Tỉ lệ các phụ nữ đến phá thai có kiến thức và thái độ đúngvề các biện pháp tránh thai dài hạn tại trung tâm sức khỏe sinh sản tỉnh An Giang

Tài liệu Tỉ lệ các phụ nữ đến phá thai có kiến thức và thái độ đúngvề các biện pháp tránh thai dài hạn tại trung tâm sức khỏe sinh sản tỉnh An Giang: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 12 TỈ LỆ CÁC PHỤ NỮ ĐẾN PHÁ THAI CÓ KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ ĐÚNGVỀ CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI DÀI HẠN TẠI TRUNG TÂM SỨC KHỎE SINH SẢN TỈNH AN GIANG Phạm Mộng Thu*, Nguyễn Hồng Hoa** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tỉ lệ phá thai hàng năm ở An Giang là 1%, nhưng đa số các phụ nữ phá thai thường sử dụng các biên pháp tránh thai tạm thời ngắn hạn. Biện pháp tránh thai (BPTT) dài hạn gồm dụng cụ tử cung chứa đồng hay progestin và que cấy tránh thai, có nhiều lợi ích khi sử dụng. BPTT dài hạn vừa giúp phụ nữ tránh thai lâu dài với hiệu quả rất cao vừa có thể điều trị và ngăn ngừa 1 số bệnh như tăng sinh nội mạc tử cung, nhưng có rất ít phụ nữ biết đến và chấp nhận sử dụng lâu dài. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ phụ nữ trong độ tuổi 18 đến 49 đến phá thai dưới 12 tuần tại Trung tâm CSSKSS tỉnh An Giang có kiến thức đúng và thái độ đúng về các BPTT dài hạn và các yếu tố liên quan...

pdf4 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 84 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ các phụ nữ đến phá thai có kiến thức và thái độ đúngvề các biện pháp tránh thai dài hạn tại trung tâm sức khỏe sinh sản tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 12 TỈ LỆ CÁC PHỤ NỮ ĐẾN PHÁ THAI CÓ KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ ĐÚNGVỀ CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI DÀI HẠN TẠI TRUNG TÂM SỨC KHỎE SINH SẢN TỈNH AN GIANG Phạm Mộng Thu*, Nguyễn Hồng Hoa** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tỉ lệ phá thai hàng năm ở An Giang là 1%, nhưng đa số các phụ nữ phá thai thường sử dụng các biên pháp tránh thai tạm thời ngắn hạn. Biện pháp tránh thai (BPTT) dài hạn gồm dụng cụ tử cung chứa đồng hay progestin và que cấy tránh thai, có nhiều lợi ích khi sử dụng. BPTT dài hạn vừa giúp phụ nữ tránh thai lâu dài với hiệu quả rất cao vừa có thể điều trị và ngăn ngừa 1 số bệnh như tăng sinh nội mạc tử cung, nhưng có rất ít phụ nữ biết đến và chấp nhận sử dụng lâu dài. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ phụ nữ trong độ tuổi 18 đến 49 đến phá thai dưới 12 tuần tại Trung tâm CSSKSS tỉnh An Giang có kiến thức đúng và thái độ đúng về các BPTT dài hạn và các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Kết quả: Từ tháng 12/2015 đến tháng 4/2016 tại Trung tâm CSSKSS tỉnh An Giang, chúng tôi mời được 423 phụ nữ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Tỉ lệ phụ nữ có kiến thức đúng về BPTT dài hạn là 33,1% và có thái độ đúng về biện pháp này là 77,0%. Có mối liên quan giữa kiến thức đúng và thái độ đúng là PR=2,25 KTC 95% (1,35–3,73), với p=0,002. Có mối liên quan giữa kiến thức đúng với trình độ học vấn, số con hiện có và kế hoạch có con trong tương lai. Kết luận: Cần nâng cao kiến thức về BPTT dài hạn của các phụ nữ đặc biệt là phụ nữ đã từng phá thai phụ nữ để nâng cao tỉ lệ chấp nhận và tiếp tục sử dụng các BPTT dài hạn này. Từ khóa : biện pháp tránh thai dài hạn. ABSTRACT KNOWLEDGE AND ATTITUDES TOWARDS USE OF LONG ACTING CONTRACEPTIVES AMONG INDUCED ABORTION WOMEN AT HEALTH CARE IN AN GIANG PROVINCE. Pham Mong Thu, Nguyen Hong Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 12 - 15 Background: Prevalence of induced abortion is about 1% in An Giang and most of them used to short acting contraception. Long acting contraceptives has high effectiveness in contraception but there is high discontinuation rate for uses taking them. Objective: To determinate the prevalence of induced abortion women having the right Knowledge and attitudes