường được sử dụng để phát hiện đột biến 
EGFR khi alen đột biến có tỉ lệ thấp. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Báo cáo 03 ca lâm sàng NSCLC giai đoạn IV 
có đột biến EGFR nhạy thuốc trên mẫu mô, được 
điều trị bằng TKIs, sau đó xuất hiện thêm đột 
biến T790M trong huyết tương. Đánh giá đáp 
ứng thuốc theo tiêu chuẩn RECIST v.1.1(3). 
Tách chiết cfDNA từ huyết tương 
Mẫu máu của bệnh nhân được thu thập, xử lý 
ngay bằng cách ly tâm ở 4oC/2000rpm trong 10 
phút, sau đó là 4oC/12000rpm trong 10 phút để 
thu khoảng 4ml huyết tương. cfDNA trong 
huyết tương được tách chiết bằng bộ kit 
QIAsymphony Circulating DNA (Qiagen), theo 
hướng dẫn của nhà sản xuất(16). cfDNA sau đó 
được lưu ở -80oC đến khi chạy phản ứng PCR. 
Phát hiện đột biến EGFR bằng kỹ thuật 
scorpions ARMS 
Kỹ thuật scorpions ARMS sử dụng trong 
nghiên cứu là sự kết hợp giữa công nghệ khuếch 
đại đặc hiệu alen đột biến (amplification 
refractory mutation system) và công nghệ 
scorpions sử dụng các cặp mồi thông minh trong 
phản ứng PCR để phát hiện đột biến có tỉ lệ 
thấp. Nghiên cứu sử dụng bộ kit 
TherascreenEGFR Plasma RGQ PCR (Qiagen) để 
phát hiện đột biến EGFRtronghuyết tương, thực 
hiện trên máy RotorGene Q 5Plex HRM, theo 
hướng dẫn của nhà sản xuất(17). 
CA LÂM SÀNG 
Ca 1 
Bệnh nhân nam 72 tuổinhập việntháng 
2/2015 do tràn dịch màng phổi lượng trung 
bình. Hình ảnh học CT-Scanner cho thấy bệnh 
nhân có u phổi bên phải kích thước 4cm, di 
căn màng phổi và tim, xếp loại lâm sàng giai 
đoạn IV theo tiêu chuẩn TNM (AJCC, 2010)(12). 
Giải phẫu bệnh học dịch màng phổi đi đến kết 
luận carcinôm tế bào lớn phát tán trong dịch, 
với CK7(+), CK20(-), TTF1(-). Phân tích gen 
trên mẫu tế bào dịch màng phổi cho thấy bệnh 
nhân chỉ mang đột biến mất đoạn exon 19 trên 
gen EGFR (E19 Del) (hình 1A). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 265
Hình 1. Đột biến E19 Del trước điều trị (A, mẫu mô), 
và đột biến sau khi điều trị (B, huyết tương) của bệnh 
nhân số 1 
Bệnh nhân được điều trị bằng erlotinib 
150mg/ngày trong 7 tháng, có đáp ứng rất tốt khi 
kích thước u phổi giảm hơn 60%, chỉ còn u 
1,5cm; tràn dịch màng phổi lượng ít,và ít dày 
màng phổi. Giải phẫu bệnh trên mẫu mô sinh 
thiết lại không phát hiện tế bào ác tính.Tại thời 
điểm này, xạ hình xương ghi nhận tăng hấp thu 
thuốc phóng xạ tại đốt sống ngực, xương ức, 
xương sườn phải, nghi ngờ di căn. Bệnh nhân 
tiếp tục được điều trị bằng erlotinib và bệnh ổn 
định đến tháng thứ 18, và tiếp tục điều trị bằng 
erlotinib. Từ tháng 21 bệnh nhân có dấu hiệu 
tiến triển trở lại khi u phổi tăng kích thước lên 
2x3cm, kèm xẹp phổi và tràn dịch màng phổi 
phải. Xạ hình xương xác định nhiều vị trí di căn. 
