Tài liệu Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 
165 
Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu 
và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ 
Việt Nam đương đại 
Some highlights of the way of expressing love and family happiness in the short 
stories by contemporary Vietnamese female writers 
ThS. Trần Thị Hồng Nhung 
Trường Đại học Sài Gòn 
Tran Thi Hong Nhung 
M.A., Saigon University 
Tóm tắt 
Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những dòng mạch cảm hứng và là chủ đề lớn của truyện 
ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Viết về nó, bằng thể loại truyện ngắn, các tác giả nữ đã 
chứng tỏ được khả năng, ưu thế của mình không chỉ trên phương diện nội dung nhận thức mà còn cả 
trên phương diện nghệ thuật thể hiện (dĩ nhiên là giữa hai phương diện có sự thống nhất, tương hợp). 
Bài viết chỉ ra một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện 
ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trê...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 
165 
Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu 
và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ 
Việt Nam đương đại 
Some highlights of the way of expressing love and family happiness in the short 
stories by contemporary Vietnamese female writers 
ThS. Trần Thị Hồng Nhung 
Trường Đại học Sài Gòn 
Tran Thi Hong Nhung 
M.A., Saigon University 
Tóm tắt 
Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những dòng mạch cảm hứng và là chủ đề lớn của truyện 
ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Viết về nó, bằng thể loại truyện ngắn, các tác giả nữ đã 
chứng tỏ được khả năng, ưu thế của mình không chỉ trên phương diện nội dung nhận thức mà còn cả 
trên phương diện nghệ thuật thể hiện (dĩ nhiên là giữa hai phương diện có sự thống nhất, tương hợp). 
Bài viết chỉ ra một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện 
ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trên các thành tố: kết cấu, nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ; 
qua đây, nhằm khẳng định những đóng góp khó có thể thay thế của các nhà văn nữ trong chiếm lĩnh 
những vấn đề/ hiện tượng đang nóng hổi tính thời sự và nhân văn của đời sống đương đại... 
Từ khóa: tình yêu, hạnh phúc, gia đình, các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. 
Abstract 
Love and family happiness is one of the inspirational lines and a great topic of contemporary 
Vietnamese female writers. Writing about the topic in the short story genre, female authors have shown 
their abilities and advantages not only in terms of cognitive content but also in terms of artistic 
expression (of course, the two aspects are in unity and compatibility). The article points out some of the 
highlights of the way of expressing love and family happiness in the short stories by contemporary 
Vietnamese female writers via the components such as texture, character, tone and language; as a result, 
they aim to confirm their hard-to-replace contributions in occupying the issues and phenomena of the 
hot news and humanities of the contemporary life ... 
Keywords: love, happiness, family, contemporary Vietnamese female writers. 
1. Tình yêu và hạnh phúc gia đình – 
một trong những chủ đề lớn của truyện 
ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. 
Có thể thấy cách nhìn của các nhà văn nữ 
về chủ đề này so với văn chương thời kỳ 
trước và văn chương của các nhà văn nam 
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
166 
giới cùng thời có nhiều điểm khác biệt. 
Cũng là tình yêu của con người, nhưng do 
bị chí phối bởi cái nhìn lãng mạn – cách 
mạng, tình yêu trong văn học trước 1975 
thường dẫn đến hôn nhân và đem lại hạnh 
phúc trọn vẹn. Trong truyện ngắn của các 
nhà văn nữ hiện nay, câu chuyện tình yêu 
không còn “thuần khiết”, lãng mạn... như 
thế nữa; trái lại, quá đa đoan, đầy phức tạp, 
nhiều phiền muộn, lắm khổ đau, bất hạnh, 
đổ vỡ. Có phải vì thế mà phần lớn truyện 
ngắn của các nhà văn nữ có kiểu kết cấu 
mở, giành quyền phán xét cho người đọc? 
Cái chết của cô gái điếm hết thời trong 
Biển cứu rỗi (Võ Thị Hảo) tưởng như khép 
lại câu chuyện của người lính gác đảo đèn. 
