Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 134
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH MŨ TRÊN NGƯỜI VIỆT NAM 
Nguyễn Hoàng Vũ* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh động mạch vành là một trong những nguyên nhân gây tử vong ở các nước phát 
triển và hiện nay đang có xu hướng tăng lên ở các nước đang phát triển. Kiến thức về giải phẫu động mạch 
vành là rất quan trọng và cần thiết trong các kỹ thuật chẩn đoán, điều trị bệnh động mạch vành. 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm giải phẫu động mạch mũ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 125 quả tim lấy từ tử thi được ướp dung dịch formol tại bộ 
môn Giải phẫu học, Đại học Y Dược TP.HCM. 
Kết quả: Trong 125 trường hợp nghiên cứu, có 4 trường hợp không có động mạch mũ (ĐMM), chiếm 
tỷ lệ 3,2%. Hầu hết ĐMM xuất phát từ thân chung động mạch vành trái, chỉ có 0,8% xuất phát từ động 
mạch chủ. Đường kính trung bình của ĐMM tại nguyên ủy là 3,33± 0,67mm. 46,28% ĐMM kết thúc tại 
bờ trái, 45,46% tại vị vị trí giữa bờ trái và Crux, 4,13% tại mặt trước thất trái và 4,13% trường hợp kết 
thúc tại Crux. 97,53% trường hợp ĐMM cho nhánh trước thất trái; 100% cho nhánh bờ trái; 20,66% cho 
nhánh sau thất trái; 4,13% cho nhánh gian thất sau và chỉ có 0,83% cho nhánh sau thất phải. 
Kết luận: Động mạch mũ thường xuất phát từ thân chung động mạch vành trái nhưng cũng có thể 
xuất phát từ động mạch chủ. Động mạch mũ có thể kết thúc ở mặt trước thất trái, tại bờ trái tim, giữa bờ 
trái và Crux hoặc tại Crux. Nó cho các nhánh cung cấp máu cho thất trái và nhĩ trái như nhánh trước thất 
trái, nhánh bờ trái, nhánh sau thất trái, nhánh nhĩ trái và đôi khi cho nhánh gian thất sau. 100% trường 
hợp có nhánh bờ trái. 
Từ khóa: thân chung động mạch vành trái, động mạch mũ, động mạch gian thất trước, nhánh bờ trái, 
điểm Crux. 
ABSTRACT 
A STUDY ON ANATOMY OF THE LEFT CỈRCUMFLEX ARTERY 
Nguyen Hoang Vu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 134 - 140 
Introduction: The coronary arteries disease (CAD) is one of the major causes of death in developed 
countries and is increasing in developing countries. The knowledge of anatomy of coronary arteries is 
essential in the diagnostic and treatment procedures of CAD. 
Objective: To study the anatomical characteristics of the Left Circumflex Artery (LCx). 
Materials and methods: 125 hearts of 125 cadavers preseved in formalin solution in department of 
Anatomy, the University of Medicine and Pharmacy at HCM city. 
Results: In 125 specimens studied, the LCx was absent in 4 specimens, accouting to 3.2%. Most LCx 
originate from the Left Main Coronary Artery (LMCA), only 0.8% originate from the Aorta. The mean 
outer diameter at the origin of the LCx was 3.33±0.67mm. The LC xended at the left boder in 46.28% of the 
specimens; between the left border and the Crux in 45.46%; at the anterior surface of the left ventricular in 
4.13%, and at the Crux in 4.13% of thespecimens. 97.52% of the specimens had the anterior left ventricular 
branches; 100% had the left marginal branches; 20.66% had the posterior left ventricular; 4.13% had the 
*: Bộ môn Giải Phẫu học, Đại Học Y Dược TP. HCM. 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hoàng Vũ ĐT: 0903863252 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 135
posterior interventricular branch; and 0.83% had the posterior right ventricular branhces. 
Conclusion: The LC xusually originates from the LMCA, somtimes from the Aorte. It mightend at the 
anterior surface of the left ventricular, at the left margin, between the left margin and the Crux, or at the 
Crux. It gave the branches to left ventricular and left atrium, such as the anterior left ventricular branches, 
the left marginal branches, the posterior left ventricular branches, the posterior interventricular branches, 
the posterior right ventricular branches, the left atrial branches. The left marginal branches were present in 
all the specimens. 
