Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên đề Thận - Niệu 84
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CONG DƯƠNG VẬT BẨM SINH 
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
Phạm Quốc Hiệu*, Nguyễn Quang**, Nguyễn Công Bình* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh tại bệnh viện Việt Đức. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu 55 bệnh nhân được 
chẩn đoán cong dương vật bẩm sinh tại Trung tâm nam học Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2011 đến 
12/2016. 
Kết quả: 55 BN có độ tuổi tuổi trung bình là 22,6 ± 3,6. Lý do vào viện vì giao hợp khó: 30,9%, bạn 
tình đau khi giao hợp: 18,2%, không giao hợp được: 12,7%, ảnh hưởng đến tâm lý: 30,9%, ảnh hưởng đến 
thẩm mỹ: 7,3%. Hướng cong dương vật khi cương cứng: xuống dưới 52,7%, sang trái 40,0%, sang phải 
7,3%, không có trường hợp cong lên. Vị trí cong chiếm nhiều nhất là 1/3 giữa: 74,5%, 1/3 trong: 20%, 1/3 
ngoài: 5,5%. Chiều dài dương vật khi cương trung bình là 13,6 ± 1,2 cm. Độ cong dương vật khi cương 
trước mổ trung bình là 47,10 ± 12,70 
Kết luận: Cong dương vật bẩm sinh không những gây ảnh hưởng về mặt chức năng như giao hợp khó, 
giao hợp đau, không giao hợp được mà còn ảnh hưởng về mặt tâm lý và thẩm mỹ. Dương vật cong bẩm sinh 
khi cương chủ yếu ở 1/3 giữa, hướng cong xuống dưới và có chiều dài trung bình dài hơn nam giới trưởng 
thành khác. 
Từ khóa: cong dương vật bẩm sinh, bao trắng thể hang. 
ABSTRACT 
STUDY ON CLINICAL CHARACTERISTICS CONGENITAL PENILE CURVATURE 
AT VIET DUC HOSPITAL 
Pham Quoc Hieu, Nguyen Quang, Nguyen Cong Binh. 
* Ho Chi Minh City Journal Of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 84 – 89 
Objectives: To review clinical characteristics of congenital penile curvature at Viet Duc hospital. 
Materials and methods: A cross – sectional descriptive and retrospective study of 55 patients with 
congenital penile curvature at the Viet Duc Hospital from January 2011 to December 2016. 
Results: 55 patients with mean age were 22.6 ± 3.6. The reasons for being admitted to the hospital is 
difficult sexual intercourse: 30.9%, partner hurts in sexual intercourse: 18.2%, no sexual intercourse: 
12.7%, psychological affect: 30.9%, aesthetic affect: 7.3%; The curvature direction of the penis in erection: 
downward 52.7%, left 40.0%, right 7.3%, upward 0%; Curved positions account for the largest 1/3 middle 
of 74.5%, 1/3 inside of 20%, 1/3 outside of 5.5%; the length of the erectile penis in the average is 13.6 ± 1.2 
cm; At the preoperative the penile curvature in erection was 47.10 ± 12.70 
Conclusions: Congenital penile curvature gets affect not only about function: difficult sexual 
intercourse hurts in sexual intercourse, no sexual intercourse; but also about psychological and aesthetic 
affect. 
Key words: Congenital penile curvature, tunica albuginea. 
* Bệnh viện Việt Tiệp – Hải Phòng, ** Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức 
Tác giả liên lạc: BS Phạm Quốc Hiệu Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Thận - Niệu 85
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cong dương vật bẩm sinh là do sự phát triển 
không cân xứng của bao trắng thể hang ở một 
hay hai bên thể hang(14,15), gây ra dương vật cong 
khi ở trạng thái cương cứng, chiếm tỉ lệ khoảng 
0,04% - 0,6% trên thế giới(1,4,16). Dương vật cong 
không những gây ảnh hưởng về mặt chức năng 
như giao hợp khó, giao hợp đau, không thể giao 
hợp mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh 
nhân như lo lắng, mặc cảm, không tự tin khi giao 
hợp, lẩn tránh quan hệ tình dục hoặc sợ bạn tình 
bỏ do không đáp ứng sự thỏa mãn về tình dục. 
