Tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch - Nguyễn Thị Tuyết

Tài liệu Tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch - Nguyễn Thị Tuyết: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0056 Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 31-37 This paper is available online at TIÊN HÓA CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG ĐẠO SĨ TRONG THƠ DU TIÊN LÍ BẠCH Nguyễn Thị Tuyết Khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hoá Tóm tắt. Bên cạnh khuynh hướng tiên hóa núi sông, tiên hóa cái Tôi và hình tượng đạo sĩ cũng là một vấn đề nổi bật trong thơ du tiên Lí Bạch. Đặt dấu ngang bằng giữa tôi và tiên, miêu tả đạo sĩ trường sinh bất tử, đạo thuật cao diệu và sức mạnh thần kì thể hiện sự phát triển của ý thức cá nhân, khí thế vươn lên của con người thời thịnh Đường. Truyền thống gia đình, môi trường sống ở quê hương, cá tính nhà thơ và bối cảnh thời đại là những nguyên nhân dẫn tới sự xuất hiện nổi bật của khuynh hướng này. Từ khóa: Thơ du tiên, tiên hóa, Lí Bạch. 1. Mở đầu Lí Bạch xưa nay vẫn được xem là tập đại thành của thơ ca lãng mạn thịnh Đường. Trong đề tài du tiên, ông cũng dựng riêng một cờ, để lại nhiều bài th...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch - Nguyễn Thị Tuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0056 Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 31-37 This paper is available online at TIÊN HÓA CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG ĐẠO SĨ TRONG THƠ DU TIÊN LÍ BẠCH Nguyễn Thị Tuyết Khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hoá Tóm tắt. Bên cạnh khuynh hướng tiên hóa núi sông, tiên hóa cái Tôi và hình tượng đạo sĩ cũng là một vấn đề nổi bật trong thơ du tiên Lí Bạch. Đặt dấu ngang bằng giữa tôi và tiên, miêu tả đạo sĩ trường sinh bất tử, đạo thuật cao diệu và sức mạnh thần kì thể hiện sự phát triển của ý thức cá nhân, khí thế vươn lên của con người thời thịnh Đường. Truyền thống gia đình, môi trường sống ở quê hương, cá tính nhà thơ và bối cảnh thời đại là những nguyên nhân dẫn tới sự xuất hiện nổi bật của khuynh hướng này. Từ khóa: Thơ du tiên, tiên hóa, Lí Bạch. 1. Mở đầu Lí Bạch xưa nay vẫn được xem là tập đại thành của thơ ca lãng mạn thịnh Đường. Trong đề tài du tiên, ông cũng dựng riêng một cờ, để lại nhiều bài thơ nổi tiếng. Tuy nhiên ở Việt Nam, hiện tại chưa có một công trình hay bài viết nào trực tiếp bàn về vấn đề tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch. Trong khi đó, ở Trung Quốc, vấn đề này đã bước đầu thu hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Tác giả Lưu Khiết cho rằng, trong đại bộ phận thơ du tiên của Lí Bạch, thi nhân chủ động liệt mình vào hàng ngũ của tiên nhân, qua lại thân thiết, giao du bình đẳng với tiên nhân, tự tiên hóa mình [4]. Lỗ Hoa Phong cũng khẳng định chính ý thức trích tiên đã dẫn tới khuynh hướng tiên hóa cái tôi mãnh liệt của Lí Bạch [5]. Nguyễn Đường Minh nghiên cứu về thi nhân khá sâu sắc khi chia các sáng tác của ông thành 3 giai đoạn [1]. Triển Vĩnh Phúc cho rằng trong một số bài thơ biểu hiện hình tượng đạo sĩ, Lí Bạch thường dồn sức miêu tả diện mạo thần tiên, ca ngợi sức mạnh thần kì và phẩm cách siêu nhiên của họ [6]. Như vậy, hầu hết các tác giả cũng chủ yếu tìm hiểu trong thơ Lí Bạch nói chung chứ không khoanh vùng mảng thơ du tiên nói riêng. Bài viết của chúng tôi vận dụng phương pháp phân tích, vừa tiếp thu thành quả