TCNCYH 112 (3) - 2018 1 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT MICROSATTELITE DNA 
TRONG CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH BỆNH LOẠN DƯỠNG CƠ 
DUCHENNE 
Đinh Thuý Linh, Trần Huy Thịnh, Trần Vân Khánh, Nguyễn Đức Hinh 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Loạn dưỡng cơ Duchenne là bệnh lý di truyền thần kinh cơ hay gặp nhất trong nhóm bệnh lý loạn 
dưỡng cơ do đột biến gen dystrophin trên nhiễm sắc thể X. Chẩn đoán trước sinh các bà mẹ mang thai có 
nguy cơ sinh con bị bệnh giúp phát hiện các trường hợp thai mắc loạn dưỡng cơ Duchenne. Ứng dung kỹ 
thuật Microsatellite DNA trong chẩn đoán trước sinh bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne. 05 thai phụ mang 
thai từ 17 - 22 tuần được xác định là người mang gen. Tách chiết DNA từ tế bào ối, máu ngoại vi của 
bệnh nhân và thai phụ, hoàn thiện và ứng dụng kỹ thuật Microsatellite - DNA để chẩn đoán trước sinh và 
so sánh kết quả với kỹ thuật phát hiện đột biến gen trực tiếp. Kỹ thuật xác định đột biến trực tiếp và kỹ 
thuật Microsatellite - DNA có kết quả trùng khớp nhau cho thấy đã hoàn thiện được kỹ thuật Microsatellite 
- DNA. 1/5 thai nhi được chẩn đoán mắc bệnh, thai phụ được tư vấn và đình chỉ thai nghén. 4/5 thai nhi 
được chẩn đoán bình thường, tiếp tục theo dõi thai. 
Từ khoá: loạn dưỡng cơ Duchenne, chẩn đoán trước sinh, Microsatellite DNA 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne (DMD) là 
bệnh lý di truyền thần kinh cơ hay gặp nhất 
trong nhóm bệnh lý loạn dưỡng cơ với tần 
suất 1/3500 trẻ trai, nguyên nhân là đột biến 
gen dystrophin trên nhiễm sắc thể giới tính X. 
Bệnh đặc trưng bởi sự yếu cơ tiến triển, phì 
đại bắp chân, tăng sinh các tổ chức trong cơ 
và chậm phát triển trí tuệ. Bệnh nhân thường 
mất khả năng đi ở lứa tuổi 11 - 12 và tử vong 
ở lứa tuổi 20 do các biến chứng của bệnh 
[1 - 3]. 
Hiện nay vẫn chưa có phương pháp điều 
trị đặc hiệu, vì vậy sàng lọc người mang gen 
bệnh và chẩn đoán trước sinh bệnh loạn 
dưỡng cơ Duchenne vẫn đóng một vai trò 
quan trọng nhằm đưa ra lời khuyên di truyền 
cho sản phụ và gia đình, giảm tỉ lệ sinh con 
mắc bệnh. Trong các kỹ thuật di truyền phân 
tử hiện nay đang được áp dụng để phát hiện 
đột biến gen dystrophin, kỹ thuật MLPA đã 
bộc lộ những ưu điểm với khả năng khảo sát 
cả 79 exon của gen dystrophin, phát hiện 
được cả đột biến xóa đoạn và lặp đoạn, chiếm 
khoảng 60 - 65%, trong thời gian 3 - 7 ngày 
[4; 5]. Tuy nhiên, còn khoảng 35 - 40% cần 
phải áp dụng kỹ thuật giải trình tự gen 79 
exon để phát hiện đột biến điểm, kỹ thuật giải 
trình tự gen thường cần nhiều thời gian và giá 
thành cao. Việc chẩn đoán trước sinh thường 
được thực hiện bằng kỹ thuật phát hiện đột 
biến trực tiếp trên gen dystrophin dựa vào đột 
biến chỉ điểm của bệnh nhân [6]. Tuy nhiên, 
trong một số trường hợp không phát hiện thấy 
đột biến hoặc việc phát hiện đột biến gặp khó 
khăn do cấu trúc gen lớn hoặc một số gia đình 
bệnh nhân không có điều kiện kinh tế, kỹ thuật 
phân tích gián tiếp có thể được áp dụng dựa 
vào xác định allele đột biến (Linkage analysis) 
Địa chỉ liên hệ: Đinh Thúy Linh, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: 
[email protected] 
Ngày nhận: 25/12/2017 
Ngày được chấp thuận: 18/3/2018 
 2 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
với giá thành rẻ hơn và thời gian nhanh chóng 
hơn [7] gTrong nghiên cứu này, tiến hành 
hoàn thiện kỹ thuật Microsatellite - DNA và áp 
dụng kỹ thuật này để chẩn đoán trước sinh 
thông qua việc khuếch đại các vùng trình tự 
lặp lại STR (short tandem repeat) và so sánh 
với kết quả phát hiện đột biến bằng kỹ thuật 
MLPA và giải trình tự gen [8 - 10]. Nghiên cứu 
được tiến hành với mục tiêu ứng dụng kỹ 
thuật Microsatellite DNA trong chẩn đoán 
trước sinh bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne cho 
các thai phụ được xác định là người mang 
gen bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
 - Nhóm chứng: gồm 5 người nam và 5 
người nữ bình thường, không có tiền sử gia 
đình mắc bệnh di truyền. 
