Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 73
 NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN-23 HUYẾT THANH 
Ở BỆNH NHÂN VẢY NẾN 
Tạ Quốc Hưng*, Lê Thái Vân Thanh** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Vảy nến là một bệnh viêm da thường gặp, đặc trưng bởi sự sừng hóa bị rối loạn trong tăng sinh và 
biệt hóa, tăng tạo mạch và viêm. Bệnh học vảy nến chưa rõ ràng, nhưng những nghiên cứu gần đây đều chỉ ra vai 
trò của tế bào T. Chưa có kháng thể nào được xác định một cách rõ ràng, tuy nhiên, sự miễn dịch bẩm sinh có thể 
có vai trò liên quan. Sự biểu hiện của IL-23 có thể có vai trò quan trọng trong vảy nến. IL-23 ưu tiên kích hoạt bộ 
nhớ T cell và kích hoạt tế bào T tăng sinh T nhớ. IL-23 sẽ đóng một vai trò quan trọng trong phản ứng viêm kéo 
dài xảy ra trong vảy nến mảng, vảy nến đỏ da toàn thân, viêm khớp vảy nến. Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu về mức 
độ IL-23 huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến, đặc biệt đối với bệnh nhân Việt Nam. 
Mục tiêu: Nghiên cứu vai trò của IL-23 trong quá trình sinh bệnh học của bệnh vảy nến mảng, vảy nến đỏ 
da toàn thân và viêm khớp vảy nến và xác định mối quan hệ của nó với Chỉ số PASI 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da liễu 
TP.HCM, Việt Nam. Nghiên cứu thực hiện trên 81 bệnh nhân vảy nến, trong đó có 17 bệnh nhân vảy nến đỏ da 
toàn thân, 14 bệnh nhân vảy nến khớp. Nồng độ IL-23 được đo ở tất cả các bệnh nhân và 30 người khỏe mạnh 
tương đồng về tuổi và giới. 
Kết quả: Nồng độ IL-23 trong huyết thanh tăng có ý nghĩa đã được ghi nhận ở bệnh vảy nến, vảy nến đỏ da 
toàn thân và viêm khớp vảy nến so với những người bình thường. Hơn nữa, mức độ cao hơn đáng kể ở bệnh nhân 
viêm khớp vảy nến so với bệnh vảy nến mảng và vảy nến đỏ da toàn thân. Có sự tương quan đáng kể giữa chỉ số 
PASI và IL-23 trong huyết thanh. 
Kết luận: Interleukin-23 có biểu hiện quá mức trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến, vảy nến đỏ da 
toàn thân và viêm khớp vảy nến. Mức độ của nó tương quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh. Những kết quả 
này cho thấy Interleukin-23 có thể là một mục tiêu điều trị mới quan trọng cho bệnh nhân vảy nến và viêm khớp 
vảy nến. 
Từ khóa: Vảy nến, vảy nến đỏ da toàn thân, viêm khớp vảy nến, IL-23 
ABSTRACT 
SERUM LEVELS OF IL-23 IN PSORIATIC PATIENTS 
 Ta Quoc Hung, Le Thai Van Thanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 73 – 80 
Background: Psoriasis is a common inflammatory skin disease characterized by abnormal keratinocyte 
proliferation and differentiation, increased angiogenesis and inflammation. The pathogenesis of psoriasis is 
unclear, but the recent studies implicates an important role for T cells. No clear-cut autoantigens have been 
described, however, it is likely that the innate immune system is also involved. It has been suggested that the 
expression of IL-23 might play an important role in psoriasis. IL-23 preferentially activates memory T cell and 
activated proliferating memory T cells. IL-23 would play a major role in the sustained inflammatory reaction 
taking place in psoriasis plaques, erythrodemic psoriasis, psoriatic arthritis. However, little data exists on the 
serum level of IL-23 in psoriatic patients, especially on Vietnamese patients. 
* Bộ môn Da Liễu – Khoa Y Đại học Quốc Gia Tp.HCM * Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 74
Objective: To study the possible role of IL-23 in the pathogenesis of psoriasis, erythrodemic psoriasis and 
psoriatic arthritis and determine its relation to Psoriasis Area Severity Index (PASI). 
Methods: Descriptive cross-sectional study on psoriasis patients at Hospital of Dermatology and 
Venereology in Ho Chi Minh city, Viet Nam. Eighty-one patients with psoriasis including seventeen with 
erythoderma, fourteen with psoriatic arthritis were included in the study. Level of IL-23 was measured in the 
serum of all patients and thirty healthy age and sex matched individuals. 
