Tài liệu Phẫu thuật cắt khối tá tụy cho bệnh đầu tụy và quanh bóng vater: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
PHẪU THUẬT CẮT KHỐI TÁ TỤY CHO BỆNH ĐẦU TỤY 
VÀ QUANH BÓNG VATER 
Nguyễn Minh Hải*, Hồ Sĩ Minh*, Hồ Cao Vũ* 
TÓM TẮT 
Mục đích: Đánh giá tình hình phẫu thuật cắt khối tá tụy tại khoa ngoại tổng quát trong vòng 4 năm ở 
những bệnh nhân có bệnh lý ở đầu tụy và quanh nhú Vater. 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 72 bệnh nhân có bệnh lý vùng đầu tụy và quanh bóng Vater 
được phẫu thuật cắt bỏ khối tá tụy từ tháng 4/1997 tới tháng 10/2001. Đánh giá và phân tích kết quả tỉ lệ tử 
vong và biến chứng sớm của phẫu thuật. 
Kết quả: Tỉ lệ tử vong sau mổ nói chung ở 8/72 (11%) bệnh nhân, nhưng trong đó tỉ lệ tử vong liên 
quan tới biến chứng phẫu thuật như xì rò miệng nối chỉ ở 2 bệnh nhân (2.8%) (1 rò tụy và 1 rò mật), 6 bệnh 
nhân khác chết do các nguyên nhân như suy gan và su...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 659 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật cắt khối tá tụy cho bệnh đầu tụy và quanh bóng vater, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
PHẪU THUẬT CẮT KHỐI TÁ TỤY CHO BỆNH ĐẦU TỤY 
VÀ QUANH BÓNG VATER 
Nguyễn Minh Hải*, Hồ Sĩ Minh*, Hồ Cao Vũ* 
TÓM TẮT 
Mục đích: Đánh giá tình hình phẫu thuật cắt khối tá tụy tại khoa ngoại tổng quát trong vòng 4 năm ở 
những bệnh nhân có bệnh lý ở đầu tụy và quanh nhú Vater. 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 72 bệnh nhân có bệnh lý vùng đầu tụy và quanh bóng Vater 
được phẫu thuật cắt bỏ khối tá tụy từ tháng 4/1997 tới tháng 10/2001. Đánh giá và phân tích kết quả tỉ lệ tử 
vong và biến chứng sớm của phẫu thuật. 
Kết quả: Tỉ lệ tử vong sau mổ nói chung ở 8/72 (11%) bệnh nhân, nhưng trong đó tỉ lệ tử vong liên 
quan tới biến chứng phẫu thuật như xì rò miệng nối chỉ ở 2 bệnh nhân (2.8%) (1 rò tụy và 1 rò mật), 6 bệnh 
nhân khác chết do các nguyên nhân như suy gan và suy thận (3), tim mạch (1), khác (2). Tỉ lệ biến chứng 
chung là 32% (trong đó rò miệng nối tụy 4 (5.5%), rò mật 5 (6.9%), rò dạdày-ruột 1 (1.4%), chảy máu tiêu 
hóa 3 (4.2%), chảy máu qua dẫn lưu 4 (5.5%). 
Kết luận: Tỉ lệ tử vong liên quan tới biến chứng tại miệng nối tụy đã giảm nhiều so với trước đây dường 
như do tiến bộ về kỹ thuật phẫu thuật và tình trạng chăm sóc, hồi sức tốt hơn. Tuy nhiên, cần đánh giá tình 
trạng bệnh nhân trước mổ tốt hơn nữa để có chỉ định phẫu thuật hợp lý và chính xác, tránh lạm dụng kỹ 
thuật dễ dẫn tới tỉ lệ tử vong cao do các biến chứng chung sau một phẫu thuật lớn và thời gian mổ kéo dài. 