- Nhóm nghiên cứu: 5 gia đình của 5 thai 
phụ mang thai từ 17 tuần – 22 tuần, có con 
trai hoặc anh, em trai mắc bệnh loạn dưỡng 
cơ Duchenne, 5 thai phụ này đã được phân 
tích gen và xác đinh là người mang gen 
dystrophin đột biến giống con trai hoặc anh, 
em trai mình. 
2. Phương pháp 
2.1. Chọc hút dịch ối 
Tiến hành vào tuần thứ 17 - 22 của thai kỳ 
dưới hướng dẫn của siêu âm, tại Bệnh viện 
Phụ sản Trung ương hoặc Bệnh viện Phụ sản 
Hà Nội. 
2.2. Xác định đột biến gen gây bệnh 
loạn dưỡng cơ Duchenne bằng kỹ thuật 
MLPA 
Nguyên lý của kỹ thuật là sử dụng 79 đoạn 
dò gen dystrophin. Mỗi DNA lai (probe) gồm 
hai chuỗi oligonucleotid lai đặc hiệu với 79 
exon. Kết quả điện di cho 79 đỉnh có kích 
thước tương ứng 79 probe đặc hiệu với 79 
exon: 
- Với đột biến xoá đoạn, exon bị xoá đoạn 
khi đỉnh exon không phát hiện được. 
- Với đột biến lặp đoạn, kết quả được tính 
toán dựa vào tỉ lệ RPA (Relative Peak Area) 
tương ứng với từng exon so với mẫu chứng 
của người bình thường, exon lặp đoạn khi mà 
tỉ lệ RPA lớn hơn 1,5. 
Quy trình kỹ thuật: cho 5 µl DNA cần phân 
tích vào 1 ống PCR, biến tính ở 98oC/5 phút. 
Nhiệt độ được chuyển về 2oC trước khi cho 3 
µl hỗn hợp chứa các đoạn oligonucleotid của 
các probe. Hỗn hợp được ủ ở 60oC/16 giờ, 2 
đoạn lai của 2 phân tử oligonucleotid sẽ gắn 
với exon đích đặc hiệu ở vị trí sát nhau. Thêm 
32 µl hỗn hợp ligase buffer, ủ ở 54oC/15 phút, 
enzym ligase nối 2 đoạn oligonucleotid của 
probe với nhau. Phản ứng nối chấm dứt khi 
tăng nhiệt độ lên 98oC/5 phút, hỗn hợp được 
giữ ở 4oC. Khuếch đại sản phẩm lai: Thêm 10 
µl sản phẩm lai vào 30 µl hỗn hợp PCR buffer, 
giữ ở 60oC, thêm 10 µl hỗn hợp PCR master, 
thực hiện chu trình nhiệt: [95oC/30 giây, 
60oC/30 giây, 72oC/1 phút] x 35 chu kỳ, 
72oC/20 phút. Sản phẩm khuếch đại probe 
được điện di mao quản huỳnh quang trên máy 
giải trình tự để phân tích kết quả. 