Lúc này, bệnh nhân không cần sinh thiết lại để 
lấy mẫu mô làm xét nghiệm, do đã ứng dụng 
được kỹ thuật phát hiện đột biến EGFR huyết 
tương. Kết quả phân tích gen cho thấy, bên cạnh 
đột biến E19 Del ban đầu, bệnh nhân còn có 
thêm đột biến T790M (hình 1B). 
Hình 2. Hình ảnh học lúc chẩn đoán (A); sau điều trị 7 tháng bằng erlotinib (B); và sau điều trị bằng erlotinib 21 
tháng (C) của bệnh nhân số 1 
Ca2 
Bệnh nhân nữ 54 tuổi được chẩn đoán u thùy 
dưới phổi trái giai đoạn IV vào tháng 2/2016. CT-
Scanner cho thấy khối u thùy dưới phổi trái kích 
thước 4,4cm, xâm lấn động mạch chủ ngực (hình 
4A); tổn thương khu trú ở gan trái 1cm chưa loại 
trừ di căn. MRI cho thấy hình ảnh di căn não. Xạ 
hình xương cho thấy hình ảnh di căn nhiều vị trí. 
Nội soi cho thấy u sùi bít hoàn toàn lỗ phế quản. 
Giải phẫu bệnh học mẫu sinh thiết cho thấy bệnh 
nhân mắc carcinôm tuyến của phổi, biệt hóa 
trung bình, CK7(3+), CK20(-), và TTF1(2+). Phân 
tích gen trên mẫu sinh thiết cho thấy bệnh nhân 
có đột biến EGFRL858R (hình 3A). 
Bệnh nhân được xạ trị não, xương 
30Gy/10Fx, sau đó điều trị bằng erlotinib 
150mg/ngày từ tháng 3/2016. Sau 3 tháng, kiểm 
tra lại bằng CT-Scanner cho thấy bệnh nhân có 
đáp ứng một phần khi u phổi trái tiêu giảm hơn 
50%, xuống còn 2cm (hình 4B). Xạ hình xương 
phát hiện phì đại và đặc xương sườn số 4 và 6 
bên phải. Sau 8 tháng điều trị bằng erlotinib, 
bệnh nhân có dấu hiệu tái phát bệnh khi khối u 
phổi trái lớn trở lại, lên 4cm. Bệnh nhân tiếp tục 
B 
A B C 
A 
C 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 266
được điều trị bằng erlotinib. Đến tháng thứ 12, 
khối u phổi trái tiếp tục tăng kích thước lên 
7,5x6cm (hình 4C), di căn xương nhiều vị trí, 
hạch trung thất lớn 2cm, xuất hiện thêm ổ tổn 
thương gan 1cm và ổ tổn thương thận 0,8cm. Xét 
nghiệm đột biến EGFR huyết tương cho thấy bên 
cạnh đột biến L858R ban đầu, bệnh nhân có 
thêm đột biến T790M (hình 3B). 
A B 
Hình 3. Đột biến L858R trước điều trị (A, mẫu mô), và đột biến sau khi điều trị (B, huyết tương) của bệnh nhân 
số 2 
A B C 
Hình 4. Hình ảnh học lúc chẩn đoán (A); sau điều trị 3 tháng bằng erlotinib (B); và sau điều trị bằng erlotinib 12 
tháng (C) của bệnh nhân số 2 
Ca 3 
Bệnh nhân nữ 52 tuổi được chẩn đoán ung 
thư phổi di căn não tháng 2/2016, xếp loại giai 
đoạn IV trên lâm sàng. PET-CT cho thấy khối u 
choán chỗ thùy trên phổi phải kích thước 
4,6x3,7cm (hình 6A), nhiều hạch phì đại trung 
thất 1,2cm, hạch thượng đòn phải phì đại kích 
thước 2,2cm, nhiều tổn thương não kích thước từ 
0,4-4cm, và tổn thương thận 1,4cm chưa loại trừ 
di căn. Bệnh nhân được phẫu thuật loại bỏ khối 
u não. Giải phẫu bệnh học mẫu mô phẫu thuật 
cho kết quả carcinôm tuyến, với CK7(3+), CK20(-
), TTF1(+), CA125(+). Phân tích gen mẫu mô cho 
kết quả đột biến E19 Del (hình 5A). 