Results: A significant increase in serum level of IL-23 was observed in the psoriasis, erythrodermic psoriasis 
and psoriatic arthritis patients compared to the control individuals. Furthermore, the level was significantly 
higher in the psoriatic arthritis patients compared to the psoriasis and erythrodermic psoriariasis patients. The 
PASI and IL-23 in serum were significantly correlated. 
Conclusion: Interleukin-23, is overexpressed in serum of patients with psoriasis, erythrodermic psoriasis 
and psoriatic arthritis. Its level is correlated with disease severity. These results indicate that interleukin-23 may 
be an important new therapeutic target for patients with psoriasis and psoriatic arthritis. 
Key words: Psoriasis, erythrodermic psoriasis, psoriatic arthritis, IL-23 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vảy nến là một bệnh viêm da mãn tính, diễn 
tiến thất thường, ảnh hưởng nhiều đến chất 
lượng cuộc sống. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, ở cả 2 
giới và tại tất cả các châu lục, ảnh hưởng đến 2-
3% dân số thế giới tùy quốc gia, chủng tộc. 
Với những tiến bộ của y học thời gian gần 
đây đã chỉ ra vai trò quan trọng của cytokine 
trong bệnh vảy nến. Trong số các cytokine, trục 
IL-23/Th17 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế 
bệnh sinh vảy nến(2). IL-23 làm tăng cường đáp 
ứng miễn dịch type I ở da, gây ra hiện tượng 
tăng gai và thâm nhiễm tế bào viêm ở trung bì. 
Cytokine này còn có khả năng kích thích TNF-α 
làm tăng biểu đạt trong đại thực bào(7,10). Hiện 
nay sử dụng các kháng thể đơn dòng ngăn ngừa 
IL-23 và IL-12 gắn vào tế bào đích mang lại hiệu 
quả cao trong điều trị vảy nến(3,4). 
Đa số các nghiên cứu về IL-23 chỉ được thực 
hiện ở Mỹ và các nước Châu Âu. Tuy trong các 
nghiên cứu vẫn có người Châu Á nhưng các 
nghiên cứu thực hiện trên một quần thể dân cư 
Châu Á chiếm đa số nói chung vẫn còn rất hạn 
chế. Do có những khác biệt về mặt di truyền học 
giữa nhóm quần thể người Châu Âu và người 
Châu Á, cũng như giữa các nhóm dân cư ở các 
khu vực địa lí khác nhau mà nồng độ cũng như 
vai trò của IL-23 trong vảy nến ít nhiều vẫn có sự 
khác biệt. Điều đó chắc chắn có ảnh hưởng đến 
tác dụng cũng như việc chỉ định sử dụng 
thuốc(8,9). 
Tại Việt Nam nói chung và tại TP Hồ Chí 
Minh nói riêng, hiện nay có rất ít nghiên cứu về 
nồng độ cytokine nói chung, cũng như IL-23 
trong huyết thanh nói riêng của bệnh nhân vảy 
nến. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này 
với mục tiêu định lượng nồng độ IL-23 trong 
huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến 
khớp, vảy nến đỏ da toàn thân. Đồng thời, chúng 
tôi cũng xác định mối liên quan giữa nồng độ IL-
23 huyết thanh và độ nặng của bệnh cũng như 
các dang lâm sàng của bệnh. Xuất phát từ những 
lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài “ Nồng độ 
Interleukin-23 trong huyết thanh của bệnh 
nhân vảy nến ” với mục tiêu: 
- Khảo sát đặc điểm dịch tễ, đặc điểm lâm 
sàng của bệnh nhân vảy nến điều trị tại bệnh 
viện Da Liễu TP.HCM 
- Định lượng nồng độ IL-23 trong huyết 
thanh của bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến 
khớp và vảy nến đỏ da toàn thân và so sánh 
sự khác biệt về nồng độ IL-23 trong huyết 
thanh giữa các nhóm bệnh nhân với nhóm 
người bình thường 
- Xác định mối tương quan giữa nồng độ IL-
23 trong huyết thanh và thời gian mắc bệnh, tuổi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 75
khởi phát và mức độ nặng của bệnh vảy nến 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tất cả bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến 
khớp và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại 
bệnh viện Da Liễu TP.HCM từ 01/09/2016 đến 
31/05/2017. 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đã được điều trị theo đường toàn 
thân (corticoid uống hoặc tiêm, vitamin A liều 
cao, Etretinate, Dapsone, Methotrexate, 
Cyclosporine, Vitamin D3, Fumaric acid ester, 
Mycophenolate mofetil, 6-Thioguanine) trong 
vòng 1 tuần trước nhập viện. 
