Tài liệu Vai trò của dẫn lưu mật xuyên gan qua da dưới siêu âm trong viêm đường mật cấp: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
VAI TRÒ CỦA DẪN LƯU MẬT XUYÊN GAN QUA DA 
DƯỚI SIÊU ÂM TRONG VIÊM ĐƯỜNG MẬT CẤP 
Lê Nguyên Khôi *- Nguyễn Văn Phước* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trong những năm gần đây, xử trí viêm đường mật cấp đã có nhiều thay đổi cùng với sự 
phát triển của những loại kháng sinh mới và của những can thiệp không phẫu thuật. 
Vật liệu - Phương pháp nghiên cứu - Kết quả: Từ tháng 08 / 1998 đến tháng 08 / 2000, chúng tôi đã 
sử dụng kỹ thuật dẫn lưu mật xuyên gan qua da dưới hướng dẫn của siêu âm (PTBD) trong điều trị viêm 
đường mật cấp, đặc biệt ở những bệnh nhân nguy cơ cao.Trong nghiên cứu này, 42 trường hợp được ghi 
nhận, lớn tuổi nhất là 95 tuổi. Chúng tôi chỉ có một ca tử vong và một số biến chứng nhẹ. 
Kết luận: Tiên lượng của viêm đường mật cấp đã được cải thiện nhờ vào kỹ thuậ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của dẫn lưu mật xuyên gan qua da dưới siêu âm trong viêm đường mật cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
VAI TRÒ CỦA DẪN LƯU MẬT XUYÊN GAN QUA DA 
DƯỚI SIÊU ÂM TRONG VIÊM ĐƯỜNG MẬT CẤP 
Lê Nguyên Khôi *- Nguyễn Văn Phước* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trong những năm gần đây, xử trí viêm đường mật cấp đã có nhiều thay đổi cùng với sự 
phát triển của những loại kháng sinh mới và của những can thiệp không phẫu thuật. 
Vật liệu - Phương pháp nghiên cứu - Kết quả: Từ tháng 08 / 1998 đến tháng 08 / 2000, chúng tôi đã 
sử dụng kỹ thuật dẫn lưu mật xuyên gan qua da dưới hướng dẫn của siêu âm (PTBD) trong điều trị viêm 
đường mật cấp, đặc biệt ở những bệnh nhân nguy cơ cao.Trong nghiên cứu này, 42 trường hợp được ghi 
nhận, lớn tuổi nhất là 95 tuổi. Chúng tôi chỉ có một ca tử vong và một số biến chứng nhẹ. 
Kết luận: Tiên lượng của viêm đường mật cấp đã được cải thiện nhờ vào kỹ thuật trên và chúng tôi hy 
vọng nó sẽ được áp dụng rộng rãi và có thể trở thành một phuơng pháp điều trị không phẫu thuật cho những 
bệnh nhân nguy cơ cao ở nước ta. 
SUMMARY 
THE ROLE OF ULTRASOUND - GUIDED PERCUTANEOUS TRANSHEPATIC BILIARY 
DRAINAGE IN ACUTE CHOLANGITIS 
Le Nguyen Khoi, Nguyen Van Phuoc* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 7 * Supplement of No 1 * 2003: 
48 - 55 
Introduction: In the recent years, the management of acute cholangitis was changed considerably with 
the development of many new antibiotics and non-operative techniques. 
Materials – Method – Results: Between 08 / 1998 and 08 / 2000 we used the technique of ultrasound-
guided percutaneous transhepatic biliary drainage (PTBD) in the treatment of acute cholangitis, especially 
in the high risk patients. Forty two cases were reported in this study, the oldest aged 95 years. We had only 
one death and some mild complications. 
Conclusions: The prognosis of acute cholangitis have been clearly ameliorated by this technique and so 
we hope that it will be largely applied and may become a non-operative treatment of choice for the high risk 
patients in our country. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm đường mật cấp (VĐMC) là một bệnh lý 
thường gặp mà phẫu thuật cấp cứu ngay tại những 
quốc gia phát triển vẫn có tử vong và biến chứng 
khá cao, nhất là ở những thể nặng. 
Chính vì thế, nhiều giải pháp không phẫu thuật 
đã ra đời; một trong số đó là “Dẫn lưu mật xuyên 
gan qua da“ nhằm giúp người bệnh vượt qua được 
giai đoạn nhiễm trùng tránh được một cuộc phẫu 
thuật mang nhiều nguy cơ. 