2.3. Kỹ thuật Microsatellite DNA 
Xác định các marker dị hợp tử và alen 
bệnh mà người mẹ có thể truyền cho con 
bằng kỹ thuật microsatellite DNA và xác định, 
kiểu gen và kiểu hình của thai nhi bằng kỹ 
thuật microsatellite DNA. Kỹ thuật microsatellite 
DNA sử dụng các cặp mồi có gắn huỳnh 
quang để khuếch đại các các vùng trình tự lặp 
 TCNCYH 112 (3) - 2018 3 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
lại này và phân tích kích thước của chúng 
thông qua điện di mao quản trên máy giải trình 
tự gen (automated DNA sequencer). Đối với 
gia đình loạn dưỡng cơ Duchenne cần khuếch 
đại 20 vùng trình tự lặp lại đặc hiệu để xác 
định ít nhất 2 - 3 marker dị hợp tử trên mẫu 
mẹ (informatic marker). Sử dụng các cặp mồi 
đã xác định marker dị hợp tử từ đó xác định 
kiểu gen và kiểu hình thai nhi. 
Thành phần của phản ứng: 1X đệm PCR; 
2,5mM dNTP; 0,2µl mồi xuôi và ngược; 
0,5unit Taq polymerase; 20ng DNA và H2O, 
tổng thể tích 20µl. Chu kỳ nhiệt phản ứng 
PCR: 94oC/5 phút; {94oC/30 giây, 59oC/60 
giây, 72oC/45 giây} x 40 chu kỳ; 72oC/5 phút. 
Sản phẩm khuếch đại PCR được điện di trên 
hệ thống sequencing - Beckman coulter. Kết 
quả được phân tích bằng phần mềm 
GeneMapper v3.2 software. 
2.4. Kỹ thuật nuôi cấy tế bào ối 
Nuôi cấy theo phương pháp hở tủ ấm 37°C 
với 5% CO2 và 95% không khí cùng nguồn 
ẩm. Thời gian trung bình nuôi cấy là từ 7 - 15 
ngày. 
Các tế bào ối thai nhi thu được với số 
lượng tương đối sau khi nuôi cấy được tách 
DNA theo phương pháp phenol - chloroform 
và phân tích gen. 
Tế bào ối cũng được sử dụng để nhuộm 
băng G và phân tích karyotype của thai. 
3. Đạo đức trong nghiên cứu 
Những gia đình có bệnh nhân được chẩn 
đoán mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne sẽ 
được đưa vào nghiên cứu khi đồng ý tự 
nguyện tham gia. Gia đình và bệnh nhân sẽ 
được tư vấn và giải thích cụ thể về ý nghĩa, 
mục đích, qui trình nghiên cứu, quyền được tự 
do rút khỏi nghiên cứu, quyền được đảm bảo 
bí mật cá nhân trong quá trình nghiên cứu và 
về kết quả nghiên cứu. Các thông tin về bệnh 
nhân, người nhà bệnh nhân và kết quả chẩn 
đoán hoàn toàn được giữ bí mật, đặc biệt đối 
với thông tin về giới tính của thai nhi. 
III. KẾT QUẢ 
1. Kết quả xác định đột biến gen 
dystrophin đối với bệnh nhân loạn dưỡng 
cơ Dunchenne 
Hình ảnh phân tích MLPA tại probe tương 
ứng với các exon 14 - 43 của mẫu ối cho thấy 
cường độ tín hiệu của đỉnh cao hơn nhiều so 
với mẫu người bình thường. Sau khi phân 
tích dựa trên RPA ta có tỉ lệ RPA tại các 
exon từ 14 đến 43 của bệnh nhân so với 
chứng lớn hơn 1,5 trong khi của các exon 
khác chỉ giao động xung quanh 1. Như vậy 
cho thấy bệnh nhân có đột biến lặp đoạn các 
exon từ 14 đến 43. 
2. Kết quả xác định marker dị hợp tử, 
alen bệnh người mẹ truyền cho con và kết 
quả chẩn đoán trước sinh bệnh loạn 
dưỡng cơ Duchenne cho thai nhi bằng kỹ 
thuật microsatellite DNA 
Loạn dưỡng cơ Duchenne là bệnh lý di 
truyền lặn liên kết nhiễm sắc thể X. Nếu người 
mẹ là người mang gen bệnh sẽ có khả năng 
truyền gen bệnh cho con trai với tỷ lệ 50%. 