nghiên cứu của những người đi trước vừa mở ra hướng nghiên cứu triệt để về vấn đề này trong thơ du tiên Lí Bạch. Đặc biệt, chúng tôi không chỉ nghiên cứu độc lập, tách bạch từng hình tượng mà còn có cái nhìn xâu chuỗi để thấy được việc Lí Bạch tiên hóa đạo sĩ thực chất là hệ quả của một chủ thể trữ tình - cái Tôi đã được tiên hóa. Ngày nhận bài: 15/10/2015 Ngày nhận đăng: 10/5/2016 Liên hệ: Nguyễn Thị Tuyết e-mail: tuyetdutien@gmail.com 31 Nguyễn Thị Tuyết 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tiên hóa cái tôi Truyền thống thơ cổ Trung Quốc thường vắng những đại từ nhân xưng ngô, ngã, dư. Lí Bạch không ngần ngại ra mặt xưng tôi hoặc xưng tên trực tiếp trong thơ mình, thể hiện một kiểu tư duy mới về ý thức chủ thể, về cái tôi cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật. Không chỉ thế, ông còn tiên hóa chính mình, xem mình là tiên, nâng một vẻ đẹp trần gian lên tầm vóc thần thoại, thể hiện một sự cựa quậy, một ý thức phá vỡ những khuôn mẫu có sẵn trong đời thực, trong tư duy và trong sáng tạo. Cái tôi tự “tiên hóa” ấy lại không phải là một sản phẩm rơi xuống từ trời. Trái lại, nó được nảy nở và tưới tắm từ gia đình, quê hương, bối cảnh thời đại và cá tính người thơ. Ngay từ lúc cất tiếng khóc chào đời, Lí Bạch đã được bao bọc trong một vầng hào quang bất tử. Một đêm mùa thu năm 701, khi người nhà báo tin cho Lí Khách (cha của Lí Bạch) rằng quý tử đã ra đời, ông ngửa mặt nhìn trời, bắt gặp ánh sáng tỏa rạng từ một ngôi sao ở phía Tây Bắc - sao Thái Bạch. Cũng từ giây phút ấy, cha ông đã không còn xem ông là người thường nữa. Họ cho rằng con mình là vì sao Thái Bạch chuyển thế, do đó từ khi ra đời Lí Bạch đã có “tiên tính” khác với người thường. Không chỉ được gia đình và quê hương tiếp sức, vào đời Lí Bạch còn được hít thở mạch sống phi thường của thời đại. Ông lớn lên giữa hồi cực thịnh của đế chế phong kiến. Hơn một trăm năm đầu nhà Đường, sức nước hùng mạnh, kinh tế dồi dào, chính trị sáng sủa. Xã hội thịnh Đường tràn ngập sự hưng phấn về khả năng vĩ đại của con người. Cũng từ đó mà ý thức về cái tôi bừng dậy hơn bao giờ hết. Và cái mầm lửa bẩm sinh trong con người Lí Bạch gặp ngọn gió thời đại đã nhanh chóng hấp thu ngay dưỡng chất cho mình để tạo nên sức trẻ cường tráng và bốc thành đám cháy: giải phóng chính mình khỏi những lề thói, chuẩn mực vốn trói buộc con người, xem mình là tiên, đặt dấu ngang bằng giữa mình với tiên. Thực ra, trong cuộc sống, ngay từ thời thịnh Đường, người ta đã có xu hướng tiên hóa Lí Bạch. Khi đến Giang Lăng gặp Tư Mã Thừa Trinh, Lí Bạch đã được vị đạo sĩ nổi danh này ca ngợi là người có tiên phong đạo cốt, có thể thần du bát cực. Lời khen của Tư Mã Thừa Trinh không nghi ngờ gì nữa, có tác dụng không thể xem nhẹ đối với sự hình thành ý thức tiên hóa cái tôi của Lí Bạch. Từ đó về sau, Lí Bạch càng quyết tâm học đạo cầu tiên. Và cuối cùng vì nổi danh ngũ nhạc tầm tiên mà được vời vào cung đình. Hạ Tri Chương vừa gặp ông đã khen là một vị trích tiên từ trên trời rơi xuống. Cách gọi này khẳng định phẩm chất thần tiên của Lí Bạch, khiến ý thức tiên hóa cái tôi vốn đã manh nha càng thêm được mài sắc và trở thành hành vi tự giác trong ông. Trong thơ, có lần ông từng tự ví mình là tiên nhân: “Thanh Liên cư sĩ trích tiên nhân. Tửu tứ tàng danh tam thập xuân” (Thanh Liên cư sĩ tiên giáng trần. Ẩn danh quán rượu ba mươi xuân - Đáp Hồ Châu Gia Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân). Ngoài