Tài liệu Phẫu thuật không chuyển lưu trong niệu khoa: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
42 PHẪU THUẬT KHÔNG CHUYỂN LƯU TRONG NIỆU KHOA 
Đào Quang Oánh*, Vũ Văn Ty*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Nguyễn Văn Aân*, 
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Phan Trường Bảo* 
TÓM TẮT 
Nhiều bệnh lý trên đường tiểu dưới đã được giải quyết trước đây bằng phương thức chuyển lưu ra da: hệ 
quả là có chất lượng sống kém và để lại nhiều biến chứng trên đường tiểu trên. Các tác giả trình bày 9 trường 
hợp phẫu thuật không chuyển lưu để tái phục hồi lại đường tiểu, gồm 3 trường hợp tạo hình thay thế bọng đái 
và 6 trường hợp mở rộng bọng đái trên những bệnh lý gốc: ung thư bọng đái, ung thư tiền liệt tuyến, lao và 
viêm mãn tính. Vì những biến chứng do chuyển lưu lâu ngày gây ra, nên về mặt kỹ thuật, phẫu thuật khó thực 
hiện hơn nếu so sánh với làm ngay một thì cùng lúc với giải quyết bệnh lý g...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 465 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật không chuyển lưu trong niệu khoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
42 PHẪU THUẬT KHÔNG CHUYỂN LƯU TRONG NIỆU KHOA 
Đào Quang Oánh*, Vũ Văn Ty*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Nguyễn Văn Aân*, 
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Phan Trường Bảo* 
TÓM TẮT 
Nhiều bệnh lý trên đường tiểu dưới đã được giải quyết trước đây bằng phương thức chuyển lưu ra da: hệ 
quả là có chất lượng sống kém và để lại nhiều biến chứng trên đường tiểu trên. Các tác giả trình bày 9 trường 
hợp phẫu thuật không chuyển lưu để tái phục hồi lại đường tiểu, gồm 3 trường hợp tạo hình thay thế bọng đái 
và 6 trường hợp mở rộng bọng đái trên những bệnh lý gốc: ung thư bọng đái, ung thư tiền liệt tuyến, lao và 
viêm mãn tính. Vì những biến chứng do chuyển lưu lâu ngày gây ra, nên về mặt kỹ thuật, phẫu thuật khó thực 
hiện hơn nếu so sánh với làm ngay một thì cùng lúc với giải quyết bệnh lý gốc. Tuy nhiên, trên những bệnh 
nhân chọn lọc và nếu ta có quyết tâm thì phẫu thuật không chuyển lưu là phương pháp chọn lựa tốt với phần 
thưởng là: vừa tăng chất lượng cuộc sống và đồng thời bảo vệ thận tốt hơn, do đó giúp cho bệnh nhân có cuộc 
sống dài hơn và tốt đẹp hơn. 
SUMMARY 
UNDIVERSION OPERATIONS IN UROLOGY 
Đao Quang Oanh, Vu Van Ty, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Van An, Nguyen Phuc Cam Hoang, 
Phan Truong Bao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 296 – 302 
Many pathologic conditions of the lower urinary tract had been managed by incontinent diversion: 
permanent cutaneous ureterostomy. This kind of treatment has resulted in poor quality of life and diverse 
complications. The authors rewiewed 9 undiversion cases that had been performed on the purpose to 
refunctionalize the previously diverted urinary tract: 3 bladder replacement and 6 bladder augmentation. The 
basic pathology were: carcinoma of the bladder, carcinoma of the prostate, urinary tuberculosis and chronic 
cystourethritis. The reconstruction was more difficult than if it was realized just after removing the diseased 
bladder because the authors had many delayed complications of the precedent diversion to be resolved. 
