Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 55
TÌNH TRẠNG RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI MỌC LỆCH, NGẦM 
Ở CÁC DẠNG HÌNH THÁI MẶT THEO CHIỀU TRƯỚC SAU 
Đinh Thị Thanh Thủy*, Nguyễn Thị Bích Lý** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức 
khỏe và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Quá trình mọc răng khôn hàm dưới là một quá trình phức tạp phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố. Từ lâu, sự phát triển không đầy đủ của khoảng hậu hàm đã được xem là một trong các 
nguyên nhân dẫn đến sự mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới. Kích thước của khoảng trống này có liên quan 
đến quá trình tăng trưởng của hệ thống sọ mặt theo chiều trước sau. 
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định và so sánh tỉ lệ cũng như hình thái mọc lệch, ngầm 
của răng khôn hàm dưới ở các dạng hình thái mặt theo chiều trước sau. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên mẫu thuận tiện gồm 90 phim sọ nghiêng và 
90 phim toàn cảnh của bệnh nhân đến khám và điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược thành phố Hồ 
Chí Minh. Các biến số gồm số đo góc ANB được xác định trên phim sọ nghiêng nhằm phân loại bệnh nhân thành 
ba nhóm hình thái mặt khác nhau theo phân tích Steiner: hạng I, hạng II và hạng III; tỉ lệ và hình thái mọc lệch, 
ngầm của răng khôn hàm dưới được nhận định trên phim toàn cảnh dựa trên phân loại của Pell – Gregory và 
Winter. 
Kết quả: tỉ lệ mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới thấp nhất ở nhóm hạng III (76,67%) và cao hơn ở 
nhóm hạng I và II (cùng bằng 83,30%), sự khác biệt giữa các nhóm là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Hình 
thái mọc thường gặp nhất ở cả 3 nhóm là vị trí II, A. Ở vị trí II, nhóm hạng III chiếm tỉ lệ thấp nhất và nhiều nhất 
là nhóm hạng I. Tại vị trí A, hạng III chiếm đa số và ít nhất là hạng II. Hướng mọc lệch gần là phổ biến nhất ở 
nhóm hạng I và II; trong khi đó, ở nhóm hạng III là hướng mọc thẳng đứng (p<0,05). 
Kết luận: Trong phạm vi giới hạn của nghiên cứu, có thể kết luận rằng, tỉ lệ mọc lệch, ngầm của răng khôn 
hàm dưới ở hình thái mặt hạng III thấp hơn nhóm hạng I và II, khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Vị trí 
mọc thường gặp nhất ở cả 3 dạng hình thái mặt là II, A. Hướng lệch gần là phổ biến nhất ở nhóm hạng I và II; 
riêng nhóm hạng III, hướng thẳng đứng gặp nhiều nhất. 
Từ khóa: răng khôn hàm dưới, sự mọc lệch ngầm, các dạng hình thái mặt theo chiều trước sau. 
ABSTRACT 
IMPACTED MANDIBULAR THIRD MOLAR 
IN DIFFERENT ANTERO-POSTERIOR SKELETAL PATTERNS 
Dinh Thi Thanh Thuy, Nguyen Thi Bich Ly 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 55 - 61 
Background: Impacted mandibular third molars cause many severe complications which affect health and 
lives. The process of eruption is complex and depends on many factors. The inadequate retro molar space was said 
to be the most important one. The retro molar space is relative to the development of skeletal face. 
Objectives: To evaluate the proportion and position of impacted mandibular third molars in different antero-
*Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. 
**Bộ môn Phẫu Thuật Miệng, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: BS. Đinh Thị Thanh Thủy ĐT: 0933648782 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 56
posterior skeletal patterns. 
Methods: A cross-sectional study was performed on 90 diagnostic digital orthopantomograms (DPTs) and 
90 lateral cephalograms (LCs) available in Faculty of Odonto – Stomatology. The subjects were divided into three 
groups according to their ANB angle. The status of impacted mandibular third molars was analysis on DPTs 
basing on classifications of Pell - Gregory & Winter. 