Để xác định alen đột biến (allele bệnh -Xb), 
cần tiến hành kỹ thuật single PCR khuếch đại 
20 vùng STR đặc hiệu trên mẫu máu thai phụ 
và mẫu máu bệnh nhân loạn dưỡng cơ 
Duchenne (là em trai hoặc con trai của thai 
phụ), lựa chọn ít nhất 2 marker dị hợp tử: 
- Kết quả 2 mẫu có các đỉnh có kích thước 
tương đương nhau thể hiện alen đột biến (Xb). 
Kết quả 2 mẫu có các đỉnh không tương 
đương nhau thể hiện alen bình thường (XB). 
 4 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Hình 1. Hình ảnh MLPA (A) và kết quả tính toán (Relative Peak Area) bằng phần mềm 
coffalyser (B) của mẫu người bình thường và mẫu ối của thai bị bệnh 
Hình 2. Kỹ thuật Microsatellite trong chẩn đoán trước sinh bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne 
Hình 2 là hình ảnh kết quả kỹ thuật Microsatellite ở gia đình bệnh nhân loạn dưỡng cơ 
Duchenne 1. 2 marker dị hợp tử được tìm thấy là DSTR 44 và DSTR49. 
 TCNCYH 112 (3) - 2018 5 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Với marker DSTR 44, ở thai phụ xuất hiện 
2 đỉnh có kích thước 181bp và 185bp (hình B), 
tương ứng với 2 alen nằm trên 2 nhiễm sắc 
thể X (XBXb). Ở mẹ thai phụ chỉ xuất hiện 1 
đỉnh có kích thước 180bp cho thấy đây là alen 
đồng hợp tử. Ở em trai của thai phụ (là bệnh 
nhân loạn dưỡng cơ Duchenne) cũng chỉ có 1 
đỉnh kích thước 180bp tương ứng với 1 alen 
trên nhiễm sắc thể X (XbY), trùng khớp với 
kích thước 1 đỉnh ở mẫu mẹ thai phụ và thai 
phụ. Từ kết quả hình ảnh của mẹ thai phụ, 
thai phụ và em trai thai phụ cho thấy đỉnh kích 
thước 180bp là đỉnh alen bệnh. 
Với marker DDTR49, đỉnh mang kích 
thước 172bp là đỉnh trùng khớp ở mẹ thai 
phụ, thai phụ và em trai thai phụ (bệnh nhân 
loạn dưỡng cơ Duchenne), cho thấy đây cũng 
là đỉnh alen bệnh. 
Phân tích kết quả mẫu ối của thai nhi: 
Marker DSTR44 chỉ xuất hiện 1 đỉnh có kích 
thước 180bp là alen bệnh, marker DSTR49 
chỉ xuất hiện 1 đỉnh có kích thước 180bp là 
alen bệnh. Kết quả này có thể khẳng định đây 
là trường hợp thai nam bị bệnh loạn dưỡng 
cơ Duchenne. Kết quả nghiên cứu trên 5 gia 
đình loạn dưỡng cơ Duchenne: 
Bảng 1. Kết quả chẩn đoán trước sinh 
STT Mã số Dạng đột biến Kết quả chẩn đoán trước sinh 
1 DMD10 Xóa đoạn exon 46 - 50 Bình thường 
2 DMD11 Xóa đoạn exon 49 - 50 Bình thường 
3 DMD13 c.3022A > T (p.Cys1008Stop) Bình thường 
4 DMD15 Xóa đoạn exon 35 - 43 Bình thường 
5 DMD 18 Lặp đoạn 19 - 43 Bệnh lý 
Kết quả chẩn đoán trước sinh: 1/5 thai nhi được chẩn đoán là thai nhi bệnh lý, 4/5 thai nhi 
được chẩn đoán là bình thường. Kết quả này tương đồng với kết quả của kỹ thuật phân tích xác 
định đột biến trực tiếp. 
Trường hợp thai được chẩn đoán là mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne sau khi được tư vấn 
kết quả, bệnh nhân quyết định đình chỉ thai nghén. 4 trường hợp thai bình thường được tư vấn 
giữ thai. 
IV. BÀN LUẬN 
Loạn dưỡng cơ Duchenne là một bệnh có 
tỉ lệ mắc cao nhất trong các bệnh lý di truyền 
thần kinh cơ với bệnh cảnh lâm sàng nặng nề. 