Tại trung tâm Nam học bệnh viện Việt Đức 
chúng tôi gặp ngày càng nhiều bệnh nhân đến 
khám với nhiều lý do khác nhau với các mức độ 
cong của dương vật khác nhau. Cong dương vật 
bẩm sinh lại được chẩn đoán chủ yếu dựa vào 
lâm sàng. Cho nên chúng tôi tiến hành đề tài 
nghiên cứu với mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm 
sàng cong dương vật bẩm sinh tại trung tâm 
Nam học bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2011 
đến 12/2016. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả loạt ca, hồi cứu và tiến cứu 55 bệnh 
nhân đuợc chẩn đoán cong dương vật bẩm sinh, 
có khám và lưu trữ hồ sơ tại trung tâm Nam học 
bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2011 đến 12/2016. 
Xác định chiều dài dương vật: Đo chiều dài 
dương vật theo tác giả Awwad(3) bằng cách đo ở 
mặt lưng của dương vật, điểm bắt đầu tại gốc 
nơi nối giữa da dương vật và vùng mu, đẩy qua 
lớp mỡ đệm vùng trước xương mu áp vào 
xương mu, đo đến điểm cong nhất và từ điểm 
cong nhất tới miệng niệu đạo. 
Xác định hướng cong, vị trí và độ cong 
dương vật khi cương theo tác giả Yachia(15): bệnh 
nhân tự chụp ảnh dương vật khi cương; chụp từ 
trên xuống dưới (máy ảnh để sát thân mình, trục 
lấy ảnh song song mặt phẳng trước – hình 1A), từ 
trái sang phải và từ phải sang trái (trục lấy ảnh 
vuông góc với mặt phẳng cắt dọc giữa, máy ảnh 
để trước hai bên hông – hình 1B), từ trước ra sau 
(trục lấy ảnh vuông góc với mặt phẳng trước – 
hình 1C). 
Đo độ cong của dương vật qua ảnh chụp 
dương vật khi cương: kẻ một đường thẳng dọc 
theo trục của dương vật bình thường từ gốc 
dương vật, một đường thẳng khác dọc theo 
trục lệch hướng lúc dương vật cương từ miệng 
niệu đạo, hai đường thẳng này gặp nhau ở 
điểm cong nhất. Sau khi kẻ xong, đo góc giữa 
hai đường thẳng này để xác định độ cong hoặc 
có thể đo trực tiếp khi dương vật cương cứng 
bằng thước đo độ(15) (hình 2). 
KẾT QUẢ 
Tổng số 55 trường hợp, tuổi trung bình bệnh 
nhân là 22,6 ± 3,6 tuổi, thấp nhất là 18 tuổi, lớn 
nhất là 35 tuổi, từ 20 – 30 tuổi chiếm nhiều nhất. 
Lý do bệnh nhân vào viện (Hình 3). 
Hướng cong dương vật khi cương 
Tỷ lệ dương vật cong xuống dưới nhiều 
nhất, chiếm 52,73%, không có trường hợp nào 
dương vật cong lên trên (bảng 1). 
Bảng 1. Hướng cong dương vật khi cương 
Hướng cong Số lượng BN (n) Tỉ lệ (%) 
Cong xuống dưới 29 52,73 
Cong sang phải 4 7,27 
Cong sang trái 22 40 
Cong lên trên 0 0 
Tổng 55 100,0 
Vị trí cong dương vật khi cương 
Dương vật cong đoạn 1/3 giữa chiếm nhiều 
nhất chiếm 74,5%. Cong đoạn 1/3 ngoài ít nhất 
chiếm 5,5% (bảng 2). 
Bảng 2. Vị trí cong dương vật khi cương 
Vị trí cong Số lượng BN (n) Tỉ lệ (%) 
1/3 ngoài 3 5,5 
1/3 giữa 41 74,5 
1/3 trong 11 20 
Tổng 55 100,0 
Độ cong dương vật khi cương 
Độ cong dương vật khi cương từ 45 – 590 
nhiều nhất 23 BN (41,8%), độ cong từ 60 – 900 độ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên đề Thận - Niệu 86
ít nhất 12 BN (21,8%) (hình 4). 