Xuất phát từ suy nghĩ trên, kết hợp với tình hình 
cũng như điều kiện thực tế Việt Nam, tại TTCC 
Trưng Vương, chúng tôi đã áp dụng kỹ thuật này 
trong VĐMC và qua đó hy vọng rút ra được một số 
nhận xét và đánh giá bước đầu về mặt kỹ thuật, chỉ 
định cũng như hiệu quả của phương pháp. 
VẬT LIỆU, PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là một công trình nghiên cứu tiền cứu, loại 
* Bác sĩ khoa Ngoại Trung tâm Cấp cứu Trưng Vương, TP Hồ chí Minh
Chuyên đề Ngoại khoa 48 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
hình ứng dụng lâm sàng, được thực hiện tại khoa 
Ngoại 1 - TTCC Trưng Vương từ tháng 08/1998 đến 
tháng 08/2000. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Chúng tôi đưa vào nghiên cứu những bệnh 
nhân hội đủ hai tiêu chuẩn sau: 
Được chẩn đoán VĐMC dựa vào: 
- Lâm sàng: Đau hạ sườn (P), sốt > 38oC 
- Cận lâm sàng: 
. Bạch cầu > 10000/mm3
. Siêu âm có dãn đường mật trong gan > 5mm 
hoặc có túi mật căng to do vị trí tắc ở ống mật chủ 
. Có thêm một trong những yếu tố sau: 
- VĐMC thể nặng ( thể nhiễm độc, ngũ chứng 
REYNOLDS) 
- Có nguy cơ cao trong phẫu thuật như: bệnh 
nội khoa nặng đi kèm, già yếu hoặc tổng trạng xấu 
- Có tiền sử mổ đường mật 
- Có sỏi trong gan +/- ngoài gan 
- Bệnh cảnh tắc mật nghi do nguyên nhân ác 
tính 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Chúng tôi không đưa vào nghiên cứu khi có một 
trong những yếu tố sau: 
Rối loạn đông – cầm máu nặng chưa kiểm 
soát được: 
. TP < 50% 
. Tiểu cầu < 50.000 / mm3 
Có chỉ định mổ vì những lý do khác như: viêm 
phúc mạc thấm mật, viêm tụy hoại tử xuất huyết 
nặng, chảy máu đường mật ồ ạt, viêm túi mật hoại 
tử,  
Bệnh nhân không đồng ý thực hiện kỹ thuật. 
Kỹ thuật - Dụng cụ 
Chúng tôi thực hiện hai kỹ thuật dẫn lưu túi 
mật xuyên gan qua da ( DLTM ) và dẫn lưu đường 
mật xuyên gan qua da ( DLĐM ) dưới hướng dẫn của 
siêu âm là chủ yếu và có thể kết hợp với X-quang. 
Với siêu âm, chúng tôi áp dụng kỹ thuật "bàn tay tự 
do" (free-hand technique) như MATALON đã mô tả 
(Hình 1)(20). 
Hình 1- Kỹ thuật “ bàn tay tự do “ 
Dụng cụ 
Máy siêu âm với đầu dò sector 3.5 MHz 
Máy X-quang có monitor ( C-arm ) 
Máy siêu âm Doppler màu trong một số tình 
huống cần thiết 
Bộ tiểu phẫu 
Bộ dụng cụ chọc dò - dẫn lưu ( hình 2 ): 
Bộ kim-catheter Secalon của hãng Ohmeda 
dài 16cm, ∅ 16G (1,7mm). 
Nòng hướng dẫn kim loại có đầu hình J, ∅ 0,7 
– 1mm, dài 40 - 50cm 
Hình 2- Bộ kim - catheter Secalon và nòng hướng dẫn hình J 
Chuyên đề Ngoại khoa 49
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
Kỹ thuật 
Bệnh nhân được hồi sức tích cực nếu cần, kiểm 
tra chức năng đông - cầm máu và sử dụng kháng 
sinh. Phẫu thuật viên và phòng mổ được thông báo 
và chuẩn bị. Bệnh nhân hoặc người nhà được giải 
thích rõ ràng về kỹ thuật thực hiện và đồng ý làm 
cam kết. 