A B 
Hình 5. Đột biến E19 Del trước điều trị (A, mẫu mô), và đột biến sau khi điều trị (B, huyết tương) của bệnh 
nhân số 3 
Bệnh nhân được điều trị bằng afatinib 
40mg/ngày. Sau 4 tháng, kiểm tra lại bằng CT-
Scanner cho thấy khối u phổi tiêu giảm hơn 40%, 
xuống còn 2,3x2,8cm (hình 6B). Bệnh nhân tiếp 
tục được điều trị bằng afatinib đến tháng thứ 8, 
và theo dõi đáp ứng thuốc bằng xét nghiệm đột 
A B C 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 267
biến EGFR huyết tương. Kết quả phân tích gen 
cho thấy, bên cạnh đột biến E19 Del ban đầu còn 
có thêm đột biến T790M (hình 5B). 
 A B C 
Hình 6. Hình ảnh học lúc chẩn đoán (A); sau điều trị 4 tháng bằng afatinib (B); và sau điều trị 8 tháng bằng 
afatinib (C) của bệnh nhân số 3 
BÀN LUẬN 
Đột biến thứ phát EGFR T790M liên quan 
đến kháng TKIs ở bệnh nhân NSCLC được báo 
cáo lần đầu tiên bởi Pao và Kobayashi năm 
2005(8,15). Các bệnh nhân có đột biến EGFR nhạy 
thuốc được điều trị bằng erlotinib hay gefitinib, 
có đáp ứng hoàn toàn trong 2 năm, sau đó tái 
phát bệnh kèm theo đột biến T790M. Tại Việt 
Nam, nghiên cứu của Trần Huy Thịnh năm 2016 
ghi nhận khoảng 45% trường hợp NSCLC có đột 
biến T790M thứ phát trên mẫu sinh thiết lại của 
bệnh nhân NSCLC sau điều trị bằng TKIs(18). 
Ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy có thể 
đột biến này tồn tại trong khối u trước khi điều 
trị với tỉ lệ thấp, song song với đột biến nhạy 
thuốc như E19 Del hay L858R(19). Dưới áp lực 
chọn lọc liên tục bởi TKIs, những tế bào chỉ 
mang đột biến nhạy thuốc bị tiêu diệt, riêng tế 
bào có thêm đột biến T790M thì không. Đột biến 
làm cho Threonin tại vị trí 790 của exon 20 bị 
thay thế bởi Methionin, làm thay đổi cấu trúc 
phân tử EGFR ngay vị trí hoạt tính kinase, khiến 
phân tử thuốc TKIs không gắn được vào thụ thể. 
Kết quả là, EGFR TKIs không cạnh tranh được 
thụ thể với ATP, do đó phục hồi hoạt tính kinase 
của EGFR, giúp tế bào sống sót và khối ubùng 
phát trở lại. Yun và cộng sự chứng minh, đột 
biến T790M giúp phục hồi hoạt tính kinase cho 
EGFR gấp tới 5 lần so với bình thường(21). Nồng 
độ erlotinib hoặc gefitinib tối thiểu cần để ức chế 
protein EGFR có đột biến T790M gấp hơn 300 lần 
nồng độ cần để ức chế phân tử có đột biến 
L858R(1). 
Kỹ thuật phát hiện đột biến EGFR huyết 
tương là bước tiến mới trong chẩn đoán và theo 
dõi điều trị bằng TKIs cho bệnh nhân NSCLC. 