việc tự xưng là trích tiên. Lí Bạch còn thường xem mình như Nghiêm Tử Lăng - một khách tinh chuyển thế (Trù thôi thị ngự) và Đông Phương Sóc - một tuế tinh chuyển thế (Lưu biệt Tây Hà lưu thiếu phủ). Đặc biệt khi làm thơ du tiên, ông như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng, hân hoan tột đỉnh, thoải mái bộc lộ cái tôi nghệ sĩ đầy bản lĩnh và giàu cá tính của mình. Thơ du tiên Lí Bạch là sự thăng hoa của những khát vọng trần tục, mà khát vọng lớn nhất là được trường sinh, để tiếp tục hưởng đời. Đời người hữu hạn. Lí Bạch thấu rõ hơn bao giờ hết cái mong manh, cái phù du đến tàn nhẫn của nhân sinh. Ông tin tưởng nơi cõi tiên mình có thể trút được cái ngoại xác, hòa đồng cùng vạn vật để trở thành con người của ngàn năm: “An đắc sinh vũ mao. Thiên xuân ngọa Bồng khuyết” (Sao có thể sinh lông cánh. Nghìn năm nơi Bồng Lai - Thiên Thai hiểu vọng), sẽ giữ được cái “chu nhan” muôn đời không tàn tạ: “Tiếu ngã vãn học tiên. Sa đà điêu chu nhan” (Tiên (Thái Bạch) cười ta chậm học tiên. Sa đà (nơi trần giới) làm dung nhan tàn tạ - Du Thái Sơn lục thủ, bài 3). Cất công đi tìm một phương thức giải 32 Tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch thoát, lối đi vào bất tử đã hé mở trước mắt ông: thi sĩ du tiên. Các thi nhân khi tưởng tượng du tiên, thông thường đều ý thức một cách tỉnh táo mình là phàm phu tục tử. Khi miêu tả thế giới thần tiên, bản thân họ chỉ là kẻ bàng quan, đứng ngoài thế giới ấy biểu hiện sự ngưỡng mộ của mình đối với tiên cảnh, tiên nhân. Điểm độc đáo của Lí Bạch là ở chỗ cả cuộc đời ông đều cho mình là tiên nhân lạc xuống trần gian. Thơ du tiên của ông chính là được xây dựng trên ý thức trích tiên đó. Và chính ý thức trích tiên mang đến cho thơ du tiên Lí Bạch một diện mạo khác thường. Ông tưởng tượng quê hương của mình thăm thẳm đâu đó giữa ngàn vạn trăng sao. Ông du ngoạn Bồng Lai như trở về quê cũ, hoặc cưỡi hươu trắng, hoặc cưỡi rồng, hoặc thắng xe mây, hoặc bay theo gió lớn, trong hình hài, dáng vóc của một tiên ông siêu trần tuyệt tục. Không như hình ảnh tiên nhân trong thơ của các thi sĩ khác, có thể nghe mà không thể thấy hoặc có thể thấy mà không thể thân, trong thơ Lí Bạch, người tiên trở thành bạn tâm giao, có thể cùng nhau đối thoại, vì Lí Bạch mà mở cửa nhà trời: “Thái Bạch dữ ngã ngữ. Vị ngã khai thiên quan” (Sao Thái Bạch nói với ta. Sẽ vì ta mà mở cổng nhà trời - Đăng Thái Bạch phong). Trong Cổ phong bài 21, khi Lí Bạch muốn leo lên ngọn núi Hoa Bất Trụ, tiên nhân Xích Tùng rất thân thiết, hết lòng đem hươu trắng cho ông mượn và nhiệt tình mời ông đồng du. Trong bài Hoài tiên ca, khi thi nhân tưởng tượng mình cưỡi con hạc vàng bay qua biển lớn, những tiên nhân ở bờ bên kia hát mừng đón ông: “Tiên nhân hạo ca vọng ngã lai. Ứng phan ngọc thụ trường tương đãi” (Tiên nhân hát vang mong đợi tôi đến. Mong mòn con mắt, họ đứng dựa vào cây tiên). Hay khi trèo lên đỉnh núi Liên Hoa, từ xa đã thấy Minh Tinh, Ngọc Nữ tay cầm đóa sen xinh hân hoan, niềm nở mời ông lên đỉnh Vân Đài gặp tiên nhân Vệ Thúc Khanh, cùng nhau cưỡi nhạn thăng thiên (Cổ phong, bài 19). Quan hệ giữa người và tiên đã hoàn toàn tự nhiên, hòa hợp. Và quá trình tự ý thức về giá trị của cái Tôi hóa ra lại gắn với quá trình sụp đổ của các giáo lí, sự phai nhạt của hào quang, của tiên nhân, thánh thần. Trong những vần thơ du tiên tràn đầy ý thức tiên hóa cái Tôi của Lí Bạch, chúng ta thấy ông không bao giờ ở thế bị