Tình hình nhiễm sán lá ruột ở cộng đồng dân cư phường Phú Cát, Thành phố Huế

Tài liệu Tình hình nhiễm sán lá ruột ở cộng đồng dân cư phường Phú Cát, Thành phố Huế: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Chuyên đề ký sinh trùng 9 TÌNH HÌNH NHIỄM SÁN LÁ RUỘT Ở CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ PHƯỜNG PHÚ CÁT - THÀNH PHỐ HUẾ Ngô Chân*, Tôn Nữ Phương Anh* TÓM TẮT Từ tỉ lệ nhiễm sán lá ruột (Fasciolpsis buski): 1,75% ở phường Phú Cát và nghiên cứu chu kỳ sinh thái của F. buski và F. hepatica đều có giai đoạn ký sinh ở các loại thực vật thuỷ sinh; chúng tôi nghiên cứu đề tài nầy và rút ra kết luận: - Đường truyền nhiễm chủ yếu của bệnh ở vùng này là: ăn sống các loại rau trồng dưới nước. - Sán lá ruột có tuổi thọ thấp dưới một năm. - Biện pháp dự phòng là quan trọng có thể phòng được nhiểm sán lá ruột cũng như sán lá gan. - Triệu chứng nhiểm sán lá ruột không điển hinh nên người cán bộ y tế phải quan tâm, khi bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn tiêu hoá cần cho làm xét ...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 152 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình nhiễm sán lá ruột ở cộng đồng dân cư phường Phú Cát, Thành phố Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Chuyên đề ký sinh trùng 9 TÌNH HÌNH NHIỄM SÁN LÁ RUỘT Ở CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ PHƯỜNG PHÚ CÁT - THÀNH PHỐ HUẾ Ngô Chân*, Tôn Nữ Phương Anh* TÓM TẮT Từ tỉ lệ nhiễm sán lá ruột (Fasciolpsis buski): 1,75% ở phường Phú Cát và nghiên cứu chu kỳ sinh thái của F. buski và F. hepatica đều có giai đoạn ký sinh ở các loại thực vật thuỷ sinh; chúng tôi nghiên cứu đề tài nầy và rút ra kết luận: - Đường truyền nhiễm chủ yếu của bệnh ở vùng này là: ăn sống các loại rau trồng dưới nước. - Sán lá ruột có tuổi thọ thấp dưới một năm. - Biện pháp dự phòng là quan trọng có thể phòng được nhiểm sán lá ruột cũng như sán lá gan. - Triệu chứng nhiểm sán lá ruột không điển hinh nên người cán bộ y tế phải quan tâm, khi bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn tiêu hoá cần cho làm xét nghiệm phân để chẩn đoán. SUMMARY STUDY ON FASCIOLOPSIS BUSKI INFECTION IN PHU CAT COMMUNE, HUE CITY Ngo Chan, Ton Nu Phuong Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Special issue of Parasitology - Vol. 5 - Supplement of No 1 - 2001: 9 - 15 Following our study last year ( the prevalence of F. buski in Phu Cat commune: 1.75%, 1999); and based on the finding that F. buski and F. hepatica life cycle has the encysted stage in water vegetables, we carry out this pilot study. Our conlusions are: -The main transmission of F. buski /F. hepatica in this area is eating raw aquatic vegetables. - The life span of an adult F. buski is only a few months.