Tưởng như anh trở về với cuộc sống đời 
thường, song không thể. Cái chết ấy đã 
khiến người lính thức tỉnh, nên thu xếp đồ 
đạc lên tàu về quê hay lại đến một nơi nào 
khác để tiếp tục gặm nhấm nỗi căm phẫn 
đồng loại, ghẻ lạnh loài người? Hoặc nếu 
về quê, liệu anh có thể tha thứ cho người 
vợ, có chấp nhận những đứa trẻ không 
mang gương mặt của mình? Cô gái trong 
Dây neo trần gian (Võ Thị Hảo) sẵn sàng 
làm tất cả để người lính trở về từ chiến 
trường được neo lại chốn trần gian, song 
khi đạt được rồi cô gái ấy lại đau khổ vì 
“anh ấy không phải là của tôi” (1). Những 
ngày sau đó mối quan hệ sẽ thế nào? Cô gái 
tiếp tục quan tâm đến người lính như trước 
đây đã từng quan tâm hay chỉ âm thầm, 
lặng lẽ đi bên lề của cuộc đời anh? Sải 
trong Con dại của đá tự rơi vào bi kịch tình 
yêu do chính nàng tạo ra. Yêu Hùng De - 
chàng lính biên phòng, người con trai mà 
tất cả các cô gái bản đều ao ước, nhưng Sải 
không cưỡng lại được sự mê hoặc bởi vị 
mặn mang mùi của biển từ Cáo Tờ Quẩy - 
một gã đàn ông buôn chuyến. Thất thân với 
người chồng chưa cưới, ân hận từ những lỗi 
lầm không thể tha thứ của mình, Sải đã bỏ 
chạy. Người ta chỉ tìm thấy “dấu máu rõ từ 
nhà Giằng Gau tới miệng vực thì mất hút. 
Vực sâu thăm thẳm không ai xuống nổi. 
Không biết nàng đã nhảy xuống vực hay bỏ 
đi biệt tích” ? (2)... Câu hỏi để ngỏ này 
khiến truyện kết thúc mà người đọc vẫn còn 
day dứt về số phận của Sải. Dạo đó thời 
chiến tranh của Lê Minh Khuê dừng lại 
nhưng câu chuyện chưa kết thúc vì cuối 
truyện khi chia tay người đồng đội, Cúc 
như sắp khóc nhưng rồi lại quay đi, “chạy 
vào cái cối xay đã xay nát tình yêu của 
họ Một ngày lại sắp qua đi” (3). Bế tắc, 
cùng quẫn đã giết chết tình yêu của Thắng 
và Cúc, nhưng họ không có cách nào vùng 
vẫy để cứu vãn cuộc hôn nhân từng là mơ 
ước và sự ghen tị của biết bao người. Hôm 
nay cũng như hôm qua, ngày mai rồi lại 
cũng giống hôm nay, cuộc sống quẩn quanh 
trong những cái chuồng được gọi là nhà với 
chuột bọ, rác rưởi đeo đẳng mãi; có vùng 
vẫy họ cũng không thể nào thoát ra được. Ở 
đâu đó, xa tít trong những cơn mưa Trường 
Sơn, giọng hát và nụ cười trong trẻo của 
Cúc vọng về như một nghịch lý, như một 
nỗi đau, như một niềm day dứt... 
Dễ nhận thấy trong truyện ngắn của 
các nhà văn nữ là loại kết cấu tâm lý, 
truyện không có cốt truyện. Loại kết cấu 
này phổ biến trong những truyện viết về 
những chuyện vặt vãnh đời thường thiên về 
sự thăng trầm trong cảm xúc và nội tâm 
nhân vật. Trong mỗi truyện, ẩn giấu sau 
mỗi số phận, mỗi cảnh đời là sự gửi gắm 
của các nhà văn về cuộc đời, về nhân sinh. 
