Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 67
NHIỄM KHUẨN VẾT MỔ KHI SỬ DỤNG KHÁNG SINH DỰ PHÒNG 
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Võ Hữu Ngoan*, Phạm Văn Đông*, Trần Minh Dũng*, Thạch Minh Hoàng*, Đỗ Quốc Định*, 
Nguyễn Chí Tâm*, Bùi Ngọc Thanh Thảo*, Phan Thị Thanh Đức* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn vết mổ là mối lo ngại của các phẫu thuật viên và các bác sĩ điều trị sau mổ, là 
nguyên nhân kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị, thậm chí gây tử vong. Cùng với kiểm soát nhiễm 
khuẩn, kỹ thuật mổ, kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật được xem là một biện pháp hữu hiệu hạn chế tình 
trạng nhiễm khuẩn vết mổ. 
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ và các yếu tố liên quan khi tuân thủ sử dụng 
kháng sinh dự phòng ở bệnh nhân phẫu thuật sạch, sạch nhiễm. 
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 331 bệnh nhân được phân loại phẫu thuật sạch, sạch nhiễm 
trong tháng 01 năm 2017 tại 07 khoa Ngoại bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân phẫu thuật sạch, sạch nhiễm khi tuân thủ sử dụng kháng 
sinh dự phòng trong phẫu thuật là 4,2%, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiên cứu được 
thực hiện trước đây tại bệnh viện Chợ Rẫy. Các yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ là phẫu thuật sạch 
nhiễm (OR = 3,38), sử dụng kháng sinh dự phòng không đúng liều (OR = 5,67) và không đúng thời điểm (OR = 
7,24). Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ không có sự khác biệt ở các khoa Ngoại trong nhóm nghiên cứu. 
Kết luận: tuân thủ sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật sạch, sạch nhiễm không làm tăng tỷ lệ 
nhiễm khuẩn vết mổ. 
Từ khóa: Nhiễm khuẩn vết mổ, kháng sinh dự phòng. 
ABSTRACT 
SURGICAL SITE INFECTION WITH USING ANTIBIOTIC PROPHYLAXIS AT CHO RAY HOSPITAL 
Vo Huu Ngoan, Pham Van Đong, Tran Minh Dung, Thach Minh Hoang, Đo Quoc Đinh, 
Nguyen Chi Tam, Bui Ngoc Thanh Thao, Phan Thi Thanh Đuc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 67 - 71 
Background: Surgical site infection (SSI) is concern of surgeons and postoperative care physicians, is 
because that bring to long period of hospitalization, augmentation of hospital fees, even fatality. Beside infection 
control and surgical technology, antibiotic prophylaxis compliance is effective method to limit surgical site 
infection. 
Objectives: The aim of study was to identify SSI and the related factors in clean wound and clean 
contaminated wound operations with antibiotic prophylaxis compliance. 
Method: A descriptive cross-sectional study done at 7 surgical departments at Cho Ray hospital in January, 
2017. 
Results: There were 331 cases were enrolled. The result showed that the rate of SSI was 4.2%. The related 
factors to SSI were clean contaminated wound operations, wrong dose and time of antibiotic prophylaxis. There 
was no significant difference of SSI rate with antibiotic prophylaxis compliance but the wrong dose of prophylactic 
* Khoa Gây mê hồi sức – Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: Ths BS. Võ Hữu Ngoan ĐT: 0901835523, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 68
antibiotic and the unsuitable time of prophylactic antibiotic injection increased risk of SSI. There was no 
significant difference in SSI rate in the different surgical departments at Cho Ray hospital. 
Conclusions: The antibiotic prophylaxis compliance did not increase the rate of SSI. 
Key words: Surgical site infection, antibiotic prophylaxis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm khuẩn vết mổ là mối lo ngại của các 
phẫu thuật viên và các bác sĩ điều trị sau mổ, là 
nguyên nhân kéo dài thời gian nằm viện, tăng 
chi phí điều trị, thậm chí gây tử vong(2). Tỷ lệ 
nhiễm khuẩn vết mổ từ 2 - 15% tùy điều kiện(1). 