Thường chúng tôi tiến hành kỹ thuật dẫn lưu tại 
phòng mổ để có thể kết hợp siêu âm và X-quang; vô 
cảm chủ yếu bằng tê tại chỗ. Sau khi đặt được 
catheter, dịch mật hút ra được gửi xét nghiệm vi 
trùng học và siêu âm kiểm tra xác định kích thước 
đường mật nhỏ lại. Bệnh nhân nằm nghỉ tại giường 
24h và có thể được cho thuốc giảm đau. 
Đánh giá kết quả 
Chúng tôi ghi nhận: 
- Sự hoạt động của catheter, tính chất và số 
lượng dịch mật. 
- Những tai biến tức thì. 
- Diễn biến của bệnh nhân tùy theo từng bệnh cảnh. 
- Những biến chứng và tử vong. 
- Những phương pháp điều trị sau đó. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 08/1998 đến tháng 08/2000, chúng tôi 
đã thực hiện 45 lần dẫn lưu ở 42 trường hợp, trong 
đó, có 18 nữ và 24 nam, tuổi từ 19 đến 95. 
Về bệnh cảnh VĐMC, xin xem bảng 1. 
Bảng 1- Bệnh cảnh Viêm đường mật cấp 
Bệnh cảnh VĐM Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Nặng 5 11,9 
Nguy cơ cao 8 19 
Tiền sử mổ mật 25 51,2 
Sỏi trong gan 17 40 
Tắc mật nghi ác tính 0 0 
Có kèm Viêm tụy cấp 6 14 
Có tiểu cầu thấp 1 2,3 
Tùy theo vị trí tắc nghẽn, kích thước đường mật 
và tình trạng bệnh nhân mà chúng tôi quyết định vị 
trí đích chọc dẫn lưu (Hình 3 và 4). 
Hình 3- DLĐM (P) 
Hình 4- DLTM 
Chúng tôi đã thực hiện: 
DLĐM (P): 20 trường hợp 
DLĐM (T): 13 trường hợp 
DLTM: 09 trường hợp 
Chúng tôi đã không luồn được catheter vào 
đường mật (P) trong 1 trường hợp và đã chọc lại vào 
bên (T) thành công. Có một trường hợp dự định 
chọc vào đường mật (P) nhưng kim vào túi mật và 
phải chọc lại lần 2. 
Chúng tôi gặp một số tai biến tức thì không 
nghiêm trọng, bệnh nhân đã được theo dõi sát và 
điều trị bảo tồn ( Bảng 2 ). 
Bảng 2- Tai biến tức thì và liên quan với vị trí chọc 
Tai biến tức thì Gan (P) Gan (T) 
Chọc vào mạch máu 2 0 
Chọc nhầm vào túi mật 1 0 
Chuyên đề Ngoại khoa 50 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
Một số biến chứng xuất hiện nhưng không tiến 
triển nặng hoặc không cần phải can thiệp ngoại 
khoa cấp cứu ( Bảng 3 ). 
Bảng 3- Những biến chứng nhẹ 
Biến chứng Gan (P) Gan (T) Túi mật Tổng số (%)
Tụt catheter 1 2 0 3 (7) 
Nghẹt catheter 0 1 0 1 (2,3) 
Sốt 1 1 0 2 (4,6) 
Chảy máu 1 0 0 1 (2,3) 
Không xuyên 
giường túi mật 
0 0 1 1 (2,3) 
Lượng dịch mật dẫn lưu qua catheter mỗi ngày 
rất thay đổi tùy theo từng bệnh nhân, từ 20 ml đến 
1200 ml, trung bình 150 - 200 ml. 
4/5 bệnh nhân viêm đường mật thể nặng sau 
khi chọc dò dẫn lưu diễn tiến tốt và ổn định ngay 
trong giờ đầu tiên. Đặc biệt triệu chứng đau giảm rất 
nhanh ngay sau khi đường mật được giải áp. Một 
bệnh nhân vào viện trong tình trạng sốc nặng và 
hôn mê đã tử vong dù được hồi sức tích cực và 
DLĐM giải áp. 
Bảng 4- Những phương pháp điều trị sau dẫn lưu 
Phương pháp Số BN Tỷ lệ % 
Phẫu thuật 16 38,5 
Nội soi tán sỏi qua da 23 54,8 
Nội khoa 3 7 
Ba trường hợp được dẫn lưu và sau đó điều trị 
nội khoa như sau: 
- Một trường hợp dự định nong và nội soi tán sỏi 
nhưng khi nong thì bị lạc đường nên cho bệnh nhân 
xuất viện và hẹn tái khám, đặt lại dẫn lưu để nong 
và nội soi tán sỏi thành công. 