SUMMARY 
WHIPPLE PROCEDURE IN PATIENTS WITH DISEASES OF THE HEAD OF 
PANCREAS AND PERIAMPULLARY AREA 
Nguyen Minh Hai, Ho Si Minh, Ho Cao Vu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 7 * Supplement of No 1 * 
2003: 75 - 80 
Background: The study aimed at evaluating short-term outcomes of Whipple procedure in patients with 
diseases of the head of pancreas and periampullary area. 
Methods: Between April 1997 and October 2001, 72 patients with diseases of the head of pancreas and 
periampullary area underwent pancreaticoduodenectomy at the General Surgery Department, Cho Ray 
hospital, were analyzed. 
Results: The overall perioperative mortality rate was 11% (8/72), but it was only 2.8% (2/72) for 
pancreatic and biliary fistula. Six rest patients were death because of hepatic failure, renal failure and 
cardiac complications. The overall perioperative morbidity rate was 32%. Among those, pancreatic fistula 
was 5.5%, biliary fistula 6.9%, gastrojejunal anstomotic leak 1.4%, Digestive bleeding 4.2% and bleeding 
from operating field 5.5%. 
Conclusions: The perioperative mortality and morbidity rates related to pancreatic fistula were much 
lower than before. It might be argued that better preoperative preparation, intensive postoperative care and 
major progresses in surgical technique lead to the improved results of Whipple procedure. However, the 
preoperative status of patient should be better evaluated to make precise operative indications in order to 
reduce the overall mortality and morbidity rates. 
* BS khoa ngoại tổng quát – Bệnh viện Chợ Rẫy 
Chuyên đề Ngoại khoa 75
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật cắt khối tá tụy (Whipple procedure) 
cho bệnh lý vùng đầu tụy và quanh bóng vater đã có 
những thay đổi nhiều về tỉ lệ tử vong trong vòng 10 
năm gần đây. Theo nhiều nghiên cứu trong thập 
niên 90 cho thấy tỉ lệ tử vong sau mổ gặp từ 0% tới 
15%(7). Ở những trung tâm lớn chuyên phẫu thuật 
về tụy tỉ lệ này < 5 %(3,7,8). Chính vì vậy, phẫu thuật 
cắt khối tá tụy ngày càng được tiến hành nhiều hơn 
so với những năm của thập niên 70-80. Tuy nhiên, 
biến chứng của phẫu thuật này vẫn còn cao từ 30% 
tới 50% cho dù có nhiều tiến bộ về kỹ thuật phẫu 
thuật, hồi sức, gây mê và chăm sóc sau mổ(3,7,8). 
Trước năm 1997, phẫu thuật whipple đã được tiến 
hành tại khoa Ngoại tổng quát Bệnh viện Chợ Rẫy, 
tuy nhiên, phẫu thuật này chưa trở thành thường 
qui bởi vì tỉ lệ tử vong, biến chứng còn cao sau mổ 
và những khó khăn về kỹ thuật của phẫu thuật. Vì 
vậy, phẫu thuật nối đường mật và đường tiêu hóa 
được chọn lựa nhiều hơn trong thời gian này. Từ 
năm 1997 tới nay, phẫu thuật Whipple đã được tiến 
hành thường xuyên hơn với tất cả những bệnh nhân 
có chỉ định phẫu thuật triệt để. Mục đích của đề tài 
nghiên cứu này nhằm đánh giá, phân tích kết quả 
sớm như tỉ lệ tử vong, biến chứng sau mổ của phẫu 
thuật để rút ra được những kinh nghiệm giúp ích 
nhiều hơn cho việc lựa chọn, chỉ định cũng như kỹ 
thuật phẫu thuật để hy vọng sẽ giảm được tỉ lệ tử 
vong và biến chứng trong thời gian tới. 
SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Đây là nghiên cứu hồi cứu ở tất cả các bệnh 
nhân có bệnh lý vùng đầu tụy và quanh bóng Vater 
được cắt khối tá tụy từ tháng 4/1997 tới tháng 
10/2001 tại khoa ngoại tổng quát Bệnh viện 
Chợ Rẫy. Tổng số bệnh nhân là 80, nhưng hồ sơ đầy 
đủ có 72 trường hợp, tuổi từ 24 tới 81, trong đó: 
Ung thư đầu tụy 28 (nam/nữ: 12/16) 
Ung thư vater 36(15/21) 
Ung thư tá tràng D2&D3 4(nam) 
Viêm tụy mãn 4(nam) 
Dấu hiệu vàng da gặp ở 55 bệnh nhân (70%) và 
không vàng da ở 17 bệnh nhân (30%). Những 
trường hợp không vàng da gặp ở u đầu tụy nhưng 
khối u phát triển lên phía trước nên không chèn ép 
vào ống mật chủ và u ở móc tụy, u tá tràng D2, D3. 
U bóng vater thường gây vàng da sớm và gặp ở hầu 
hết các bệnh nhân. 
Phẫu thuật Whipple cổ điển thực hiện ở 32 bệnh 
nhân, bảo tồn môn vị: 40, nạo hạch triệt để: 18. 
Kỹ thuật phẫu thuật 
Phẫu thuật cắt khối tá tụy đơn thuần được mô tả 
như phẫu thuật Whipple kinh điển. Phẫu thuật cắt 
khối tá tụy kèm nạo hạch triệt để bao gồm cắt khối 
tá tụy và lấy các hạch từ cuống gan, động mạch gan 
chung, thân tạng, quanh động tĩnh mạch chủ, mạc 
treo tràng trên và cuống thận phải thành một khối. 
Đề tài nạo hạch triệt để chúng tôi bắt đầu nghiên 
cứu từ 2 năm nay sau khi đã tương đối thuần thục 
trong phẫu thuật Whipple kinh điển(6). Sau khi cắt 
khối tá tụy, nối tụy-dạ dày ở 16 bệnh nhân và nối 
tụy-ruột ở 56 bệnh nhân, trong đó nối tụy-ruột kiểu 
tận –bên là 33 và tận tận là 23 (bảng 1). Trong 
phương pháp nối kiểu tận tận chúng tôi thường 
dùng phương pháp khâu lồng tụy vào trong lòng 
ruột khoảng 2 cm. 
Bảng 1: Phương pháp nối mỏm tuỵ còn lại 
Phương pháp 
nối 
Số BN Tận-bên Tận-tận Đặt stent 
ống tụy* 
Tụy-dạ dày 16 16 4 
Tụy-ruột 56 33 23 30 
* Chúng tôi thường đặt stent ống tụy khi ống 
tuỵ không giãn, kích thước < 4 ly.Trong các trường 
hợp đặt stent ống tụy có 4 trường hợp ống được đưa 
ra ngoài thành bụng, còn các trường hợp khác ống 
để trong lòng ruột một đoạn khoảng 3cm và được 
khâu cố định bằng chỉ chromic 3/0. Trong một số 
trường hợp nối tụy-ruột bên bên, khi ống tụy giãn, 
chúng tôi chỉ nối ống tụy với ruột. Tất cả các miệng 
nối tụy, mật, dạ dày thực hiện trên 1 quai ruột ở 37 
trường hợp, còn 35 trường hợp khác chúng tôi thực 
hiện kiểu Roux en Y. Khi thực hiện miệng nối mật-
ruột chúng tôi đã đặt stent qua miệng nối và cố định 
ngoài thành bụng trong 4 trường hợp vì ống mật 
chủ < 0.5 cm và thành rất mỏng. Bảo tồn môn vị 
được chỉ định cho những trường hợp u bóng Vater 
Chuyên đề Ngoại khoa 76 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
và một số trường hợp u nhỏ ở đầu tụy. Chúng tôi 
không chẩn đoán chính xác viêm tụy mạn trước mổ 
trong 4 trường hợp. 