Results: Mandibular third molars were recorded as impacted in 76.7% of the Class III and 83.3% of the 
Class I, II (p>0.05). In all of the three skeletal facial types, the II, A was the most prevalent position of mandibular 
third molars.The mesioangular impaction was the most prevalent position of class I and II; meanwhile, vertical 
position is the most popular in class III (p<0.05). 
Conclusion: The rate of impacted mandibular third molar of Class III is lower than that in Class I and II, no 
significant difference in different types of face. II, A and mesioangular impaction was the most prevalent position 
of class I and II. Vertical position is the most popular in class III. 
Keywords: Impacted mandibular third molar, impaction, antero-posterior skeletal patterns. 
MỞ ĐẦU 
Răng khôn hàm dưới thường mọc ở độ tuổi 
từ 18 đến 25, là răng có tỉ lệ mọc lệch, ngầm cao 
nhất trong bộ răng vĩnh viễn, gây ra nhiều biến 
chứng nghiêm trọng. 
Quá trình mọc răng khôn hàm dưới là một 
quá trình phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, 
trong đó sự phát triển của hệ thống sọ mặt giữ 
vai trò rất quan trọng. Nhiều nghiên cứu đã 
chứng minh sự phát triển không đầy đủ của 
khoảng hậu hàm là yếu tố quan trọng dẫn đến 
sự mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới(4,11,16). 
Janson và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu 
chứng minh kích thước khoảng hậu hàm khác 
nhau ở các cá thể có tương quan xương hạng I và 
II(7). Nghiên cứu của Jakovljevic và cộng sự 
(2015) cũng cho kết luận tỉ lệ mọc lệch, ngầm của 
răng khôn hàm dưới khác biệt có ý nghĩa ở 
tương quan xương hạng II và hạng III. Hơn thế 
nữa, theo Richardson, vị trí mọc của răng khôn 
hàm dưới còn có liên quan đến sự khác biệt về 
tương quan hình thái mặt theo chiều trước 
sau(13). Tuy nhiên, các nghiên cứu của Shokri(15) 
hay Legovic(9) lại không đồng tình với quan điểm 
này. 
Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu có giá 
trị về đặc điểm hình thái răng khôn, hình thái 
cung răng, xương ổ răng, phức hợp sọ mặt và 
khuôn mặt người Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến 
nay chưa có nghiên cứu nào được thực hiện 
nhằm khảo sát mối tương quan giữa sự mọc 
lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới và hình thái 
mặt theo chiều trước sau. 
Mục đích của nghiên cứu này là xác định và 
so sánh tỉ lệ cũng như hình thái mọc lệch ngầm 
của răng khôn hàm dưới theo chiều đứng, chiều 
ngang và hướng lệch, ở các dạng hình thái mặt 
theo chiều trước sau. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Đối tượng 
Mẫu nghiên cứu gồm phim toàn cảnh và 
phim sọ nghiêng của các cá thể người Việt từ 18 
tuổi trở lên, chọn từ hồ sơ của các bệnh nhân đến 
khám và điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt - Đại 
học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh trong 
khoảng thời gian từ 01/2015 – 03/2017. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Các phim được chọn trong mẫu nghiên cứu 
phải thoả các yêu cầu sau đây: 
- Bệnh nhân được chụp phim từ 18 tuổi trở 
lên là người Việt Nam, dân tộc Kinh. 
- Có đầy đủ hồ sơ bệnh án. 
- Phim X- quang sọ nghiêng và phim toàn 
cảnh chụp cùng thời điểm, đúng tiêu chuẩn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 57
- Có đầy đủ các răng vĩnh viễn và răng 
khôn hàm dưới hình thành ít nhất hai phần ba 
chân răng. 
Tiêu chí loại trừ 
- Có tiền sử bệnh lý hay đã từng điều trị 
chỉnh nha, phẫu thuật tại vùng miệng và hàm 
mặt. 
- Có những bất thường phát triển cá thể, dị 
dạng răng mặt hay những bất đối xứng nghiêm 
trọng phát hiện được trên phim. 
Phương pháp nghiên cứu 
- Xác định tương quan hai hàm theo chiều 
trước sau dựa vào góc ANB trên phim sọ 
nghiêng theo phân tích Steiner. 
Nếu góc 0o ANB 4o: khuynh hướng 
xương hạng I. 