Otherwise, on the well qualified patients, the undiversion was the procedure of choice. It gave to them a better 
quality of life and concomittantly a good protection of the upper urinary tract. The result was that they have a 
chance to live longer and happier. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Có rất nhiều bệnh lý trên đường tiểu, chủ yếu 
đường tiểu dưới, mà cách sử lý trước đây là chuyển lưu 
nước tiểu vĩnh viễn(1,9,11). Phương cách chuyển lưu này 
vừa không bảo vệ được thận, vừa dễ gây nhiễm trùng 
ngược dòng và cho chất lượng đời sống xấu. 
Từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, với những 
báo cáo khả quan ban đầu của Camey (1982) và Kock 
(1982) trong tạo hình bọng đái, kỹ thuật tạo hình 
bọng đái kiểu áp lực thấp nhanh chóng được phổ biến 
rộng rãi và nhiều đoạn ruột – ruột non cũng như đại 
tràng – được áp dụng. Sau một thời gian, song song 
cùng với quan điểm chú trọng đến chất lượng đời 
sống bệnh nhân sau điều trị, chỉ định mổ tạo hình 
bọng đái được nới rộng và phẫu thuật phục hồi lại 
đường tiểu đã qua chuyển lưu được đề ra và được đặt 
tên là phẫu thuật không chuyển lưu(2). 
* Bệnh viện Bình Dân – Tp.HCM 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 296 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
Phẫu thuật không chuyển lưu giúp cho bệnh 
nhân có một đời sống phẩm chất tốt hơn, đồng thời 
cũng bảo vệ được 2 thận tốt hơn và điều này có nghĩa 
là bệnh nhân có thể sống lâu hơn và thoải mái hơn. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Tính khả thi của phẫu thuật: phẫu thuật tạo hình 
bọng đái là một phẫu thuật kéo dài và khá nặng nề, 
do đó trong giai đoạn mới áp dụng, nhiều chỉ định kỹ 
về tuổi, thể trạng, chức năng thận, giai đoạn phát 
triển của ung thư (nếu tạo hình trên ung thư) đã giới 
hạn số lượng bệnh nhân. Sau này, nhờ sự tiến bộ 
trong lãnh vực hồi sức trước và sau mổ, cũng như 
những kinh nghiệm thâu thập của việc tổ chức kíp 
mổ, chỉ định mổ đã được nới rộng. Mong muốn phục 
hồi lại đường tiểu đã được chuyển lưu tưởng như phải 
vĩnh viễn, mặc dù có nhiều khó khăn về mặt kỹ thuật 
do những dư chứng để lại từ lần mổ trước, không 
phải là không thực hiện được. 
Đánh giá ưu điểm về mặt bảo vệ đường tiểu 
trên, đặc biệt về mặt chất lượng cuộc sống: đánh giá 
về chất lượng cuộc sống chủ yếu dựa vào những tiêu 
chuẩn chủ quan, do bệnh nhân tự cho điểm. Trên 
những người bệnh đã có một thời gian, nhiều khi khá 
dài, chịu đựng các phiền toái của phương pháp 
chuyển lưu trước là những người sẽ cho những nhận 
xét chính xác nhất để so sánh về mặt chất lượng của 
2 loại phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh nhân đã được mở niệu quản ra da vì suy 
thận, vì bệnh lý ác tính đường tiểu dưới 
Bọng đái đã bị cắt bỏ hoặc bị tổn hại nghiêm 
trọng (teo, xơ hóa) 
Bệnh lý gốc đã được kiểm soát: ung thư bọng đái 
đã qua một thời gian dài (trên 10 năm), ung thư tiền 
liệt tuyến có đáp ứng rất tốt với điều trị nội tiết, lao 
niệu đã điều trị nội khoa với kết quả kiểm tra đạt tiêu 
chuẩn lành bệnh 
Bệnh nhân được giải thích kỹ về phẫu thuật và 
sẵn sàng vui vẻ chấp thuận phẫu thuật. 
