Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 161
TẠO CẦU NỐI ĐỘNG TĨNH MẠCH Ở ĐÙI 
ĐỂ CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ - 
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN THẤT BẠI Ở CHI TRÊN 
Trương Hoàng Minh*, Nguyễn Phước Hải**, Lê Thị Nghĩa**, Lê Thị Hồng Đào** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đường vào mạch máu để chạy thận nhân tạo (CTNT) ở chi trên là lựa chọn tối ưu, tuy nhiên 
khi thất bại thì đặt graft ở đùi là một lựa chọn. 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu, các tai biến – biến chứng đặt cầu nối động tĩnh mạch bằng mạch 
nhân tạo (graft) ở đùi để chạy thận nhân tạo chu kỳ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả 2 ca lâm sàng không thực hiện được đường vào mạch máu 
ở chi trên tại Bệnh viện Nhân Dân 115. 
Kết quả: Có 2 bệnh nhân nam đặt mạch máu nhân tạo bằng polytetrafluoroethylene (PTFE) ở đùi phải, đã 
mổ tạo đường vào mạch máu ở chi trên 8 - 10 lần với thời gian sử dụng là 5 – 10 năm, không có chỉ định hoặc đã 
làm thẩm phân phúc mạc thất bại. Đường kính mạch máu nhân tạo đùi là 0,6 cm chiều dài là 18 – 20 cm dạng 
quai với thời gian mổ là 90 -80 phút, thời gian sử dụng mạch máu nhân tạo là 4 tuần sau mổ. Lưu lượng mạch 
máu nhân tạo/siêu âm 700 -850 ml/phút. Tuổi thọ mạch máu nhân tạo 7 - 4 tháng (hiện còn). Chưa ghi nhận 
biến chứng nhiễm trùng, tắc hay thiếu máu chi dưới mạch máu nhân tạo. 
Kết luận: Đặt mạch máu nhân tạo ở đùi để CTNT là lựa chọn khi không thể tạo đường vào mạch máu ở chi 
trên. Mạch máu nhân tạo dạng quai đường kính 0,6 cm, dài 18-20 cm nối giữa động mạch đùi và tĩnh mạch đùi 
chung cho kết quả tốt, ít biến chứng. 
Từ khóa: cầu nối động tĩnh mạch (mạch máu nhân tạo) ở đùi, chạy thận nhân tạo 
ABSTRACT 
ARTERIOVENOUS GRAFT IN THE THIGH FOR HEMODIALYSIS: A SOLUTION WHEN ARM 
VASCULATURE IS EXHAUSTED 
Truong Hoang Minh, Nguyen Phuoc Hai, Le Thi Nghia, Le Thi Hong Dao 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 161 – 165 
Background: Vascular access in the upper limb is a primary choice, however arm vasculature is exhausted, 
arteriovenous grafts in the thigh is a second choice. 
Objective: Evaluate the initial results and the complications of the grafts in the thigh for hemodialysis. 
Methods: Report cases are exhausted with vascular access in the upper limb at 115 people’ Hospital. 
Results: 2 patients (males) with grafts in the right thigh, who was operated 8 – 10 times with vascular 
access from 5 to 10 years in the upper limb. The patient does not indication with continuous ambulatory 
peritoneal dialysis (CAPD). The diameter of graft is 0.6 centimeter and the length of graft is 18 - 20 centimeter 
with ansa model. Duration of operation is 90 – 80 minutes and duration to use graft is 4 weeks after operation. 
Debit of graft/ultra-sound is 700 - 850 ml/min. Survival of two grafts is good to now (7 - 4 months). Without 
infective complications, thrombosis and steal syndrome occurred in two patients. 
*Khoa ngoại niệu-ghép thận BVND 115 **Khoa Ngoại niệu-ghép thận BVND 115 
Tác giả liên lạc: BS Trương Hoàng Minh ĐT: 0903982107 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 162
Conclusions: Arteriovenous graft in the thigh is a choice when arm vasculature is exhausted. Graft with 
ansa model (0.6 centimeter of diameter, 18-20 centimeter of length) between common femoral artery and vein are 
good results and little complications. 