Nếu góc ANB > 4o: khuynh hướng xương 
hạng II. 
Nếu góc ANB < 0o: khuynh hướng xương 
hạng III. 
Ghi nhận kết quả và phân loại bệnh nhân 
vào 3 nhóm hạng I, II, III. 
Mẫu gồm 90 bệnh nhân chia đều ở 3 dạng 
hình thái mặt. 
- Xác định tình trạng lệch, ngầm của răng 
khôn hàm dưới dựa vào khảo sát trên phim 
toàn cảnh theo tiêu chuẩn của Pell – Gregory 
và Winter. 
Theo chiều ngang - tương quan với cành 
đứng xương hàm dưới: Loại I: răng hoàn toàn 
nằm trước cành đứng, loại II: răng nằm một 
phần trong cành đứng, loại III: răng nằm hoàn 
toàn trong cành đứng. 
Theo chiều đứng - độ sâu so với mặt nhai 
răng cối lớn thứ hai: A: điểm cao nhất của răng 
khôn nằm ngang hay cao hơn mặt nhai răng cối 
lớn thứ hai, B: điểm cao nhất của răng khôn nằm 
ở khoảng giữa mặt nhai và cổ răng cối lớn thứ 
hai, C: điểm cao nhất của răng khôn nằm thấp 
hơn cổ răng cối lớn thứ hai. 
Hướng lệch: xác định bởi độ nghiêng giữa 
răng khôn và răng cối lớn thứ 2 (Góc : Lệch xa: 
-79 < <-11, mọc thẳng: -10 < < 10, lệch gần: 11 
< < 79, nằm ngang: 80 < < 10. 
Tiêu chuẩn xác định răng khôn hàm dưới 
mọc lệch, ngầm. 
Răng có vị trí thuộc phân loại I, A, hướng 
mọc thẳng được xem là mọc bình thường. 
Các răng còn lại trong phân loại theo phân 
loại Pell – Gregory và Winter, có vị trí và hướng 
khác với răng mọc bình thường được xem là 
lệch, ngầm. 
Xử lý số liệu 
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0. 
- Dùng kiểm định Chi bình phương để thống 
kê phân tích cho 2 biến định tính, khác biệt được 
xem là có ý nghĩa khi p<0,05. 
KẾT QUẢ 
0,00%
20,00%
40,00%
60,00%
80,00%
100,00%
Hạng I Hạng II Hạng III
Răng khôn mọc bình 
thường 
Răng khôn lệch, ngầm
Biểu đồ 1. Sự khác biệt tỉ lệ răng khôn mọc lệch, ngầm giữa các dạng hình thái mặt. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 58
0,00%
10,00%
20,00%
30,00%
40,00%
50,00%
60,00%
70,00%
80,00%
Hạng I Hạng II Hạng III
Loại I 
Loại II 
Loại III
Biểu đồ 2. Phân bố vị trí răng khôn theo chiều ngang giữa các dạng hình thái mặt. 
Khảo sát tỉ lệ răng khôn hàm dưới lệch ngầm 
ở các dạng hình thái mặt theo chiều trước sau, 
kết quả cho thấy tỉ lệ này thấp nhất ở nhóm hạng 
III (76,67%) và bằng nhau ở nhóm hạng I và II 
(83,30%) (p>0,05). 
1Bảng 1. Tỉ lệ răng khôn mọc lệch, ngầm ở các dạng 
hình thái mặt 
Răng khôn mọc 
bình thường 
Răng khôn lệch, 
ngầm 
Tổng 
Hạng I 10 (16,70%) 50 (83,30%) 60 (100%) 
Hạng II 10 (16,70%) 50 (83,30%) 60 (100%) 
Hạng III 14 (23,33%) 46 (76,67%) 60 (100%) 
Tổng 34 (18,9%) 146 (81,1%) 180 (100%) 
p = 0,506 phép kiểm Chi bình phương 
Xét tương quan theo chiều ngang, kết quả 
cho thấy, ở cả 3 nhóm, răng khôn hàm dưới mọc 
phổ biến nhất ở vị trí II và ít nhất ở vị trí III. 
(p>0,05) (bảng 2). 