Key words: main left coronary artery, circumflex artery, anterior interventricular artery, left marginal 
branch, Crux. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh động mạch vành là một trong những 
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước 
phát triển(7).Tổ chức Y tế Thế giới ước tính tỷ lệ 
tử vong toàn cầu do bệnh mạch vành vào năm 
2002 là 7,2 triệu người và sẽ tăng lên 11,1 triệu 
người vảo năm 2020(13). Đặc biệt, tỷ lệ này có xu 
hướng giảm đi ở các nước phương Tây nhưng 
lại tăng lên ở các quốc gia đang phát triển(16). 
Song song đó, các kỹ thuật chẩn đoán và điều 
trị bệnh động mạch vành không ngừng tiến bộ. 
Kiến thức về giải phẫu có ý nghĩa quan trọng, 
giúp chẩn đoán chính xác và điều trị thành 
công bệnh động mạch vành. 
Nghiên cứu này khảo sát các đặc điểm giải 
phẫu động mạch mũ (ĐMM), một trong 
những động mạch chính trong hệ thống động 
mạch vành. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
125 xác ướp người Việt Nam (gồm 91 nam, 
34 nữ), tuổi trung bình 68,1 (từ 33 đến 95) tại 
Bộ môn Giải Phẫu học, Đại học Y Dược Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Phương pháp chọn mẫu và kỹ thuật phẫu 
tích 
- Mẫu được chọn lựa thuận tiện, là những 
xác ướp được phẫu tích để giảng dạy cho sinh 
viên. 
- Phẫu tích: Xác được mở ngực và cắt các 
mạch máu lớn (động mạch chủ, động mạch 
phổi, tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới, 
tĩnh mạch phổi) để đưa tim ra ngoài. Sau đó, 
chúng tôi bóc đi lớp màng ngoài tim để bộc lộ 
hệ thống động mạch vành rồi quan sát, đo đạc 
các chỉ số sau: 
+ Xác định nguyên ủy động mạch mũ. 
+ Xác định vị trí kết thúc của động mạch 
mũ. 
+ Xác định đường kính tại nguyên ủy động 
mạch mũ. 
+ Xác định độ dài, đường kính các đoạn 
của động mạch mũ. 
+ Xác định số lượng các nhánh bên của 
động mạch mũ. 
- Kỹ thuật đo đường kính: Sau khi bóc sạch 
lớp mỡ bao quanh động mạch, chúng tôi kẹp 
dẹp động mạch lại và đo chiều ngang tại vị trí 
kẹp bằng thước kẹp điện tử, độ chính xác đến 
0,01mm. Đường kính (ĐK) ngoài động mạch 
được tính như sau: 
ĐK= (số đo đượcx2)/3,1416 (mm). 
- Đo chiều dài động mạch: dùng chỉ màu 
uốn theo đường đi động mạch rồi kẹp hai đầu 
giới hạn và đo độ dài giữa hai đầu kẹp. 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel. 
KẾT QUẢ 
Sự hiện diện của động mạch mũ 
Trong 125 mẫu, có 04 mẫu (tỷ lệ 3,2%) 
không có động mạch mũ (hình 1). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 136
Nguyên ủy động mạch mũ 
Có 01 trường hợp (0,8%) động mạch mũ 
xuất phát trực tiếp từ xoang trái động mạch 
chủ; 99,2% trường hợp xuất phát từ thân 
chung động mạch vành trái (TCĐMVT). 
Điểm tận của ĐMM 
ĐMM thường tận hết tại bờ trái tim hoặc 
tại vị trí giữa bờ trái và điểm Crux (bảng 1). 
Rất ít trường hợp ĐMM đi đến điểm Crux. 
(Điểm Crux nằm ở mặt hoành của tim, là giao 
điểm giữa rãnh gian thất sau và rãnh vành). 