Keywords: arteriovenous graft in the thigh, hemodialysis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chạy thận nhân tạo (CTNT) hiện nay vẫn 
là mô thức điều trị thay thế thận để điều trị 
bệnh thận mạn giai đoạn cuối được nhiều 
bệnh nhân thực hiện nhất tại Việt Nam. Để 
chạy thận được hiệu quả cần có đường vào 
mạch máu dễ sử dụng, đủ lưu lượng, ít biến 
chứng. Tốt nhất vẫn là đường vào mạch máu 
thực hiện ở chi trên(1,3). Tuy nhiên, có những 
trường hợp đã thất bại với tất cả các loại 
đường vào mạch máu ở chi trên như: AVF 
(arteriovenous fistular), AVG (arteriovenous 
graft). Các bệnh nhân này cũng đã thất bại với 
phương pháp thẩm phân phúc mạc hoặc có 
chống chỉ định làm thẩm phân phúc mạc. 
Đường vào mạch máu ở chi dưới là lựa chọn 
cho các trường hợp này. Tại Việt Nam chưa có 
báo cáo nào về vấn đề này. Chúng tôi xin trình 
bày kỹ thuật tạo cầu nối động tĩnh mạch ở đùi 
để chạy thận nhân tạo với mục tiêu: Đánh giá 
kết quả bước đầu, các tai biến – biến chứng đặt 
cầu nối động tĩnh mạch bằng mạch máu nhân 
tạo (graft) ở đùi để chạy thận nhân tạo chu kỳ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
2 bệnh nhân có chỉ định chạy thận nhân 
tạo chu kỳ nhưng đã thất bại với việc tạo cầu 
nối động tĩnh mạch ở chi trên và đã thất bại 
hoặc có chống chỉ định làm thẩm phân phúc 
mạc (Hình 1). 
Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả 2 ca lâm sàng. 
Phương tiện nghiên cứu 
Hai bệnh nhân có chỉ định đặt cầu nối mạch 
máu nhân tạo ở đùi được chuẩn bị như một cuộc 
mổ thông thường. Khám chi dưới không có dấu 
hiệu nhiễm trùng. Siêu âm Doppler mạch máu 
chi dưới không ghi nhận thiếu máu chi dưới. 
Kỹ thuật mổ 
Vô cảm: Bệnh nhân nằm ngửa, tê tại chỗ + 
tiền mê (Hình 2). 
Kỹ thuật đặt mạch máu nhân tạo: Đặt mạch 
máu nhân tạo dạng quai 
Rạch da theo đường dọc dưới nếp lằn bẹn 
phải 2 cm, bộc lộ động mạch (ĐM) đùi phải rồi 
tĩnh mạch (TM) đùi phải. Kiểm tra TM hiển nhỏ 
không tương thích với ĐM đùi. Tạo đường hầm 
dưới da cho mạch máu nhân tạo nằm dạng quai 
đủ dài (tối thiểu 15 cm). Đặt mạch máu nhân tạo 
bằng PTFE (polytetrafluoroethylene) đường 
kính 6 mm, dài 15 cm vào đường hầm. Nối đầu 
mạch máu nhân tạo với TM đùi bằng chỉ Prolen 
6/0 với 2 nửa mũi liên tục. Tiếp theo nối đầu còn 
lại của mạch máu nhân tạo với ĐM đùi. Đuổi khí 
và bơm Heparine, mở kẹp mạch máu, mạch máu 
nhân tạo hoạt động. Đặt dẫn lưu Penrosse ở vết 
mổ, khâu vết mổ 2 lớp. Băng vô trùng vết mổ. 
Rút Penrosse ngày thứ 2 sau mổ, kháng sinh 
nhóm Cephalosporine thế hệ thứ 2 dùng 7 ngày 
sau mổ, giảm đau nhóm Paracetamol cho tới khi 
hết đau. Cắt chỉ ngày thứ 8 sau mổ. 