Xét tương quan theo chiều đứng, kết quả ở 
cả 3 nhóm, răng khôn hàm dưới mọc phổ biến 
nhất ở vị trí A và hiếm gặp nhất ở vị trí C. 
(p>0,05) (bảng 3). 
Bảng 2. Phân bố vị trí răng khôn theo chiều ngang 
giữa các dạng hình thái mặt 
 Loại I Loại II Loại III Tổng 
Hạng I 18 (30,00%) 40 (66,70%) 2 (3,3%) 60 
Hạng II 21 (35,00%) 39 (65,00%) 0 (0%) 60 
Hạng III 29 (48,30%) 31 (51,7%) 0 (0%) 60 
Tổng 68 (37,8%) 110 (61,1%) 2 (1,1%) 180 
p = 0,085 phép kiểm Chi bình phương 
Xét về hướng mọc, răng khôn hàm dưới chủ 
yếu có dạng lệch gần (41,7%), đó cũng là hướng 
mọc phổ biến nhất của nhóm hạng I và II. Tuy 
nhiên, ở nhóm hạng III, răng khôn hàm dưới có 
hướng mọc thẳng đứng chiếm đa số (43,33%) 
(p<0,05) (bảng 4). 
Bảng 3. Phân bố vị trí răng khôn theo chiều đứng 
giữa các dạng hình thái mặt 
 Loại A Loại B Loại C Tổng 
Hạng I 35 (58,33%) 20 (33,33%) 5 (8,33%) 60 
Hạng II 29 (48,33%) 20 (33,33%) 11(18,33%) 60 
Hạng III 39 (65,00%) 19 (31,70%) 2 (3,30%) 60 
Tổng 103 (57,20%) 59 (32,80%) 18(10,00%) 180 
p= 0,075 phép kiểm Chi bình phương 
2Bảng 4. Phân bố hướng lệch của răng khôn giữa các dạng hình thái mặt 
 Thẳng đứng Lệch gần Lệch xa Nằm ngang Tổng 
Hạng I 24 (40,00%) 27 (45,00%) 7 (11,67%) 2 (3,33%) 60 
Hạng II 15(25,00%) 31 (51,67%) 13(21,67%) 1 (1,67%) 60 
Hạng III 26 (43,33 %) 17 (28,33%) 11 (18,33%) 6 (10,00%) 60 
Tổng 65 (36,1%) 75 (41,7%) 31 (17,2%) 9 (5,0%) 180 
p= 0,032 phép kiểm Chi bình phương 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 59
0,00%
10,00%
20,00%
30,00%
40,00%
50,00%
60,00%
70,00%
Hạng I Hạng II Hạng III
Loại A 
Loại B 
Loại C 
Biểu đồ 3. Phân bố vị trí răng khôn theo chiều đứng giữa các dạng hình thái mặt 
Biểu đồ 4. Phân bố vị trí răng khôn theo hướng lệch giữa các dạng hình thái mặt 
BÀN LUẬN 
Quá trình mọc của răng khôn hàm dưới chịu 
tác động của nhiều yếu tố. Trong cuộc sống hiện 
đại, đa số các dân tộc có xu hướng mất cân đối 
kích thước giữa răng và xương hàm, vì thế răng 
vĩnh viễn mọc sau càng có nguy cơ bị lệch và 
ngầm do thiếu chỗ. 
Khảo sát tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, 
ngầm giữa các dạng hình thái mặt trong nghiên 
cứu này cho thấy tỉ lệ thấp nhất ở nhóm hạng III 
và cao hơn ở nhóm hạng I và II, tuy nhiên sự 
khác biệt này là không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05). Trong khi đó, kết quả được tìm thấy ở 
nghiên cứu của Jakovljevic (2015)(6) với tỉ lệ răng 
khôn mọc lệch ngầm thấp nhất ở nhóm xương 
hạng III và cao nhất ở nhóm xương hạng II, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Điều này có thể được giải thích bởi các yếu tố 
đã được xác định là có ảnh hưởng đến quá trình 
mọc răng khôn hàm dưới. Sự gia tăng khoảng 
hậu hàm cũng như tăng tỉ lệ khoảng hậu 
hàm/kích thước gần xa thân răng khôn hàm 
dưới là yếu tố quan trọng cho việc mọc đến vị trí 
chức năng của răng này(4,11,16). Nghiên cứu của 
Jakovljevic(6) đã cho thấy sự gia tăng có ý nghĩa 
khoảng trống hậu hàm ở nhóm xương hạng III 
so với nhóm xương hạng I và II. 