Phương pháp nghiên cứu 
Bệnh nhân được lên lịch mổ chương trình tại 
khoa với các xét nghiệm tiền phẫu thường quy. Cuộc 
mổ gồm các thì: 
Giải phóng 2 niệu quản: 2 niệu quản đã được mở 
ra da trong một thời gian dài, nước tiểu dẫn lưu qua 1 
thông đặt trong niệu quản. Niệu quản thường dày, 
kém nhu động. Lần mổ trước càng lâu bao nhiêu thì 
niệu quản càng thay đổi nhiều bấy nhiêu. Phải đánh 
giá phần niệu quản còn sử dụng được, đoạn hư hỏng 
thường là đoạn cuối phải bị cắt bỏ. Có trường hợp 
chúng tôi phải cắt bỏ ngang niệu quản lưng. 
Đánh giá tình trạng 2 thận. Mức độ chướng nước. 
Có sỏi ? viên sỏi đó có thể rơi xuống niệu quản sau tạo 
hình? và phải giải quyết tiếp ra sao? 
Tạo lập một khoang trống tại vùng chậu sau mu 
để chứa bọng đái tân tạo. Nếu trước đây bệnh nhân 
đã qua phẫu thuật cắt bỏ bọng đái tận gốc vì ung thư 
thì vùng sau mu là một khối mô xơ cứng khó phẫu 
tích. Phải tìm và bộc lộ được đầu trong của mõm cụt 
niệu đạo nếu muốn nối xuống niệu đạo. Nếu còn 
bọng đái (nhỏ, xơ hoá) và chỉ là phẫu thuật mở rộng 
bọng đái thì giai đoạn này dễ thực hiện hơn. 
Sau cùng là mới xem đến ống tiêu hoá, đoạn ruột 
nào dễ sử dụng và chiều dài ước lượng là bao nhiêu. 
Phải tính đến sự cần thiết có thể phải dùng 1 đoạn 
ruột để đưa lên nối với niệu quản nếu niệu quản còn 
lại quá ngắn. Bọng đái thay thế cần đoạn ruột dài hơn 
là bọng đái mở rộng, và chiều dài của mạc treo cùng 
hệ thống mạch máu nuôi dưỡng cũng cần được xét 
đến. Rất may mắn là tro tất cả các trường hợp chúng 
tôi đều tìm được một đoạn hồi tràng thích hợp. 
- Kỹ thuật tạo hình: xắp xếp ruột, cắm 2 niệu 
quản, tạo van kiểm soát chúng tôi áp dụng kỹ thuật 
Camey, Hautmann,Kock cải biên và đã được báo cáo 
trong các hội nghị trước đây(6). 
Tất cả bệnh nhân đều được theo dõi trong thời 
gian ít nhất 6 tháng để đánh giá tình trạng đường 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 297
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
tiểu, chức năng thận và sự hài lòng của bệnh nhân. 
Một số trường hợp tiêu biểu 
Trường hợp 1: bệnh nhân nam, sinh năm 1960. 
12/1986: mổ cắt bỏ toàn phần bọng đái và tiền 
liệt tuyến, 2 niệu quản mở ra da vì nghi sarcom tiến 
liệt tuyến (GS Hy+Bs Hiệp). Kết quả GPB: lao tiền 
liệt tuyến (PGS. Hạnh). Sau mổ, nhập viện nhiều lần 
vì dò trên mu. Điều trị bằng thuốc kháng lao (Bs Bùi). 
Kết quả kiểm tra sau điều trị lao: tốt. Bệnh nhân có 
mặc cảm với phương pháp chuyển lưu và có yêu cầu 
tạo hình. 
11/1998: 12 năm sau, 2 thận còn bài tiết tốt 
(Hình 1A) và được mổ tạo hình bọng đái bằng hồi 
tràng, nối với niệu đạo (Hình 1C). Còn 2 viên sỏi trên 
2 thận, cả 2 sỏi sau đó rơi xuống kẹt trong niệu quản 
(Hình 1B), đồng thời tiểu khó do hẹp chỗ nối bọng 
đái và niệu đạo (Hình 1D và 1E) 
1/1999: nội soi cắt rộng cổ bọng đái tân tạo, soi 2 
niệu quản và đẩy sỏi ngươc lên 2 thận. Tán sỏi thận P 
ngoài cơ thể, mở bể thận T lấy sỏi 
3/1999:nội soi cắt rộng cổ bọng đái lần 2. 