Bảng 1. Vị trí tận hết của ĐMM (với 121 trường 
hợp có ĐMM) 
Điểm tận Số trường 
hợp 
Tỷ lệ 
Trước khi đến bờ trái 5 4,13% 
Tại bờ trái 56 46,28% 
Giữa bờ trái và điểm Crux 55 45,46% 
Tại điểm Crux 5 4,13% 
Cộng 121 100% 
Kích thước các đoạn động mạch mũ 
Đường kính 
Bảng 2. Đường kính (ĐK) từng đoạn của ĐMM 
ĐK (mm)
 Đoạn 
Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 
Đoạn 1 3,33± 0,67 1,61 5,07 
Đoạn 2 2,46± 0,72 1,22 4,29 
Đoạn 3 2,15± 0,68 0,92 3,46 
Độ dài 
Bảng 3. Độ dài (ĐD)các đoạn ĐMM 
ĐD (mm)
 Đoạn 
Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 
Đoạn 1 21,21± 13,10 4,24 66,72 
Đoạn 2 19,81± 10,15 2,00 56,64 
Đoạn 3 20,73± 12,21 4,92 66 
Toàn bộ ĐMM 54,44 ± 16,58 16,80 126,70 
Phân nhánh của ĐMM 
Nhánh trước thất trái 
Bảng 4. Số nhánh trước thất trái (tính trên 121 
truòng hợp có ĐMM) 
Số nhánh trước thất trái Số trường hợp Tỷ lệ 
0 3 2,48% 
1 29 23,97% 
2 42 34,71% 
3 38 31,40% 
4 9 7,44% 
Cộng 121 100% 
Nhánh bờ trái 
Bảng 5. Số nhánh bờ trái (tính trên 121 truòng 
hợp có ĐMM) 
Số nhánh bờ trái Số trường hợp Tỷ lệ 
1 49 40,50% 
2 66 54,55% 
3 6 4,95% 
Cộng 121 100% 
Hình 1. Không có ĐMM 
ĐMGTT 
Các nhánh chéo 
của ĐMGTT 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 137
Nhánh sau thất trái 
Bảng 6. Số nhánh sau thất trái (tính trên 121 
truòng hợp có ĐMM) 
Số nhánh sau thất trái Số trường hợp Tỷ lệ 
0 96 79,34% 
1 10 8,26% 
2 9 7,44% 
3 3 2,48% 
4 3 2,48% 
Cộng 121 100% 
Nhánh gian thất sau 
Trong số 121 có ĐMM, có 5 trường hợp 
(4,13%) ĐMM cho nhánh gian thất sau. 
Nhánh sau thất phải 
Trong 121 có ĐMM, chỉ có 01 trường hợp 
ĐMM cho nhánh sau thất phải, tỷ lệ 0,83%. 
Nhánh nhĩ trái 
Bảng 7. Số nhánh nhĩ trái (tính trên 121 trường 
hợp có ĐMM) 
Số nhánh nhĩ trái Số trường hợp Tỷ lệ 
0 3 2,48% 
1 50 41,32% 
2 63 52.07% 
3 5 4,13% 
Cộng 121 100% 
BÀN LUẬN 
Về mẫu nghiên cứu và phương pháp nghiên 
cứu 
Số mẫu nghiên cứu là 125 là cỡ mẫu lớn, có 
giá trị trong một nghiên cứu về Giải phẫu học. 
Tuy nhiên, với cỡ mẫu này cũng không thể 
phát hiện hết tất cả dị dạng động mạch vành 
vốn là dị dạng hiếm gặp. 
Nghiên cứu này thực hiện trên xác và bằng 
phương pháp phẫu tích trực tiếp nên các đặc 
điểm như nguyên ủy, đường đi, nhánh bên, 
điểm kết thúc của động mạch được mô tả 
chính xác, kể cả những nhánh bên nhỏ nhất. 
Tuy nhiên, vì là xác ướp và được bảo quản 
trong thời gian 3-4 năm nên kích thước của 
động mạch, đặc biệt là đường kính có thể cho 
kết quả không chính xác bằng đo trên xác tươi. 
Mặt khác, cách đo đường kính trong nghiên 
cứu này là đo đường kính ngoài nên giá trị 
lâm sàng không cao và kết quả khó có thể so 
sánh với phương pháp nghên cứu bằng chẩn 
đoán hình ảnh. 