- The prophylaxis is important and easy to control F. buski as also F. hepatica infection. - Infection with F. buski is often symptomless. Therefore the physician should take care of them, and formalin-ether concentration method to examine stool of patient with digestive symptoms should be done. ĐẶT VẤN ĐỀ Sán lá ruột (Fasciolopsis buski) và sán lá gan lớn (Fasciola hepatica & Fasciola gigantica) là loại sán lá lớn thuộc họ Echinostomatoidea ký sinh ở người gây bệnh. Người ta ước tính khoảng 10 triệu người trên thế giới nhiễm Fasciolopsis buski, thường gặp nhất ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ và Bangladesh (9,10) . Fasciola hepatica gặp chủ yếu ở vùng ôn đới có chăn nuôi cừu. Fasciola gigantica phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á, Châu Phi, Nhiệt đới (9,10) . Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới và là một trong những nước đang phát triển, nền kinh tế còn nhiều lạc hậu đã làm ảnh hưởng đến tình hình nhiễm sán lá ruột. Năm 1947 Galliard và Đặng văn Ngữ đã gặp 5 trường hợp bệnh nhân nhiễm sán lá ruột ở bệnh viện Hà Nội. Năm 1971 Phan Chung Sang phát hiện 6 trường hợp bệnh nhân nhiễm sán lá ruột ở đồng bằng sông Cửu Long và theo Đỗ Dương Thái năm 1959 tỷ lệ người Việt Nam khoảng 0,08% bị nhiễm sán lá ruột (2) . Từ tỷ lệ nhiễm sán lá ruột Fasciolopsis buski khá cao ở Phường Phú Cát Thành phố Huế 1,75% (Theo điều tra của Bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại Học Y Huế tháng 3/1999) (1) và nghiên cứu chu kỳ sinh thái của Fasciolopsis buski, Fasciola hepatica đều có giai đoạn ký sinh ở các loại thực vật thủy sinh; người mắc bệnh do ăn các loại rau thủy sinh này chưa được nấu chín; chúng tôi đặt * Bộ mônKý sinh trùng Trường Đại học Y Khoa Huế Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Chuyên đề ký sinh trùng 11 vấn đề thực hiện đề tài “Tình hình nhiễm sán lá ruột ở cộng đồng dân cư phường Phú Cát - thành phố Huế” nhằm mục đích: 1. Tìm hiểu các loại rau thủy sinh thường được dùng để ăn sống ở Huế có khả năng gây nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsis buski) ở người để làm tiền đề cho các nghiên cứu về sau. 2. Nhận xét biểu hiện lâm sàng của bệnh nhiễm sán lá ruột. 3. Từ đó rút ra biện pháp dự phòng thích hợp góp phần chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nhân dân sống ở địa bàn đường Chi Lăng và bờ sông Hương thuộc phường Phú Cát Thành phố Huế là một vùng thuộc địa phận phía Bắc Sông Hương. Với địa bàn chật hẹp dân cư đông đúc đa số là nhân dân lao động có tập quán và thói quen ăn uống chưa bảo đảm vệ sinh, đã thế hằng năm lại phải chịu tác hại lớn của nhiều trận lũ lụt, chính vì lẽ đó đã làm ảnh hưởng không ít đến vấn đề vệ sinh môi trường cũng như vấn đề sức khỏe, đặc biệt là các bệnh giun sán. Từ số liệu có được qua kết quả nghiên cứu điều tra của Bộ môn Ký Sinh Trùng Trường Đại Học Y Khoa Huế tháng 3-1999, chúng tôi đã chọn đối tượng để nghiên cứu gồm: - Số hộ gia đình có thành viên bị nhiễm sán lá ruột gồm 30 hộ. Trong đó có 34 người bị nhiễm và 126 người không bị nhiễm. - Số hộ gia đình không có thành viên bị nhiễm sán lá ruột cũng như các loại giun sán khác gồm 5 hộ chứng. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu trên lâm sàng Bằng cách phỏng vấn tất cả 160 thành viên của 30 hộ gia đình (Nhóm bệnh) và 31 thành viên của 5 hộ gia đình (Nhóm chứng) bằng phiếu điều tra . Phương pháp nghiên cứu bằng cách xét nghiệm phân Chúng tôi xét nghiệm phân cho 34 bệnh nhân nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsis buski) bằng phương pháp Formalin-Ether để đánh giá khả năng tự đào thải của sán lá ruột trong cơ thể người. Không gian và thời gian nghiên cứu Không gian Dân cư địa bàn đường Chi Lăng và Bờ sông Hương thuộc Phường Phú Cát TP Huế. Thời gian - Từ tháng 3- 4/2000: tiến hành điều tra phỏng vấn và lấy phân làm xét nghiệm. - Từ tháng 5 -8/2000 xử lý số liệu và viết báo cáo kết quả. Kỹ thuật thực hiện Xét nghiệm phân bằng phương pháp Formalin- Ether (7,8,11) . Cách thu thập mẫu phân và bảo quản - Mẫu lọ đựng phân sạch, khô, kín có ghi họ tên và số của bệnh nhân theo danh sách. - Mẫu phân đuợc thu thập trong vòng 24 giờ sau khi phát lọ để lấy phân và được chuyển ngay đến Bộ môn Ký sinh trùng Đại học Y Huế để bảo quản trong 3ml dung dịch Formalin 10%. Phương pháp xử lý Kết quả sẽ được xử lý bằng phương pháp thống kê y học. KẾT QUẢ Kết quả xét nghiệm phân - Từ kết quả nghiên cứu của Bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại Học Y Khoa Huế tháng 3/1999 (1) với số bệnh nhân bị nhiễm sán lá ruột là 35 người (hiện nay 1 người chuyển đi nơi khác). Chúng tôi tiến hành lấy mẫu phân xét nghiệm lại cho số bệnh nhân này thì chỉ còn 24/34 trường hợp (+) (70,59%) và 10/34 trường hợp (-) (29,41%). - Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với y văn ghi nhận tuổi thọ của Fasciolopsis buski khoảng 6 tháng, cho nên không điều trị và không tái nhiễm thì sán sẽ được đào thải tự nhiên (5) . Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Nghiên cứu Y học Chuyên đề ký sinh trùng 12 Tình hình sử dụng các loại rau thủy sinh để ăn sống Nhóm bệnh Kết quả sử dụng rau sống của 34 người bệnh - Tỷ lệ sử dụng 4 loại rau. Bảng 1. Tên rau Tên khoa học Thuộc họ Số người Tỷ lệ (%) Ngó sen Nelumbonucifera gaerth Nelumbonaceae 1/34 2,94 Rau ngỗ Enhydrafluctuans lour Compositae 8/34 23,53 Rau muống Ipomoea reptans Convolvulaceae 17/34 50,00 Xà lách xoong Rorippa nastarium aquaticum Brassicaceae(4) 33/34 97,06 - Tỷ lệ không sử dụng 1 trong 4 loại rau trên: 0%. Kết quả sử dụng rau sống của 126 thành viên khác trong gia đình bệnh nhân . - Tỷ lệ sử dụng 4 loại rau. Bảng 2. Tên rau Tên khoa học Thuộc ho Số người Tỷ lệ (%) Ngó sen Nelumbonucifera gaerth Nelumbonaceae 13/126 10,31 Rau ngỗ Enhydrafluctuans lour Compositae 57/126 45,24 Rau muống Ipomoea reptans Convolvulaceae 97/126 76,98 Xà lách xoong Rorippa nastarium aquaticum Brassicaceae 120/ 126 95,24 - Tỷ lệ không sử dụng 1 trong 4 loại rau 4/126: 3,17%. Nhóm chứng Tỷ lệ sử dụng 4 loại rau sau: Bảng 3 Tên rau Tên khoa hoýc Thuộc họ Số người Tỷ lệ (%) Ngó sen Nelumbonucifera gaerth Nelumbonaceae 0/31 0 Rau ngỗ Enhydrafluctuans lour Compositae 6/31 19,35 Rau muống Ipomoea reptans Convolvulaceae 8/31 25,80 Xà lách xoong Rorippa nastarium aquaticum Brassicaceae 26/31 83,87 Tỷ lệ không sử dụng 1 trong 4 loại rau 4/31: 12,90%. (Trong đó 3 trẻ em <5 tuổi và 1 người già) Tỷ lệ sử dụng rau sống trên tổng số người điều tra: 183/191: 95,81% Bảng 4 . So sánh tỷ lệ sử dụng