Bệnh nhân sau đó tiểu khá tốt, vòi nước tiểu 
mạnh, kiểm soát được cả ngày lẫn đêm, trở lại cuộc 
sống xã hội bình thường và rất vừa lòng với kết quả 
phẫu thuật. Dung tích bọng đái tân tạo trên 300 ml, X 
quang bọng đái-niệu đạo khi đang tiểu cho thấy niệu 
đạo không hẹp, chỗ nối với bọng đái tân tạo rộng, 
không có hiện tượng ngược dòng lên niệu quản và 
thận (Hình 1F). Theo dõi đến 5 năm sau mổ. 
Hình 1A 
Hình 1B
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 298 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
Hình 1E 
Trường hợp 2: bệnh nhân nữ, sinh năm 1954
1989: K đại tràng sigma xâm lấn bọng đái: cắt bỏ đại 
tràng sigma, nối lại ống tiêu hóa tận tận + cắt bỏ toàn 
phần bọng đái và đem 2 niệu quản ra da (Bs Hiệp+Bs 
Thảo). Két quả GPB: ung thư tuyến biệt hoá tốt. Hình 1C 
1992: bướu di căn thành bụng: cắt bỏ bướu + 
hóa trị (PGS Q. Nghiã) 
1994: bướu di căn gan: cắt bỏ phân thùy 2,3 + 
hóa trị (PGS Q. Nghiã) 
Bệnh nhân được thường xuyên theo dõi đến năm 
2003, khoẻ mạnh và có nguyện vọng tạo hình bọng đái. 
Các xét nghiệm kiểm tra trước mổ: 
Siêu âm: không có dấu hiệu di căn gan, hạch. 
Hình ảnh X quang phổi tốt. UIV cho thấy 2 thận bài 
tiết tốt. Soi đại tràng: sẹo cũ tại đại tràng sigma, 
không thấy hình ảnh nghi ngờ. Trị số các chất chỉ 
điểm: AFP = 3,79 (<20 ng/ml), CEA = 0,6 
(<3ng/ml), CA = 19-9 = 4,54 (<37 U/ml). Bệnh 
nhân do được theo dõi rất tốt nên không có dư chứng 
nhiều trên đường tiểu trên. 
Hình 1D: (hẹp chỗ nối,đầu dưới) 
5/2003: 14 năm sau khi phát hiện ung thư, 9 
năm sau lần mổ chót vì ung thư: tạo hình bọng đái 
thay thế kiểu túi Kock. 
Hiện bọng đái tân tạo có dung tích trên 300ml, 
tự thông mỗi 3 giờ/lần, hoàn toàn khô ráo giữa 2 lần 
thông. Hình ảnh 2 thận trở về bình thường (Hình 2A, 
Hình 2B). Hình 1E: (hẹp chỗ nối,đầu trên) 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 299
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
 Hình 2A Hình 2B
Trường hợp 3: bệnh nhân nam, sinh năm 
1933. 
1997: nhập viện trong tình trạng suy thận, thiểu 
niệu rồi vô niệu. Khám: tiền liệt tuyến lớn, cứng. Siêu 
âm: tiền liệt tuyến lớn, 2 niệu quản giãn đến vùng 
chậu, 2 thận chướng nước độ II. Trị số PSA: > 100 
ng/ml. Soi bọng đái, dự định đưa thông lên niệu quản 
nhưng thất bại. Bọng đái chống đối, dung tích nhỏ, 
không nhìn được thấy rõ 2 lỗ niệu quản, tại những vị 
trí nghi ngờ là miệng niệu quản thì không thể đưa 
thông vào được. Bệnh nhân được mổ cấp cứu, đưa 2 
niệu quản ra da. 
Sau đó, điều trị nội tiết: cắt bỏ 2 tinh hoàn + 
flutamide 250 mg x 3/ngày. Theo dõi 8 tháng, PSA 
giảm dần đến trị số nadir, tiền liệt tuyến nhỏ hẳn lại. 