- Một trường hợp thoát sốc sau khi được dẫn lưu 
nhưng bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật. 
- Một trường hợp cũng thoát sốc do viêm đường 
mật do sỏi OMC tái phát trên một bệnh nhân 95t. 
Vài ngày sau, kiểm tra lại không còn thấy sỏi đường 
mật nên xuất viện. 
BÀN LUẬN 
Viêm đường mật cấp là một cấp cứu ngoại khoa 
nhưng điều trị phẫu thuật không phải lúc nào cũng 
được chỉ định một cách dễ dàng. 
Ở Việt Nam, một số thống kê cho thấy điều trị 
viêm đường mật chủ yếu vẫn dựa vào phẫu thuật 
cấp cứu (8,18,24,28): 
ĐỖ KIM SƠN 1976-1985 36,8 % 
NGUYỄN THẾ HIỆP 1980-1989 58 % 
VĂN TẦN 1975-1984 73.6 % 
NGUYỄN CAO CƯƠNG 1993 35 % 
Năm 1990, THOMPSON và cộng sự đã báo cáo 
cho thấy hơn 70% viêm đường mật đáp ứng với điều 
trị nội khoa(19). Khoảng 25% còn lại đòi hỏi phải thay 
đổi kháng sinh hoặc phải can thiệp vào đường mật. 
Giải pháp thứ hai này được hầu hết các tác giả xếp 
theo thứ tự ưu tiên là dẫn lưu qua nội soi mật tụy 
ngược dòng (ERCP), dẫn lưu mật qua da và sau cùng 
là phẫu thuật. Như vậy, mục tiêu điều trị viêm 
đường mật hiện nay được thống nhất là cố gắng 
khống chế nhiễm trùng và tránh một phẫu thuật 
cấp cứu. 
Bảng 5 cũng cho thấy những thay đổi trong xử 
trí viêm đường mật tại bệnh viện JOHNS HOPKINS 
từ 1952 đến 1989 (19): 
Bảng 5 - Xử trí viêm đường mật tại bệnh viện 
JOHNS HOPKINS (Tỷ lệ % số trường hợp ) 
Xử trí 1952-1974 1976-1978 1983-1985 1986-1989
Phẫu thuật 82 88 10 36
Dẫn lưu qua da 0 5 50 61
Nội soi (ERCP) 0 3 13 0
Kháng sinh 
đơn thuần
18 5 27 3
Chúng tôi chọn dẫn lưu giải áp đường mật qua 
da ở những bệnh nhân có thêm yếu tố gây khó khăn 
hoặc làm tăng nguy cơ cho cuộc mổ như: 
- Thể nặng (Ngũ chứng Reynolds ) 
- Bệnh nhân già yếu, có bệnh nội khoa 
- Nguyên nhân ác tính 
- Có kèm sỏi trong gan hoặc sỏi trong gan 
đơn thuần 
- Có tiền căn mổ bệnh lý gan mật 
Đứng trước những tình huống nêu trên, một 
cuộc mổ cấp cứu dù chỉ nhằm mục đích chính là 
dẫn lưu giải áp đường mật cũng có thể trở nên quá 
nặng nề đối với người bệnh. 
Chuyên đề Ngoại khoa 51
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
Một trường hợp bệnh nhân 62t, có tiểu cầu rất 
thấp (30.000/mm3), điều trị nội khoa không đáp 
ứng nhưng chưa thể điều chỉnh tiểu cầu kịp thời để 
phẫu thuật; trong tình huống đó, chúng tôi đã quyết 
định tiến hành giải áp một cách tương đối nhẹ 
nhàng nhất bằng chọc dò dẫn lưu túi mật; kết quả 
người bệnh qua được giai đoạn nhiễm trùng và sau 
đó được chuẩn bị phẫu thuật an toàn. Ngoài ra, 
chúng tôi đã gặp một trường hợp mà ngay cả phẫu 
thuật cũng không giải quyết được vì không tìm thấy 
OMC do việc phẫu tích quá khó khăn và có tai biến 
chảy máu nặng. Những tình huống có cùng lúc 
nhiều yếu tố nguy cơ như: già - thể nặng - tái phát - 
bệnh nội khoa - ác tính, không phải hiếm gặp, thì 
dẫn lưu giải áp qua da phải chăng là giải pháp hợp lý 
trong hoàn cảnh hiện nay của đa số bệnh viện Việt 
Nam ? 