Cùng với kiểm soát nhiễm khuẩn, kỹ thuật mổ, 
kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật được 
xem là một biện pháp hữu hiệu hạn chế tình 
trạng nhiễm khuẩn vết mổ. Tuy nhiên, các phẫu 
thuật viên vẫn lo ngại tình trạng nhiễm khuẩn 
sau phẫu thuật nên có xu hướng thay đổi kháng 
sinh hoặc sử dụng kháng sinh kéo dài sau phẫu 
thuật đã làm gia tăng tỷ lệ đề kháng kháng sinh 
và xuất hiện các loại vi khuẩn đa kháng. Vì vậy, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm trả lời 
câu hỏi liệu việc sử dụng kháng sinh dự phòng 
theo đúng phác đồ có làm tăng tỷ lệ nhiễm 
khuẩn vết mổ sớm hay không? 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ sớm và 
các yếu tố liên quan khi tuân thủ sử dụng kháng 
sinh dự phòng ở bệnh nhân phẫu thuật sạch, 
sạch nhiễm. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh nhân được phân loại phẫu thuật sạch, 
sạch nhiễm tại 07 khoa ngoại bệnh viện Chợ Rẫy 
gồm: Ngoại thần kinh nữ (3B1), Ngoại thần kinh 
nam (3B3), Ngoại tiêu hóa (4B1), Ngoại gan mật 
tụy (4B3), Ngoại tiết niệu (5B1), Ngoại chỉnh 
hình (5B3) và Ngoại lồng ngực (7B1). 
Phương pháp nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Chọn mẫu 
Tất cả bệnh nhân được phân loại phẫu thuật 
sạch, sạch nhiễm tại 7 khoa Ngoại trong tháng 01 
năm 2017. 
Đối tượng loại trừ 
Bệnh nhân có phân loại nhiễm khuẩn vết mổ 
sai. 
Thu thập và xử lý số liệu 
Số liệu thu thập dựa vào hồ sơ. Phân loại 
nhiễm khuẩn vết mổ theo tiêu chuẩn của Trung 
tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và 
hướng dẫn của Bộ Y tế năm 2012. Xử lý số liệu 
theo phần mềm SPSS 20.0 for Windows. 
KẾT QUẢ 
Có 331 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. 
Tuổi trung bình là 51,7 ± 12,3 tuổi. Tỷ lệ nam/ nữ 
là 1,12/1. Đa số bệnh nhân (62,2%) ở độ tuổi lao 
động (16 - 60 tuổi). Số phẫu thuật sạch là 217 
chiếm 65,6%, 114 trường hợp phẫu thuật sạch 
nhiễm, chiếm 34,4%. 
Có 312 trường hợp (94,3%) sử dụng kháng 
sinh dự phòng. Trong đó, 227 trường hợp 
(72,8%) sử dụng theo hướng dẫn sử dụng kháng 
sinh bệnh viện. Có 17 trường hợp không sử 
dụng kháng sinh dự phòng ở các trường hợp 
phẫu thuật sạch và 2 trường hợp không sử dụng 
kháng sinh dự phòng ở các trường hợp phẫu 
thuật sạch nhiễm. 
Có 206 trường hợp (62,2%) sử dụng kháng 
sinh sau phẫu thuật. Trong số đó, 137 trường 
hợp (66,5%) sử dụng theo hướng dẫn sử kháng 
sinh dự phòng hoặc có bằng chứng nhiễm khuẩn 
cần sử dụng kháng sinh, 69 trường hợp sử dụng 
kháng sinh sau phẫu thuật không theo hướng 
dẫn chiếm tỷ lệ 33,5%. 
Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ 4,2% (14 trường 
hợp) và 95,8% (317 trường hợp) không có tình 
trạng nhiễm khuẩn vết mổ trong bệnh viện. 
Có 24,5% trường hợp sử dụng kháng sinh 
dự phòng thiếu liều, thường là Cefazolin hoặc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 69
Ceftazidim (Bảng 1). 
Bảng 1: Liều kháng sinh dự phòng 
Bảng 2: Mối liên quan giữa loại phẫu thuật và kháng 
sinh trước phẫu thuật 
Loại 
phẫu thuật 
Kháng sinh trước phẫu thuật 
p 
Có Không 
Sạch 195 (92%) 17 (8%) 
< 0,05 Sạch nhiễm 117 (98,3%) 2 (1,7%) 
Tổng số 312 (94,3%) 19 (5,7%) 
Nhận xét: Vẫn còn 2 trường hợp phẫu thuật 
sạch nhiễm nhưng không được dùng kháng sinh 
dự phòng và chỉ có 17 trường hợp phẫu thuật 
sạch không dùng kháng sinh dự phòng. 
Bảng 3: Mối liên quan giữa loại phẫu thuật và nhiễm 
khuẩn vết mổ 
Nhận xét: Nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ 
cao hơn 3,38 lần ở nhóm bệnh nhân phẫu 
thuật sạch nhiễm. 