Sử dụng Heparine bơm rửa tại chỗ liên tục 
trong mổ, sử dụng Lovenox 40 mg x 1 lọ/ngày 
sau mổ trong giai đoạn hậu phẫu cho tới khi lành 
vết thương thì sử dụng kháng đông trong CTNT. 
Siêu âm đánh giá và sử dụng sau 1 tháng. 
Đánh giá kết quả 
Sử dụng được mạch máu nhân tạo sau mổ 
thông qua: Lưu lượng của mạch máu nhân tạo, 
thời gian từ khi mổ đến khi sử dụng mạch máu 
nhân tạo, tuổi thọ của mạch máu nhân tạo. 
Các tai biến-biến chứng của mạch máu nhân 
tạo: phù nề chi nơi đặt mạch máu nhân tạo, chảy 
máu, nhiễm trùng, thuyên tắc do huyết khối 
mạch máu nhân tạo. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 163
Hình 1. Tay trái và phải đã mổ AVF thất bại 
Hình 2: Đặt mạch máu nhân tạo 
KẾT QUẢ 
Qua 2 trường hợp đặt mạch máu nhân tạo ở 
đùi có kết quả như sau: 
Đặc điểm 
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân 
Đặc điểm BN số 1 BN số 2 
Tuổi 53 tuổi 73 tuổi 
Giới Nam Nam 
Số lần mổ tạo cầu nối 
ĐTM ở chi trên 
8 lần 10 lần 
Loại cầu nối: AVF, Graft 7 AVF, 1 Graft 9 AVF, 1 Graft 
Thời gian sử dụng cầu 
nối ở chi trên 
5 năm 10 năm 
Thẩm phân phúc mạc 1 lần/thất bại do 
viêm phúc mạc 
Mổ cũ ở bụng, 
không có chỉ 
định TPPM 
Bảng 2. Đặc điểm phẫu thuật đặt Graft 
Đặc điểm BN số 1 BN số 2 
Chất liệu Graft PTFE PTFE 
Chiều dài Graft 18 cm 20 cm 
Đường kính Graft 0,6 cm 0,6 cm 
Vị trí đặt Graft ở chi dưới Đùi phải Đùi phải 
Vị trí nối với mạch máu ĐM đùi và TM 
đùi 
ĐM đùi và TM 
đùi 
Kiểu đặt Graft Dạng quai Dạng quai 
Thời gian phẫu thuật 90 phút 80 phút 
Thời gian sử dụng Graft 4 tuần 4 tuần 
Bảng 3. Kết quả sử dụng graft 
Thông số BN số 1 BN số 2 
Chọc kim dễ dàng Tốt Tốt 
Lưu lượng graft/siêu âm 700 ml/phút 850 ml/phút 
Báo động của máy CTNT Không Không 
Tuổi thọ sử dụng Graft 7 tháng 
(hiện còn) 
4 tháng 
(hiện còn) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 164
Tai biến-biến chứng 
Trong và sau mổ: không. 
Trong quá trình sử dụng: Bệnh nhân số 1 bị 
lộ Graft tại vị trí chọc kim, tiến hành khâu phủ 
lại bằng vạt da kế cận. Chưa ghi nhận biến 
chứng nhiễm trùng, tắc hay thiếu máu chi nơi 
đặt graft. 