Chiều dài dương vật khi cương 
Chiều dài dương vật trung bình khi cương 
là 13,6 ± 1,2 cm, dài nhất là 16 cm, ngắn nhất là 
10,5 cm (bảng 3). 
Bảng 3. Chiều dài dương vật khi cương 
Chiều dài DV khi cương Cm 
 13,6 ± 1,2 
Max 16 
Min 10,5 
Hình 1. Chụp ảnh dương vật khi cương. “Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery”
(15). 
Hình 2. Đo độ cong của dương vật khi cương qua ảnh chụp. 
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery”(15). 
17
7
10
4
17
0
5
10
15
20
Giao hợp khóKhông giao hợp đượcBạn tình đau khi giao hợpẢnh hưởng đến thẩm mỹẢn hưởng đến tâm lý
S
ố 
b
ện
h
 n
h
â
n
Lý do 
Hình 3. Lý do chính bệnh nhân vào viện 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Thận - Niệu 87
20 23
12
0
5
10
15
20
25
30 – 44 45 – 59 60 – 90
S
ố
 b
ện
h
 n
h
â
n
Độ cong
Hình 4. Độ cong dương vật khi cương 
BÀN LUẬN 
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên 
cứu này là 22,6 ± 3,6 tuổi (18 – 35 tuổi), độ tuổi từ 
20 đến 29 tuổi chiếm nhiều nhất. Võ Hoàng 
Lâm(14) nghiên cứu 36 trường hợp tại bệnh viện 
Bình Dân, tuổi trung bình là 26,6± 6,4 tuổi (từ 19 
đến 40 tuổi), Trịnh Hoàng Giang(13) báo cáo 26 
trường hợp tại bệnh viện Việt Đức, tuổi trung 
bình là 25,3 ± 6,8 tuổi (từ 17 – 38 tuổi). Nghiên 
cứu của một số tác giả trên thế giới cũng cho kết 
quả gần tương tự: Tuổi trung bình trong nghiên 
cứu của Ghanem(5) là 27 tuổi, nghiên cứu của 
Popken(12) là 23 tuổi. Các tác giả đều thấy rằng 
với độ tuổi này là tuổi trưởng thành, sự phát 
triển về sinh lý và chức năng bộ phận sinh dục 
hoàn thiện và cũng là độ tuổi hoạt động tình dục 
mạnh nhất nên dễ nhận biết được những sai lệch 
về hình thể ngoài của dương vật cũng như ảnh 
hưởng về mặt chức năng, đặc biệt là ảnh hưởng 
đến chức năng tình dục. Do đó, lý do chính mà 
bệnh nhân vào viện là các rối loạn chức năng 
tình dục. 
Ảnh hưởng của dương vật cong đến giao 
hợp như: giao hợp khó 25/55 BN (45,5%), không 
giao hợp được 9/55 BN (16,4%), bạn tình đau khi 
giao hợp 17/55 BN (30,9%). Trong 4 trường hợp 
chưa giao hợp thì có 3 trường hợp yêu cầu phẫu 
thuật vì lý do thẩm mĩ, 1 trường hợp vì ảnh 
hưởng đến tâm lý. Nghiên cứu trên 36 trường 
hợp của tác giả Võ Hoàng Lâm và cộng sự cho 
thấy có 27 trường hợp đã giao hợp trước mổ, 
14,8% không giao hợp được, 40,7% bạn tình đau 
khi giao hợp, trong 9 BN chưa giao hợp thì 5 
trường hợp ảnh hưởng đến tâm lý và 4 trường 
hợp ảnh hưởng đến thẩm mỹ(14). Theo nghiên 
cứu của một số tác giả trên thế giới như 
Andrews(2), Nooter(11), Klevmark(8) thì giao hợp 
khó 48 – 60,4%, không thể giao hợp 11,3 – 33%, 
bạn tình đau 40%. 
Từ kết quả của các nghiên cứu trên so với 
nghiên cứu của chúng tôi, có thể thấy rằng lý do 
vào viện chủ yếu là các rối loạn về chức năng 
tình dục, trong đó dương vật cong gây giao hợp 
khó chiếm nhiều nhất. 