Bệnh nhân đã được điều trị theo đường 
thoa (Calcipotriol, Tacalcitol, Anthralin, 
Tacrolimus, Pimecrolimus) trong vòng 1 tuần 
trước nhập viện. 
Bệnh nhân mắc các bệnh khác có thể làm 
thay đổi nồng độ IL-23 huyết thanh: nhiễm trùng 
cấp (nhiễm trùng da, viêm phổi) hoặc mạn tính 
(viêm gan siêu vi), các bệnh lí tự miễn (chàm 
mạn, lupus, pemphigus, viêm khớp dạng thấp, 
bệnh Crohn) 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả 
Phương tiện vật liệu nghiên cứu 
Phiếu thu thập số liệu để thu thập các thông 
tin của bệnh nhân như máy ảnh 
Ống tiêm dung tích 5ml và ống đựng máu 
không có chất chống đông 
Máy quay ly tâm 
Hai bộ kit xét nghiệm nồng độ IL-23: Human 
IL-23 Platinum ELISA (BMS2041, Affymetrix, 
eBioscience, USA). 
Máy đọc kết quả ELISA 450 nm 
Phương pháp tiến hành 
Bệnh nhân nếu được chẩn đoán là bệnh vảy 
nến (thỏa tiêu chuẩn nhận vào và không có tiêu 
chuẩn loại ra) thì sẽ được giải thích cặn kẽ về 
mục tiêu, cách thức tiến hành nghiên cứu và nếu 
đồng ý, bệnh nhân ký vào biên bản đồng ý tham 
gia nghiên cứu. 
Ghi nhận các thông tin chung, tiền sử bệnh 
vảy nến, đặc điểm lâm sàng vào phiếu thu thập 
thông tin. 
Chụp hình ghi nhận lại một số hình ảnh sang 
thương điển hình trong điều kiện chuẩn (phòng 
vách trắng, đủ ánh sáng, cùng góc độ). 
Sau đó, bệnh nhân được lấy máu làm xét 
nghiệm đo nồng độ IL-23. Mẫu máu lấy ở tĩnh 
mạch vào buổi sáng sau 1 đêm nhịn đói (12h) để 
trong ống nghiệm có chứa chất chống đông. Tất 
cả mẫu thử được thực hiện theo một quy trình 
chuẩn, mẫu sau khi lấy được giữ lạnh trong 
nước đá và đưa đến phòng xét nghiệm quay ly 
tâm trong 5 phút ở nhiệt độ 40C để tách huyết 
thanh trong vòng 4 giờ đầu, sau đó giữ ở -800C 
cho đến khi phân tích. 
Đối với nhóm người bình thường, những 
người tham gia nghiên cứu sẽ được tập hợp lại 
mỗi lần 5 người để lấy máu xét nghiệm, xác định 
nồng độ IL-23 huyết thanh. 
Thực hiện xét nghiệm để đo nồng độ IL-23 
huyết thanh. 
Xử lý số liệu 
Số liệu thu thập được nhập bằng phần mềm 
Excel 2013. 
Phân tích số liệu bằng phần mềm thống kê 
SPSS 20.0. 
Dùng phép kiểm χ2 để kiểm định mối liên 
quan giữa 2 hay nhiều biến định tính 
Dùng phép kiểm Student (nếu là phân phối 
chuẩn) và phép kiểm Mann-Whitney U (nếu 
không phải là phân phối chuẩn) để so sánh 2 số 
trung bình. Phép kiểm ANNOVA để so sánh từ 
3 số trung bình trở lên 
Dùng phép kiểm tương quan Spearman 
(Spearman rank correlation test) để tìm mối 
tương quan. 
Sự khác biệt được xem có ý nghĩa thống kê 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 76
khi p < 0,05 với độ tin cậy 95% 
KẾT QUẢ 
Trong khoảng thời gian 9 tháng, từ tháng 
9/2016 đến tháng 5/2017, chúng tôi đã thu thập 
được 81 bệnh nhân vảy nến. Nhóm người bình 
thường được thu thập gồm 30 người. 
Bảng 1: Phân bố vảy nến theo giới 
Giới n % 
Nam 48 59,3% 
Nữ 33 40,7% 
 81 100% 
Tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm đa số, gần 2/3 
các trường hợp. 