Các sự kiện và hành động của nhân vật mất 
vai trò thúc đẩy sự phát triển của câu 
chuyện, chỉ còn biểu hiện những trạng thái 
tình cảm, tâm lý thuần tuý; mạch truyện 
LÊ PHƯỚC THÀNH 
167 
không đi theo quy luật nhân quả. Trong 
truyện Người đàn bà và những giấc mơ (Y 
Ban), người đàn bà phát ngán trước những 
quen thuộc đến bình yên, nhàm chán trong 
gia đình, trong quan hệ vợ chồng. Ông cậu 
trong Nước mắt đàn ông (Nguyễn Thị Thu 
Huệ) dù có tài kiếm tiền nhưng lại cô độc 
ngay trong chính ngôi nhà dư thừa vật chất 
của mình. Giấc mơ được yêu thương che 
chở bởi một người đàn ông có bàn tay ấm 
áp lạ thường luôn ám ảnh cô gái điếm 
trong Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm 
(Y Ban). Ở Vườn yêu, Võ Thị Hảo dựa trên 
tâm trạng của một cô gái mới lớn, lần đầu 
tiên bước chân vào chốn vườn yêu. Khi thì 
tràn trề háo hức, lúc lại sợ sệt chối từ. Từ 
tình huống tâm lý đặc biệt này, truyện 
muốn khái quát những ý nghĩ, những suy 
tư của người con gái tuổi mới lớn khi bước 
vào tình yêu. Cô bé cũng như những người 
khác tự ru ngủ mình bằng chính những bi 
kịch của sự nhẹ dạ và đức hy sinh được tô 
vẽ, phóng đại lên nhiều lần. Chỉ có bất 
hạnh vẫn trần trụi thế. Vườn yêu không 
phải bao giờ cũng đầy hương thơm mật 
ngọt, ở đó có thể có cả những đau đớn, mất 
mát, hy sinh. Mong manh như là tia nắng 
(Lê Minh Khuê) là tâm trạng của người 
đàn bà dù đã có cuộc sống bình yên, làm 
tròn trách nhiệm của một người mẹ, người 
vợ nhưng vẫn luôn thổn thức vì kỷ niệm, vì 
khao khát thầm kín với người yêu xưa. 
Người đàn bà nuôi con riêng cho chồng khi 
người tình của chồng qua đời trong 
Chuông vọng cuối chiều (Võ Thị Hảo) hay 
một cô gái lầm lỡ đánh mất tình yêu vì trót 
thất thân với một gã họ Sở trong Con dại 
của đá (Võ Thị Hảo), tất cả tưởng như 
chuyện rất thường ngày nhưng lại luôn 
xoay quanh số phận đời tư của mỗi con 
người. Truyện không có cao trào, biến cố 
hay xung đột dữ dội; trầm lặng đều đều, 
nhưng để lại nhiều dư ba, ám ảnh... 
2. Nhân vật trong tác phẩm văn chương 
có vai trò như để triển khai cốt truyện, được 
coi là phương tiện để nhà văn khái quát đời 
sống. Những điều nhà văn muốn nói đều 
gửi gắm qua hình tượng nhân vật... Thế 
giới nhân vật trong truyện ngắn của các cây 
bút nữ cũng phong phú, đa dạng với những 
số phận khác nhau trên con đường đi tìm 
tình yêu và hạnh phúc. Có nhiều cách phân 
loại nhân vật theo những tiêu chí khác 
nhau Ở đây, trong quan hệ với việc thể 
hiện nội dung tình yêu và hạnh phúc gia 
đình, thiết nghĩ chọn tiêu chí giới tính là 
phù hợp hơn cả vì trong rất nhiều nguyên 
nhân dẫn đến bất hạnh, bi kịch của tình yêu 
và hạnh phúc gia đình, theo các nhà văn nữ, 
nguyên nhân chính là ở thế giới đàn ông. 
Trong con mắt của họ, quan hệ giữa hai 
giới (đàn ông – đàn bà/ nam – nữ) không 
lấy gì làm êm thấm, đẹp đẽ. 
Có thể thấy, các nhà văn nữ thể hiện rõ 
trên trang viết của mình những suy tư, 
những dòng chảy cảm xúc chân thực, riết 
róng, nồng cháy đang trỗi dậy trong họ. 
Người đàn ông dĩ nhiên là một thành tố 
không thể thiếu trong thế giới nhân vật của 
tác phẩm mà họ tạo ra. Các cây bút nữ 
thường đi tìm căn nguyên từ phía những 
người đàn ông, dù là đàn ông thuộc loại 
xấu xa, ti tiện hay loại tử tế, “hoàn thiện”. 