Kết quả trong nghiên cứu này (bảng 1), tỷ 
lệ bệnh nhân có dương vật cong xuống dưới 
nhiều nhất là 29/55 BN (52,7%), đến là cong 
sang trái 22 BN (40,0%), cong sang phải 4/55 
BN (7,3%) và không có trường hợp nào cong 
lên. Nghiên cứu của Lee(9) và cộng sự trên 68 
BN cong dương vật bẩm sinh từ 1/1992 – 
1/2002, dương vật cong xuống dưới 49%, cong 
sang trái 34%, cong sang phải 4%, cong lên 0%. 
Năm 2007, Hsieh(6) và cộng sự nghiên cứu trên 
114 trường hợp được phẫu thuật từ 1/1999 – 
7/2005, dương vật cong xuống dưới 60,5%, 
cong sang trái 23,7%, cong sang phải 3,5%, 
cong lên trên 2,6%. Võ Hoàng Lâm(14) báo cáo 
36 trường hợp, dương vật cong xuống 27,8%, 
cong sang trái 41,7%, cong sang phải 5,5%, 
không có trường hợp nào cong lên. Theo kết 
quả nghiên cứu về hướng cong dương vật 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên đề Thận - Niệu 88
được các tác giả báo cáo kết quả của chúng tôi 
cho thấy tỉ lệ dương vật cong lên là rất ít hoặc 
không có. Điều này có thể giải thích rằng 
dương vật cong lên gần như không ảnh hưởng 
đến giao hợp, đặc biệt là tư thế giao hợp 
truyền thống của người Việt Nam (nam trên 
nữ dưới). Do đó, trong nghiên cứu của chúng 
tôi và Võ Hoàng Tâm không có trường hợp 
nào cong lên, thậm chí khi chúng tôi phẫu 
thuật còn có bệnh nhân yêu cầu phẫu thuật 
cho dương vật cong lên. 
Trong các nghiên cứu về cong dương vật, rất 
ít tác giả đề cập đến vị trí cong dương vật. Tác 
giả Kelami (1987)(7) báo cáo 125 trường hợp từ 
1976 đến 1986 với tỉ lệ cong cho 3 vị trí lần lượt 
là: 32% đoạn 1/3 trong, 60% đoạn 1/3 giữa, 8% 
đoạn 1/3 ngoài. Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 
2) và Võ Hoàng Lâm(14) cho kết quả gần tương tự 
với các vị trí cong (bảng 4). 
Bảng 4. So sánh vị trí cong dương vật trước mổ 
Tác giả 
Vị trí cong 
1/3 ngoài 1/3 giữa 1/3 trong 
Võ Hoàng 
Lâm
(14)
1/36 (2,8%) 30/36 (83,3%) 5/36(13,9%) 
Nghiên cứu này 3/55(5,4%) 41/55(74,6%) 11/55(20%) 
So sánh kết quả nghiên cứu của Võ Hoàng 
Tâm và kết quả của nghiên cứu này về vị trí 
cong, có thể thấy dương vật cong ở đoạn 1/3 giữa 
chiếm nhiều nhất, dương vật cong đoạn 1/3 
ngoài ít nhất. 
Nguyễn Thành Như(10) và cộng sự đo chiều 
dài dương vật khi cương ở người Việt Nam 
trưởng thành và đã báo cáo kết quả cho 100 
trường hợp được nghiên cứu, chiều dài dương 
vật khi cương trung bình là 11,2 ± 1,7 cm. Trong 
nghiên cứu này, chiều dài dương vật khi cương 
trung bình là 13,6 ± 1,2 cm, ngắn nhất là 10,5 cm, 
dài nhất là 16 cm. Tác giả Andrews(2) đã nhận xét 
rằng, ở những bệnh nhân cong dương vật bẩm 
sinh chiều dài dương vật khi cương dài hơn 
chiều dài dương vật trung bình khi cương của 
nam giới trưởng thành nên việc ngắn dương vật 
sau phẫu thuật sẽ không là vấn đề lớn. 