Bảng 4: Mối liên quan giữa liều kháng sinh và nhiễm 
khuẩn vết mổ 
Nhận xét: Sử dụng kháng sinh dự phòng 
không đúng liều làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn 
vết mổ lên 5,67 lần. 
Sử dụng kháng sinh dự phòng không đúng 
thời điểm làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ 
lên 7,24 lần (Bảng 5). 
Không có sự liên quan giữa khoa điều trị và 
nhiễm khuẩn vết mổ với p > 0,05 (Bảng 6). 
Bảng 5: Mối liên quan giữa thời điểm dùng kháng 
sinh và nhiễm khuẩn vết mổ 
Bảng 6: Mối liên quan giữa khoa điều trị và nhiễm 
khuẩn vết mổ 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ 
Nhiễm khuẩn vết mổ là một biến chứng 
thường gặp trong ngoại khoa. Tại Hoa Kỳ, 
nhiễm khuẩn vết mổ trung bình là 4,1% (dao 
động từ 2 - 5%) trong số 30 triệu trường hợp 
phẫu thuật mỗi năm(6). Một nghiên cứu dịch tễ 
trên diện rộng đã chỉ ra có ít nhất 2% số bệnh 
nhân phẫu thuật bị nhiễm khuẩn vết mổ, trong 
khi các dữ liệu khác cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn 
vết mổ dao động trong khoảng 3 đến 20% tùy 
theo mức độ nguy cơ. Theo báo cáo điều tra năm 
2005 của Bộ Y tế với quy mô 19 bệnh viện trên 
toàn quốc thì tỷ lệ nhiễm khuẫn vết mổ chiếm 
6,8%(1). Nghiên cứu cắt ngang tiến hành từ tháng 
5 đến tháng 7 năm 2009 về tình trạng nhiễm 
khuẩn vết mổ tại khoa Ngoại tổng hợp bệnh 
viện Y Dược thành phố Hồ Chí Minh cho kết 
quả tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ chung là 3,0%. Tỷ 
lệ này tại một số bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh ở 
miền Bắc giai đoạn tháng 11 năm 2009 đến tháng 
2 năm 2010 thậm chí lên tới 7,5%(1). Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ 
chiếm 4,2%, giảm 2% so với năm 2015 nhưng sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Liều kháng sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%) 
Đúng liều 231 69,8 
Sai liều 81 24,5 
Không sử dụng 19 5,7 
Tổng 331 100 
Loại phẫu thuật 
Nhiễm khuẩn vết mổ 
OR p 
Có Không 
Sạch 5 (2,4%) 207 (97,6%) 
3,38 
(2,8- 3,7) 
<0,01 Sạch nhiễm 9 (7,6%) 110 (92,4%) 
Tổng số 14 (4,2%) 317 (95,8%) 
Liều kháng sinh 
Nhiễm khuẩn vết mổ 
OR p 
Có Không 
Đúng 6 (2,6%) 229 (97,4%) 
5,67 
(4,9- 6,2) 
<0,05 Sai 8 (10,4%) 69 (89,6%) 
Tổng số 14 (4,5%) 298 (95,5%) 
Thời điểm dùng 
kháng sinh 
Nhiễm khuẩn vết mổ 
OR p 
Có Không 
Đúng 4 (1,7%) 226 (98,3%) 
7,2 
(6,9- 
8,3) 
<0,05 Sai 
10 
(12,2%) 
72 (87,8%) 
Tổng số 14 (4,5%) 298 (95,5%) 
Khoa 
Nhiễm khuẩn vết mổ 
p 
Có Không 
Ngoại thần kinh nữ 0 (0%) 49 (100%) 
> 0,05 
Ngoại thần kinh nam 0 (0%) 47 (100%) 
Ngoại tiêu hoá 8 (14,3%) 48 (85,7%) 
Ngoại gan mật tuỵ 2 (4,4%) 43 (95,6%) 
Ngoại tiết niệu 1 (2,6%) 38 (97,4%) 
Ngoại chỉnh hình 2 (2,7%) 73 (97,3%) 
Ngoại lồng ngực 1 (5%) 19 (95%) 
Tổng 14 (4,2%) 317 (95,8%) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 70
Kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật được 
dùng với mục đích đạt được nồng độ tối đa 
trong huyết thanh và trong mô vào thời điểm 
rạch da và được duy trì trong suốt thời gian phơi 
nhiểm (giữa lúc rạch da và đóng ổ bụng) để 
ngăn ngừa những đợt nhiễm khuẩn có thể xảy ra 
trong thời gian đó. Kháng sinh dự phòng đã 
được chứng minh có khả năng làm giảm tỷ lệ 
nhiễm khuẩn vết mổ trong các thử nghiệm lâm 
sàng, qua đó sẽ giảm được số ngày nằm viện và 