Các xét nghiệm sinh hóa về chức năng thận trở lại 
bình thường. Bệnh nhân có nguyện vọng tái tạo lai 
đường tiểu. 
1998: làm rộng bọng đái bằng ruột, 2 niệu quản 
cắm lại vào phần bọng đái mở rộng. 
Bệnh nhân theo dõi 2 năm sau mổ. Bọng đái có 
dung tích > 300ml, vòi nước tiểu khá mạnh, kiểm 
soát tốt, 2 thận chỉ còn ứ nước dư chứng. Bệnh nhân 
bằng lòng với kết quả. 
Trường hợp 4: bệnh nhân nam, sinh năm 
1943. 
1998: nhập viện vì vô niệu. Đặt thông niệu đạo: 
niệu đạo hẹp, chỉ đặt được thông nhỏ (oxy số 8). Siêu 
âm: 2 thận chướng nước, bọng đái không nước tiểu. 
Mổ cấp cứu: 2 niệu quản đoạn chậu hẹp nhiều chỗ, 
trong lòng có chứa chất bã đậu. Cắt bỏ đoạn hẹp, gửi 
thử GPB. Đem 2 niệu quản ra da. Niệu quản T ngắn, 
phải đưa đoạn lưng ra da. Bọng đái nhỏ, xơ chai. Kết 
quả xét nghiệm sau mổ phù hợp lao, điều trị lao. 
1999: 1 năm sau, mổ tạo hình bọng đái. Bọng đái 
được làm rộng bằng hồi tràng, có 1 đoạn ruột được để 
nguyên ống, đưa lên cao để cắm lại 2 niệu quản. Niệu 
đạo và cổ bọng đái cắt rộng qua nội soi niệu đạo. 
Theo dõi 2 năm sau, nong kiểm tra niệu đạo 3 
lần. Bệnh nhân tiểu dễ, kiểm soát được và thoải mái 
với kết quả. 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 300 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. 
Phân loại 
Số lượng 
Bệnh gốc Phái Tuổi Thời gian sau 
chuyển lưu 
Kết quả 
Bọng đái 
thay thế, 
3TH 
Lao 
Viêm mãn 
K sigma 
xâm lấn 
bọng đái 
Nam 
Nam 
Nữ 
38 
42 
49 
12 năm 
11 năm 
14 năm 
Rất hài lòng
Hài lòng 
Hài lòng 
Bọng đái 
mở rộng, 
6 TH 
K tiền liệt 
tuyến 
Lao 
Viêm mãn 
Nam 
Nam 
Nam 
Nam 
Nam 
Nam 
65 
63 
56 
42 
45 
37 
8 tháng 
10 tháng 
1 năm 
1 năm 
1 năm 
9 tháng 
Hài lòng 
Hài lòng 
Hài lòng 
Rất hài lòng
Hài lòng 
Hài lòng 
BÀN LUẬN 
Về danh từ 
Phẫu thuật không chuyển lưu đúng nghĩa(2) là tái 
phục hồi đường tiểu, bệnh nhân đi tiểu lại qua đường 
tự nhiên tức là niệu đạo. Trên phụ nữ, vấn đề kiểm 
soát đường tiểu còn gặp khó khăn trong phẫu thuật 
tạo hình bọng đái thay thế nối với niệu đạo(9). Tiểu có 
kiểm soát lại đóng vai trò quan trọng trong chất lượng 
cuộc sống, do đó chúng tôi xin phép trong bài này 
cho chấp nhận phẫu thuật tạo hình bọng đái có van 
kiểm soát sau mở niệu quản ra da thuộc nhóm phẫu 
thuật không chuyển lưu. 