KẾT LUẬN 
Cong dương vật bẩm sinh không những gây 
ảnh hưởng về mặt chức năng như giao hợp khó, 
giao hợp đau, không giao hợp được mà còn ảnh 
hưởng về mặt tâm lý và thẩm mỹ. Trong nghiên 
cứu, dương vật cong bẩm sinh khi cương chủ 
yếu ở 1/3 giữa, hướng cong xuống dưới và có 
chiều dài trung bình dài hơn nam giới trưởng 
thành khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Akbulut F, Akman T, Salabas E, Dicer M, Ortac M, Kadiogl A 
(20140, Neurovascular bundle dissection for Nesbit procedure in 
congential penile curvature patients: medial or lateral?, Asian 
Journal of Andrology, 16 (3), p.442. 
2. Andrews HO, Al-Akraa M, Pryor JP, Ralph DJ (1999). The 
Nesbit operation of congential curvature of the penis. 
International Journal of Impotence Research, 11 (3), pp. 119 – 122. 
3. Awwad Z, Abu-Hijleh M, Basri S, Shegam N, Murshid M, 
Ajlouni K. (2005). Penile measurements in normal adult 
Jordanians and in patients with erectile dysfunction. International 
Journal of Impotence Research, 17 (2), pp. 191 – 195. 
4. Ebbehoj J, Metz P (1987). Congenital penile angulation. British 
Journal of Urology, 60 (3), pp. 264 – 266. 
5. Ghanem H, Shamloul RM (2008). Incisional corporoplasty for 
the correction of congenital penile curvature: a review of two 
suturing techniques. International Journal of Impotence Research, 
20(2), pp. 222 – 225. 
6. Hsieh JT, Liu SP, Chien Y, Chang HC, Yu HJ (2007). Correction 
of congenital penile curvature using modified tunical plication 
with absorbable sutures: the long-term outcome and patient 
satisfaction. European Urology, 52 (1), pp. 261 – 267. 
7. Kelami A. (1987). Congenital Penile Deviation and its Treatment 
with the Nesbit- Kelami Technique. British Journal of Urology, 60 
(3), pp. 261 – 263. 
8. Klevmark B, Andersen M, Schultz A, Talseth T (1994). 
Congenital and acquired curvature of the penis treated 
surgically by plication of the tunica albuginea. Bristish Journal of 
Urology, 74 (4), pp. 501 – 506. 
9. Lee SS, Meng E, Chuang FP, Yen CY, Chang SY, Yu DS (2004). 
Congenital penile curvature: long-term results of operative 
treatment using the plication procedure. Asian Journal of 
Andrology,6 (3), pp. 273 – 276. 
10. Nguyễn Thành Như (2012). Kích thước dương vật. Nam khoa 
lâm sàng, Nxb Tổng hơp TP Hồ Chí Minh, tr. 290 – 300. 
11. Nooter RI, Bosch J, Schroeder FH (1994). Peyronie’s disease and 
congenital penile curvature: long-term results of operative 
treatment with the plication procedure. Bristish Journal of Urology, 
74 (4), pp. 497 – 500. 
12. Popken G, Wetterauer U, Schultze-Seemann W, Deckart AB, 
Sommerkamp H (1999). A modifield corporoplasty for treatment 
congenital penile curvature and reducing the incidence of 
palpable indurations. BJU International, 83 (1), pp. 71 – 77 
13. Trịnh Hoàng Giang, Đỗ Trường Thành (2012). Kết quả phẫu 
thuật 26 trường hợp cong dương vật bẩm sinh theo phương 
pháp tạo hình vật hang của Yachia tại bệnh viện Việt Đức. Y hoc 
thực hành, 824, tr. 24 – 26. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Thận - Niệu 89
14. Võ Hoàng Lâm, Nguyễn Thành Như, Mai Bá Tiến Dũng, Đặng 
Quang Tuấn (2011). Kết quả điều trị cong dương vật bẩm sinh 
bằng phẫu thuật khâu gấp bao trắng tại khoa Nam học bệnh 
viện Bình Dân. Y học TP Hồ Chí Minh, 15 (1), tr. 200 -206. 
15. Yachia D (2007). Diagnosing Congenital and Acquired Penile 
Curvature. Text Atlas of Penile Surgery, Information Healthcare, 
London, pp. 41 – 50. 
16. Yachia D, Beyar M, Aridogan IA, Dascalu S (1993). The 
incidence of congenital penile curvature. The Journal of Urology, 
150 (1), pp. 1478 – 1479. 
Ngày nhận bài báo: 10/05/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018