Về sự hiện diện của ĐMM 
Không có ĐMM là một dị dạng được 
Baressi mô tả lần đầu tiên vào năm 1975(6). 
Nghiên cứu này gặp 4 trường hợp trong 125 
mẫu (tỷ lệ 3,2%). Theo các tài liệu trước đây, 
không có ĐMM là một dị dạng hiếm gặp, chỉ 
khoảng 0,003% qua khảo sát bằng X-quang 
động mạch vành và có liên quan với thiếu 
máu hoặc nhồi máu cơ tim(9). Vũ Duy Tùng 
gặp 0,18% trường hợp không có ĐMM qua 
nghiên cứu trên MSCT(17). Abdella gặp 3 
Hình 2. Các nhánh bờ trái (hình mũi tên) 
ĐMM 
ĐMGTT 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 138
trường hợp không có ĐMM qua nghiên cứu 
429 trường hợp chụp X-quang, tương đương 
tỷ lệ 0,7%(1). 
Như vậy, trường hợp không có ĐMM 
trong nghiên cứu của chúng tôi gặp với tỷ lệ 
nhiều hơn so với các tác giả trước đây nghiên 
cứu qua phương tiện kỹ thuật hình ảnh. Có 
thể trường hợp không có ĐMM qua hình ảnh 
được nghĩ là tắc ĐMM. 
ĐMM là một trong ba động mạch chính 
nuôi cơ tim, nó cung cấp máu cho phần lớn 
mặt trái và mặt hoành của thất trái. Khi không 
có ĐMM, mặt trái của thất trái được cung cấp 
máu bởi các nhánh chéo của động mach gian 
thất trước (ĐMGTT), mặt hoành được cấp máu 
bởi động mach vành phải (ĐMVP). Nếu sự bù 
trừ này không hiệu quả, nhất là khi gắng sức, 
sẽ dễ dẫn đến thiếu máu cơ tim. 
Về nguyên ủy của ĐMM 
Nghiên cứu này chỉ gặp 1 trường hợp 
ĐMM xuất phát ở vị trí bất thường là ở xoang 
trái động mạch chủ (trường hợp này không có 
TCĐMVT và ĐMGTT cũng xuất phát trực tiếp 
từ động mạch chủ). Đây chỉ là một trong các 
dạng thay đổi về giải phẫu, chiếm tỷ lệ 0,4 - 
8% theo một số nghiên cứu trước đây và 
không gây hậu quả nghiêm trọng(4,17). 
Tuy nhiên,khi ĐMM xuất phát trực tiếp từ 
động mạch chủ cũng có nghĩa là không có 
TCĐMVT. Trường hợp này có thể gây khó 
khăn trong các thủ thuật can thiệp hoặc gây 
nhầm lẫn trong chẩn đoán X-quang động 
mạch vành. 
Điểm tận ĐMM 
Điểm tận của ĐMM có ý nghĩa trong tưới 
máu cơ tim và nút nhĩ thất. Thông thường, 
ĐMM sẽ đi đến bờ trái tim hoặc qua khỏi bờ 
trái một đoạn ngắn để cho vài nhánh cấp máu 
cho mặt hoành thất trái và nó sẽ cho nhánh 
nút nhĩ thất nếu đi đến điểm Crux. Kết quả 
nghiên cứu này tương tự các nghiên cứu trước 
đây (bảng 8) nhưng chúng tôi không gặp 
trường hợp nào ĐMM đi qua khỏi điểm Crux 
để đến mặt hoành thất phải. 
Bảng 8. Điểm tận của động mach mũ trong nghiên cứu này và các nghiên cứu nước ngoài 
Tác giả 
Điểm tận của động mạch mũ 
Trước khi đến bờ trái Tại bờ trái Giữa bờ trái và “giao điểm” 
Tại “giao 
điểm” 
Qua khỏi “giao 
điểm” 
James
(10)
 1% 20% 60% 9% 9% 
Kalpana
(11)
 3% 13% 67% 6% 11% 
Ballesteros
(
5
)
 25,3% 58,4% 9,1% 7,2% 
Das
(7)
 0 17,4% 52,86% 18,57% 11,43% 
Nghiên cứu này 4,13% 46,28% 45,46% 4,13% 0 
Đường kính ĐMM 
Các nghiên cứu trước đây chỉ khảo sát 
đường kính tại nguyên ủy ĐMM mà không 
khảo sát từng đoạn như nghiên cứu của chúng 
tôi. Ở đây, chúng tôi so sánh đường kính 
ĐMM tại nguyên ủy (bảng 9). 