Bảng 2: Phân bố theo lứa tuổi 
Tuổi 
Trung bình 48,32 ± 14,36 tuổi. 
Lớn nhất 79 tuổi 
Nhỏ nhất 19 tuổi 
Tuổi trung bình là 48,32 ± 14,36 tuổi. Trong 
đó, tuổi nhỏ nhất là 19 tuổi, tuổi lớn nhất là 79 
tuổi. 
Bảng 3: Phân bố theo tuổi khởi phát 
Tuổi khởi phát 
Trung bình 35,35 ± 14,31 tuổi 
Sớm nhất 67 tuổi 
Trễ nhất 6 tuổi 
 Khởi phát sớm (trước 40 tuổi) 52 bệnh nhân 
Khởi phát muộn (sau 40 tuổi) 29 bệnh nhân 
Tuổi khởi phát bệnh trung bình của bệnh 
nhân vảy nến là 35,35 ± 14,31. Trong đó, khởi 
phát sớm nhất là 6 tuổi và trễ nhất là 67 tuổi. 
Đa số bệnh nhân thuộc nhóm khởi phát sớm 
trước 40 tuổi với tỉ lệ 64,19% (52 bệnh nhân), 
còn lại 35,81% (29 bệnh nhân) khởi phát muộn 
sau 40 tuổi. 
Bảng 4: Phân bố theo thời gian bệnh 
Đặc điểm Tối thiểu Tối đa TB ± ĐLC 
Thời gian bệnh 1 45 12,98 ± 10,64 
Thời gian bệnh kéo dài trung bình 12,98 ± 
10,64 năm. Thời gian bệnh ngắn nhất là 1 năm, 
dài nhất là 45 năm. 
Bảng 5: Phân loại lâm sàng bệnh nhân vảy nến 
Phân loại n % 
Vảy nến mảng 50 61,7 
Vảy nến đỏ da toàn thân 17 21 
Vảy nến khớp 14 17,3 
Tổng 81 100 
Vảy nến mảng chiếm tỉ lệ cao nhất với 61,7% 
(50 bệnh nhân). Đứng ở vị trí thứ 2 là vảy nến đỏ 
da toàn thân với 21,0% (17 bệnh nhân), và cuối 
cùng là vảy nến khớp với 17,3% (14 bệnh nhân) 
Bảng 6: Đặc điểm tổn thương móng 
Đặc điểm Số lượng 
Không tổn thương móng 12 
Có tổn thương móng 69 
Tổn thương móng tay 6,25 ± 3,78 
Tổn thương móng chân 5,83 ± 3,73 
Trong 81 bệnh nhân vảy nến có 69 bệnh 
nhân có tổn thương móng (85,2%), với số lượng 
móng tổn thương trung bình là 6,25 ± 3,78, số 
lượng móng tổn thương trung bình là 5,83 ± 3,73 
Bảng 7: Đặc điểm tổn thương khớp 
Tổn thương Vị trí Tần số Tỉ lệ (%) 
Khớp ngoại 
biên 
Khớp bàn-ngón tay 
Khớp bàn-ngón chân 
Khớp cổ tay 
Khớp khuỷu tay 
Khớp gối 
Khớp vai 
11 
05 
01 
01 
07 
01 
13,58 
8,64 
1,23 
1,23 
7,40 
1,23 
Khớp trục 
Cột sống thắt lưng 
Khớp cùng-chậu 
Cột sống cổ 
00 
01 
00 
00 
1,23 
00 
Trong 81 bệnh nhân vảy nến có 14 bệnh 
nhân có tổn thương khớp (17,28%). Trong đó, 
có 13 bệnh nhân tổn thương khớp ngoại biên 
(16,04%), 01 bệnh nhân có tổn thương khớp 
trục và khớp ngoại biên (1,23%). Không ghi 
nhận trường hợp nào chỉ có tổn thương khớp 
trục đơn thuần. Vị trí các khớp tổn thương khá 
đa dạng, bao gồm khớp bàn-ngón tay, khớp cổ 
tay, khớp bàn-ngón chân, khớp cổ chân, khớp 
gối, khớp vai đối với khớp ngoại biên; và cột 
sống cổ, cột sống thắt lưng, khớp cùng-chậu 
đối với khớp trục. 