KẾT QUẢ 
Bảng 2: Tỉ lệ tử vong và biến chứng sớm sau mổ 
liên quan tới phẫu thuật 
Hướng điều trị Biến 
chứng số ca(%) Mổ lại Điều trị nội 
Tử vong(%)
Rò Tụy 4(5.5%) 1 3 1(1.4%) 
Rò mật 5(6.9%) 2 3 1(1.4%) 
Bục miệng 
nối DD-
ruột 
1(1.4%) 1 0 
Chảy máu 
tiêu hóa 
3(4.2%) 0 3 0 
Chảy máu 
qua dẫn 
lưu 
4(5.5%) 0 4 0 
Rò miệng 
nối Roux 
en Y 
1(1.4%) 0 1 0 
Tổng số 18(25%) 4(5.5%) 14(19.4%) 2(2.8%) 
Tỉ lệ biến chứng chung liên quan tới phẫu thuật 
Whipple là 25% và tỉ lệ tử vong do xì rò miệng nối là 
2.8%, trong đó rò tụy ở 1 ca (1.4%) và rò mật 
1ca(1.4%). Trong 2 trường hợp rò mật có 1 ca bục 
miệng nối ống mật chủ-ruột non ngay ngày thứ 2 
sau mổ khả năng do khi khâu đã cứa đứt thành ống 
mật chủ nhưng ống dẫn lưu không ra dịch mật dẫn 
tới viêm phúc mạc toàn thể. Bệnh nhân này tử vong 
sau mổ lần 2. 
Bệnh nhân thứ 2 rò mật vào ngày thứ 7 sau mổ 
đã được mổ lại đặt kehr qua miệng nối và khâu lại 
chỗ xì, bệnh nhân xuất viện ổn định. 
Bảng 3: Tỉ lệ biến chứng rò tụy và phương pháp 
nối 
Phương pháp nối Số ca Rò tụy Mổ lại Tử vong
Tụy-dạ dày 16 1 1 
Tụy-ruột 56 
- Tận-bên 33 3 0 0 
- Tận-tận 23 0 0 
Trong số 4 trường hợp rò tụy, có 1 trường hợp rò 
miệng nối tụy-dạ dày nhưng không gây viêm phúc 
mạc, được điều trị bảo tồn, bệnh nhân tử vong ngày 
thứ 20 sau mổ do chảy máu và tình trạng suy kiệt. 
3 trường hợp còn lại đều gặp ở kiểu nối tận bên. 
Chúng tôi không gặp trường hợp nào ở kiểu nối tận 
tận (khâu lồng mỏm tụy vào ruột). 
Bảng 4: Những biến chứng khác của phẫu thuật 
dẫn tới tử vong không liên quan tới miệng nối 
Biến chứng Tử vong 
Suy thận 1(1.4%) 
Suy gan 1(1.4%) 
HC gan thận 1(1.4%) 
Tim mạch 1(1.4%) 
Không rõ nguyên nhân 2(2.8%) 
Tổng số 6(8.3%) 
Nếu tính cả 2 ca tử vong do xì rò miệng nối thì 
tỉ lệ của chúng tôi là 8/72 bệnh nhân (11%) 
Bảng 5: Tỉ lệ tử vong và biến chứng liên quan tới 
tình trạng vàng da 
Tình trạng vàng 
da Billirubin 
Số ca 
Không 
vàng da vàng da 20mg
Biến 
chứng 
N=72 N=17(30
%) 
55(70%)12(22%
) 
17(30%) 26(47%)
Xì rò 11 1 10 2 3 5 
Chảy 
máu 
6* 1 5 1 1 3 
Suy thận 1(1.4
%) 
 1 1 
Suy gan 1(1.4
%) 
 1 1 
HC gan 
thận 
1(1.4
%) 
 1 1 
Tim 
mạch 
1(1.4
%) 
 1 1 
Khác 2(2.8
%) 
 2 2 
Tổng số 23(32
%) 
2(11.8%) 21(38%)3(25%) 5(29%) 13(50%)
*Có 1 bệnh nhân vừa chảy máu tiêu hóa sau mổ và 
chảy máu qua dẫn lưu. 