Bảng 9. Đường kính tại nguyên ủy ĐMM 
Tác giả ĐK ĐMM (mm) 
Ballesteros
(
5
)
 2,71±0,51 
Fazliogullari
(
8
)
 2,89±1,08 
Ortale
(14)
 3,5±0,9 
Nghiên cứu này 3,33± 0,67 
Bảng 9 cho thấy đường kính ĐMM trong 
nghiên cứu này không có sự khác biệt so với 
những nghiên cứu trước. Đường kính ĐMM 
có ý nghĩa ứng dụng trong kỹ thuật can thiệp 
động mạch vành. 
Sự phân nhánh của ĐMM 
Trên đường đi, ĐMM cho nhiều nhánh, 
chủ yếu ở mặt trước thất trái và bờ trái tim. Cụ 
thể, trên 97% trường hợp ĐMM cho từ 1 đén 4 
nhánh ở mặt trước thất trái và 100% trường 
hợp cho nhánh bờ trái. Nhánh bờ trái là nhánh 
chính của ĐMM, tương tự như nhánh bờ phài 
của động mạch vành phải. Trái lại, ĐMM 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 139
không phải luôn luôn cho nhánh sau thất trái. 
Cụ thể, trong nghiên cứu này chỉ có khoảng 
20% trường hợp có nhánh sau thất trái. Sở dĩ 
ĐMM ít cho nhánh sau thất trái vì mặt hoành 
thất trái được cấp máu chủ yếu bởi động mạch 
vành phải. 
Về nhánh gian thất sau, thông thường, 
nhánh gian thất sau xuất phát từ động mạch 
vành phải, số ít trường hợp xuất phát từ 
ĐMM. Điều này cũng đã được công bố trong 
một số nghiên cứu trước đây (bảng 10). 
Bảng 10. Tỷ lệ ĐMM cho nhánh gian thất sau 
Tác giả Tỷ lệ 
Võ Duy Tùng
(17)
 3,52% 
Balesteros
(
5
)
 6,8% 
Angelini
(
3
)
 8,4% 
Nghiên cứu này 4,0% 
Nguyên ủy nhánh gian thất sau có ý nghĩa 
quan trọng trong tưới máu vách liên thất và sự 
thông nối giữa ĐMVP và động mạch vành trái 
(ĐMVT) trong vách liên thất. 
Khi nhánh gian thất sau xuất phát từ 
ĐMVP (như thường gặp) thì vách liên thất 
được cấp máu bởi ĐMVP (qua nhánh gian thất 
sau) và ĐMVT (qua động mạch gian thất 
trước). Khi đó có sự thông nối giữa ĐMVP và 
ĐMVT trong vách liên thất. 
Trái lại, khi nhánh gian thất sau xuất phát 
từ ĐMM (4% trong nghiên cứu này) thì vách 
liên thất chỉ được cung cấp máu từ nguồn duy 
nhất là ĐMVT. Khi đó, nếu xảy ra tắc động 
mạch vành trái sẽ nguy hiểm hơn, đặc biệt là 
đối với vách liên thất(15). 
KẾT LUẬN 
Động mạch mũ là một trong ba động mạch 
chính cung cấp máu cho cơ tim (cùng động 
mạch vành phải và động mạch gian thất 
trước). Trong đó, động mạch mũ và động 
mạch gian thất trước xuất phát từ thân chung 
động mạch vành trái. Động mạch mũ có thể 
xuất phát từ động mạch chủ khi không có thân 
chung động mạch vành trái. 
Về điểm tận, động mạch mũ thường kết 
thúc ở bờ trái tim hoặc giữa bờ trái và điểm 
Crux. 