động hay xấu hổ, cầu xin tiên nhân mà ngược lại, luôn thể hiện đặc điểm mình là tiên nhân, tự do rong ruổi. Buổi sáng uống nước ở ao của Tây Vương Mẫu, buổi tối ngủ ở cửa nhà trời, tai nghe tiếng đàn hát du dương của tiên nữ (Du Thái Sơn lục thủ, bài 6).Với ông, tự do là cái mệnh giá bao trùm của một kiếp tồn sinh. Trích tiên nhân Lí Bạch còn có những hành động phi thường: “Thiên môn nhất trường khiếu. Vạn lí thanh phong lai” (Cổng trời kêu một tiếng. Gió mát vạn dặm đến, bài 1), “Cử thủ lộng thanh thiển. Ngô phán Chức Nữ cơ” (Giơ tay ôm Ngân Hà. Lỡ nắm lấy khung dệt của Chức Nữ, bài 6). Ý thức trích tiên mạnh mẽ khiến trong cuộc sống hiện thực cơ hồ như tất cả sự vật đều có thể khiến Lí Bạch tự giác liên tưởng tới tiên cảnh, cũng khiến ông khi xử lí đề tài vốn không liên quan gì tới tiên đã lựa chọn thủ pháp hóa thực thành hư, lấy hư viết thực. Khi mặc cái áo màu ngũ sắc đẹp đẽ, ông liền tưởng tượng lúc mình trở về trời, tiên nhân sẽ quây quần, biểu thị sự mến mộ, kinh ngạc. Có người gửi thư cho ông, ông nghĩ có lẽ là Tây Vương Mẫu phái chim xanh gửi tới. Lí Bạch thậm chí còn muốn gửi cho tiên nữ một bức thư, thể hiện nỗi khổ tương tư: “Tây lai thanh điểu phi đông khứ. Nguyện kí nhất thủ tạ Ma Cô” (Chim xanh của Tây Vương Mẫu từ phía Tây bay đến. Muốn gửi cho tiên nữ Ma Cô một bức thư - Cổ hữu sở tư). Nếu không có niềm kiêu hãnh, tự ý thức về cái tôi vĩ đại của mình, sao Lí Bạch có thể đặt dấu ngang bằng giữa mình và tiên, xem mình là tiên như thế. Bước đột phá lớn nhất, thể hiện ý thức tiên hóa cái tôi trong thơ du tiên Lí Bạch là ông luôn đồng hóa mình và tự nhiên, thể hiện sự ảnh hưởng quan niệm “tề vật” của Đạo gia. Và chính ở đây giấc mơ tự do của Lí Bạch được khúc xạ thành giọng điệu phiêu dật, an nhiên, tự tại: “Ngã hữu vạn cổ trạch. Tung dương Ngọc Nữ phong. Trường lưu nhất phiến nguyệt. Quải tại đông khê tùng” (Ta có ngôi nhà muôn đời. Ở ngọn núi Ngọc Nữ, núi Tung Dương. Một vầng trăng lưu mãi đó. Treo tại ngọn thông khe phía đông - Tống Dương sơn nhân quy Tung sơn). Tiên Lí Bạch vào với núi vắng, 33 Nguyễn Thị Tuyết núi vắng trở thành tiên cảnh. Thi nhân tưởng tượng ngôi nhà của mình ở trên ngọn núi Tung. Một ngôi nhà bình thường (trạch), không có gì mới mẻ, nhưng phía trước thêm chữ vạn cổ thì sự vật bỗng được tiên hóa thành ngôi nhà muôn thuở. Ngọc Nữ là tiên nữ trên trời, dùng tên ngọn Ngọc Nữ là để đối ứng với “vạn cổ trạch” ở câu trên. Cách gọi ngầm chỉ nơi tiên ở. Một vầng trăng vốn xuất nhập theo chu kì tự nhiên, được treo trên ngọn tùng, cảnh vật đẹp mê người nhưng chưa thần kì, giàu thi vị. Phía trước tác giả thêm hai chữ trường lưu, thành vầng trăng treo vĩnh viễn ở ngọn tùng, tạo cảm quan thời gian ngừng trôi, gửi gắm tâm tình cao khiết của người ẩn dật. Tiên theo quan niệm của Đạo giáo “là một con người lánh mình vào nơi hoang vắng, ở Trung Quốc là nơi núi sâu, trong đó người ta hi vọng nhận thức được bí mật của tự nhiên và mong tìm ra bí quyết để trường sinh bất tử [2;84]. Xét từ khía cạnh quan hệ với tự nhiên, Lí Bạch cũng là một vị tiên thực sự. Trong bài Sơn trung vấn đáp, sự hòa nhập bản thể vào tự nhiên càng được thể hiện rõ: Phiên âm Dịch nghĩa Sơn trung vấn đáp Hỏi đáp ở trong núi [3] Vấn dư hà sự thê bích san, Người hỏi ta sao lại ở trong núi, Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn. Ta chỉ cười không đáp, cõi lòng thảnh thơi. Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ, Hoa đào theo nước chảy trôi đi xa hun hút, Biệt hữu thiên địa phi nhân gian. Riêng chiếm một khoảng trời đất ở ngoài cõi nhân gian. Bài thơ dùng hình thức nêu câu hỏi, khêu gợi sự chú ý của người đọc. Khi mọi người muốn nghe câu trả lời, thi nhân lại cố ý “tiếu nhi bất đáp”, tạo nên sự hồi hộp, kích thích hứng thú theo dõi, tìm tòi. Ba chữ tâm tự nhàn vừa khắc họa tâm cảnh trong núi, vừa thể hiện rõ vấn đề hà sự thê bích san. Hai câu cuối tả cảnh trong núi thực chất cũng là trả lời cho câu hỏi trong câu đầu. Kiểu kết cấu không đáp mà lại đáp, tưởng đứt mà lại nối này đã làm sâu sắc thêm ý vị của bài thơ. Ông dừng lại ở núi xanh vì lòng ông nhàn hay núi xanh làm ông tự nhiên nhàn. Tác giả mượn hình ảnh thần tiên (cảnh đào nguyên) để thấy mình thoát tục, chẳng cần thần tiên mà tự mình cũng phơi phới, phiêu dật, “trần mà như thế kém gì tiên”? Như vậy, tìm đến thế giới thần tiên, Lí Bạch dường như đã tìm thấy lối thoát cho những năng lượng tích tụ, những xúc cảm dồn nén, những ước vọng không thành. Cái Tôi thi sĩ được rũ tuột những quy ước, những quan niệm xã hội để được là mình. Ý thức cá nhân tạm thời được ve vuốt, thể hiện khao khát khẳng định mình, muốn vượt qua mọi ngáng trở để đi tới một hạnh phúc cá nhân, trần thế, có thực và hết sức chính đáng. 2.2. Tiên hóa hình tượng đạo sĩ Không chỉ tiên hóa chính mình, Lí Bạch còn trực tiếp tiên hóa những người ông tiếp xúc hàng ngày. Những lần tống biệt hay tặng đáp ông đều biết cách làm mới những đối tượng và hành vi tưởng đã cũ bằng cái nhìn lí tưởng hóa và bút pháp khoa trương của chủ nghĩa lãng mạn. Thực ra khi chủ thể trữ tình đã được tiên hóa, thì theo quy luật, bất cứ một hình sắc nào khi đi vào trong thơ cũng mang hồn vía, khí huyết của cái tôi kia. Lí Bạch tả núi, tất nó phải là nơi có dấu tiên, núi xanh thành tiên cảnh, tả mĩ nữ thì hóa thành những nàng tiên lộng lẫy thoát trần, tả đạo sĩ thì đó phải là những người có sức mạnh và phẩm chất của thần tiên. Những hình ảnh đời thường, dung dị qua ngòi bút Lí Bạch đều trở nên to lớn, kì vĩ, là một cách để ông đối lập với thói thường, chống hòa đồng nhằm khẳng định giá trị cá nhân theo khuynh hướng lãng mạn. Song, một cá tính sáng tạo dù độc đáo đến đâu cũng không thể thoát khỏi những ràng buộc của thời đại, của môi trường văn hóa, thẩm mĩ. Việc Lí Bạch tiên hóa hình tượng đạo sĩ, ngoài nguyên nhân nội tại từ chính cái Tôi thi nhân được tiên hóa còn có nguyên nhân từ sự phát triển 34 Tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch khuynh hướng thế tục hóa tư tưởng thần tiên đời Đường. Thực ra, ngay từ thời Đông Tấn, Cát Hồng trong Bão phác tử. Nội thiên đã đặc biệt nhấn mạnh vị trí của địa tiên. Địa tiên trong quan niệm của ông là một bộ phận thần tiên từ tiên giới hạ xuống trần gian, phương thức sống của họ không khác với người phàm, nhưng họ có thể tự do qua lại giữa trần gian và thiên giới. Thừa nhận sự tồn tại của địa tiên tức là giới hạn giữa tiên và người thêm một bước bị phá vỡ. Đến đời Đường, quan niệm về thần tiên càng thêm thế tục hóa. Đạo giáo lúc này được xem là quốc giáo. Dưới sự khích lệ của hoàng đế, nhân sĩ đồng khởi du tiên, có luyện đan phục thực, mong cầu trường sinh bất lão. Nhập đạo du tiên trở thành thời thượng, thần tiên trở thành mẫu hình nhân cách và phương thức sống lí tưởng của nhân sĩ thời bấy giờ. Giới nhân sĩ vừa kiến công lập nghiệp, vừa học đạo du tiên, khi đắc ý thì có thể coi là thanh cao thoát tục, khi thất