Bảng 5 cho thấy bệnh nhân có tắc mật gặp biến 
chứng nhiều hơn so với bệnh nhân không có tắc 
mật (38% so với 11.8%) và dường như khi tình trạng 
tắc mật với billirubin > 20 mg%, tỉ lệ tử vong và 
biến chứng gặp gần gấp đôi so với khi billirubin <20 
mg %. 
Chuyên đề Ngoại khoa 77
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
Bàn luận 
Rò miệng nối tụy và tử vong 
Trede, một phẫu thuật viên nổi tiếng về tụy của 
Đức đã từng ví von phẫu thuật Whipple như là “ 
Cadillac của các phẫu thuật vùng bụng” nhưng cũng 
cho rằng “ đó không thực sự là Cadillac mà là cuộc 
đua của ô tô thể thức I”. Theo một thăm dò ở 4622 
ca cắt khối tá tụy trong 2 thập niên (1960-1983), tỉ 
lệ tử vong trung bình là 17.7%(8). Trong thời kỳ 
1960-1970 tỉ lệ tử vong từ 20 tới 40% và tỉ lệ biến 
chứng từ 40-60% đã khiến cho nhiều tác giả khuyên 
nên quên đi phẫu thuật này(2). Trong vòng 10 năm 
gần đây tỉ lệ tử vong đã giảm đáng kể < 5% ở nhiều 
trung tâm, nhưng tỉ lệ biến chứng sau mổ vẫn còn 
cao từ 30% tới 50%(2,7,8). Tỉ lệ tử vong và biến chứng 
gần như tương tự đối với các loại ung thư quanh 
bóng vater(7). Biến chứng đáng sợ nhất trong phẫu 
thuật cắt khối tá tụy là xì miệng nối tụy, đồng thời 
cũng là nguyên nhân chính gây tử vong. Miệng nối 
tụy được coi là “ Gót chân Achille của phẫu thuật 
Whipple” (8). Rò miệng nối tụy gặp từ 3% tới 53%, 
trong đó tử vong là từ 7 %tới 80% 
(bảng 6) (8). 
Bảng 6: Tỉ lệ rò miệng nối tụy-ruột sau phẫu thuật 
Whipple (8)
Tác giả Trung tâm Số ca Rò 
tụy(%) 
Mổ 
lại(%)
Tử vong 
(%) 
Braash & 
Gray 
Lahey 279 20(7) - 4(20%)
Nakase Nhiều trung 
tâm 
824 114(14) - - 
Papachristou Sloan 
Kettering 
70 37(53) 10(27) 13(35) 
Pichlmayr Hannover 49 5(10) - 4(80) 
Grace UCLA 74 13(18) 5(38) 1(7) 
Crist & 
Cameron 
Johns 
Hopkins 
68 12(18) 1(8) 0 
Bakkevold Bergen 
university 81 
2(3) - 1(50) 
Cullen Mayo Clinic 375 66(18) 10(15) 5(8) 
Trede Mannheim 498 48(9) 23(49) 7(15) 
Tỉ lệ rò miệng nối tụy của chúng tôi tương đối 
thấp (5.5%) so với các tác giả khác. Trong 4 trường 
hợp rò tụy này, có 1 trường hợp rò miệng nối tụy- dạ 
dày dẫn tới tử vong (25%). Không có trường hợp nào 
nối tụy-ruột tận tận kiểu khâu lồng tuỵ vào ruột có 
rò miệng nối này. Trong một nghiên cứu tiền cứu so 