Trên đường đi, động mạch mũ cho các 
nhánh như nhánh trước thất trái, nhánh bờ 
trái, nhánh sau thất trái và trong một số ít 
trường hợp động mạch mũ cho nhánh gian 
thất sau. Rất hiếm khi động mạch mũ cho 
nhánh sau thất phải. Nhánh bờ trái lá nhánh 
luôn luôn tồn tại và được xem là nhánh chính 
của động mạch mũ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdellah A, Elsayed A, Hassan MA (2009), 
“Angiographic coronary artery anatomy in the Sudan 
Heart Center”, Khartoum Medical Journa; 2(1), pp.162-164. 
2. Angelini P (1989), “Normal and anomalous coronary 
arteries: Definitions and classification”, American Heart 
Journal, 117(2), pp.418-434. 
3. Angelini P (2002), “Coronary artery anomalies – current 
clinical issues”, Texas Heart Institute Journal, 29, pp.271-
278. 
4. Angelini P (2007), “Coronary artery anomalies: An entity 
in search of an identity”, Circulation, 115(10), pp.1296-
1305. 
5. Ballesteros LE, Ramirez ML (2008), “Morphological 
expression of the left coronary artery: a direct anatomy 
study”, Florida Morphol, 67(2), pp.135-142. 
6. Baskurt M (2010), “Congenital absence of the left 
circumflex coronary artery and an unusually dominant 
course of the right coronary artery”, Cardiovascular Journal 
of Africa, 21(5), pp. 286-288. 
7. Das H, Das G, Das DC, Talukdar K (2010), “A study of 
coronary dominance in the population of ASSAM”, 
Journal of the Anatomical Society of India, 59(2), pp.187-191. 
8. Fazliogullari Z, Karabulut A K, Ulver Dugan N, Uysal I I 
(2010), “Corpnary artery variations and median artery in 
Turkish cadaver hearts”, Singapore Medical Journal, 51 (10), 
pp.775- 780. 
9. Hashimoto N,et al (2004), “Congenital Abcense of the Left 
Circumflex Artery Associated with Acute Myocardial 
Infarction”, Circulation Journal., 68, pp. 91-93. 
10. James TN(1961), Anatomy of the coronary arteries, 1st 
edition, Harper & Row, Publishers, Inc., Hagerstown, 
Maryland, pp. 3-202. 
11. Kalpana R (2003), “A Study on Principal Branches of 
Coronary Arteries in Humans”, Journal of Anatomy of the 
Anatomical Society of India, 52 (2), pp.137- 140. 
12. Kosar P, Ergun E, Ozturk K, Kosar U (2009), “Anatomic 
variations and anomalies of the coronary arteries: 64-slice 
CT angiographic appearance”, Diagnostic and 
Interventional Radiology, 15, pp.275-283. 
13. Nguyễn Hoàng Định (2013). “Kết quả ngắn hạn và trung 
hạn của phẫu thuật bắc cầu mạch vành sử dụng hai động 
mạch ngực trong làm cầu nối”. Y học Thành phố Hồ Chí 
Minh; 17(1), tr. 257-263. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 140
14. Ortale JR, Filho JM, Paccola AMF, Leal JGPG, Scaranari 
CA (2005), “Anatomy of the lateral, diagonal and 
anterosuperior arterial branches of the left ventricle of the 
human heart”, Brazil Journal Cardiovascular Surgery, 20(2), 
pp.149-158. 
15. Skandalakis JE (2004), “Pericardium, Heart, and great 
vessels in the thorax”, Skandalakis' Surgical Anatomy; 
Mcgraw-Hill’s, New York, pp.303-351. 
16. Trương Quang Bình, Châu Ngọc Hoa, Đặng Vạn Phước 
(2011). Lịch sử về bệnh động mạch vành và điều trị can 
thiệp bệnh động mạch vành. In: Đặng Vạn Phước (eds). 
Can thiệp động mạch vành trong thực hành lâm sàng. 
Nhà xuất bản Y học TP Hồ Chí Minh; tr.1-10. 
17. Vũ Duy Tùng (2009), Nghiên cứu giải phẫu động mạch 
vành trên chụp cắt lớp vi tính 64 lớp, Luận văn thạc sĩ Y 
học, Đại học Y Hà Nội, tr.37-93 
Ngày nhận bài báo: 08/10/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/10/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018