Đây là kỹ thuật không xâm lấn do chỉ cần lấy 
máu làm xét nghiệm, rất phù hợp với bệnh nhân 
khó sinh thiết lại hay không sinh thiết lại được. 
Nghiên cứu của Hasegawa cho thấy có tới 50% 
số trường hợp NSCLC kháng trị có khối u di căn 
nằm ở vị trí khó sinh thiết lại(4). Trong khi đó, 
Nosaki cho thấy, sinh thiết lại chỉ thành công 
khoảng 79%. Tỉ lệ thất bại là hơn 20%(13). 
So với mẫu mô sinh thiết, xét nghiệm đột 
biến EGFR huyết tương có thể đánh giá chính 
xác tình trạng bệnh cho hơn 94% trường hợp, với 
độ nhạy hơn 65% và độ đặc hiệu gần như tuyệt 
đối 100%(2,11). Bằng mẫu huyết tương, còn có thể 
phát hiện được đột biến EGFR ở nhiều trường 
hợp có kết quả bình thường trong mẫu 
mô(2,10,11,22,23). Điều này là do tính không đồng nhất 
của khối u (tumor heterogeneity), trong khi mẫu 
huyết tương có ưu điểm với nguồn gốc cfDNA 
từ nhiều nơi trong khối u, và từ nhiều tổn 
thương u trong cơ thể. 
Đặc biệt, kỹ thuật này có thể thực hiện lặp lại 
được nhiều lần để theo dõi hiệu quả điều trị, 
theo dõi sự xuất hiện đột biến T790M thứ phát, 
giúp lựa chọn hướng điều trị mới cho bệnh nhân 
một cách nhanh nhất. Zheng và cộng sự ghi 
nhận thời gian từ lúc phát hiện đột biến T790M 
A 
B 
C 
C 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 268
huyết tương đến khi bệnh tiến triển nặng trên 
lâm sàng trung bình chỉ khoảng 2,2 tháng(23). 
Bằng kỹ thuật này có thể cho kết quả ngay trong 
ngày, từ đó hạn chế việc trì hoãn điều trị khi 
phải chờ dài ngày để có kết quả sinh thiết. 
Oxnard đề xuất nên theo dõi đột biến thứ phát 
T790M trong huyết tương trước khi quyết định 
sinh thiết lại(14). 
Kỹ thuật này đang được áp dụng ở nhiều 
nước trên thế giới, giúp phát hiện đột biến 
T790M thứ phát từ trước khi có tiến triển bệnh 
trên lâm sàng. Tại Việt Nam, một vài cơ sở điều 
trị mới tiếp cận kỹ thuật này rất gần đây, trong 
đó có bệnh viện Chợ Rẫy. Một số ít bệnh nhân 
phát hiện được đột biến T790M huyết tương khi 
bệnh đã diễn tiến rõ trên lâm sàng. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận 2 
trường hợp NSCLC diễn tiến nặng (ca số 1 và 2), 
và 1 trường hợp theo dõi điều trịcó đột biến 
T790M huyết tương sau quá trình điều trị bằng 
TKIs, mà trước đó chỉ có đột biến E19 Del hay 
L858R trên mẫu mô.Nghiên cứu của Kevin ghi 
nhận bệnh nhân NSCLC điều trị bằng erlotinib 
có đáp ứng tốt trong khoảng 9 tháng, sau đó 
diễn tiến nặng và xuất hiện đột biến T790M thứ 
phát(5). Xu và cộng sự cũng ghi nhận thời gian 
sống không tiến triển bệnh khoảng 1 năm khi 
điều trị bằng gefitinib, cho đến khi xuất hiện 
thêm đột biến này(20). Chúng tôi ghi nhận bệnh 
nhân số 2 và số 3 có đáp ứng tốt với TKIs trong 
khoảng 8 tháng, sau đó xuất hiện đột biến thứ 
phát trong huyết tương. Riêng bệnh nhân số 1 
kéo dài được 21 tháng đến khi diễn tiến nặng, có 
thêm đột biến T790M. 