Về mặt chất lượng của phương pháp 
đem 2 niệu quản ra da 2 bên 
Đa số các phương pháp chuyển lưu vĩnh viễn 
thuộc về nhóm này và đây là phương pháp chuyển 
lưu không kiểm soát có chất lượng kém nhất: 
- Vị trí niệu quản tiếp khẩu ra da dễ bị biến thể: 
hẹp, co rút, hoại tử và bít hẳn nếu thông bị tuột ra 
ngoài, dù chỉ sau 1 thời gian ngắn 
- Hiện không có loại thông chuyên dùng, không 
tuột (self retaining) cho phương pháp chuyển lưu này 
như thông Foley cho bọng đái và thận. 
- Thường hay dò dỉ nước tiểu quanh thông, và 
thông hoạt động kém một chút do lệch, nghẹt là có 
thể gây sốt, đau. 
Vì vậy, đây là phương pháp chuyển lưu khó được 
bệnh nhân chấp nhận. Ngay cả các phương thức 
chuyển lưu tốt hơn, ví dụ phẫu thuật Bricker, vì tính 
chất không kiểm soát, đã được yêu cầu áp dụng phẫu 
thuật không chuyển lưu để cải thiện chất lượng 
sống(3,4,11). 
Những vấn đề kỹ thuật phải giải quyết 
2 niệu quản đã được mở ra da sau một thời gian 
dài sẽ xơ hóa, cứng, dày và mất nhu động. Đoạn xơ 
hóa nhiều nhất là đoạn đi qua thành bụng và mở ra 
da. Quá trình bộc lộ và giải phóng lại niệu quản càng 
làm tổn thương thêm. Nếu giải phóng đoạn dài sẽ 
làm thiếu máu nuôi niệu quản, nhất là đoạn dưới. 
Phần còn lại được giữ lại là bao nhiêu là vấn đề phải 
cân nhắc. Nếu chiều dài niệu quản còn sử dụng được 
càng ngắn bao nhiêu thì sự khó khăn trong việc nối 
xuống dưới càng nhiều bấy nhiêu. 
Phải thiết lập một khoang trống ở hạ vị (vị trí cũ 
của bọng đái) để có chỗ đặt bọng đái mới. Nếu đã có 
cắt bỏ bọng đái trước đây thì mô xơ, sẹo cũ sẽ nhiều. 
Nếu trước đây có mở phúc mạc vào bụng (thao tác 
cần làm trong cắt bọng đái tận gốc) thì có thể có 
những quai ruột dính vào vùng chậu hoặc vết mổ 
thành bụng, và phải gỡ ruột. Việc chọn lựa một đoạn 
ruột tốt, đủ dài theo yêu cầu sẽ phức tạp hơn. 
Những biến chứng ở đường tiểu trên, thường 
nhất là sỏi, nhiễm trùng, chức năng thận cũng như 
khả năng phục hồi của thận sau mổ cần được đánh 
giá, và phải được giải quyết cùng lúc mổ tạo hình hay 
định phương hướng giải quyết sau này. 
Về tình trạng tâm lý của bệnh nhân 
Vai trò tâm lý người bệnh rất quan trọng trong cả 
giai đoạn trước và sau mổ, nhất là trên những bệnh 
nhân bị bệnh ác tính. Một bệnh nhân muốn buông 
xuôi tất cả khi biết mình bị ung thư chắc chắn không 
phải là ứng cử viên tốt cho loại phẫu thuật này. Tinh 
thần lạc quan, muốn sống lâu, sống thoải mái ảnh 
hưởng tốt đến chính bệnh gốc và cũng là điều kiện 
cho thấy trước là người bệnh sẽ tái khám thường 
xuyên, sẽ tuân thủ sau mổ những hướng dẫn điều trị: 
bệnh nhân cần được tập luyện để làm quen với bọng 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 301
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
đái mới về cả mặt cảm giác lẫn vận động. Một bệnh 
nhân lạc quan sẽ cho một kết quả điều trị tốt. 