rau của nhóm bệnh và chứng. Tên rau Nhóm bệnh Nhóm chứng Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Ngó sen 1/34 2,94 0/31 0,00 Rau ngỗ 8/34 23,53 6/31 19,35 Rau muống 17/34 50,00 8/31 25,80 Xà lách xoong 33/34 97,06 26/31 83,87 - Hầu hết nhân dân trong vùng này đều sử dụng rau sống ít nhất là 2 loại rau ở dưới nước, chỉ có một số ít không sử dụng đó là trẻ em <5 tuổi và người già. - Loại rau được sử dụng cao nhất là xà lách xoong, loại rau sử dụng ít nhất là ngó sen. - Trong nhóm bệnh thì tỷ lệ sử dụng rau của người bị bệnh và các thành viên trong gia đình không khác biệt mấy. - Có tỷ lệ sử dụng rau sống cao ở nhóm bệnh so với nhóm chứng nhất là rau muống. Tình hình nuôi gia súc (Lợn) 1 Hộ / 30 hộ: 3,33% rơi vào gia đình có người nhiễm sán. Tình hình nghề nghiệp Bảng 5 Nghề nghiệp Số người Tỷ lệ % 1. Bán rau 12/34 35,29 2. Cán bộ công nhân viên 8/34 23,53 3. Học sinh 6/34 17,65 4. Nông nghiệp 4/34 11,76 5. Buôn bán khác 4/34 11,76 - Không có sự khác biệt rõ rệt giữa nghề nghiệp và tỷ lệ nhiễm. Triệu chứng của người nhiễm sán lá ruột Bảng 6 Triệu chứng Số trường hợp Tỷ lệ % 1. Số người có triệu chứng. 24/34 70,58 2. Đau vùng thượng vị 21/34 61,76 3. Buồn nôn hoặc nôn 13/34 38,24 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Chuyên đề ký sinh trùng 13 Triệu chứng Số trường hợp Tỷ lệ % 4. Bụng chướng hơi 13/34 38,24 5. Tiêu chảy 10/34 29,41 6. Phù 2/34 5,88 7. Không có triệu chứng 10/34 29,41 - Trong số này có 2 /34 bệnh nhân (5,88%) có tiền sử loét dạ dày tá tràng từ trước (được chẩn đoán bằng nội soi) nên không thể phân biệt được triệu chứng đó là của sán lá ruột hay của bệnh loét dạ dày tá tràng. - Qua kết quả điều tra có được đa số bệnh nhân nhiễm sán có ít nhất là 2 triệu chứng. - Triệu chứng thường gặp nhất là: Đau vùng thượng vị, buồn nôn, bụng chướng hơi, tiêu chảy. BÀN LUẬN Quần thể nghiên cứu Trong thời gian nghiên cứu thu thập số liệu để thực hiện đề tài này chúng tôi tiến hành tại thực địa với tổng số hộ nghiên cứu là 35 trong đó: - Nhóm bệnh 30 hộ tất cả 160 thành viên gồm 34 người bệnh (người nhiễm sán lá ruột) và 120 người không nhiễm . - Nhóm chứng 5 hộ gồm 31 thành viên. Qua thời gian điều tra nghiên cứu trên chúng tôi rút ra được các nhận xét sau: Mặc dù sống trong địa bàn của thành phố nhưng khu vực chúng tôi thực hiện dọc theo đường Chi Lăng và Bờ sông Hương đa số là nhân dân lao động thu nhập thấp, đời sống vật chất kinh tế khó khăn, kiến thức về bệnh tật nói chung và bệnh giun sán nói riêng còn rầt nhiều hạn chế. Chính vì lẽ đó người ta quan tâm chưa đúng mức đến tình hình bênh tật của bản thân và gia đình. Vì vậy đã gây cho chúng tôi không ít khó khăn trong vấn đề điều tra nghiên cứu. Tuy vậy, nhưng chúng tôi đã cố gắng giải thích kỷ về sự nguy hiểm của bệnh tật, cũng như động viên để bệnh nhân hiểu được tầm quan trọng của bệnh và đã hợp tác cùng chúng tôi cuối cùng đã thu được 100% mẫu phân và thu được những thông tin, số liệu cần thiết mang tính khách quan qua bảng phỏng vấn. Tình hình nhiễm sán lá Môi trường Thành phố Huế có nhiều ao hồ trồng rau muống, bèo hoa dâu và