Bi kịch mà phụ nữ gặp phải chưa hẳn là do 
những người đàn ông gây ra nhưng dù ít, 
dù nhiều, đàn ông không thể là “vô tội”. 
Nhân vật anh trong Sơ ri đắng, Biển ấm, 
Cát đợi của Nguyễn Thị Thu Huệ là như 
thế. Đứng trước một phụ nữ đẹp, gợi cảm, 
người đàn ông thường nảy sinh những cảm 
xúc nhục thể... Song, không phải vì thế mà 
mọi đàn ông đều trở nên xấu xa. Người đàn 
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
168 
ông này đã biết yêu, đã biết cảm thông, 
chia sẻ, giữ gìn, chở che và tôn trọng người 
mình yêu: “Em trắng trong, trinh nguyên 
như nụ hoa mới nở buổi sớm. Mà tôi, thằng 
đàn ông đã có vợ con và nhiều bồ cũng 
không dám nghĩ tới một điều gì xấu ngoài 
việc là ngắm em Em trong trắng quá, 
thanh sạch đến nỗi tôi cảm thấy ngay cả 
nghĩ đến điều đó thôi cũng đã là có tội” 
(4). Người đàn ông này đã biết đấu tranh 
với chính mình bởi anh hiểu dù yêu em 
nhưng với hoàn cảnh của mình, anh không 
thể đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho em. 
Tuy nhiên, người đàn ông biết nâng niu 
phụ nữ trên đôi cánh của tình yêu như thế 
trong truyện của các cây bút nữ vẫn là “của 
hiếm”. 
Phổ biến trong tác phẩm của các chị là 
hình ảnh những người đàn ông phản bội, 
quên ơn nghĩa, ích kỷ, ti tiện, giả dối, thờ 
ơ, vô trách nhiệm trong tình yêu, trong gia 
đình Anh chàng trong Một chiều mưa 
(Nguyễn Thị Thu Huệ) vui vầy với một cô 
gái khác trong ngôi nhà tràn ngập tiếng 
cười để người yêu chờ đợi dưới cơn mưa ở 
gốc cây dâu gia gầy với những day dứt, hối 
lỗi, lo lắng... Người con gái xem tình yêu, 
người yêu là tất cả cuộc sống, bỗng chốc 
sụp đổ mọi niềm tin, phải hứng chịu nỗi 
đau của tình yêu đầu khi người con trai 
thiếu tôn trọng tình yêu và không chung 
thuỷ. Chàng trai trong Nàng tiên xanh xao 
đắm mình trong vòng tay hò hẹn mới, quên 
đi ân nghĩa người đã hi sinh một nửa máu 
trong huyết quản để cứu sống mình. Các 
nhân vật người đàn ông trong Ôn lột tử, 
Biển và người đàn bà xấu xí của Y Ban chỉ 
tìm đến những người phụ nữ khi bản thân 
mình ốm yếu bệnh tật, bị ruồng bỏ; còn khi 
đã trở nên khoẻ mạnh và thành đạt thì họ ra 
đi, bỏ rơi những người phụ nữ đã từng cưu 
mang mình. Có kẻ xảo trá, phản bội người 
tình một cách không thương tiếc như người 
đàn ông trong Đêm dịu dàng (Nguyễn Thị 
Thu Huệ). Anh ta mượn tay thủ trưởng của 
mình dựng lên một màn kịch để đẩy một cô 
gái vừa bước vào đời đã gặp phải tình 
huống vừa xấu hổ, vừa nhục nhã vì bị xâm 
phạm, tổn thương... Cuối cùng cô đã nhận 
ra được bản chất thật của người yêu cô khi 
thấy anh ta đang sung sướng và hạnh phúc 
chúc tụng, cảm ơn ông thủ trưởng. Lúc này 
cô mới nhận ra rằng: “Tôi cứ tưởng cái gì 
tôi cũng biết, nhưng có một cái tôi không 
hề biết là người ta có nhiều cách thay đổi 
lòng dạ, nhiều kiểu bỏ người tình ngon 
lành lắm”. Khánh trong Sơ ri đắng còn tàn 
nhẫn đến táng tận lương tâm khi bỏ 
Phượng để gây ra cái chết thảm thương cho 