BÀN LUẬN 
Đường vào mạch máu ở chi trên là lựa chọn 
đầu tiên bởi sự thuận tiện cho việc thực hiện 
phẫu thuật, lưu lượng phù hợp để chạy thận 
nhân tạo, ít biến chứng (đặc biệt là nhiễm trùng), 
tiện lợi cho bệnh nhân(1). Tuy nhiên, trên thực tế 
ở bệnh nhân nữ, béo, hệ mạch máu kém phát 
triển, bệnh lý tiểu đường là những thách thức 
cho phẫu thuật viên. Đường vào mạch máu để 
CTNT ở chi dưới chỉ được thực hiện khi làm ở 
chi trên thất bại(1). Ở chi dưới có thể thực hiện ở 
cẳng chân hay ở đùi giữa động mạch và tĩnh 
mạch tự thân hay nhân tạo. Ở cẳng chân có thể 
nối thông giữa động mạch chày sau với tĩnh 
mạch hiển trong ở vị trí cổ chân, hay giữa động 
mạch khoeo với tĩnh mạch hiển trong ở vị trí 
khớp gối. Tuy nhiên, việc chọc kim để CTNT tại 
tĩnh mạch hiển trong ở cẳng chân đôi khi khó 
khăn, nhiều nhánh bên làm giảm lưu lượng 
nhánh chính, mặt khác nguy cơ nhiễm trùng là 
cao ở(1). Thực hiện ở đùi được sử dụng nhiều 
nhất, vị trí thực hiện có thể nối thông giữa động 
mạch đùi nông với tĩnh mạch hiển trong ở trên 
khớp gối, hoặc nối động mạch đùi chung với 
tĩnh mạch hiển trong ở bẹn (tĩnh mạch sẽ tạo 
quai)(3). Sử dụng đoạn mạch nhân tạo 
(polytetrafluoroethylene: PTFE) nối giữa động 
mạch đùi chung với tĩnh mạch đùi chung (đoạn 
mạch nhân tạo sẽ tạo quai)(1,4). 
Cả hai trường hợp chúng tôi thực hiện đều là 
nam, tuổi (53 - 73) và đã CTNT nhiều năm, đều 
mổ làm đường vào mạch máu ở cả 2 tay thất bại 
(8 - 10 lần) trong đó có cả đặt mạch máu nhân 
tạo ở cánh tay. Tác giả Rafael Ponikvar và cộng 
sự có 57% là nữ, tuổi trung bình 58,7 ± 14,5, thời 
gian chạy thận trung bình 11,9 ± 7,3 năm, số lần 
làm đường vào mạch máu trước đó là 4,4 ± 1,9 
lần(5). Chúng tôi đều đặt mạch máu nhân tạo ở 
đùi phải, một đầu mạch máu nhân tạo nối với 
động mạch đùi chung và đầu kia nối với tĩnh 
mạch đùi chung. Quai mạch máu nhân tạo có 
chiều dài đủ để lấy máu ra, tránh hội chứng tái 
tuần hoàn. Lựa chọn này cũng tương đồng với 
tác giả Rafael Ponikvar(5), Song Ong(4), J 
Barbosa(1). Nếu tĩnh mạch hiển trong ở vùng đùi 
có chất lượng tốt có thể sử dụng làm quai nối với 
động mạch đùi chung(3). Hai trường hợp của 
chúng tôi không sử dụng được tĩnh mạch hiển vì 
cũng xơ chai. Tác giả Boennec. M và cộng sự làm 
shunt kiểu Thomas, chủ yếu để CTNT tại nhà, 
bệnh nhân béo phì(2). 
Kết quả hai trường hợp đặt mạch máu nhân 
tạo của chúng tôi với lưu lượng đủ để CTNT, 
không có trường hợp nào lưu lượng thiếu hay 
cao. Đến hiện tại mạch máu nhân tạo vẫn hoạt 
động. Với khẩu kính và chiều dài như trên phù 
hợp với khẩu kính của động mạch đùi chung và 
đủ chiều dài để chọc kim tránh hội chứng tái 
tuần hoàn. Có nhiều loại mạch máu nhân tạo để 
lựa chọn như: đầu to - đầu nhỏ, loại lò xo hay 
trơn sẽ thuận lợi và phù hợp với khẩu kính 
mạch máu. Loại lò xo sẽ thuận lợi cho đặt kiểu 
quai, tránh bị gập góc dễ gây huyết khối. Tuy 
nhiên tuổi thọ của mạch máu nhân tạo là thấp, 
78% (sau 1 năm), 74% (sau 2 năm), 66% (sau 3 
năm), 56% (sau 4 năm), 52%( sau 5 năm) và chỉ 
còn 13% (sau 9 năm)(5). Tỉ lệ mất chức năng mạch 
máu nhân tạo trong quá trình sử dụng là 5,7% và 
tắc sớm sau mổ là 2,8% và thường trong 30 ngày 
sau mổ(5). So sánh với đặt catheter đường hầm 
thì đặt mạch máu nhân tạo đùi vẫn là lựa chọn 
tối ưu hơn(4). 