sánh trước đây của chúng tôi trên 34 ca giữa nối 
tụy-dạ dày và tụy-ruột, chúng tôi không thấy có sự 
khác biệt có ý nghĩa giữa 2 phương pháp này(4). Tuy 
nhiên, kiểu nối tuỵ-ruột tận tận và miệng nối dạ dày 
ruột trên quai Roux en Y là phương pháp ưa thích 
của chúng tôi. Vì kiểu nối này sinh lý hơn và tránh 
trào dịch mật và tụy vào dạ dày. Mặt khác, nếu có rò 
tụy hay rò mật thì chúng tôi vẫn có thể cho bệnh 
nhân ăn được bằng đường miệng. Ở điều kiện Việt 
Nam thì không có con đường nào nuôi dưỡng tốt 
hơn và rẻ hơn là đường tiêu hóa khi có những biến 
chứng xì rò miệng nối tụy hay mật. Nếu không có 
viêm phúc mạc và bệnh nhân vẫn có thể ăn được thì 
bệnh nhân sẽ sống. Khi rò miệng nối tụy-dạ dày thì 
khả năng điều trị nội khoa khó hơn so với rò miệng 
nối tụy-ruột. 3 ca rò miệng nối tụy-ruột của chúng 
tôi được điều trị nội khoa như dùng Sandostatin, bù 
nước và điện giải, không có ca nào phải mổ lại. Khi 
ống tụy không giãn, nên đặt stent trong ống tụy. 
Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng rò tụy tăng cao 
có ý nghĩa thống kê ở bẹânh nhân có nguy cơ cao 
như: tuổi trên 65, ống tụy không giãn, tụy mềm, 
lượng máu mất trong mổ và kinh nghiệm của phẫu 
thuật viên. Marcus(1995) gặp dò tụy ở nhóm này tới 
36%, trong khi đó ở nhóm nguy cơ thấp tỉ lệ dò tụy 
chỉ có 2%. 
Rò miệng nối ống mật chủ hỗng tràng 
Trong y văn ít thấy nhấn mạnh tới rò miệng nối 
đường mật với đường tiêu hóa trong phẫu thuật cắt 
khối tá tụy nhưng chúng tôi gặp ở 5 bệnh nhân 
(6.9%), trong đó có 1 ca tử vong do bục miệng nối 
ngay ngày thứ 2 sau mổ khả năng do gây tổn 
thương đường mật khi khâu nối. Tránh đốt điện ở 
thành ống mật chủ để đảm bảo tốt mạch máu nuôi 
dưỡng. Trong những trường hợp ống mật chủ < 0.5 
cm, thành mỏng nên đặt ống stent qua miệng nối 
và cố định ngoài thành bụng và nên dùng chỉ PDS 
4-5/0 để khâu miệng nối này. 
Chuyên đề Ngoại khoa 78 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
Biến chứng chảy máu 
Cũng thường gặp sau cắt khối tá tụy do liên 
quan tới tình trạng rối loạn chức năng gan và 
Billirubin máu cao. Chúng tôi gặp chảy máu qua dẫn 
lưu thường ở trong 48 giờ đầu sau mổ ở 4 bệnh 
nhân (5.5%). Cần lưu ý cầm máu kỹ ở các diện cắt 
và các nhánh nhỏ đổ về tĩnh mạch cửa. 