người thiếu nữ chưa kịp làm mẹ... Vậy mà 
hắn vẫn thản nhiên triết lý: “đàn bà là đàn 
bà. Thế thôi” (5). Có những đàn ông, trong 
thực chất là người không chung thuỷ với 
vợ song vẫn cố giữ vẻ bề ngoài của một 
người chồng tử tế, đứng đắn. Với ngòi bút 
miêu tả tâm lý tinh tế, Nguyễn Thị Thu 
Huệ trong Cầu thang đã để cho người đàn 
ông tâm sự: “Tôi có sẵn một tập phong bì 
trong đó có 50.000 đồng, cứ tối nào đi em 
út, tôi phải thủ vài cái để đêm về đưa cho 
mụ béo, bảo là đi họp được tiền” (6). Chẳng 
cần bình luận gì thêm bởi người đàn ông 
này đã tự lột mặt. Có những người đàn ông 
núp danh những người có học thức cao để 
lừa gạt con gái. Phá hoại cuộc đời các cô 
gái, rồi thì cao chạy xa bay, hoặc tìm đủ lý 
do để hắt hủi. Đáng sợ hơn có kẻ như Vỹ 
trong Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng 
Anh còn vô trách nhiệm, vô lương tâm 
trước hậu quả của chính mình: “Than ôi, 
ngày đám tang cô, Vỹ ta tắm biển. Vui lắm 
và nắng lắm” (7). Người đàn ông trong Hậu 
LÊ PHƯỚC THÀNH 
169 
thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ đã 
lợi dụng và lừa gạt một cô bé mới 16 tuổi 
đầu đang háo hức bước vào đời với bao vẻ 
sáng trong. Hắn “đã có một vợ hai con lại 
còn bòn rút từng nghìn của một đứa bé con. 
Hắn vừa được con bé, vừa được năm xu 
một hào, còn bản thân chẳng mất gì cả” (8). 
Chẳng những lừa lọc mà hắn còn ti tiện, 
bủn xỉn “Mua xà phòng chỉ thích loại to, 
rẻ, bền” (9), còn đi ăn sáng thì chỉ “ăn xôi 
cho chắc dạ” (10) Với tất cả những cái 
xấu xa đó, người đàn ông này đã mang 
khuôn mặt thiếu nữ của một cô bé 16 tuổi 
ra đi và trả lại cho cô khuôn mặt của một 
người đàn bà. 
Có một kiểu đàn ông tưởng chừng 
không có lỗi lầm trong cuộc sống, không 
trực tiếp gây bất hạnh cho phụ nữ, nhưng 
thực chất họ là những kẻ tẻ nhạt, vô vị, đơn 
điệu, có lỗi với hạnh phúc gia đình. Với 
những người phụ nữ nhạy cảm, tinh tế, 
sống trong xã hội hiện đại với rất nhiều 
nhu cầu, tình yêu và hạnh phúc gia đình 
đối với họ phải là sự hoà hợp của tâm hồn 
và thể xác, tinh thần và vật chất. Lan trong 
một nửa cuộc đời của Nguyễn Thị Thu Huệ 
từng nhận xét về chồng: “anh ấy tròn trịa 
như một hòn bi ve () Hải đơn giản tốt 
bụng đến phát ghét” (11). Nhiều người phụ 
nữ cũng thấy “chồng nàng thuộc tuýp 
người chắc chắn không ưa xê dịch” nên 
“nàng cứ làm những gì như nàng muốn” 
(Người đàn bà đứng trước gương - Y Ban); 
“cuộc sống của gia đình nàng trôi qua êm 
đềm, bằng lòng, ít trăn trở” (Người đàn bà 
và những giấc mơ - Y Ban) (12), nên nàng 
đã ngoại tình mà chồng không hay biết. 
Đặc biệt đối với những mong ước được 
thỏa mãn về thể xác, người chồng càng 
không có đủ sự tinh tế để hiểu được: “Anh 
không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của 
người đàn bà chưa đến 40 tuổi, da thịt mát 
lạnh, thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ, 
đang cần sự yêu chiều ve vuốt” (Chỉ còn 
một ngày - Nguyễn Thị Thu Huệ)... 