Chúng tôi có được 6 trường hợp viêm tụy cấp 
kèm VĐMC được dẫn lưu giải áp cấp cứu ổn định. 
Chỉ định ở đây cũng vẫn còn bàn cãi vì cơ chế viêm 
tụy do trào ngược dịch mật vào ống tụy hay do tắt 
nghẽn ống tụy cũng chưa rõ ràng. 
• So với X-quang, chúng tôi nhận thấy siêu âm 
có được một số ưu điểm như sau: 
- Có thể kiểm tra và đánh giá lại thương tổn. 
Một số trường hợp chúng tôi đã phải ngừng hoặc 
điều chỉnh đích chọc đã dự kiến do hình ảnh tắc 
mật thay đổi so với trước đó. 
- Có thể chủ động chọn lựa vị trí chọc kim và 
đích chọc 
- Có thể xác định được kích thước đường mật, từ 
đó quyết định cỡ kim và catheter phù hợp. 
- Có thể kiểm soát được toàn bộ thao tác. 
- DLTM và DLĐM (T) thực hiện khá dễ 
- Dưới siêu âm, việc chọc dò và dẫn lưu có thể 
hoàn thành sau 1 lần chọc, không phải qua bước 
làm hiện hình đường mật. Điều này đã khắc phục 
được mặt hạn chế của X-quang vì việc gây tăng áp 
lực trong một đường mật đang tắc nghẽn nhiễm 
trùng có nguy cơ dẫn đến nhiễm trùng huyết và sốc. 
- Có thể chủ động tránh những mạch máu trên 
đường đi của kim nếu thấy được trên siêu âm. 
• Tuy nhiên, siêu âm đơn thuần vẫn còn một số 
hạn chế như: 
- DLĐM gặp khó khăn nếu đường mật dãn ít. 
- Siêu âm không thể khảo sát được chính xác 
hết các nhánh mật trong gan. 
- Không có được hình ảnh đường mật để chẩn 
đoán chính xác vị trí cũng như nguyên nhân tắc 
nghẽn. 
- Không kiểm soát và điều chỉnh được đường đi 
của catheter. 
• Chúng tôi đã thực hiện DLTM 09 trường hợp 
trong thời gian rất ngắn (5-10 phút) và ở những 
bệnh nhân nặng, không hợp tác. 
Những ưu điểm của DLTM: 
- Dễ chọc dò và luồn catheter dẫn lưu 
- Ít bị ảnh hưởng bởi sự hô hấp của bệnh nhân 
- Ít biến chứng 
Những nhược điểm của DLTM: 
- Không hiệu quả nếu vị trí tắc cao hơn lỗ đổ vào 
của ống túi mật; lúc này túi mật thường không dãn. 
- Tác dụng dẫn lưu có thể bị hạn chế nếu ống 
túi mật không thông tốt. Chúng tôi có một trường 
hợp viêm đường mật thể nặng được DLTM đáp ứng 
khá tốt nhưng sau 24h, kiểm tra đường mật trên 
siêu âm vẫn còn dãn khá lớn nên phải DLĐM (P). 
48h sau, catheter DLĐM (P) bị tụt nhưng catheter 
DLTM lại hoạt động tốt nên được lưu đến ngày thứ 
15 và bệnh nhân được phẫu thuật thành công. 
- Thường chỉ nhằm dẫn lưu giải áp, khó thực 
hiện được những can thiệp khác qua đường DLTM. 