Kết quả được báo cáo từ các nghiên cứu về 
tỉ lệ răng khôn lệch, ngầm ở các dạng hình thái 
mặt theo chiều trước sau vẫn còn nhiều tranh 
cãi, nên vẫn chưa thể đi đến một kết luận về 
mối liên quan về tỉ lệ này giữa các nhóm có 
dạng hình thái mặt khác nhau. Hơn nữa, quá 
trình mọc lệch của răng khôn còn do tác động 
của nhiều yếu tố phối hợp trong quá trình 
phát triển sọ mặt nên chưa thể căn cứ vào yếu 
tố hình thái xương hàm để chẩn đoán chính 
xác quá trình này. 
Trong tương quan theo chiều ngang, chúng 
tôi nhận thấy vị trí lệch, ngầm phổ biến nhất của 
răng khôn hàm dưới ở cả ba dạng hình thái mặt 
là vị trí II (răng khôn ngầm một phần trong cành 
đứng). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả 
các nghiên cứu trước đây của tác giả 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 60
Obiechina(12). Xét theo từng vị trí, tại vị trí I, 
nhóm hạng III chiếm tỉ lệ nhiều nhất và ít nhất là 
nhóm hạng I. Tại vị trí II, chiếm đa số là nhóm 
hạng I và II. Điều này cho thấy, khoảng trống 
hậu hàm dành cho răng khôn mọc lên ở nhóm 
hạng III nhiều hơn ở hai nhóm còn lại. Tuy nhiên, 
khác biệt về vị trí mọc theo chiều ngang ở các 
nhóm hạng xương là không có ý nghĩa (p>0,05). 
Nếu xét tương quan theo chiều đứng, A là vị 
trí mọc phổ biến nhất của răng khôn hàm dưới. 
Cụ thể hơn, trong nhóm răng khôn đạt đến độ 
cao mặt nhai răng cối lớn thứ hai (vị trí A), hạng 
III chiếm đa số, thấp nhất là hạng II. Ngược lại, ở 
vị trí thấp hơn cổ răng cối lớn thứ hai (vị trí C), 
nhóm hạng II chiếm nhiều nhất, và ít nhất là 
nhóm hạng III, không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa ba dạng hình thái mặt (p>0,05). 
Điều này, lại một lần nữa cho thấy, khoảng trống 
cũng như chiều hướng mọc răng khôn ở nhóm 
hạng III thích hợp cho nó đạt được đến mặt 
phẳng nhai, hơn là các răng ở nhóm hạng I và II. 
Trong thời kì phôi thai, các nụ biểu bì của 
răng cối lớn vĩnh viễn đều lần lượt xuất hiện ở vị 
trí giữa mặt xa của mầm răng cối sữa thứ hai và 
cành lên xương hàm dưới. Khoảng cách này 
không phải bao giờ cũng đủ chỗ cho cả 3 răng 
cối lớn vĩnh viễn mọc lên. Trong quá trình tăng 
trưởng theo chiều trước sau của hệ thống sọ mặt, 
ở nhánh đứng xương hàm dưới có sự đắp thêm 
xương ở bờ sau và sự tiêu xương ở bờ trước(5) 
làm tăng chiều dài xương hàm dưới giúp tạo chỗ 
cho các răng cối lớn vĩnh viễn. Nhiều nghiên cứu 
cũng đã chứng minh tình trạng xương hàm dưới 
kém phát triển ở những trường hợp có răng 
khôn hàm dưới lệch, ngầm(9,10). Ở những bệnh 
nhân thuộc nhóm xương hạng III, thường có sự 
tăng trưởng quá mức của xương hàm dưới, làm 
tăng chiều dài xương. Kết quả nghiên cứu của 
Janson hay Jakovljevic A đều ủng hộ cho quan 
điểm này khi báo cáo rằng, chiều dài xương hàm 
dưới có liên quan đến tỉ lệ mọc lệch, ngầm của 
răng khôn hàm dưới. Giá trị lớn nhất của kích 
thước này được tìm thấy ở những bệnh nhân 
thuộc nhóm hạng III và giảm có ý nghĩa ở nhóm 
hạng II (p<0,001). Việc gia tăng kích thước xương 
hàm có lẽ đã tạo thêm khoảng trống thích hợp, 
giúp răng khôn hàm dưới ở nhóm hạng III mọc 
đến vị trí chức năng. 