Khoảng cách giữa vợ - chồng ngày càng 
xa, hạnh phúc dần dần trở nên gượng gạo, 
giả tạo. Người phụ nữ dễ rơi vào trụy lạc ái 
tình, xem đây như một giải pháp để thoát 
khỏi sự tẻ nhạt, vô vị, để được sống với 
con người cá nhân của mình. Điều này, có 
nên cảm thông, tha thứ? Không hiếm 
những đàn ông đã không xứng đáng làm 
cây cổ thụ để cho những dây leo yếu ớt, 
mỏng mảnh bám tựa. Bằng cách này hay 
cách khác, hữu ý hay vô tình, người đàn 
ông đã làm tổn thương phụ nữ, thậm chí 
gây ra những bất hạnh, khổ đau cho họ. 
Truyện ngắn của các nhà văn nữ gửi đi một 
thông điệp tế nhị nhưng đầy nghiêm khắc: 
“hỡi thế giới đàn ông, các ngươi phải nhìn 
lại mình, phải thấu hiểu phụ nữ, phải sống 
xứng đáng hơn với phụ nữ”... 
3. Trong thế giới nhân vật của truyện 
ngắn các nhà văn nữ, so với nhân vật đàn 
ông, nhân vật phụ nữ xuất hiện ít hơn 
nhưng lại thường giữ vai trò chính của cấu 
trúc tác phẩm. Không thể không thấy rằng 
các tác giả dành cho phái nữ một sự ưu ái 
đặc biệt. Là phụ nữ nên các nhà văn rất 
quan tâm đến số phận những người cùng 
giới và đặc biệt nhạy cảm với những bi 
kịch, những nỗi đau của người phụ nữ 
trong cuộc đời có quá nhiều biến động. 
Bằng những trang văn đầy nữ tính, họ 
muốn chia sẻ, muốn cảm thông, bênh vực, 
bảo vệ chị em. Nguyễn Thị Thu Huệ từng 
tâm sự: “tôi luôn quan tâm đến số phận của 
những người phụ nữ vì không chỉ họ làm 
nên cuộc sống, bảo vệ và phát triển cuộc 
sống mà tôi hiểu họ, dù có thể chưa đầy đủ. 
Và rất quan trọng, rất cần thiết khi một nhà 
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
170 
văn viết về những gì mà họ hiểu rõ. Tôi 
đồng cảm với số phận của nữ giới. Tôi thực 
sự hiểu rõ và muốn chia sẻ với họ niềm 
vui, nỗi buồn” (13). 
Thế giới nhân vật phụ nữ trong truyện 
ngắn của các cây bút nữ thật đa dang, 
phong phú với nhiều cảnh ngộ khác nhau. 
Nhìn chung, họ có nhiều bi kịch, nhiều bất 
hạnh trong tình yêu và hạnh phúc gia đình. 
Họ luôn khát khao hạnh phúc, có những 
ước mơ cao đẹp và chính đáng nhưng cuộc 
đời vốn đa sự, đời người vốn đa đoan nên 
cuộc sống gia đình họ luôn bị đe doạ. Họ 
cô đơn, khắc khoải, trống rỗng, bế tắc, thất 
vọng, bẽ bàng. Luôn khát khao hạnh phúc 
vì thế họ sẵn sàng hi sinh mình nhưng số 
phận vẫn không mỉm cười với họ. Bi kịch 
của họ là ở đó. Quyên trong Tình yêu ơi ở 
đâu? (Nguyễn Thị Thu Huệ) từng bộc lộ: 
“nàng muốn cuộc sống của mình phải như 
nàng nghĩ. Sẽ lấy một người chồng lý 
tưởng biết yêu và chiều nàng. Một cuộc 
sống đầy đủ” (14). Vậy mà trải qua bao 
nhiêu lần tìm kiếm nàng vẫn thất bại. Nàng 
từ bỏ chàng thi sĩ khi nhận ra “chàng 
không và sẽ không bao giờ có sức làm trụ 
cột gia đình” (15). Vậy là tình yêu lãng mạn 
đầu đời cũng kết thúc khi chính chàng thi 
sĩ làm sụp đổ thần tượng thi ca trong lòng 
nàng bởi sự bệ rạc, yếu đuối và quá thiếu 
thực tế. Sau một thời gian, nàng yêu anh 
chàng kế toán với ý thức xác định về một 
cuộc hôn nhân. Nhưng rồi sự kỳ vọng đó 
cũng sụp đổ khi nàng nhận ra hắn là kẻ thô 
bỉ và tính toán. Rồi thêm một lần nữa nàng 
gắn bó với anh lính phục viên từng một lần 
có vợ nhưng cái hạnh phúc đơn sơ mà nàng 
mong bấu víu cho yên thân cũng không ở 
trong tầm tay nàng. Hai đứa trẻ không 
muốn bố chúng chia sẻ tình cảm với ai nữa, 
chúng sợ nàng sẽ cướp mất người bố, 
chiếm căn nhà và tống chúng ra đường. 