ý trên con đường làm quan thì lại lên thẳng mây xanh mà ngạo tục. Thần tiên có thể học, thần tiên chính là người. Giới hạn giữa thần tiên và người cơ bản được xóa bỏ. Trong thời đại Lí Bạch sống, quan niệm về thần tiên càng có đặc điểm nhân gian hóa, thế tục hóa. Thịnh Đường sức nước hùng mạnh. Đối với Đạo giáo mọi người không phải là cuồng tín, tuy họ hứng thú với tư tưởng thần tiên nhưng cái mà họ chú trọng là nhân sinh hiện thực, cái mà họ truy cầu là công danh phú quý hiện thế. Cho dù là ẩn dật, tu đạo cũng mang tinh thần thời đại thịnh Đường. Động cơ và mục đích ẩn dật lúc này đã khác so với trước, nó không còn thể hiện sự trốn đời và bất mãn đối với hiện thực mà là một phương thức để tiến thủ. Ẩn dật thời thịnh Đường là con đường ngắn nhất để đạt được sự thăng hoa chốn quan trường. Giai cấp thống trị thịnh Đường cất nhắc cả những dật nhân, đạo sĩ, khuyến khích sự lưu hành phong khí xã hội ẩn dật cầu danh. Ẩn dật đã ngang với tòng quân tác chiến, tuy hình thức khác nhau nhưng tính chất đều là truy cầu công danh, tích cực tiến thủ và thể hiện ý thức chủ thể của con người thịnh Đường. Trước tình hình đó, quán đạo và số lượng đạo sĩ tăng nhiều. Thi nhân thời Đường hoặc nhiều hoặc ít đều từng có một giai đoạn qua lại với cao nhân dật sĩ trong núi, hoặc nhiều hoặc ít từng viết những bài thơ du tiên phỏng đạo. Ra vào đạo quán, kết giao với đạo sĩ, nữ quan, đọc sách đạo, bàn về đạo, luyện đan phục dược rồi nhập đạo trở thành phong trào của văn nhân sĩ đại phu thời bấy giờ. Lí Bạch cũng nằm trong “mẫu số chung” đó. Còn cái “tử số riêng” thể hiện ở chính cách nhìn của ông về hình tượng đạo sĩ, những con người luôn muốn sống hết mình với những khát khao vô hạn trong cái hữu hạn kiếp người. Dưới cái nhìn “tiên hóa” của Lí Bạch, đạo sĩ trước hết là những người có diện mạo thần tiên, mãi mãi thanh xuân, trường sinh vĩnh viễn. Trong Cảm ngộ bài 1 ông viết: “Ngô ái Vương Tử Tấn. Đắc đạo Y Lạc tân. Kim cốt bất khước hủy. Ngọc nhan trường tự xuân. (Tạm dịch: Ta yêu Vương Tử Tấn. Đắc đạo ở bến Y Lạc. Xương cốt như vàng không hủy hoại. Nhan sắc như ngọc luôn giữ vẻ xuân). Vương Tử Tấn là thái tử của Chu Linh Vương, tương truyền đã tu luyện đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc thổi sáo ngao du ở vùng sông Y Lạc. Thông qua một nhân vật trong truyền thuyết, Lí Bạch thể hiện lòng ngưỡng mộ và gửi gắm khao khát trường sinh bất tử. Chẳng phải trong thơ mình, không ít lần Lí Bạch muốn luyện đan sa đó sao: “Ngô tương doanh đan sa” (Ta muốn kiếm đan sa - Cổ phong bài 5), “An đắc bất tử dược. Cao phi hướng Bồng Doanh” (Sao có được thuốc bất tử. Bay thẳng lên Bồng Lai, Doanh Châu - Du Thái Sơn lục thủ, bài 4). Không chỉ có diện mạo thần tiên và trường sinh bất tử, đạo sĩ còn là những người có đạo thuật cao diệu, sức mạnh thần kì. Lí Bạch đã từng đi thăm nơi ở của Tiêu Luyện Sư. Bài thơ Tặng Tùng sơn Tiêu Luyện Sư được sáng tác dựa trên những gì nhà thơ nhìn thấy khi leo núi. Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa người đọc vào cảnh giới thần bí của núi Tùng, tiếp theo miêu tả hình ảnh Tiêu Luyện Sư có pháp lực vô biên, đến Đông Hải, lên đảo Bồng Lai, tự nhiên khoáng đạt, thần kì phi phàm. Đến bài Ngọc Chân tiên nhân từ, hình ảnh nữ quan đã được mĩ hóa thành một vị tiên đích thực: “Ngọc Chân chi tiên nhân. Thời vãng Thái Hoa phong. Thanh thần minh thiên cổ. Tiêu soát 35 Nguyễn Thị Tuyết đăng song long. Lộng điện bất chuyết thủ. Hành vân bản vô tung. Kỉ thời nhập thiếu thất. Vương Mẫu ứng tương phùng” (Ngọc Chân công chúa là tiên nhân. Thường lên núi Thái Hoa tu đạo. Sáng sớm luyện thuật “minh thiên cổ”. Lên cao như cưỡi rồng. Không ngừng dồn nguyên khí, như điện như cầu vồng. Đi lại phiêu hốt như mây. Khi nào đến núi Tung. Có thể gặp được Tây Vương Mẫu). Bài thơ dùng một loạt động từ: vãng (qua lại), đăng (lên cao), lộng (làm), hành (đi), phùng (gặp), thể hiện hành tung phiêu hốt, tư thế đạp gió cưỡi mây, hành vi phi thường của Ngọc Chân Công chúa. Lí Bạch làm bài thơ này để yết kiến Ngọc Chân công chúa. Tác giả không chỉ xem công chúa có bản lĩnh tiên gia mà còn được sánh cùng Tây Vương Mẫu, khiến một tác phẩm tặng đáp bình thường trở nên giàu màu sắc lãng mạn. Đây là cách thức mở rộng của Lí Bạch đối với đề tài du tiên truyền thống. Trong số những đạo sĩ mà Lí Bạch hay qua lại, Nguyên Đơn Cân là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong thơ ông. Nguyên Đơn Cân ẩn ở núi Vân Đài, làm bạn với thần tiên, sau khi công thành cưỡi rồng bay lên, hưởng cuộc sống tự do đầy đủ. Đây là vị thần tiên ở nhân gian, không chỉ là điển hình về một vị cao đạo trong cách nhìn của Lí Bạch mà còn là tấm gương về địa tiên mà người đời Đường theo đuổi. Nhìn từ đề mục có thể thấy bài Tây Nhạc Vân Đài ca tống Đơn Cân tử chia làm hai phần: phần một tả núi Hoa, phần hai tả tống biệt Nguyên Đơn Cân. Cảnh thực mà như hư qua bút pháp khoa trương phóng đại: “Tam phong khước lập như dục thôi. Thúy ngạn đan cốc cao chưởng khai. Bạch Đế Kim Tinh vận nguyên khí. Thạch tác Liên Hoa vân tác Đài” (Ba đỉnh núi đứng sừng sững như muốn đứt gãy. Vách đá xanh biếc như bàn tay tiên dựng cao. Bạch Đế Kim Tinh điều hành nguyên khí của đất trời. Đá tạo nên đỉnh Liên Hoa, mây tạo nên đỉnh Vân Đài). Cái hùng vĩ của ba đỉnh Liên Hoa, Vân Đài, Lạc Nhạn gợi cảm giác tiên – tục tương giao, làm nền cho sự xuất hiện của một con người bất tử: đạo sĩ - tiên nhân Nguyên Đơn Cân. Nơi ông ở là danh sơn u cảnh hùng kì tráng lệ. Minh Tinh Ngọc Nữ vì ông mà quét tước, thần nữ Ma Cô vì ông mà gãi lưng. Ông vừa có thể nói chuyện với trời, vừa hít gió uống sương, tự do khoáng đạt. Cảnh ấy, tình ấy khiến thi nhân cũng thấy say đắm, hi vọng Nguyên Đơn Cân sau khi đi về phía đông còn có thể quay trở lại mang tiên dược tặng mình, cùng vị đạo sĩ này cưỡi rồng bay lên trời trường sinh bất tử. Trong bài Nguyên Đơn Cân ca tác giả tiếp tục khắc họa cuộc sống tự do tự tại của vị đạo sĩ - tiên nhân này, dường như cũng bằng bút lực của thần tiên chứ không phải của một thi sĩ phàm trần nữa: Phiên âm Dịch nghĩa Nguyên Đơn Cân, ái thần tiên Nguyên Đơn Cân thích thuật thần tiên Triều ẩm Dĩnh xuyên chi thanh lưu Sáng sớm uống nước trong ở sông Dĩnh Mộ hoàn Tung sầm chi tử yên Buổi tối dạo chơi trên núi Tung khói tím cuồn cuộn Tam thập lục phong thường chu toàn Ba mươi sáu ngọn của núi Tung nơi nào cũng có dấu tích của ông Trường chu toàn, nhiếp tinh hồng Chân bước trên sao băng, cầu vồng, như cưỡi rồng bay, chỉ nghe tiếng gió bên tai Thân kị phi long nhĩ sinh phong Có thể vượt qua sông, bay ra biển lớn, tự do ngao du trên trời Hoành hà khóa hải dữ thiên thông Tôi biết anh tâm du vô cùng. Ngã tri nhi du tâm vô cùng. Không chỉ tự do, Nguyên Đơn Cân còn có đạo thuật cao diệu, có thể nhiếp tinh hồng, thân kị phi long, vượt qua mọi giới hạn không gian để siêu việt sự tồn tại của mình. Tóm lại, tiên hóa đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch đã phần nào biểu hiện được hình ảnh con người thời đại thịnh Đường: hăm hở vươn lên, tự tin, hưng phấn. Từ trung Đường về sau, xã hội 36 Tiên hóa cái tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí Bạch suy yếu rệu rã không còn mang lại sức tưởng tượng như “thiên mã hành không” cho các thi nhân làm thơ du tiên. Vì vậy họ đành phải hạ cánh nơi phố phường, ngõ ngách. Thi nhân không còn đủ sức bay lên trời du ngoạn cùng thần tiên, đành để thần tiên xuống chơi thế tục, khuynh hướng phàm hóa tiên nhân thay thế cho khuynh hướng tiên hóa con người. Thơ du tiên từ chỗ cao bước xuất thế đã lạc xuống nhân gian, thể hiện dục vọng bảo mệnh phàm tục. 3. Kết luận Tiên hóa cái Tôi và hình tượng đạo sĩ thể hiện một cái nhìn mới về hiện thực, về chính mình, một cái nhìn không bị đóng cứng trong định kiến mà biểu hiện sâu sắc bản năng sống, khát vọng sống được vẫy vùng để thoát khỏi những lề thói, quy tắc và niềm tin vào sức mạnh bất diệt của con người. Trong đời, Lí Bạch có vào Hàn lâm viện nhưng chưa hề làm quan, có vào núi vắng nhiều lần nhưng chưa hề là một ẩn sĩ thực thụ. Ông vẫn bùi ngùi nhớ đời, vẫn chơi trăng, xem hoa, hóng gió, uống rượu, làm thơ, thể nghiệm đầy đủ mọi tình thú của kiếp người. Trong thơ, Lí Bạch du tiên nhưng không đắc đạo triết lí siêu hình nào khác, du tiên là để khẳng định đời, khẳng định con người. Thơ du tiên Lí Bạch là một giác ngộ tôn giáo về cuộc sống, khẳng định trần thế là thiên đường, núi xanh là tiên cảnh, bản thân ông và những con người như đạo sĩ chính là tiên nhân. Với ý nghĩa đó, Lí Bạch vừa là người đóng vai trò đẩy thơ du tiên lên tới đỉnh cao thiêng liêng, thoát tục, lại vừa giải thiêng những tín điều, giá trị cũ. Thơ ông không hề vắng bóng tiên nhân, đạo thuật, nhưng đều xuất phát điểm từ con người, trân trọng giá trị của mình, của người, trân trọng cuộc đời trần thế. Ông đã rót sức sống mới cho thơ du tiên đời Đường cũng chính vì lẽ đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Đường Minh, 1997. Lí Bạch thi trung đối tự ngã tiên hóa khuynh hướng. Thiên Tân sư Đại học báo (Xã hội Khoa học bản). [2] N. Konrat, 1997. Phương Đông và phương Tây, người dịch: Trịnh Bá Đĩnh. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Lê Nguyễn Lưu, 1997. Đường thi tuyển dịch, tập 1. Nxb Thuận Hoá, Huế. [4] Lưu Khiết, 2005. Đường thi đề tài loại luận. Bắc Kinh Dân tộc Xuất bản xã. [5] Lỗ Hoa Phong, 2002. Đường đại du tiên thi luận lược. Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm An Huy. [6] Triển Vĩnh Phúc, 2008. Luận Lí Bạch thi ca sáng tác dữ Đạo giáo. Thanh Đảo Đại học (Xã hội Khoa học bản). ABSTRACT The Ego “fairization” and the image of the Taoist hermit in wandering fairy poetry of Li Bach Besides the country “fairization”, the ego “fairization” and Taoist image were outstanding problems in the wandering fairy‘s poetry of Li Bach. Putting an equal sign between “ego” and “fairization”, describing the immortal Taoist with his high magic and magical power showed the state of individual consciousness, rising spirit of the Age of the Duong Dynasty. The family tradition, the homeland environment, the traditional personality of the poet and the context of the times led to the outstanding appearance of this trend. Keywords:Wandering fairy’s poetry, fairization, Li Bach. 37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4171_nttuyet_2605_2132823.pdf
Tài liệu liên quan