Xét về hướng lệch của răng khôn hàm dưới, 
nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy rằng, trong 
tổng thể mẫu nghiên cứu, hướng lệch gần là phổ 
biến nhất, đây cũng là hướng lệch chiếm đa số 
trong nhóm hạng I và II. Tuy nhiên, đối với 
nhóm hạng III, hướng thẳng đứng lại được tìm 
thấy nhiều nhất. Sự khác biệt về hướng mọc ở 
các dạng hình thái mặt theo chiều trước sau là có 
ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trong các nghiên cứu 
gần đây trên thế giới, cũng cho thấy hướng lệch 
gần là thường gặp nhất ở các răng khôn hàm 
dưới(1). Để giải thích cho hiện tượng ngày, nhiều 
giả thuyết đã được đưa ra. Trong thời kỳ mầm 
răng khôn đang phát triển, xương hàm cũng 
đồng thời tăng trưởng bằng cách tiêu xương mặt 
trong và đắp xương mặt ngoài, kết quả xương 
hàm phát triển xuống dưới và ra trước. Sự tăng 
trưởng này tác động vào quá trình phát triển của 
mầm răng và sự mọc răng khôn, làm thân hay 
lệch phía gần còn chân lệch phía xa, nhất là răng 
khôn hàm dưới. Về phôi thai học cho thấy mầm 
răng cối lớn thứ nhất, thứ hai và răng khôn hàm 
dưới có chung thừng liên bào; răng cối lớn thứ 
nhất và thứ hai mọc trước kéo thân răng khôn 
nghiêng về phía răng cối lớn thứ hai, trong khi 
đó chân răng dễ nghiêng về phía góc hàm do tác 
động của cơ chế tăng trưởng của xương hàm(2). 
Xét riêng nhóm hạng III, hướng mọc phổ 
biến nhất là thẳng đứng. Điều này có thể giải 
thích nhờ khoảng trống hậu hàm và chiều dài 
xương hàm dưới. Việc gia tăng kích thước 
khoảng hậu hàm và kích thước xương hàm 
dưới ở những bệnh nhân thuộc nhóm hạng III 
đã được chứng minh trong các nghiên cứu của 
Jakovljevic(6) và Janson(7), có lẽ đã tạo thuận lợi 
cho răng khôn hàm dưới mọc theo hướng 
thẳng đứng. 
Tuy nhiên, sau 18 tuổi, răng khôn còn thay 
đổi vị trí trong xương hàm và có thể mọc lên đến 
vị trí chức năng. Nghiên cứu tiến cứu của Kruger 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 61
và cộng sự(8) cho kết quả 33,7% các khôn được 
cho là lệch, ngầm vào độ tuổi 18 đã mọc lên hoàn 
toàn khi bệnh nhân 26 tuổi. Một vài nghiên cứu 
khác cũng ủng hộ cho quan điểm này(3,14,17). Do 
đó, vị trí mọc của răng khôn hàm dưới của bệnh 
nhân được khảo sát trên phim toàn cảnh tại thời 
điểm chụp phim, có thể chưa phải là vị trí cuối 
cùng của nó trong xương hàm. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm 
dưới ở các dạng hình thái mặt theo chiều trước 
sau lần lượt là: hạng I: 83,30%, hạng II: 83,30%, 
hạng III 76,67%; thấp nhất ở nhóm hạng III và 
bằng nhau ở nhóm hạng I và II, sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê. 
Hình thái mọc phổ biến nhất của răng khôn 
hàm dưới ở cả ba dạng hình thái mặt là vị trí II, 
A; hiếm gặp nhất là vị trí III, C; khác biệt giữa các 
dạng hình thái mặt không có ý nghĩa thống kê. 