Những thuận lợi của DLĐM (P): 
- Có vị trí đặt đầu dò và kim khá rộng rãi 
- Đường kim vào thường xuôi theo chiều ống 
mật và cả ống mật chủ nên luồn catheter vào sâu 
thường không gặp khó khăn 
- Vị trí đường mật theo giải phẫu nằm thấp hơn 
so với bên (T), giúp cho việc dẫn lưu giải áp hiệu quả 
hơn 
Những bất lợi của DLĐM (P): 
- Có thể sóng siêu âm bị xương sườn cản trở 
Chuyên đề Ngoại khoa 52 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
- Đường vào của kim thường dài, tổn thương 
nhu mô gan nhiều 
- Vị trí của catheter có thể gây cản trở cho người 
bệnh vì nằm nghiêng (P) sẽ đè và làm gập catheter 
- Có thể chạm vào màng phổi và phổi 
Những thuận lợi của DLĐM (T): 
- Vị trí các ống gan dễ nhận biết trên siêu âm 
- Đường vào của kim ngắn, ít tổn thương gan 
- Việc cố định catheter ở vùng thượng vị tạo 
thoải mái cho người bệnh, đặc biệt trong những 
trường hợp dẫn lưu vĩnh viễn 
Những bất lợi của DLĐM (T): 
- Chỗ đặt đầu dò và kim thường bị hạn chế 
- Nếu phải chọc vào ống 2 thì hướng của kim 
thường vuông góc với đường mật nên việc luồn 
catheter có thể gặp khó khăn 
- Do vị trí giải phẫu thường ở cao nên dẫn lưu có 
thể kém hiệu quả hơn bên (P). 
Tóm lại: Việc chọn lựa vị trí đích chọc phải 
được cân nhắc và dựa vào nhiều yếu tố như sau: 
- Mục đích chính yếu của động tác dẫn lưu 
- Vị trí tắc mật và kích thước đường mật dãn 
- Tình trạng bệnh nhân khi thực hiện thao tác 
- Điều kiện tại vị trí chọc cũng như về trang 
thiết bị của cơ sở 
Tỷ lệ thành công của các tác giả đã báo cáo thay 
đổi từ 93 - 99%(9,10,,12,13,22,25). Trong nghiên cứu này 
chúng tôi không có trường hợp nào không đặt được 
catheter vào đường mật, có lẽ vì đường mật thường 
dãn lớn trong VĐMC. 
Tỷ lệ tai biến tức thì của chúng tôi là 7% (3/45 
lần dẫn lưu). 
Trong y văn, những tai biến nặng mà các tác giả 
báo cáo liên quan chủ yếu đến động tác chọc 
kim(1,5,7,10,13). Trong nghiên cứu này, chúng tôi 
không gặp những tai biến có hậu quả nghiêm trọng. 
Tuy nhiên, rõ ràng nguyên nhân chính yếu là do 
việc kiểm soát đường đi của kim, nhất là đầu kim 
không được chuẩn xác trong toàn bộ quá trình thực 
hiện kỹ thuật. Chúng tôi tâm đắc một điều mà tác 
giả Hayashi đã nhấn mạnh: Ngay sau khi kim đi qua 
da vào lớp cơ, chúng ta phải cố gắng tìm để có thể 
nhìn thấy được đầu kim trên màn hình (12). 
Tụt catheter thường xảy ra sau khi bệnh nhân 
được phép vận động. Nguyên nhân theo các tác giả 
là do sự di chuyển giữa gan và thành ngực hoặc 
thành bụng. Một biện pháp được áp dụng là sự cải 
tiến về cấu trúc: catheter có dạng “đuôi heo” 
(pigtail), dạng “đàn gió” (accordeon), dạng có bóng 
(ballonnet) để giữ cố định trong đường mật. Tỷ lệ 
của chúng tôi là 7%, so với các tác giả báo cáo với số 
lượng bệnh nhân khá lớn như Nakayama, Ferrucci, 
Gazzaniga là 8%, 4,8% và 4,1% (9,10,23). 
Tỷ lệ diễn tiến tốt trong bệnh cảnh viêm đường 
mật là 97% nếu kiểm tra thường xuyên và đảm bảo 
được hoạt động của catheter. Chúng tôi có một 
trường hợp tử vong trong bệnh cảnh choáng nhiễm 
trùng nặng (2,3 %). 
Qua đường DLĐM, nhiều phương pháp điều trị 
đã được thực hiện như nội soi tán sỏi, đặt stent, 
nong chỗ hẹp,Ngoài ra, trong những trường hợp nối 
mật - ruột thì dẫn lưu mật trên dòng cũng có vai trò 
trong giải áp bảo vệ miệng nối sau mổ. 
Về chẩn đoán, chúng tôi ghi nhận 3 trường hợp 
chẩn đoán được nguyên nhân mà trước đó siêu âm 
không phát hiện được. Nhiều tác giả công nhận 
rằng hình ảnh X-quang sau khi đường mật được giải 
áp có giá trị chẩn đoán cao hơn kỹ thuật PTC cổ 
điển với lý do thuốc cản quang bơm vào một đường 
mật đang đầy sẽ không lan tỏa được toàn bộ và như 
vậy, một số vùng sẽ không hiện lên nên dễ chẩn 
đoán nhầm thương tổn(23). 