Các tai biến, biến chứng chiếm khoảng 43,2% 
trong đó biến chứng sớm gồm: Thuyên tắc sớm 
ở cầu nối (2,4%) thường được mổ lấy huyết khối. 
Nhiễm trùng vết mổ (không ở mạch máu nhân 
tạo) là 6% thường được điều trị tại chỗ ổn định. 
Nhiễm trùng mạch máu nhân tạo (4,8%), thường 
phải lấy bỏ. Các biến chứng muộn: Thuyên tắc 
trễ cầu nối (12%), thường do hẹp tĩnh mạch 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 165
đường về. Phình giả (4,8%), thường được mổ tạo 
hình sửa chữa lại. Hội chứng cướp máu, gây 
thiếu máu chi dưới (3,6%), nếu nghiêm trọng 
phải đóng cầu nối(1,5). Phù chi dưới bên mổ 
(8,4%) thường do lưu lượng cầu nối lớn(1) trong 
đó nhiễm trùng nơi chọc kim và huyết khối là 
chủ yếu(2). Việc phòng ngừa như giữ vệ sinh 
chung ngoài da, sát khuẩn tại chỗ kỹ khi thực 
hiện chạy thận và sử dụng kháng sinh (anti – 
staphylococcique). Lấy huyết khối bằng thông 
Fogarty và truyền urokinase bơm liên tục 35000 
UI/giờ trong 6-8 giờ để điều trị tắc do huyết 
khối(2). Theo Joaõ. A. Correa và cộng sự (lấy tĩnh 
mạch hiển trong làm cầu nối với động mạch đùi) 
ghi nhận tỉ lệ phình giả là 9,8% xuất hiện từ 4 – 
30 tháng sau khi sử dụng(3). Tỉ lệ hẹp tĩnh mạch 
5,9% với thời gian trung bình là 7 tháng, không 
ghi nhận biến chứng thiếu máu chi dưới, nhiễm 
trùng, suy tim mất bù(3). Chúng tôi thực hiện 2 
trường hợp và thời gian chưa dài nên chưa ghi 
nhận về các biến chứng trên. 
KẾT LUẬN 
Đặt mạch máu nhân tạo ở đùi để CTNT chu 
kỳ được chỉ định khi không thể làm cầu nối 
mạch máu ở chi trên. Với việc sử dụng mạch 
máu nhân tạo bằng PTFE đường kính 0,6 cm, 
chiều dài 18-20 cm nối động mạch đùi chung với 
tĩnh mạch đùi chung dạng quai cho kết quả đủ 
lưu lượng để CTNT, chưa ghi nhận biến chứng. 
Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu với số liệu lớn 
hơn và thời gian theo dõi dài để đánh giá kỹ 
thuật này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Barbosa J (1996). “Accès vasculaires pour hémodialyse aux 
membres inférieurs”. Les voies d’abord vasculaiire en he1modialyse, 
XIe Congrès Annuel –Lyon, pp.55-58. 
2. Boennec M, Francois. P, Negre. G, et al (1996). “Le shunt de 
Thomas techniques – résultats éloignés”. Les voies d’abord 
vasculaiire en he1modialyse, XIe Congrès Annuel –Lyon, pp. 59-63. 
3. Correa JA, de Abreu LC, Pires AC, et al (2010). 
“Saphenofemoral arteriovenous fistula as hemodialysis access”. 
BMC Surg, doi:10.1186/1471-2482-10-28. 
4. Ong S, Barker – Finkel J and Allon M (2013). “Long – term 
outcomes of arteriovenous thigh grafts in hemodialysis patients: 
A comparison with tunneled dialysis catheters”. Clin J Am Soc 
Nephrol; 8(5):804-809. 
5. Ponikvar R (2013). “Arteriovenous Grafts in the thigh: An 
excellent hemodialysis vascular access when arm vasculature is 
exhausted”. 5th Slovenian Congress of Nephlology, 17:416-418. 
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019