các loại thực vật sống ở nước khác như khu vực hồ Tịnh Tâm, các ao hồ quanh Đại Nội và các ao hồ khác khắp thành phố. Không những thế các địa điểm trồng rau này lại bị ô nhiễm phân người và gia súc (3) , cũng là nơi sinh sống của các loài ốc nước ngọt. Đây là môi trường hoàn toàn thuận lợi cho sán lá ký sinh ở người (Fasciolopsis buski, Fasciola hepatica) hoàn thành chu kỳ từ giai đoạn trứng thải ra ngoài theo phân người và sức vật đến giai đoạn phát triển thành nang ấu trùng (Metacercaire) có khả năng gây nhiễm Đường lây truyền Kết quả điều tra của chúng tôi cho thấy: Hầu như 100% dân chúng dùng rau sống nhất là các loại rau mọc ở nước (một số rất ít không dùng rơi vào trẻ em và người già) cũng như không có sự khác biệt lớn giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Điều này chứng tỏ mọi người đều có khả năng nhiễm nang ấu trùng sán lá. Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả: loại rau thủy sinh được sử dụng để ăn sống nhiều nhất là xà lách xoong và không có sự khác biệt giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Ngược lại rau muống được sử dụng nhiều ở nhóm bệnh hơn hẳn nhóm chứng (p<0,001), các loại rau khác sự chênh lệch không đáng kể. Hơn nữa ao hồ của thành phố Huế chủ yếu trồng rau muống, từ đó chúng tôi bước đầu rút ra nhận xét: Trong các loại rau thủy sinh mà các đối tượng nhiễm sán lá ruột thường dùng thì rau muống là loại rau có khả năng gây nhiễm cao nhất. Để làm sáng tỏ điều này chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về sau. Nhiễm sán lá ruột là một bệnh chung cho cả người và lợn. Điều tra dịch tễ học nhiễm sán lá ruột ở lợn chiếm tỷ lệ 80% (6) . Điều tra của Trần văn Hải (Học viện Y Huế 1984) (2) quan sát ở 12 con lợn được mổ thịt thì có 4 trường hợp có sán lá ruột ở tá tràng (5) . Cho nên nuôi lợn cũng là một nguồn lây nhiễm. Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1/35 hộ gia đình có chăn nuôi lợn, vậy ở quần thể nghiên cứu của chúng tôi nhiễm sán lá ruột qua Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Nghiên cứu Y học Chuyên đề ký sinh trùng 14 dùng thực vật thủy sinh chăn nuôi gia súc và tình cờ nhiễm do không rữa tay thật sạch trước khi ăn không phải là đường truyền chủ yếu. Mặt khác chúng tôi cũng nhận thấy không có sự khác biệt về nghề nghiệp liên quan đến tỷ lệ nhiễm sán. Vậy cách lây truyền do dùng răng tướt vỏ các loại thực vật sống ở nước có thể gặp ở người làm nông nghiệp hay buôn bán rau cũng không phải là đường truyền chính. Tóm lại đường lây truyền của bệnh ở đây là do ăn sống các loại rau trồng ở nước nhất là rau muống. Trong khi chưa có điều kiện tìm nang trùng ở các loại thực vật nói trên chúng tôi có thể đề ra biện pháp dự phòng thích hợp nhưng cũng cần lưu ý các đường lây truyền khác mà chúng tôi đã bàn luận ở trên nhằm đạt hiệu quả phòng bệnh tốt nhất. Tình hình nhiễm sán Kết quả xét nghiệm phân có 10 trường hợp sạch trứng trong phân (29,41%), có 2 khả năng xảy ra: - Bệnh nhân dùng thuốc tẩy sán. - Sán hết tuổi thọ và bệnh nhân không bị tái nhiễm. Ở đây chúng tôi nhận thấy nhiễm sán lá ruột là một loại ký