Việc quan sát dịch mật cũng có thể giúp chẩn 
đoán xác định trong một số trường hợp nghi ngờ 
nguồn gốc của bệnh cảnh nhiễm trùng, và đồng 
thời qua đó, khảo sát được thêm về vi trùng học của 
dịch mật. 
KẾT LUẬN 
Qua 42 trường hợp thực hiện dẫn lưu mật giải 
áp tại TTCC Trưng Vương, chúng tôi đã rút ra được 
một số nhận xét như sau: 
Chuyên đề Ngoại khoa 53
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
-Kỹ thuật thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm 
tương đối đơn giản, có tỷ lệ thành công khá cao, 
không đòi hỏi những trang thiết bị cao cấp nên có 
thể áp dụng được trong điều kiện thực tế tại Việt 
nam. 
-Tính an toàn của kỹ thuật có thể chấp nhận 
được và chúng tôi hy vọng sẽ được cải thiện nhiều 
hơn cùng với sự hoàn thiện về mặt kỹ thuật, kinh 
nghiệm cũng như dụng cụ và trang thiết bị. 
-Hiệu quả điều trị được công nhận trong nhiều 
bệnh lý đường mật và chiếm một vị trí không kém 
phần quan trọng so với phẫu thuật cũng như những 
phương pháp ít xâm lấn khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 ANDREWS RC, HAWKINS IF: The Hawkins needle-
guide system for percutaneous catheterization. AJR, 
1984; 142: 1191-1200 
2 BHAVSAR P, GIBAUD H, LERAT F, LETESSIER E, 
VISSET J, KERSAINT-GILLY A: Technique du 
drainage percutané des cholécystites aigues sous 
contrôle échographique. Journal de chirurgie, 1992; 
129: 280-284 
3 BOENDER J, NIX GAJJ, RIDDER MAJ, DEES J, 
SCHUTTE HE, VAN BUUREN HR, VAN 
BLANKENSTEIN M: Endoscopic sphincterotomy and 
biliary drainage in patients with cholangitis due to 
common bile duct stones. Am J Gastroenterology, 1995; 
Vol 90: 233-238 
4 BÙI TUẤN ANH, ĐẶNG VIỆT DŨNG, VŨ HUY 
HÙNG: Nhận xét 32 trường hợp chọc mật qua da dưới 
hướng dẫn của siêu âm. Ngoại khoa 1/1999: 15-18 
5 CARIDI JG, HAWKINS IF, HAWKINS MC: Single 
step placement of a self-retaining “ accordion “ 
catheter. AJR, 1984; 143: 337-340 
6 CLARK RA, MITCHELL SE, COLLEY DP, 
ALEXANDER E: Percutaneous catheter biliary 
decompression. AJR, 1981; 137: 503-509 
7 DERHY S, SOYER Ph, BREITTMAYER F: Radiologie 
interventionnelle des voies biliaires, 25-40. 
8 ĐỖ KIM SƠN, TRẦN GIA KHÁNH, ĐOÀN THANH 
TÙNG, NGUYỄN MẠNH CƯỜNG, ĐỖ MẠNH HÙNG: 
Phẫu thuật sỏi đường mật tại Bệnh viện Việt-Đức trong 
10 năm (1976-1985), 1139 trường hợp. Công trình 
nghiên cứu khoa học 1981-1985 Bệnh viện Hữu nghị 
Việt nam-CHDC Đức: 188-195 
9 FERRUCCI JT, MUELLER PR, HARBIN WP: 
Percutaneous transhepatic biliary drainage: technique, 
results and applications. Radiology, 1980; 135: 1-13 
10 GAZZANIGA GM, FAGGIONI A, BONDAZA G, 
BAGAROLO C, FILAURO M: Percutaneous 
transhepatic biliary drainage - twelve years' 
experience. Hepato-Gastroenterol, 1991; 38:154-160 
11 GORDON RL, SHAPIRO HA: Nonoperative 
management of bile duct stones. Surg Clin North 
America, 1990; Vol 70, No 6: 1313-1328 
12 HAYASHI N, SAKAI T, KITAGAWA M, KIMOTO T, 
INAGAKI R, ISHII Y: US-guided left-side biliary 
drainage: nine-year experience. Radiology, 1997; 
204:119-122 
13 KADIR S, BAASSIRI A, BARTH KH, KAUFMAN SL, 
CAMERON JL, WHITE RI: Percutaneous biliary 
drainage in the management of biliary sepsis. AJR, 
1982; 138:25-29 
14 KARSTRUP S, MYGIND T, HENNILD V: 
Percutaneous transhepatic external biliary drainage 
utilizing a pig tail balloon catheter. Acta Radiologica, 
1994; 35:509-511 
15 KAUFMAN SL, KADIR S, MITCHELL SE, KINNISON 
ML, CHANG R: Left lobe of the liver - Percutaneous 
biliary drainage. Radiology, 1989; 170: 191-194 
16 LÊ CÔNG KHÁNH, NGUYỄN ĐÌNH SONG HUY, 
NGUYỄN ĐÌNH TAM: Dẫn lưu đường mật xuyên gan 
qua da trong bệnh lý tắc nghẽn đường mật. Đại hội Hội 
Ngoại khoa Việt Nam lần thứ X: 85-88 
17 LÊ VĂN ĐƯƠNG, ĐẶNG TÂM: Tán sỏi thủy điện lực 
dưới nội soi đường mật qua da điều trị sỏi đường mật. 