Các yếu tố nguy cơ và tỉ lệ tử vong 
Tỉ lệ tử vong nói chung của chúng tôi gặp ở 8 
bệnh nhân (11%), nhưng trong đó chỉ có 2 ca (2.8%) 
tử vong do xì, bục miệng nối. 6 ca (8.3%) tử vong 
còn lại liên quan tới tình trạng toàn thân và tình 
trạng chức năng gan của bệnh nhân. Tỉ lệ tử vong 
này không liên quan tới miệng nối nhưng liên quan 
nhiều tới nhiều yếu tố như tình trạng toàn thân, 
chức năng gan, các bệnh lý khác của bệnh nhân và 
tình trạng mất máu, thời gian kéo dài ca mổ. Nếu 
chúng tôi đánh giá tốt tình trạn g bệnh nhân trước 
mổ để chọn chỉ định phẫu thuật và thời gian mổ 
thích hợp có lẽ sẽ giảm tối thiểu được tỉ lệ tử vong ở 
những trường hợp này. Bệnh nhân thường vào viện 
với tình trạng vàng da (70%) kéo dài, Billirubin và 
muối mật tăng cao trong máu là nguyên nhân dẫn 
tới những rối loạn chức năng gan và ảnh hưởng tới 
tình trạng toàn thân bệnh nhân. Có nhiều nghiên 
cứu cho rằng Billirubin máu tăng không là yếu tố 
độc lập ảnh hưởng tới các biến chứng và tử vong (1). 
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy Bilirubin 
máu tăng, khối u ác tính và thiểu dưỡng là những 
yếu tố nguy cơ cao dẫn tới các biến chứng nặng nề 
như suy thận, suy gan, hội chứng gan thận, rối loạn 
chức năng đông máu, chảy máu và chậm lành vết 
thương (1). Bảng 5 cho thấy bệnh nhân có tắc mật 
gặp biến chứng nhiều hơn so với bệnh nhân không 
có tắc mật (38% so với 11.8%) và dường như khi 
tình trạng tắc mật với billirubin > 20 mg% tỉ lệ tử 
vong và biến chứng gặp gần gấp đôi (50%) so với khi 
billirubin <20 mg %. Vậy, có cần dẫn lưu đường mật 
trước mổ để giảm Bilirubin trong máu? Vấn đề này 
hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận. Một số nghiên 
cứu cho rằng dẫn lưu đường mật xuyên gan qua da 
không giảm biến chứng trong và sau mổ mà còn 
làm kéo dài thời gian chỉ định phẫu thuật, thời gian 
nằm viện(1,9). Mặt khác dẫn lưu đường mật xuyên 
gan qua da còn có những biến chứng riêng như 
chảy máu, nhiễm trùng. Một nghiên cứu khác thông 
báo dẫn lưu đường mật qua đường nội soi tiêu hóa 
trước mổ làm giảm biến chứng và thời gian nằm 
viện(9). Theo chúng tôi, khi bilirubin > 20 mg % nên 
dẫn lưu đường mật trước mổ. Trong 6 bệnh nhân tử 
vong không liên quan tới xì rò miệng nối thì 5 bệnh 
nhân có bilirubin > 20 mg %. Theo những nghiên 
cứu gần đây về các chỉ số nguy cơ, các tác giả đưa ra 
các chỉ số như: khối u ác tính, Hematocrit< 30%, 
Albumin 130 μmol/l, Bun>= 
20mg/l và bilirubin > 200 μmol/l (bảng7)(1)
Bảng 7: Các yếu tố nguy cơ trong tắc mật 
Tỉ lệ tử vong (%) 
Tác giả Yếu tố nguy cơ Có mặt Vắng mặt
U áctính 20 3.5 
Tuổi > 60 16.2 1.2 
Albumin < 30 g/l 41.2 3.2 
Hematocrit <30 % 43.8 3.8 
WBC >10.000/mm3 18.4 3.0 
Pitt * 
Bilirubin TP > 10 mg/ 
μmol/l+
20.8 5.6 
Hematocrit < 30%+ 40.9 2.3 
Bilirubin TP > 200 μmol/l+ 23.5 3.7 
Dixon 
U ác tính+ 26.1 3.7 
Tuổi > 60 32.6 12.5 
Hematocrit < 30% 55.5 20.0 
WBC > 10.000/ mm 44.4 14.5 
Albumin < 30 g/l# 61.1 14.1 
Blamey 
Creatinine >130 μmol/l# 100.0 13.9 
Albumin < 30 g/l$ 28 13 
Hematocrit < 30% 35 17 
Bun >=20 mg/l$ 43 14 
Creatinine > 130 μmol/l 39 16 
Di căn gan 31 17 
Bonnel 
Bilirubin > 10 mg/100 
ml 
24 13 
Tỉ lệ tử vong liên quan tới số lượng các yếu tố 
nguy cơ: 
0-2 yếu tố, tử vong 0%, 3 yếu tố-4%, 4 yếu tố-
7%, 5 yếu tố-44%, 6 yếu tố-67%, 8 yếu tố-100% 
+ Yếu tố nguy cơ độc lập (Multiple logistic 
regression) 
Chuyên đề Ngoại khoa 79
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
# Yếu tố nguy cơ độc lập (Linear discriminant 
analysis) 
2 Cooperman AN M, Pancreatic and periampullary 
carcinoma, Maingot’s abdominal operation, vol II, 
Ninth edition, 1997, 1633-1671. 