sinh trùng hiếm gặp, tỷ lệ thấp (1,75%) (1) so với các loại ký sinh trùng đường ruột khác, xét nghiệm phân thông thường khó phát hiện nên chúng tôi loại trừ khả năng bệnh nhân dùng thuốc tẩy sán. Nghiên cứu của chúng tôi một lần nữa khẳng định tuổi thọ của sán lá ruột thấp (dưới 1 năm) phù hợp với y văn. Từ đó chúng tôi nhận thấy biện pháp dự phòng là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh nhiễm sán lá. Đồng thời cũng giải thích tại sao điều kiện môi trường thuận lợi và tập quán ăn rau sống ở quần thể nghiên cứu phù hợp với nhiễm sán lá nhưng tỷ lệ mắc lại thấp. Liên hệ với sán lá gan lớn Từ nghiên cứu về môi trường, thói quen ăn uống chúng tôi thấy thành phố Huế nói chung hay phường Phú Cát nói riêng có đủ điều kiện thuận lợi cho sán lá ruột hoàn thành chu kỳ sinh thái, do đó cũng là điều kiện thuận lợi cho sán lá gan lớn hoàn thành chu kỳ sinh thái của nó. Mặc dù tình hình nhiễm sán lá gan lớn chúng tôi chưa đủ điều kiện để phát hiện, chẩn đoán xét nghiệm dịch tá tràng, xét nghiệm huyết thanh học mặc dù chúng tôi đã dùng kỷ thuật xét nghiệm phân phong phú Formalin- Ether nhưng lượng trứng thải ra phân rất ít cũng khó bắt gặp. Do đó nghiên cứu của chúng tôi nhằm đưa ra vấn đề chẩn đoán bệnh sán lá gan lớn rất cần được người cán bộ y tế quan tâm nhất là bệnh thường không có triệu chứng, khi có triệu chứng thì bệnh đã nặng. Thêm vào đó dự phòng nhiễm sán lá ruột cũng đồng thời phòng nhiễm sán lá gan lớn; một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của các biện pháp dự phòng nhiễm sán lá. Về triệu chứng học Nghiên cứu triệu chứng lâm sàng ở các bệnh nhân nhiễm sán lá ruột chúng tôi nhận thấy: Triệu chứng lâm sàng của bệnh không điển hình dễ nhầm lẫn với triệu chứng của các bệnh đường tiêu hoá khác. Do đó vấn đề chẩn đoán cận lâm sàng (công thức máu) kết hợp với xét nghiệm phân rất quan trọng để chẩn đoán và điều trị bệnh KẾT LUẬN 1. Phường Phú Cát hay thành phố Huế nói chung hội đủ điều kiện để sán lá ruột cũng như sán lá gan lớn hoàn thành chu kỳ, gây nhiễm cho người. 2. * Đường lây truyền chủ yếu của bệnh sán lá ruột ở Phường Phú Cát và thành phố Huế nói chung có thể do ăn uống các loại rau trồng dưới nước: rau ngỗ, ngó sen. Rau muống, xà lách xoong,...là các loại rau chủ yếu cần được nghiên cứu tiếp để tìm các nang sán và xác định chính xác. * Các đường truyền khác chiếm vị trí thứ yếu: - Dùng thực vật thủy sinh làm thức ăn để chăn nuôi gia súc. - Nghề nghiệp tiếp xúc với rau tình cờ bị nhiễm. 3. Sán lá ruột có tuổi thọ thấp dưới một năm nếu không có tái nhiễm. 4. Biện pháp dự phòng là rất cần thiết và rất quan trọng vì có thể tránh được nhiễm sán lá ruột và cả sán lá gan lớn đây là loại bệnh sán lá nguy Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 1 * 2001 Chuyên đề ký sinh trùng 15 hiểm nhưng ít được lưu ý chẩn đoán và khó điều trị. 5. Triệu chứng nhiễm sán lá ruột không điển hình nên người cán bộ y tế cần phải quan tâm, nhất là ở các bệnh nhân ở trong vùng dịch tễ có các triệu chứng rối loạn tiêu hóa chưa tìm ra nguyên nhân thì phải nghĩ đến khả năng bệnh nhân bị nhiễm sán