chi phí điều trị cho bệnh nhân(3). Tuy nhiên, sử 
dụng kháng sinh dài ngày sau phẫu thuật trở 
thành một thói quen của các phẫu thuật viên 
trong nhiều năm qua. Mặt khác, điều kiện môi 
trường bệnh viện, kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh 
viện vẫn chưa tạo được tâm lý yên tâm cho các 
phẫu thuật viên khi tuân thủ sử dụng kháng 
sinh dự phòng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
72,8% sử dụng theo hướng dẫn sử dụng kháng 
sinh bệnh viện và tỷ lệ tuân thủ kháng sinh dự 
phòng trong phẫu thuật 66,5%. Đây là một kết 
quả sau 18 tháng thực hiện chương trình quản lý 
kháng sinh (Antimicrobial Stewardship - AMS) 
nói chung và giám sát sử dụng kháng sinh dự 
phòng trong phẫu thuật nói riêng vì trước đây 
phần lớn các trường hợp phẫu thuật đều sử 
dụng kháng sinh không theo hướng dẫn sử 
dụng kháng sinh bệnh viện (83%) và sử dụng 
kháng sinh không hợp lý sau phẫu thuật 
(85,8%)(7). Theo thống kê của bệnh viện, năm 
2016 có hơn 42.000 trường hợp được phẫu thuật, 
trong số đó có khoảng 50% là phẫu thuật sạch, 
sạch nhiễm. Vì vậy, hạn chế sử dụng kháng sinh 
không cần thiết sau phẫu thuật đã tiết kiệm được 
một khoảng tiền rất lớn cho người bệnh. Chưa 
kể các lợi ích khác từ việc hạn chế tình trạng đề 
kháng, đa kháng kháng sinh, giảm thời gian nằm 
viện và giảm những tác dụng không mong 
muốn do kháng sinh gây ra. 
Các yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết 
mổ 
Theo phân tích gộp từ 5 nghiên cứu của 
Deverick J Anderson et al (2013), tỷ lệ nhiễm 
khuẩn vết mổ tùy vào loại phẫu thuật như: phẫu 
thuật sạch có tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ là 1,3% - 
2,9%, phẫu thuật sạch - nhiễm (2,4% - 7,7%), 
phẫu thuật nhiễm (6,4% - 15,2%), phẫu thuật bẩn 
(7,1% - 40%)(3). Theo Trung tâm kiểm soát và 
phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), phẫu 
thuật sạch có nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ từ 1 - 
5%, phẫu thuật sạch - nhiễm có nguy cơ nhiễm 
khuẩn vết mổ 5 - 10%. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi có sự liên quan giữa loại phẫu thuật và 
nhiễm khuẩn vết mổ, phẫu thuật sạch nhiễm sẽ 
có tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ cao hơn phẫu thuật 
sạch. Từ đó, cần phân loại phẫu thuật cho tất cả 
trường hợp phẫu thuật nhằm đánh giá nguy cơ 
nhiễm khuẩn để có biện pháp phòng ngừa 
nhiễm khuẩn một cách hiệu quả. Kết quả nghiên 
cứu Fennessy B.G et al cho thấy tỷ lệ nhiễm 
khuẩn vết mổ còn tùy thuộc vào quy mô của 
bệnh viện. Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh 
viện có giảng dạy dưới 500 giường là 6,4% so với 
8,2% ở bệnh viện có trên 500 giường(3). Trong khi 
đó, Bệnh viện Chợ Rẫy là bệnh viện đa khoa 
hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Y Tế, phục vụ cho 
nhân dân từ 23 tỉnh thành phía Nam, là môi 
trường giảng dạy thực hành cho nhiều học viên 
như bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, chuyên 
khoa, bác sĩ nội trú cùng với số giường bệnh 
thực kê trên 2700 giường. 
Ngoài ra, nhiễm khuẩn vết mổ còn phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố thuộc về 
bệnh nhân (tình trạng miễn dịch, chế độ dinh 
dưỡng, bệnh lý kèm theo), liên quan đến phẫu 
thuật có cấy ghép hay không, liên quan đến vi 
khuẩn và liên quan đến kháng sinh dự phòng. 