Chỉ số PASI ở bệnh nhân vảy nến mảng và 
vảy nến khớp dao động khá lớn, trung bình 
18,15 ± 9,22, cao nhất 46,4 và thấp nhất 2,6. Đa số 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 77
bệnh nhân ở mức độ vừa với 29 bệnh nhân 
(35,80%), còn lại là nhóm mức độ nặng với 22 
bệnh nhân (27,16%) và nhóm mức độ nhẹ với 13 
bệnh nhân (16,04%). 
Bảng 8: Phân nhóm bệnh nhân vảy nến mảng theo 
chỉ số PASI 
Mức độ bệnh Chỉ số PASI Tần số Tỉ lệ (%) 
Nhẹ 
Vừa 
Nặng 
<10 
10-20 
>20 
13 
29 
22 
16,04 
35,80 
27,16 
Bảng 9: Nồng độ IL-23 theo nhóm lâm sàng vảy nến 
Lâm sàng TB ĐLC 
(pg/mL) 
Thấp nhất 
(pg/mL) 
Cao nhất 
(pg/mL) 
Vảy nến mảng 35,25 12,67 12,54 62,62 
Vảy nến khớp 52,12 9,55 35,58 66,93 
Vảy nến đỏ da 
toàn thân 42,31 14,28 
18,73 68,74 
Nồng độ IL-23 huyết thanh trung bình ghi 
nhận là 39,65 ± 13,95 pg/mL. Trong đó nồng độ 
IL-23 thấp nhất đo được 12,54 pg/mL, còn nồng 
độ cao nhất là 68,74 pg/mL. 
Nồng độ IL-23 huyết thanh ở người bình 
thường. 
Chúng tôi cũng tiến hành đo nồng độ IL-23 
huyết thanh trên 30 người bình thường. Nồng độ 
IL-23 huyết thanh trung bình ghi nhận được là 
18,55 ± 2,69 pg/mL, nồng độ thấp nhất là 14,12 
pg/mL và cao nhất là 22,96 pg/mL. 
So sánh sự khác biệt về nồng độ IL-23 huyết 
thanh giữa nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm 
người bình thường 
Chúng tôi tiến hành so sánh nồng độ IL-23 
huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân vảy nến và 
nhóm người bình thường. Kết quả ghi nhận 
nồng độ IL-23 huyết thanh của nhóm bệnh nhân 
vảy nến cao hơn nhóm người bình thường có ý 
nghĩa thống kê (p<0,001). 
Chúng tôi tiếp tục tiến hành phân tích theo 
từng cặp và ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa nồng độ IL-23 của nhóm vảy nến 
mảng với nhóm vảy nến khớp (p<0,001) và của 
nhóm vảy nến đỏ da toàn thân với nhóm vảy 
nến khớp (p=0,032). Tuy nhiên, chúng tôi không 
phát hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
nồng độ IL-23 của nhóm vảy nến mảng và nhóm 
vảy nến đỏ da toàn thân (p=0,103). 
So sánh sự khác biệt về nồng độ IL-23 huyết 
thanh của từng dạng lâm sàng bệnh nhân vảy 
nến so với người bình thường 
Chúng tôi tiếp tục tiến hành so sánh nồng độ 
IL-23 huyết thanh ở từng dạng lâm sàng nhóm 
bệnh nhân vảy nến với nhóm người bình 
thường. Kết quả cho thấy nồng độ IL-23 huyết 
thanh của từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh 
nhân vảy nến đều cao hơn có ý nghĩa thống kê 
so với nhóm người bình thường. 
Bảng 10: Tương quan giữa nồng độ IL-23 huyết 
thanh với thời gian bệnh và tuổi khởi phát bệnh 
Đặc điểm Giá trị thống kê IL-23 
 Thời gian bệnh r 0,08 
 p 0,479 
Tuổi khởi phát r -0,04 
 p 0,72 
Không có sự tương quan tuyến tính giữa 
nồng độ IL-23 huyết thanh với thời gian bệnh 
(p=0,479). Không có sự tương quan giữa tuổi 
khởi phát và nồng độ IL-23 huyết thanh của 
bệnh nhân vảy nến (p=0,722). 