Nàng không chấp nhận và trở thành người 
thừa trong ngôi nhà vốn đã chật chội ấy. 
Giữa đô thị ồn ào, náo nhiệt nàng vẫn thấy 
cô đơn. Thêm một lần yêu là thêm một lần 
chấp nhận, nhưng mỗi lần chấp nhận nàng 
như càng lún sâu hơn vào con đường 
không lối thoát. Tình yêu và hạnh phúc đời 
thường bình dị, sao mà khó khăn đến thế. 
Câu hỏi tình yêu ơi ở đâu? vẫn văng vẳng 
vang lên ngậm ngùi và khắc khoải. Hằng 
trong Tiếng thở dài của đêm (Trần Thị 
Trường), Tuy trong Một cuộc đời (Lê Minh 
Khuê), đều như vậy, đều là những con 
người đau đớn và thất vọng trên con đường 
đi tìm tình yêu và hạnh phúc... 
Thực tế cuộc sống của con người luôn 
song hành hai mặt trái ngược nhau: thực và 
mộng. Một mặt người phụ nữ bị trói buộc 
bởi muôn vàn yếu tố của một gia đình 
(chồng con, nội ngoại, dòng họ, công việc 
nội trợ). Nhưng mặt khác, còn có một 
con người khác trong họ, nó mơ hồ, mong 
manh, lúc le lói, lúc bùng phát dữ dội, 
nhưng cũng thường ẩn mình trong yên 
lặng... Là người cùng giới nên các nhà văn 
nữ rất nhạy bén trong việc khám phá chiều 
sâu tâm hồn và chiếu rọi ánh sáng tới 
những miền khuất lấp trong tâm hồn nhân 
vật nữ. Họ hiểu được những khao khát rất 
đời, rất người trong sâu thẳm tâm hồn nhân 
vật. Đó là cô gái trong Cát đợi và Biển ấm 
của Nguyễn Thị Thu Huệ, là nhân vật tôi 
trong Gà ấp bóng, Sau chớp là bão giông 
của Y Ban, là nàng trong Hoa mưa của 
Trần Thị Trường,... Nhân vật trong Biển 
ấm sau bao nhiêu năm trở về bến phà xưa 
với ký ức về mối tình đầu vẫn còn xốn 
xang kỷ niệm: “Anh ở đâu? Sao tôi nhớ 
anh thế này. Bao nhiêu năm. Tôi sống và 
hiểu rằng chẳng bao giờ tôi gặp được 
LÊ PHƯỚC THÀNH 
171 
người đàn ông thay thế được anh trong tâm 
linh” (16), “Người con gái đến tuổi dậy thì 
có những đụng chạm đầu tiên với một 
người đàn ông, thường bị xúc phạm ghê 
gớm và không bao giờ quên” (17). Nhân vật 
trong Còn lại một vầng trăng của Nguyễn 
Thị Thu Huệ thì: “tình yêu đầu tiên, những 
va chạm đầu tiên luôn làm tôi run rẩy, hồi 
hộp. Anh gần tôi, khuôn mặt thân yêu như 
chính máu thịt của mình” (18). Ngay cả 
người phụ nữ đứng tuổi cũng sống thành 
thực với con người tự nhiên của mình: “Tôi 
đã cố quên, thế nhưng không thể nào quên 
được. Tôi đã biết tôi sẽ bị trừng phạt cả ở 
trên đời lẫn dưới địa ngục nhưng tôi bất 
chấp. Tôi chưa bao giờ yêu và được yêu. 