towards use of long acting contraceptives among induced abortion women at Health care in An Giang province. Methods: A cross-sectional study with 423 induced abortion women at Health care in An Giang province from 12/2015 to 4/2016. Participants were directly interviewed. Results: The prevalence of induced abortion women that has the right knowledge use of long acting contraceptives is 3.1% and the prevalence that has the right attitudes is 77%. Factors associated with the right knowledge include: the education, the amount of children and the future plan about having child. *Bệnh viện Sản – Nhi An Giang ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Phạm Mộng Thu ĐT: 0918397534 Email: bsphammongthu@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 13 Conclusion: We should have improved the knowledge towards use of long acting contraceptives among induced abortion. Keywords: long acting contraceptives. MỞ ĐẦU Tỉ lệ phá thai tại An Giang hàng năm là 1%, xấp xỉ bằng tỉ lệ phá thai chung của Châu Á 1/105 phụ nữ 15-49(1,3) Tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh tổng số ca phá thai hàng năm chiếm 1/2 số ca được báo cáo trong toàn tỉnh(3). Biện pháp tránh thai (BPTT) dài hạn bao gồm dụng cụ tử cung chứa đồng, dụng cụ tử cung (DCTC) chứa progestin và que cấy tránh thai. BPTT dài hạn có nhiều ưu điểm như: hiệu quả tránh thai rất cao (97-99,98%), có tác dụng tránh thai lâu dài từ 3 năm trở lên tùy theo loại, được ứng dụng điều trị trong nhiều bệnh lý phụ khoa liên quan nội tiết sinh dục nữ. Tuy nhiên BPTT dài hạn cũng có những nhược điểm như là về cách sử dụng, không ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục và có một số tác dụng phụ mà tùy mỗi cá nhân sử dụng có thể gặp phải. Chính những bất lợi này mà tình hình sử dụng BPTT dài hạn trong nước không cao và cũng không tăng tỉ lệ sử dụng lâu dài(1). Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tỉ lệ phụ nữ đến phá thai có kiến thức đúng và thái độ đúng về các biện pháp tránh thai dài hạn bao gồm dụng cụ tử cung và que cấy tránh thai, tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh An Giang. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang Đối tượng nghiên cứu Từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016, tại Trung tâm CSSKSS tỉnh An Giang, trong số các phụ nữ phá thai ngoài ý muốn trong độ tuổi từ 18-49 tuổi, chúng tôi bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên mời 423 phụ nữ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu. Quy trình thực hiện nghiên cứu Các đối tượng nhận vào nghiên cứu được phỏng vấn theo 1 bảng câu hỏi được xây dựng dựa vào nghiên cứu của một số tác giả trong và ngoài nước. Bộ câu hỏi có tiêu chí đánh giá, đo lường chất lượng theo tiêu chuẩn toàn cầu của Tổ chức y tế thế giới(9,10). KẾT QUẢ- BÀN LUẬN Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm CSSKSS tỉnh An Giang, từ ngày 1/12/2015 đến 20/4/2016, theo cách chọn ngẫu nhiên đã mời được 423 phụ nữ đồng ý tham gia nghiên cứu với phỏng vấn lần 1và có 27 phụ nữ không đồng ý tham gia nghiên cứu vì lý do cá nhân (chưa có gia đình). Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 30,5 ± 7,1, nhóm tuổi từ 25-34 chiếm tỉ lệ cao nhất (46,6%). Số phụ nữ người Kinh chiếm đa số (98,8%), phần lớn theo đạo Phật (83,9%) và hơn 50% sống ở ngoại thành. Nhóm phụ nữ có trình độ học vấn dưới cấp 3 chiếm 54,4%, đa số là nội trợ (39,9%) và chỉ có 11,3% mức sống nghèo. Có 84,4% phụ nữ đã kết hôn và có 85,3% phụ nữ đang sống chung với chồng hay bạn tình. Đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi gần tương đồng với các nghiên cứu tác giả Nguyễn Thanh Phong(5) và Mussie Alemayehu(2). Có khoảng 1/4 phụ nữ chưa có con và 9% có trên 2 con. Hơn 50% chưa từng phá thai và >11% đã phá thai từ 2 lần trở lên. Đa số phụ nữ đến phá thai với tuổi thai từ ≤7 tuần, chiếm tỉ lệ hơn 74%. Lý do chấm dứt thai kỳ 43% trường hợp là do vỡ kế hoạch, gần 30% là đủ con, 12% là chưa kết hôn và có 50,6% phụ nữ đến phá thai không muốn có thêm con trong tương lai. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 14 Kiến thức của các phụ nữ đến phá thai về BPTT dài hạn Trong 423 đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có 372 phụ nữ (88%) nghe nói về DCTC chứa đồng. Đa số những phụ nữ biết về DCTC có thời hạn tránh thai >5 năm chiếm 84% nhưng chỉ có 64% cho là có hiệu quả tránh thai cao, gần 42% biết được DCTC sử dụng được cho phụ nữ đang cho con bú và 56% biết rằng dễ có thai lại sau khi tháo DCTC. Khoảng 50% phụ nữ biết tác dụng phụ của DCTC. Thời điểm đặt DCTC được 75% phụ nữ biết là ngay sau sạch kinh, kế đến là sau nạo phá thai 40%, sau sanh 6 tuần là 36% và rất ít người biết được thời điểm đặt DCTC ngay sau giao hợp không được bảo vệ (4,5%). Số phụ nữ không biết thời điểm đặt DCTC là 19,4% và chỉ có 22% phụ nữ trả lời đúng câu mọi phụ nữ không thể sử dụng DCTC. Như vậy, có 220 phụ nữ có kiến thức đúng về DCTC chứa đồng, chiếm 52,0% (KTC 95% (30,9 - 73,0)). Trong 423 đối tượng nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 18 phụ nữ (4,2%) đã từng nghe nói về DCTC chứa Levonorgestrel. Trong đó có trên 55% số đối tượng này biết được ưu điểm của phương pháp này. Như vậy, chỉ có 13 phụ nữ có kiến thức đúng về DCTC chứa Levonorgestrel, chiếm 3% (KTC 95% (1,7 – 4,2)). Có 168 đối tượng nghiên cứu (39,7%) có từng nghe nói về que cấy tránh thai. Có 69,6% phụ nữ biết đúng thời hạn que cấy tránh thai kéo dài 3 năm, 75% biết là dễ có thai lại sau khi tháo que, nhưng chỉ có 18,5% biết là có hiệu quả tránh thai giảm dần theo thời gian. Có 23,2% phụ nữ biết về tác dụng phụ của que cấy tránh thai. Như vậy, có 117 phụ nữ có kiến thức đúng về QCTT, chiếm 39,7% (KTC 95% (28,5 – 50,8)). Tóm lại, trong 423 đối tượng nghiên cứu, chúng tôi xác định tỉ lệ phụ nữ có kiến thức đúng về các BPTT dài hạn (gồm DCTC chứa đồng hay progestin và QCTT) là 33,1% (KTC 95% (28,5 – 37,5)). Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phương Dung(6) thực hiện khảo sát kiến thức đúng về các BPTT hiện đại trong đó có DCTC (1%) và QCTT (4,5%) trên các phụ nữ đi phá thai. So sánh với nghiên cứu của tác giả Mussie Alemayehu(2), nhận thấy kiến thức tốt về BPTT dài hạn của phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi rất thấp. Điều này, có lẽ do đối tượng nghiên cứu của tác giả Mussie Alemayehu là dân Ethiopia (châu Phi) rất nghèo khó nên nhận được nhiều sự giúp đỡ từ tổ chức dân số thế giới nên họ sẽ được tiếp cận và sử dụng miễn phí các BPTT hiện đại từ tổ chức này. Bảng 1.Kiến thức đúng về BPTT dài hạn Kiến thức về các BPTT dài hạn Tần số (n=423) Tỉ lệ (%) Tốt 2 0,5 Khá tốt 138 32,6 Trung bình 223 52,7 Kém 60 14,2 Thái độ của các phụ nữ đến phá thai về BPTT dài hạn Tỉ lệ phụ nữ có thái độ đúng về các BPTT dài hạn là 73% (KTC 95% :68,8 – 77,2). Tỉ lệ phụ nữ có thái độ đúng về BPTT dài hạn trong nghiên cứu của chúng tôi là 73,0% với KTC 95% (68,8 – 77,2) cao hơn nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phương Dung(6) là 47%; tương đương với tác giả Ronald Anguzulà 66%(2); thấp hơn với nghiên cứu của tác giả Trần Thị Liễu(8) về KHHGĐ là 86,6% và Tizta Tilahun(7) có đối tượng nghiên cứu là các cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ có thái độ tích cực về sử dụng các BPTT là 91%. Sau khi phá thai trên 2 tuần, chúng tôi có liên lạc qua điện thoại được 360 đối tượng nghiên cứu (85,1%), phỏng vấn về việc sử dụng các BPTT, ghi nhận có 104 phụ nữ (29,9%) vừa sử dụng BPTT dài hạn. Một số yếu tố liên quan với kiến thức về BPTT dài hạn Kết quả phân tích hồi qui đa biến cho thấy kiến thức đúng về các BPTT dài hạn có liên quan với các yếu tố sau: Trình độ học vấn: phụ nữ có trình độ cấp 2 trở lên thì có kiến thức đúng gấp 2,94 - 8,41 lần so với phụ nữ có trình độ cấp 1 với p=0,000. Nghề nghiệp: phụ nữ làm nghề buôn bán và nội trợ có kiến thức đúng thấp hơn 0,38 lần phụ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 15 nữ nội trợ với p < 0,05. Số con: phụ nữ có con thì có kiến thức đúng gấp 2,8– 3,6 lần phụ nữ chưa có con với p < 0,05. Kế hoạch có con trong tương lai: phụ nữ không muốn có con và chưa quyết định có con thì có kiến thức đúng gấp 2 lần phụ nữ muốn có con với p=0,012. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức đúng về BPTT dài hạn và thái độ đúng về BPTT dài hạn: phụ nữ có thái độ đúng về các BPTT dài hạn thì có kiến thức đúng về các BPTT dài hạn gấp 2,25 lần với phụ nữ có thái độ chưa đúng với KTC 95% (1,35 – 3,73) và p=0,002. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số phụ nữ có kiến thức đúng về BPTT dài hạn rất thấp so với thái độ chấp nhận sử dụng biện pháp tránh thai này, điều này có thể do phần lớn người phụ nữ biết vàchấp nhận sử dụng các BPTT dài hạn dù không biết nhiều đến các vấn đề như thời điểm sử dụng biện pháp hay tác dụng phụ của nó. Điều này dẫn tới rất nhiều phụ nữ sau khi sử dụng sẽ có khuynh hướng không đồng ý sử dụng tiếp tục vì tác dụng phụ của BPTT dài hạn, vd nghiên cứu của tác giả Hồng Thành Tài(4) khảo sát các phụ nữ đang đặt QCTT chỉ có kiến thức đúng là 40%. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu cắt ngang bằng cách phỏng vấn trực tiếp 423 đối tượng nghiên cứu là phụ nữ từ 18 – 49 tuổi, đến phá thai dưới 12 tuần ngoài ý muốn tại Trung tâm CSSKSS tỉnh An Giang từ 1/12/2015 đến 20/4/2016, chúng tôi thu được kết quả sau: Phụ nữ có kiến thức đúng về BPTT dài hạn: 33,1%(KTC 95% : 28,5–37,5). và phụ nữ có thái độ đúng về BPTT dài hạn: 73,0%(KTC95% : 68,8–7,2). Có mối liên quan giữa kiến thức đúng về BPTT dài hạn với: Thái độ đúng về BPTT dài hạn. Trình độ học vấn. Nghề nghiệp. Số con hiện có. Kế hoạch có con trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ACOG (2015), Immediate Postpartum; Increasing Access to Contraceptive Implants and Intrauterine Devices to Reduce Unintended Pregnancy LARC, ACOG Committee on Gynecologic Practice, 2015; pp. 642. 2. Alemayehu M, et al (2012), Factors associated with utilization of long acting and permanent contraceptive methods among married women of reproductive age in Mekelle town, Tigray region north Ethiopia, BMC Pregnancy Childbirth, 12(1): 6- 10.1186/1471-2393-12-6. 3. Guttmacher Institute (2014), Contraceptive use in the United States. Accessed May, 2016. 4. Hồng Thành Tài (2015), Kiến thức và thái độ của phụ nữ về que cấy tránh thai ở phụ nữ đang dùng Implanon tại bệnh viện Từ Dũ, Luận văn thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP HCM, tr. 75. 5. Nguyễn Thanh Phong (2009), Nghiên cứu kiến thức, thực hành về các biện pháp tránh thai của phụ nữ đến phá thai không mong muốn tại Bệnh viện Phụ sản trung ương năm 2009, Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, trang 40 – 83 6. Nguyễn Thị Phương Dung (2004), Kiến thức, thái độ, thực hành về các biện pháp ngừa thai của những phụ nữ nạo phá thai tại bệnh viện Từ Dũ năm 2003 -2004, Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 26 - 40. 7. Tilahun T, et al (2013), Family planning knowledge, attitude and practice among married couples in jimma zone, Ethiopia, PLoS ONE, vol. 8, No. 4, Article ID e61335, 2013. 8. Trần Thị Liễu (2010), Kiến thức, thái độ, thực hành về kế hoạch hóa gia đình của phụ nữ tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 41-55. 9. WHO (2015), “A guide to implement a standards-driven approach to improve the quality of health care services for adolescents”, Global standards for quality health-care services for adolescents, Volume 3: Tools to conduct quality and coverage measurement surveys to collect data about compliance with the global standards. ISBN 978924154933 2; 10. WHO (2015), “Medical eligibility criteria for contraceptive use”, FP foundation,Publication date: Edition 5th, 2015, pp. 15- 19. ISBN: 978 92 4 154925 7. Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_le_cac_phu_nu_den_pha_thai_co_kien_thuc_va_thai_do_dungve.pdf