Tương lai của phẫu thuật 
Bệnh viện Bình Dân, ngoại trừ một số trường 
hợp đăc biệt, không nhận điều trị cho bệnh nhi, và do 
đó cũng gặp ít bệnh bẩm sinh. Bệnh nhân càng trẻ 
tuổi bao nhiêu thì ưu điểm của phẫu thuật càng được 
phát huy bấy nhiêu. Bệnh nhân dễ dàng chấp nhận 
cơ quan mới, cơ quan mới cũng dễ dàng thay đổi để 
thích nghi với vai trò yêu cầu. Chúng tôi mong muốn 
được có điều kiện triển khai phẫu thuật không 
chuyển lưu trên những dạng bệnh lý khác như bọng 
đái thần kinh, bọng đái ngoại dưỡng (lộ thiên)(2,5,10,11). 
KẾT LUẬN 
Khuynh hướng chung trên thế giới hiện nay là 
trong yêu cầu điều trị phải chú trọng đến chất lượng 
cuộc sống. Tính chất thoải mái, vui vẻ cũng đã được 
đưa vào định nghĩa sức khỏe của Tổ Chức Y Tế Thế 
Giới. Các phương pháp chuyển lưu đường tiểu không 
kiểm soát (vĩnh viễn) càng ngày càng bị bãi bỏ. Phẫu 
thuật tái phục hồi lại đường tiểu không phải khó thực 
hiện lắm nếu chúng ta có quyết tâm, với những bệnh 
nhân lạc quan và được giải thích kỹ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Boyd SD, Esrig D, Stein JP, Freeman JA, Skinner DG: 
Undiversion in men following prior cystoprostatectomy 
and cutaneous diversion. Is it practical?: J Urol, 1994, 
152: 334-337 
2. Hendren WH: Urinary undiversion: refunctionalization 
of the previously diverted urinary tract: Campbell’s 
Urology, 6th edition, V3, 1992: 2721-2773 
3. DeSy WA, Goerdin A, Lauweryns A: Undiversion after 
previous cystectomy and Bricker derivation: Eur Urol, 
1994, 25 (1):16-18 
4. Gotoh M, Saito M, Kaito K, Kondo A, Mitsuya H, 
Miyake K: A case of urinary undiversion from ileal 
conduit loop: Hinyokika Kiyo, 1990, 36 (2):165-170 
5. Herschorn S, Rangaswamy S, Radomski SB: Urinary 
undiversion in adults with myelodysplasia, long term 
follow up: J Urol, 1994, 152:329-333 
6. Oánh ĐQ, Ty VV, Vinh NT, Aân NV, Hoàng NPC: Tạo 
hình bọng đái bằng hồi tràng kiểu áp lực thấp: Sách 
tóm lược những công trình trong tổng kết NCKH và cải 
tiến kỹ thuật 10 năm tại BVBD, trang 213 
7. Romero MJ, Fernandez FA, Ruiz ZC, Perales CL, 
Escuredo BA: Urinary dediversion, technical 
modification for creating a low pressure bladder: Arch 
Esp Urol, 1990, 43 (5): 451-454 
8. Selli C, Carini M, Lapini A, Tosto A: Undiversion with 
ileocecal segment following high transureterou-
reterostomy: Eur Urol, 1989, 16 (4): 315-316 
9. Stein JP, Ginsberg DA, Grossfeld GD, Esrig D, 
Freeman JA, Boyd SD, Skinner DG, Lievkovsky G: 
Orthotopic reconstruction in a woman following 
cystectomy and cutaneous urinaty diversion. The 1st 
reported case: Eur Urol, 1997, 32 (4): 499-502 
10. Stewart D., Jonhson HW, Monoley PJ, Arnold WJ, 
Sawatztky BJ: Undiversion in patients with 
meningomyelocele: Can J Surg, 1989, 32 (3):214-217 
11. Woodhouse CR, Pope AJ: Alternatives to urinary 
diversion with a bag: results in 100 patients: Br Urol, 
1993, 72: 580-585 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 302 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phaau_thuat_khoang_chuyen_lu_trong_nieu_khoa.pdf phaau_thuat_khoang_chuyen_lu_trong_nieu_khoa.pdf