Hiện nay có rất nhiều kỹ thuật sinh học phân 
tử được áp dụng để phát hiện các đột biến 
gen dystrophin. Trong phát hiện người lành 
mang gen bệnh, kỹ thuật MLPA ra đời vào 
năm 2002 đã bộc lộ những ưu điểm vượt trội 
so với kỹ thuật di truyền khác với độ chính xác 
cao khi chỉ cần dùng một cặp primer duy nhất 
(so với kỹ thuật Multiplex PCR đòi hỏi nhiều 
cặp primer, dễ thất bại khi điều kiện phản ứng 
bị thay đổi dù rất nhỏ); khả năng khảo sát cả 
 6 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
79 exon so với kỹ thuật Multiplex PCR chỉ 
khảo sát được 25 exon nằm trong hai vùng 
“hot spot” sẽ phát hiện cả những đột biến xóa 
đoạn nằm ngoài khả năng phát hiện của kỹ 
thuật PCR. 
Tuy nhiên các kỹ thuật như Multiplex PCR 
hay MLPA chỉ tập trung phát hiện các đột biến 
xóa đoạn, còn đột biến điểm chiếm tỉ lệ 25 -
30% lại nằm ngoài khả năng phát hiện của 
các kỹ thuật này. Chính vì vậy, trong chẩn 
đoán trước sinh, nếu người mẹ mang đột biến 
điểm gen dystrophin thì sẽ không thể phát 
hiện được thai nhi có nhận gen bệnh từ mẹ 
hay không khi sử dụng các kỹ thuật trên. Với 
kỹ thuật Microsatellite DNA, không những có 
khả năng phát hiện cả những trường hợp thai 
nhi mang nhiễm sắc thể có chứa gen dystrop-
hin có đột biến điểm từ mẹ mà còn đáp ứng 
được những yêu cầu của chẩn đoán trước 
sinh với thời gian trả lời kết quả nhanh và 
chính xác (chỉ sau 48 – 72h) so với kỹ thuật 
Southern blotting hay kỹ thuật giải trình tự gen 
phải mất đến hàng tuần. Các đoạn microsate-
llite DNA có tính đa hình cao và dễ dàng 
khuếch đại (nồng độ DNA chỉ cần khoảng 
7pg) được sử dụng sau đó để xác định alen 
bệnh có thể di truyền cho con. Đồng thời chi 
phí cho xét nghiệm thấp giúp giảm gánh nặng 
kinh tế cho bệnh nhân. 
Trong kỹ thuật Microsatellite DNA, mỗi 
bệnh nhân nên được lựa chọn ít nhất 2 - 3 
marker dị hợp tử (informatic marker) do trong 
một số trường hợp có thể xảy ra tình trạng 
khuếch đại thất bại. Với các trường hợp đó, 
việc phân tích kết quả của các marker dị hợp 
tử còn lại sẽ chẩn đoán xác định được thai nhi 
có hay không mắc loạn dưỡng cơ Duchenne. 
Từ các kết quả này cho thấy việc xây dựng 
quy trình chẩn đoán trước sinh cho các gia 
đình có đột biến gen gây bệnh loạn dưỡng cơ 
Duchenne là rất cần thiết, từ đó có thể phát 
hiện một cách chính xác trong thời gian nhanh 
nhất các trường hợp thai nhi mắc bệnh để có 
tư vấn cụ thể cho từng gia đình thai phụ. 
Hiện nay các bất thường di truyền, đặc biệt 
là các bất thường nhiễm sắc thể là một trong 
các nguyên nhân chính gây đa dị tật về hình 
thái của thai nhi. Trong các bất thường di 
truyền hiện nay thì hội chứng Down (3 nhiễm 
sắc thể 21), hội chứng Edwards (3 nhiễm sắc 
thể 18) hay hội chứng Patau (3 nhiễm sắc thể 
13) là các hội chứng hay gặp nhất. Vì vậy, khi 
chọc hút nước ối, cần lấy nước ối để chẩn 
đoán các bất thường nhiễm sắc thể ở thai nhi 
song song cùng với việc chẩn đoán bệnh loạn 
dưỡng cơ Duchenne ở thai nhi. 
V. KẾT LUẬN 
Kỹ thuật Microsatellite - DNA được ứng 
dụng thành công trong chẩn đoán trước sinh 
bệnh DMD: 1/5 thai nhi được chẩn đoán là 
thai nhi bệnh lý, thai phụ đã được tư vấn và 
quyết định đình chỉ thai nghén, 4/5 thai nhi 
được chẩn đoán là bình thường. 