Biểu đồ 1: Tương quan giữa nồng độ IL-23 huyết 
thanh và chỉ số PASI của bệnh nhân vảy nến mảng và 
vảy nến khớp 
Nồng độ IL-23 huyết thanh bệnh nhân vảy 
nến mảng và vảy nến khớp và chỉ số PASI có 
tương quan thuận ở mức độ khá chặt (hệ số 
tương quan Pearson r = 0,60; p<0,001). Phương 
trình đường thẳng hồi qui: Y = 0,911X + 22,40, 
với Y: nồng độ IL-23 huyết thanh (pg/mL) và 
X: chỉ số PASI. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 78
BÀN LUẬN 
Về dịch tễ 
Tỉ lệ nam nhiều hơn nữ trong nghiên cứu 
của chúng tôi có thể là do lối sống của nam giới 
tại Việt Nam tồn tại những thói quen không tốt 
như hút thuốc lá và uống rượu bia, là yếu tố khởi 
phát và làm bệnh vảy nến nặng hơn. Ngoài ra, 
nam giới thường có xu hướng lo lắng kinh tế gia 
đình nhiều hơn, tham gia công việc xã hội nhiều 
hơn, vì vậy khả năng bị stress nhiều hơn. Sự 
căng thẳng tinh thần là một yếu tố khởi phát và 
làm bệnh vảy nến nặng hơn. Vì những nguyên 
nhân trên, trong những nghiên cứu về bệnh vảy 
nến tại các trung tâm điều trị chuyên khoa tại 
Việt Nam, tỉ lệ nam giới thường cao hơn nhiều 
so với nữ giới. Tuy nhiên, tỉ lệ này có thể không 
đại diện cho tỉ lệ phân bố giới tính bệnh nhân 
vảy nến trong cộng đồng. 
Tỷ lệ bệnh nhân tăng dần theo tuổi. Nhóm 
bệnh nhân có tuổi càng lớn thì chiếm tỷ lệ càng 
cao. Tỷ lệ này cũng phù hợp với các tác giả trong 
và ngoài nước. 
Vảy nến là một bệnh lý mạn tính nên thời 
gian bệnh có thể thay đổi rất lớn và kéo dài trong 
nhiều năm. Thời gian bệnh kéo dài cũng nói lên 
phần nào sự ảnh hưởng nghiêm trọng của bệnh 
vảy nến đến chất lượng cuộc sống và vấn đề tâm 
lý của bệnh nhân. 
Về lâm sàng 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ vảy nến 
mảng chiếm ưu thế, phù hợp theo Fitzpatrick, 
vảy nến mảng là thể lâm sàng thường gặp nhất 
trong bệnh vảy nến (chiếm tỉ lệ 80%). Tuy nhiên 
tỉ lệ vảy nến khớp và đặc biệt là vảy nến đỏ da 
toàn thân lại cao hơn nhiều so với nghiên cứu 
khác. Nguyên nhân có thể do chúng tôi chỉ chọn 
vảy nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ da 
toàn thân vào nghiên cứu và loại khỏi nghiên 
cứu những thể bệnh vảy nến khác. Hơn nữa, 
bệnh viện Da Liễu TP. Hồ Chí Minh là tuyến 
chuyên khoa cuối cùng nên tiếp nhận nhiều 
bệnh nhân nặng hơn. 
Mức độ và số lượng móng tổn thương 
thường liên quan đến tuổi, thời gian bệnh, mức 
độ nặng của bệnh và sự xuất hiện của tổn 
thương khớp. Số lượng bệnh nhân bị tổn thương 
móng trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn 
những ghi chép trong y văn và một số nghiên 
cứu khác có thể do cách chọn mẫu, đa số là bệnh 
nhân nặng, thời gian bệnh kéo dài và tỉ lệ bệnh 
nhân vảy nến khớp trong nghiên cứu của chúng 
tôi cũng cao hơn đáng kể so với những nghiên 
cứu khác. 
Các nghiên cứu trên thế giới cũng cho các kết 
quả số lượng khớp tổn thương khác nhau. Sự 
khác biệt này có thể là do những tiêu chuẩn khác 
nhau để chẩn đoán vảy nến khớp trong mỗi 
nghiên cứu. Ngoài ra, sự khác biệt về chủng tộc, 
môi trường sống, thói quen sinh hoạt cũng làm 
cho sự xuất hiện và biểu hiện của bệnh khớp 
cũng rất khác nhau. 
Chỉ số PASI ở các nghiên cứu khá khác nhau. 
Điều này có thể do vảy nến là bệnh diễn tiến 
mạn tính nên các đối tượng nghiên cứu có thể có 
thời gian bệnh thay đổi, diễn tiến càng lâu, càng 
dai dẳng thì bệnh càng nặng. Thời gian bệnh của 
các bệnh nhân trong các nghiên cứu rất khác 
nhau nên độ nặng của bệnh, biểu hiện qua chỉ số 
PASI cũng rất khác nhau. 