lá ruột để cho làm xét nghiệm cận lâm sàng nhất là xét nghiệm phân giúp chẩn đoán ở quần thể có nguy cơ cao. ĐỀ NGHỊ Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi có những đề nghị sau: Đối với nhân dân Cần được giáo dục sức khỏe phòng bệnh ký sinh trùng đường ruột nói chung và phòng nhiễm sán như sau: - Không nên dùng rau muống, xà lách xoong, rau ngỗ, ngó sen và các thực vật thủy sinh khác của địa phương chưa được nấu chín. - Rữa tay thật sạch trước khi ăn, sau khi cho lợn ăn các loại thực vật thủy sinh chưa được nấu chín. - Khi có các triệu chứng: đau vùng thượng vị, buồn nôn hay nôn, bụng chướng hơi tiêu chảy, phù cần đi khám bệnh và làm xét nghiệm phân tìm trứng giun sán. - Không dùng thực vật thủy sinh chưa nấu chín làm thức ăn gia súc. - Sử dụng hố xí hợp vệ sinh, không làm hố xí và chuồng gia súc trên, cạnh sông hồ. Đối với nhân viên y tế tuyến cơ sở Thường xuyên truyền thông giáo dục sức khỏe cho nhân dân các vấn đề đã nêu trên qua loa phát thanh địa phương, phát tờ rơi, trao đổi giáo dục trực tiếp qua các lần khám kiểm tra sức khỏe lồng ghép với các chương trình khác. Đối với nhân viên y tế tuyến trung ương - Luôn luôn lưu ý khả năng nhiễm sán lá ruột, sán lá gan lớn ở quần thể nguy cơ trong công tác khám chữa bệnh. - Cần làm xét nghiệm phân bằng kỹ thuật Formalin- Ether nhằm tránh bỏ sót chẩn đoán ở các trường hợp biểu hiện lâm sàng không điển hình. - Báo cáo trường hợp bệnh về địa phương để tăng cường công tác phòng bệnh, giáo dục sức khỏe tại cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TÔN NỮ PHƯƠNG ANH, PHẠM VĂN LÌNH, TRƯƠNG QUANG ÁNH. Nghiên cứu dịch tễ học nhiễm ký sinh trùng đường ruột ở phường Phú Cát thành phố Huế, Y hoc thành phố Hồ Chí Minh- Số đặc biệt Hội nghị Khoa học tuổi trẻ các trường Đại học Y Dược Việt Nam lần thứ 10. Phụ bản tập 4 số 2 năm 2000: 101-106. 2. TRẦN VĂN HẢI - Tình hình sán lá ruột (Fasciolopsis buski) tại Huế. Tiểu luận tốt nghiệp Y Khoa 1978-1984. 3. NGUYỄN VĂN HỢP. Environmental issue of lake and canal system in Hue Citadel-Trường Đại học Khoa học Huế- 1997. 4. ĐỖ TẤT LỢI. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. 5. TRẦN XUÂN MAI- Ký sinh trùng y học. Trung tâm ĐT- BDCBYT, 1994 tr 197-200. 6. ĐỖ DƯƠNG THÁI. TRỊNH VĂN TRINH. Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam. NXB KH&KT 1978 tập 2 . 7. ASH LR, ORIHEL TC: Parasites: a guide to laboratory procedure and identification. American society of clinical Parasitologist, 1991. P. 11-35. 8. CHESSBROUGH M: Medical laboratory manual for Tropical countries. Tropical Health technology, 1991.P. 310-314. 9. GENTILINI M: Médecine Tropicale. Flammarion - Médecine Sciences 1993, pp.239. 10. WALKER TS: Microbiology. W.B Sauder, 1998, p 427-431, 470- 472. 11. WENTWORTH BB: Diagnostic procedure for mycotic and parasitic infection. American Public Health Association 1988. P. 418-420. 12. WHO. Basic laboratory methods in Medical Parasitology. WHO, 1991, p.16.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftinh_hinh_nhiem_san_la_ruot_o_cong_dong_dan_cu_phuong_phu_ca.pdf
Tài liệu liên quan