Lời cám ơn 
Nhóm nghiên cứu xin trân trọng cảm ơn 
Trung tâm Nghiên cứu Gen-protein - Trường 
Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Phụ sản Trung 
ương, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã giúp đỡ 
nhóm trong quá trình nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bushby, K (2010). Diagnosis and 
management of Duchenne muscular 
dystrophy, part 2: implementation of 
multidisciplinary care. Lancet Neurol, 9(2), 177
- 189. 
 TCNCYH 112 (3) - 2018 7 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2. Kneppers, A. L., Ginjaar, I. B and 
Bakker, E (2004). Duchenne and Becker 
muscular dystrophy. Methods Mol Med, 92, 
311 - 341. 
3. Mendell R.J., Griggs C.R (1991). 
“Muscular dystrophin”, Harrison’s principles of 
internal medicine, 12th edition, 2112 - 2118. 
4. Hwa H.L., Chang Y.Y., Chen C.H et al 
(2007). Multiplex Ligation-dependent Probe 
Amplification identification of deletions and 
duplications of the Duchenne muscular dystro-
phy gene in Taiwanese subjects. J Formos 
Med Assoc, 106, 339 - 346. 
5. Lai K.K., Lo I.F., Tong T.M et al (2006). 
Detecting exon deletions and duplications of 
the DMD gene using Multiplex Ligation-
dependent Probe Amplification (MLPA). Clin 
Biochem, 39, 367 - 372. 
6. Prior TW, Bridgeman SJ (2005). Ex-
perience and Strategy for the Molecular Test-
ing of Duchenne Muscular Dystrophin. JMD, 7
(3), 317 - 325. 
7. Ta MH, Tran TH, Do NH et al (2013). 
Rapid method for targeted prenatal diagnosis 
of Duchenne muscular dystrophy in Vietnam. 
Taiwan J Obstet Gynecol, 52(4), 534 - 539. 
8. Matsuo M (2002). Duchenne and 
Becker muscular dystrophy: from molecular 
diagnosis to gene therapy. IUBMB Life, 53, 
147 - 152. 
9. Hussey N.D., Donggui H., Froiland 
D.A., Hussey D.J et al (1999). Analysis of five 
Duchenne muscular dystrophy exons and gen-
der determination using conventional duplex 
polymerase chain reaction on single cells. Mol 
Hum Reprod, 5(11), 1089 - 1094. 
10. NguyễnThị Băng Sương, Trần Vân 
Khánh, Nguyễn Thị Hà, Tạ Thành Văn. 
Chẩn đoán trước sinh bệnh loạn dưỡng cơ 
Duchenne. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 66(1), 
29 - 35. 
Summary 
APPLICATION OF MICROSATTELITE DNA FOR PRENATAL 
DIAGNOSIS OF DUCHENNE MUSCULAR DYSTROPHY 
Duchenne Muscular Dystrophy (DMD) is caused by the mutation of the dystrophin gene on the 
X chromosome. It is the most common genetical neuromuscular disease among muscular 
dystrophy diseases affecting 1/3500 of male children. Prenatal diagnosis on pregnant women 
carrying the gene will provide a chance to diagnose DMD among fetus. Applying Microsattelite DNA 
technique in DMD prenatal diagnosis. 05 pregnant gene-carrier women at 17 - 22 weeks of gestation 
were tested. DNA from the amniococco cells and peripheral blood of the patients and pregnant women 
were extracted and analyzed by Microsatellite-DNA technique and prenatal diagnosis technique 
through amplifying short tandem repeat sections; the results are then compared with those 
obtained from the direct mutation diagnosis technique. Since the direct mutation diagnosis analysis 
technique and the Microsatellite-DNA technique provided the same results, we are confident that 
Microsatellite-DNA technique for DMD prenatal diagnosis had been perfected. 1/5 fetus was 
diagnosed with the disease, and pregnancy was suspended. 4/5 fetus were diagnosed to be normal 
and the pregnancy was continued. Microsatellite DNA has proven to be a promising and effective 
technique in DMD prenatal screening in Vietnam. 
Keywords: Duchenne muscular dystrophy, prenatal diagnosis, Microsattelite DNA