Trong 3 trường hợp, bệnh nhân số 1 và số 2 
được điều trị bằng erlotinib (TKIs thế hệ 1), bệnh 
nhân số 3 được điều trị bằng afatinib (TKIs thế 
hệ 2). Nghiên cứu của Li cho thấy TKIs thế hệ 1 
như erlotinib hay gefitinib hoạt động theo 
nguyên lý ức chế thuận nghịch nên có hiệu quả 
rất kém khi bệnh nhân có đột biến T790M. Trong 
khi, TKIs thế hệ 2 như afatinib tạo liên kết cộng 
hóa trị với protein EGFR tại vùng gắn ATP do đó 
có hiệu quả ức chế cao hơn(9). Trong nghiên cứu 
này chúng tôi nhận thấy bệnh nhân số 3 mặc dù 
được điều trị bằng afatinib nhưng cũng xuất 
hiện đột biến thứ phát T790M trong khoảng 8 
tháng. Do đó, không thể ước lượng được chính 
xác thời điểm sẽ xuất hiện đột biến T790M ở 
bệnh nhân NSCLC được điều trị bằng TKIs. Do 
tầm quan trọng và rất cần thiết của việc phát 
hiện sớm đột biến kháng thuốc để có chiến lược 
mới điều trị cho bệnh nhân, chúng tôi cho rằng 
cần phải thực hiện xét nghiệm EGFR huyết 
tương thường xuyên trong suốt quá trình điều 
trị bằng TKIs cho bệnh nhân NSCLC. 
Bệnhnhân NSCLC có đột biến T790M huyết 
tương khi điều trị bằng osimertinib (TKIs thế hệ 
thứ 3) có tiên lượng tương tự bệnh nhân có đột 
biến này trong mẫu mô. Trong 3 trường hợp, 
bệnh nhân số 2 đã được chuyển hướng điều trị 
bằng osimertinib khoảng 1 tháng. Chúng tôi 
đang tiếp tục được theo dõi và đánh giá thêm 
cho bệnh nhân này bằng xét nghiệm đột biến 
EGFR huyết tương. 
KẾT LUẬN 
Bên cạnh giá trị chẩn đoán cao và không 
xâm lấn, xét nghiệm đột biến EGFR huyết 
tương giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong theo 
dõi điều trị bằng TKIs cho bệnh nhân NSCLC, 
đặc biệt là theo dõi đột biến T790M thứ phát 
gây kháng thuốc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Avizienyte E, et al. (2008), “Comparison of the EGFR 
resistance mutation profiles generated by EGFR targeted 
tyrosine kinase inhibitors and the impactof drug 
combinations”, Biochem. J, 415:197-206. 
2. Douillard JY, et al. (2014), “Gefitinib treatment in EGFR 
mutated caucasian NSCLC circulating free tumor DNA as a 
surrogate for determination of EGFR status”, Journal of Thoracic 
Oncology, Vol9, No9: 1345-1353. 
3. Eisenhauer EA, et al. (2009), “New response evaluation 
criteria in solid tumours: revised RECIST guideline (version 
1.1)”, Eur J Cancer, 45(2):228-47. 
4. Hasegawa T, et al. (2015), “Feasibility of rebiopsy in non-small 
cell lung cancer treated with epidermal growth factor receptor 
tyrosine kinase inhibitors”, Intern Med, 54:1977-1980. 
5. Kevin S, et al. (2013), “EGFR mutated lung cancer with T790M 
acquired resistance in the brain and histologic transformation 
in the lung”, Journal of the National Comprehensive Cancer 
Network, Vol 11, Number 9. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 269
6. Kuang Y, et al. (2009), “Noninvasive detection of EGFR 
T790M in gefitinib or erlotinib resistant non-small cell lung 
cancer”, Clin Cancre Res”,15(8):2630-2636. 