Về nồng độ IL-23 huyết thanh trên bệnh nhân 
vảy nến 
Nồng độ IL-23 trong nghiên cứu của chúng 
tôi cũng khá tương đồng với các nghiên cứu 
khác trên thế giới(1). Tuy nhiên có một vài nghiên 
cứu khác cho kết quả cao hơn hẳn, cũng như 
giữa các nghiên cứu cũng có sự khác nhau tương 
đối rõ rệt, mặc dù đều dùng chung một phương 
pháp định lượng là ELISA (Enzyme Linked 
Immunosorbent Assay). Sự chênh lệch về kết 
quả có thể là do phương tiện, máy móc khác 
nhau tại các trung tâm xét nghiệm cũng như do 
cách chọn mẫu trong mỗi nghiên cứu cũng có 
phần khác nhau. 
Kết quả định lượng nồng độ IL-23 huyết 
thanh trong bệnh nhân vảy nến của chúng tôi và 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 79
các nghiên cứu tương tự trên thế giới cho kết quả 
rất khác nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. 
Tuy nhiên, khi so sánh nồng độ IL-23 huyết 
thanh giữa nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm 
người bình thường trong tất cả các nghiên cứu 
đều cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rõ 
rệt. Tất cả các tác giả đều khẳng định nồng độ IL-
23 tăng cao trong huyết thanh bệnh nhân vảy 
nến so với người bình thường, điều này chứng tỏ 
IL-23 có một vai trò nhất định trong cơ chế miễn 
dịch của bệnh vảy nến(1,5,6). 
Vảy nến khớp là một thể bệnh nặng trong 
phân nhóm bệnh vảy nến. Trong vảy nến khớp, 
đáp ứng miễn dịch gây viêm ở cả vùng da tổn 
thương và khớp. Một số nghiên cứu còn chỉ ra 
rằng tình trạng viêm tại khớp làm tăng nồng độ 
các hóa chất trung gian gây viêm tại khớp, cũng 
như trong toàn cơ thể(1). Do đó nồng độ IL-23 
huyết thanh trong bệnh nhân vảy nến khớp tăng 
rất cao so với người bình thường, và so với vảy 
nến mảng và vảy nến đỏ da toàn thân. Vảy nến 
đỏ da toàn thân cũng được xem là một thể bệnh 
nặng với phản ứng viêm cấp tính toàn thân, biểu 
hiện bởi sang thương da lan tỏa. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, nồng độ IL-23 huyết thanh 
bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân không khác 
biệt so với vảy nến mảng. Có thể là do mẫu 
nghiên cứu của chúng tôi không đủ lớn, số 
lượng bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân trong 
nghiên cứu ít (17 bệnh nhân) nên chưa thể tìm 
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu có. 
Nồng độ IL-23 huyết thanh ở nhóm bệnh 
nhân vảy nến mảng cao hơn ở nhóm người bình 
thường và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,001). Nồng độ IL-23 huyết thanh ở nhóm 
bệnh nhân vảy nến khớp cao hơn nhóm người 
bình thường và sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê (p<0,001). Nồng độ IL-23 huyết thanh 
tăng cao trong dịch khớp viêm so với trong 
huyết thanh của bệnh nhân vảy nến khớp và 
đưa ra giả thuyết rằng sự gia tăng nồng độ IL-23 
huyết thanh là kết quả của những đáp ứng miễn 
dịch tại vùng khớp viêm. Đỏ da toàn thân vảy 
nến là một dạng lâm sàng nặng của bệnh vảy 
nến. Có một số lựa chọn điều trị nhưng nhìn 
chung hiệu quả còn rất hạn chế. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, vảy nến đỏ da toàn thân có 
nồng độ IL-23 huyết thanh cao hơn có ý nghĩa 
thống kê so với người bình thường nhưng không 
có sự khác biệt so với nhóm vảy nến mảng. 
Việc nồng độ IL-23 huyết thanh không có sự 
tương quan với tuổi khởi phát và thời gian bệnh 
có thể là do bị ảnh hưởng từ những yếu tố lâm 
sàng, diễn tiến, mức độ nặng của bệnh, nhưng 
cũng có thể là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi 
chưa đủ lớn để tìm thấy mối tương quan. 
Nồng độ IL-23 huyết thanh trên bệnh nhân 
vảy nến mảng, vảy nến khớp và chỉ số PASI có 
tương quan thuận ở mức độ khá chặt (hệ số 
tương quan Pearson r = 0,60; p<0,001). Điều này 
phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới(1,5). 