Răng khôn hàm dưới mọc lệch gần phổ biến 
nhất ở nhóm hạng I và II. Hướng thẳng đứng 
phổ biến nhất ở nhóm hạng III. Khác biệt về 
hướng mọc của răng khôn hàm dưới ở các dạng 
hình thái mặt có ý nghĩa thống kê. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carter K, Worthington S (2016). "Predictors of Third Molar 
Impaction: A Systematic Review and Meta-analysis", J Dent 
Res. 95(3), pp. 267-342. 
2. Đặng Thị Thắm (2013): Tỉ lệ mọc lệch, ngầm của răng khôn 
hàm dưới ở các dạng hình thái mặt. Khóa luận tốt nghiệp Bác 
sĩ Răng hàm mặt ĐHYD TPHCM. 
3. Hattab FN (1997). "Positional changes and eruption of 
impacted mandibular third molars in young adults. A 
radiographic 4-year follow-up study", Oral Surg Oral Med Oral 
Pathol Oral Radiol Endod. 84(6), pp. 604-611. 
4. Hattab FN, Alhaija ES (1999). "Radiographic evaluation of 
mandibular third molar eruption space", Oral Surg Oral Med 
Oral Pathol Oral Radiol Endod. 88(3), pp. 285-375. 
5. Hồ Thị Thùy Trang, Phan Thị Xuân Lan (2004). Phim sọ 
nghiêng dùng trong chỉnh hình răng mặt, Sách chỉnh hình 
răng mặt, Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh TPHCM, tr 84-96 
6. Jakovljevic A et al (2015). "Radiographic assessment of lower 
third molar eruption in different anteroposterior skeletal 
patterns and age-related groups", Angle Orthod. 85(4), pp. 577-
661. 
7. Janson G et al (2007). "Class II subdivision malocclusion types 
and evaluation of their asymmetries", Am J Orthod Dentofacial 
Orthop. 131(1), pp. 57-66. 
8. Kruger E, Thomson WM and Konthasinghe P (2001), "Third 
molar outcomes from age 18 to 26: findings from a population-
based New Zealand longitudinal study", Oral Surg Oral Med 
Oral Pathol Oral Radiol Endod. 92(2), pp. 150-154. 
9. Legovic M et al (2008). "Correlation between the pattern of 
facial growth and the position of the mandibular third molar", 
J Oral Maxillofac Surg. 66(6), pp. 1218-1241. 
10. Lindqvist B, Thilander B (1982), "Extraction of third molars in 
cases of anticipated crowding in the lower jaw", Am J Orthod. 
81(2), pp. 130-138. 
11. Mollaoglu N, Cetiner S, and Gungor K (2002). "Patterns of 
third molar impaction in a group of volunteers in Turkey", 
Clin Oral Investig. 6(2), pp. 109-122. 
12. Obiechina AE., Arotiba JT., Fasola AO (2001). "Third molar 
impaction: evaluation of the symptoms and pattern of 
impaction of mandibular third molar teeth in Nigerians", 
Odontostomatol Trop. 24(93), pp. 22-27. 
13. Richardson ME (1977). "The etiology and prediction of 
mandibular third molar impaction", Angle Orthod. 47(3), pp. 
165-236. 
14. Sandhu S, Kaur T. (2008). "Radiographic study of the 
positional changes and eruption of impacted third molars in 
young adults of an Asian Indian population", J Oral Maxillofac 
Surg. 66(8), pp. 1617-1640. 
15. Shokri A et al. (2014). "Position of impacted mandibular third 
molar in different skeletal facial types: First radiographic 
evaluation in a group of Iranian patients", Imaging Science in 
Dentistry. 44(1), pp. 61-125. 
16. Tsai HH (2005). "Factors associated with mandibular third 
molar eruption and impaction", J Clin Pediatr Dent. 30(2), pp. 
109-122. 
17. Venta I et al. (1991). "Assessing the eruption of lower third 
molars on the basis of radiographic features", Br J Oral 
Maxillofac Surg. 29(4), pp. 259-320. 
Ngày nhận bài báo: 06/02/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2018 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018