Hội thảo thực hành xử lý sỏi đường mật Bệnh Viện 
Trưng Vương, 4/1999: 33-41 
18 LÊ VĂN ĐƯƠNG, NGUYỄN THANH NGUYỆN, 
ĐẶNG TÂM, ĐOÀN TRÍ DŨNG: Phẫu thuật cấp cứu 
viêm đường mật cấp do sỏi. Hội thảo thực hành xử lý 
sỏi đường mật Bệnh Viện Trưng Vương, 4/1999: 1-9 
19 LIPSETT PA, PITT HA: Acute cholangitis. Surg Clin 
North America, 1990; 70: 1297-1312 
20 MATALON TA, SILVER B: US guidance of 
interventional procedures. Radiology, 1990; 17: 43-47 
21 MORI and others: Percutaneous transhepatic bile 
drainage. Ann Surg, 1977; 185: 111-115 
22 MUELLER PR, vanSONNENBERG E, FERRUCCI JT: 
Percutaneous biliary drainage: technical and catheter-
related problems in 200 procedures. AJR, 1982; 138: 
17-23 
23 NAKAYAMA T, IKEDA A, OKUDA K: Percutaneous 
transhepatic drainage of the biliary tract - Technique 
and results in 104 cases. Gastroenterology, 1978; 74: 
554-559 
24 NGUYỄN ĐÌNH HỐI: Bệnh sỏi đường mật ở Việt 
Nam. Y học TP Hồ Chí Minh, 1997: 105-116 
25 NUNEZ D, GUERRA JJ, Al-SHEIKH WA, RUSSELL 
E, MENDEZ G: Percutaneous biliary drainage in acute 
suppurative cholangitis. Gastrointestinal Radiology, 
1986; 11: 85-89 
26 SUKIGARA M, TAGUCHI Y, WATANABE T, 
KOSHIZUKA S, KOYAMA I, OMOTO R: Percutaneous 
transhepatic biliary drainage guided by color doppler 
echography. Abdominal Imaging, 1994; 19: 147-149 
27 TOMPKINS RK: Choledocholithiasis and cholangitis. 
Maingot's Abdominal Operations, 1997; Chap 61: 1739-
1753 
28 VĂN TẦN, NGUYỄN CAO CƯƠNG: Tình hình mổ cấp 
cứu sỏi hệ thống dẫn mật tại Bệnh Viện Bình Dân 
1993. Sinh hoạt khoa học kỹ thuật Bệnh Viện Bình 
Dân, 1995-1996: 20-25 
Chuyên đề Ngoại khoa 54 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
29 YOON HK, SUNG KB, SONG HY, KANG SG, KIM 
MH, LEE SG, LEE SK, AUH YH: Benign biliary 
strictures associated with recurrent pyogenic 
cholangitis: treatment with expandable metallic stents. 
AJR, 1997; 169: 1523-1527 
Chuyên đề Ngoại khoa 55
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 vai_tro_cua_dan_luu_mat_xuyen_gan_qua_da_duoi_sieu_am_trong.pdf vai_tro_cua_dan_luu_mat_xuyen_gan_qua_da_duoi_sieu_am_trong.pdf