3 Howard M, Pancreatoduodenectomy with 
skeletonisation of vessels for cancers of the pancreas 
and adjacent organs, Surgical diseases of the pancreas, 
Williams & Wilkins, 1999, 529-556. 
# Yếu tố nguy cơ độc lập (Multivariate, logistic 
regression) 
KẾT LUẬN 4 Nguyễn Hoàng Định, Nguyễn Minh Hải, và CS. So 
sánh nối tụy vào dạ dày và nối tụy ruột non trong phẫu 
thuật Whipple. Báo cáo tại hội ngoại khoa toàn quốc 
12/2000. 
Kết quả ở 72 trường hợp của chúng tôi cho thấy, 
tỉ lệ biến chứng liên quan tới rò miệng nối tụy là 
tương đối thấp (5.5%), chỉ có 1 trường hợp rò tụy 
dẫn tới tử vong. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong chung còn 
cao (11%) do tình trạng suy gan, suy thận và các 
biến chứng tim mạch. Cần đánh giá tình trạng bệnh 
nhân trước mổ tốt hơn để có chỉ định phẫu thuật và 
thời gian mổ thích hợp, hạn chế được tỉ lệ tử vong. 
Khi Bilirubin máu > 20 mg %, nên dẫn lưu đường 
mật trước mổ. Miệng nối tụy là “ gót chân Achille 
của phẫu thuật Whipple”, nhưng cũng phải hết sức 
lưu ý đối với miệng nối mật ruột, đặc biệt khi ống 
mật chủ không giãn. 
5 Nguyễn Minh Hải, Nguyễn Hoàng Định, Bùi Văn Ninh, 
Nạo hạch triệt để trong cắt khối tá tụy ở bệnh nhân 
ung thư quanh bóng Vater, Báo cáo tại hội ngoại khoa 
toàn quốc 12/2000. 
6 Nguyễn Minh Hải, Phạm Kim Hiếu, Tôn Thất Quỳnh 
Aùi, Nối tụy vào dạ dày trong phẫu thuật cắt khối tá 
tụy, ngoại khoa 2000, 3, 17-20. 
7 Sarmiento JM, Nagorney DM, Sarr MG, Periampullary 
cancers, Are there differences? The surgical clinics of 
the North America, Vol. 81, WB. Saunders company, 
2001, 543-555. 
8 
 Tred M, Carter DC, The complications of 
pancreatoduodenectomy and their management, surgery 
of the pancreas, Churchill Livingston, 1997, 675-691. 
9 Tung-Ping Poon R, Fan S, Opinions and commentary 
on treating pancreatic cancer, The surgical clinics of 
the north America, Vol. 81, WB. Saunders company, 
2001, 627. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Bornman PC, Krige FEF, Surgical palliation of 
pancreatic and periampullary tumors, Surgery of the 
pancreas, Churchill Livingston, 1997, 533-550. 
Chuyên đề Ngoại khoa 80 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
phau_thuat_cat_khoi_ta_tuy_cho_benh_dau_tuy_va_quanh_bong_va.pdf