KẾT LUẬN 
Qua kết quả nghiên cứu 81 bệnh nhân bị 
vảy nến ở da chúng tôi nhận thấy tuổi trung 
bình của bệnh nhân vảy nến là 48,32 ± 14,36 
tuổi; nồng độ IL-23 trong huyết thanh ở những 
bệnh nhân vảy nến là 39,65 ± 13,95 pg/mL và 
nồng độ IL-23 trong huyết thanh ở nhóm bình 
thường là 18,55 ± 2,69 pg/mL, cụ thể, nồng độ 
IL-23 huyết thanh ở nhóm vảy nến mảng: 
35,25 ± 12,67 pg/mL, ở nhóm vảy nến đỏ da 
toàn thân: 42,31 ± 14,28 pg/mL, ở nhóm vảy 
nến khớp: 52,12 ± 9,55 pg/mL. Nồng độ IL-23 
huyết thanh của bệnh nhân vảy nến nói chung 
và của từng dạng lâm sàng nói riêng đều cao 
hơn nhóm bình thường một cách có ý nghĩa 
thống kê với p<0,001. Nồng độ IL-23 huyết 
thanh ở bệnh nhân vảy nến khớp cao hơn có ý 
nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân vảy 
nến mảng (p<0,001) và vảy nến đỏ da toàn 
thân (p=0,032). Nồng độ IL-23 huyết thanh có 
mối tương quan tuyến tính với độ nặng của 
bệnh nhân vảy nến mảng và vảy nến khớp 
tính theo chỉ số PASI (r=0,60; p<0,001). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alobaidi AH, Mothana Z, Najem WS, et al (2012), 
"Adiponectin, IL-10, IL-23 and trace elements serum 
levels in patients with psoriasis", American Journal of 
Dermatology and Venereology, 1 (2), pp. 6-23. 
2. Austin LM, Ozawa M, Kikuchi T, et al (1999), "The 
majority of epidermal T cells in psoriasis vulgaris 
lesions can produce type 1 cytokines, interferon-γ, 
interleukin-2, and tumor necrosis factor-α, defining TC1 
(Cytotoxic T Lymphocyte) and TH1 effector 
populations: 1 a type 1 differentiation bias is also 
measured in circulating blood T cells in psoriatic 
patients", Journal of Investigative Dermatology, 113 (5), pp. 
752-759. 
3. Chiricozzi A, Saraceno R, Chimenti MS, et al (2014), 
"Role of IL-23 in the pathogenesis of psoriasis: a novel 
potential therapeutic target?", Expert opinion on 
therapeutic targets, 18 (5), pp. 513-525. 
4. D'Elios MM, Del Prete G, Amedei A (2010), "Targeting 
IL-23 in human diseases", Expert opinion on therapeutic 
targets, 14 (7), pp. 759-774 
5. El Hadidi H, Grace BD, Gheita T, et al (2008), 
"Involvement of IL-23 in psoriasis and psoriatic arthritis 
patients; possible role in pathogenesis", J Egypt worn 
Dermatol Soc, 5 (2), pp. 70-76. 
6. Hassoon HJ, Risan FA, Abdul-Muhaimen N (2014), 
"Estimation the concentration of IL- 23, and IL-17A in 
the sera of patients with psoriasis in Baghdad city", Iraqi 
Journal of Biotechnology, 13 (2), pp. 75-85. 
7. Oppmann B, Lesley R, Blom B, et al (2000), "Novel p19 
protein engages IL-12p40 to form a cytokine, IL-23, with 
biological activities similar as well as distinct from IL-
12", Immunity, 13 (5), pp. 715-725. 
8. Parham C, Chirica M, Timans J, et al (2002), "A receptor 
for the heterodimeric cytokine IL-23 is composed of IL-
12Rβ1 and a novel cytokine receptor subunit, IL-23R", 
The Journal of Immunology, 168 (11), pp. 5699-5708. 
9. Sheibanie AF, Tadmori I, Jing H, et al (2004), 
"Prostaglandin E2 induces IL-23 production in bone 
marrow-derived dendritic cells", The FASEB journal, 18 
(11), pp. 1318-1320. 
10. Uhlig HH, McKenzie BS, Hue S, et al. (2006), 
"Differential activity of IL-12 and IL-23 in mucosal and 
systemic innate immune pathology", Immunity, 25 (2), 
pp. 309-318. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018