7. Kumarakulasinghe NB, et al. (2015), “Molecular targeted 
therapy in the treatment of advanced stagenon-small cell lung 
cancer (NSCLC)”, Respirology, 20:370-378. 
8. Kobayashi S, et al. (2005), “EGFR mutation and resistance of 
non-small cell lung cancer to gefitinib”, N engl j med, Vol352; 
No.8. 
9. Li D, et al. (2008), “BIBW2992, anirreversible EGFR/HER2 
inhibitor highly effective in preclinical lung cancer models”, 
Oncogene, 27(34):4702-4711. 
10. Li X, et al. (2014). Peripheral blood for epidermal growth 
factor receptor mutation detection in non-small cell lung 
cancer patients. Translational Oncology; 7:341-348. 
11. Luo J, Shen L, Zheng D. (2014), “Diagnostic value of 
circulating free DNA for the detection of EGFR mutation 
status in NSCLC: a systematic review and meta-analysis”, 
Scientific Reports, 4:6269. 
12. Mirsadraee S, et al. (2012), “The 7th lung cancer TNM 
classification and staging system: Review of the changes and 
implications”, World J Radiol, 4(4):128-134. 
13. Nosaki K, et al. (2016), “Re-biopsy status among non-small cell 
lung cancer patients in Japan: A retrospective study”, Lung 
Cancer, 101:1-8. 
14. Oxnard GR, et al. (2016), “Association between plasma 
genotyping and outcomes of treatment with osimertinib 
(AZD9291) in advanced non-small cell lung cancer”, J. Clin. 
Oncol, 34:3375-3382. 
15. Pao W, et al. (2005), “Acquired resistance of lung 
adenocarcinomas to gefitinib or erlotinib is associated witha 
second mutation in the EGFR kinase domain”, PLoS Medicine, 
Vol2, Issue3. 
16. Qiagen. (2017), “QIAsymphony Circulating DNA kit 
handbook, Version 1: page 3-21”, Qiagen GmbH, 40724 Hilden, 
Germany. 
https://www.qiagen.com/us/resources/resourcedetail?id=f5acf9d0-
a563-432c-b8b1-566d01b51b3c&lang=en&autoSuggest=true. 
17. Qiagen. (2014), “Therascreen EGFR Plasma RGQ PCR kit 
handbook, Version 1: page 4-39”, Qiagen Manchester Ltd, 
Manchester, M15 6SH, 
UK.https://www.qiagen.com/es/resources/resourcedetail?id=e
b32e329-3422-4eda-b3d6-e44ed787002a&lang=en. 
18. Trần Huy Thịnh, Trần Vân Khánh, Trần Quốc Đạt. (2016), 
“Xác định đột biến kháng thuốc thứ phát T790M trên gen 
EGFR ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ kháng với 
thuốc điều trị đích”, Tạp chí Nghiên cứu Y học; 99:1. 
19. Wang Z, et al. (2014), “Quantification and dynamic 
monitoring ofEGFRT790M in plasma cell free DNA by digital 
PCR for prognosis of EGFR-TKI treatment in advanced 
NSCLC”, Plos One, Vol 9, Issue 11. 
20. Xu CR, et al. (2017), “Heterogeneity of the resistance to 
gefitinib treatment in a non small cell lung cancer patient with 
active epidermalgrowth factor receptor mutation”, Thoracic 
Cancer, 8:51-53. 
21. Yun CH, et al. (2008), “The T790M mutation in EGFR kinase 
causes drugresistance by increasing the affinity for ATP”, 
Pnas, Vol 105; No.6. 
22. Zhao X, et al. (2013), “Comparison of epidermal growth factor 
receptor mutation statuses in tissue and plasma in stage I-IV 
non-small cell lung cancer patients”, Respiration, 85:119-125. 
23. Zheng D, et al. (2016), “Plasma EGFR T790M ctDNA status is 
associated with clinical outcome in advanced NSCLC patients 
with acquired EGFR-TKI resistance”, Sci. Rep, 6,20913. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018