Kháng sinh dự phòng có thể phòng ngừa 30% 
nhiễm khuẩn vết mổ(4). Kháng sinh dự phòng 
phải cho với liều có thể đạt được một nồng độ 
trong mô có hiệu quả trước khi vết mổ có thể bị 
lây nhiễm. Liều kháng sinh hiệu quả được tính 
theo cân nặng của bệnh nhân. Bên cạnh đó, cần 
cho kháng sinh dự phòng đúng thời gian để đạt 
được nồng độ tối đa tại thời điểm mong muốn, 
thường cho kháng sinh dự phòng khoảng 30 - 45 
phút trước khi rạch da (cùng thời điểm khởi mê), 
nếu cho sớm quá thì không đạt được liều tối đa 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 71
tại thời điểm mong muốn, còn nếu cho muộn 
quá thì không hiệu quả. Nhiều công trình nghiên 
cứu của các tác giả cho thấy sử dụng kháng sinh 
dự phòng đúng liều và đúng thời gian đã giúp 
hạ thấp tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ một cách rõ 
rệt. So sánh tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ giữa 2 
nhóm bệnh nhân dùng kháng sinh dự phòng 
đúng liều, đúng thời gian và dùng kháng sinh 
dự phòng sai liều, không đúng thời gian cho 
thấy kết quả có sự khác biệt rất rõ rệt nên các tác 
giả đều nhận định rằng dùng kháng sinh dự 
phòng trong phẫu thuật không đúng liều và 
không đúng thời gian là không an toàn(5). Sử 
dụng kháng sinh dự phòng đúng bao hàm đúng 
thuốc, đúng liều, đúng đường và đúng thời 
điểm. Điều này giúp cho nồng độ kháng sinh đạt 
được tối đa tại vị trí vết mổ ở thời điểm rạch da 
giúp hạn chế nhiễm khuẩn vết mổ trong thời 
gian hậu phẫu. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ cao hơn ở bệnh 
nhân phẫu thuật sạch nhiễm và bệnh nhân sử 
dụng kháng sinh dự phòng không đúng liều, 
không đúng thời gian. Ngoài ra, giám sát chặt 
chẽ sử dụng kháng sinh sau phẫu thuật giúp 
giảm chi phí điều trị, giảm tình trạng đề kháng 
và đa kháng kháng sinh, góp phần giảm thời 
gian nằm viện. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ khi tuân thủ sử 
dụng kháng sinh dự phòng theo hướng dẫn là 
4,2%. Tỷ lệ này không có sự khác biệt với nhóm 
bệnh nhân sử dụng kháng sinh kéo dài sau phẫu 
thuật. Các yếu tố làm tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn vết 
mổ là phẫu thuật sạch nhiễm, sử dụng kháng 
sinh dự phòng không đúng liều và không đúng 
thời điểm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế (2012). Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ. 
Ban hành kèm theo Quyết định số: 3671/QĐ - BYT ngày 27 
tháng 9 năm 2012 của Bộ Y tế. 
2. Anderson DJ (2013). Surveying the Surveillance: Surgical Site 
Infections Excluded by the January 2013 Updated Surveillance 
Definitions. Infection Control and Hospital Epidemiology, 
35(5), pp 570 – 573. 
3. Fennessy BG, O’sullivan MJ, Fulton GJ, Kirwan WO, 
Redmond HP (2006). Prospective study of use of perioperative 
antimicrobial therapy in general surgery, Surgical Infections. 
Surgical Infections, 7(4), pp. 355-360. 
4. Kirby JP, Mazuski JE (2009). Prevention of surgical site 
infection. Surgical Clinics of North America, 89(2), pp. 365 – 369. 
5. Lê Thị Anh Thư, Đặng Thị Vân Trang (2011). Những rào cản 
trong áp dụng hướng dẫn sử dụng kháng sinh trên bệnh nhân 
ngoại khoa tại bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Y học TP.Hồ Chí 
Minh, 15(2), tr. 35 – 38. 
6. Mangram AJ, Horan TC (1999). Guideline for prevention of 
surgical site infection, Hospital Infection Control Practices 
Advisory Committee. Infection Control and Hospital 
Epidemiology, 20(4), pp. 250 – 280. 
7. Tôn Thanh Trà (2015). Thực trạng sử dụng kháng sinh tại 
bệnh viện Chợ Rẫy. Báo cáo hội nghị thường niên Bệnh viện 
Chợ Rẫy 2015. 
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017