Bây giờ tôi mới biết thế nào là được yêu” 
(Một lần và mãi mãi - Y Ban). Cuộc sống 
đầy biến động hôm nay có vô số những 
cạm bẫy giăng sẵn trên bước đường vào 
đời đầy háo hức của các cô gái non nớt. 
Các nhà văn nữ hồi hộp, lo lắng dõi theo 
từng bước chân của họ. Ta đồng cảm với 
sự xót xa đau dớn và sự lo âu của các chị 
khi viết về sự sa sẩy vào cạm bẫy cuộc đời 
của các nhân vật này như Thêu trong 
Ngỗng non (Lê Minh Khuê), Phượng trong 
Sơ ri đắng (Nguyễn Thị Thu Huệ), cô gái 
trong Thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), v.v... 
Nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà 
văn nữ còn là những người con gái đã hy 
sinh sắc đẹp, tuổi xuân, và cả mạng sống 
của mình cho ngày độc lập (Người sót lại 
của rừng cười - Võ Thị Hảo), là những 
người phụ nữ vọng phu trong cô đơn, thầm 
lặng hy sinh không có ngày đoàn tụ (Trận 
gió màu xanh rêu - Lê Minh Khuê), là 
người vợ vừa tần tảo chờ đợi chồng đi 
chiến đấu, vừa chia sẻ cùng anh những vết 
thương nhức nhối khi người lính ấy trở về 
từ cuộc chiến (Bản lý lịch - Y Ban), là 
những người tật nguyền, những kẻ xấu xí, 
có kẻ bị xem như điên loạn vẫn vươn lên 
kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc như Hằng - 
cô gái tật nguyền hứng những giọt mưa để 
kỳ vọng vào hạnh phúc trong Làn môi 
đồng trinh (Võ Thị Hảo). Cuộc sống của 
Hằng qua ánh mắt chỉ là một màn sương 
nhưng tâm hồn cô vẫn ánh lên sự trong 
sáng, lương thiện, ánh lên niềm mong ước 
được yêu thương và che chở bởi một người 
đàn ông với một tình yêu vị tha và gắn bó. 
Tâm trong Máu của lá (Võ Thị Hảo) cũng 
khát khao sự thông cảm, thấu hiểu và yêu 
thương. Người anh đã tự viết thư mạo nhận 
là người yêu để em gái được an ủi. Khi 
chết anh đã trăng trối lại với đồng đội: 
“Cậu không có em gái tàn tật, không hiểu 
được. Mắt con bé rưng rưng. Nó cần những 
lời yêu ngọt ngào như cần nước”. Người 
bạn của anh trai Tâm đã tiếp tục viết thư để 
an ủi. Chính tấm lòng vị tha, những cánh 
tay chìa ra cho một kẻ sắp chìm đã khiến 
Tâm tin rằng “phía chân trời có thể có một 
chú lùn. Nếu có, chú sinh ra là để cho em”. 
Trong Cõi mê, Nguyễn Thị Thu Huệ viết 
về một cô gái bị mọi người xem như là một 
người điên nhưng cô vẫn hồn nhiên, vô tư, 
say sưa sống trong tình yêu và tận hưởng 
tình yêu. Nếu không có một sự đồng cảm, 
một sự hiểu biết sâu sắc và nhu cầu chia sẻ 
thì các nhà văn nữ không thể vẽ nên được 
bức tranh về thế giới nhân vật nữ như thế. 
Qua bức tranh đối lập giữa thế giới đàn ông 
và thế giới phụ nữ trong tác phẩm, các cây 
bút nữ đã lý giải một phần nguyên nhân nỗi 
bất hạnh của người phụ nữ trong tình yêu 
và hạnh phúc gia đình. 
4. Văn học là loại hình của nghệ thuật 
ngôn từ bởi ngôn ngữ là chất liệu cơ bản, là 
yếu tố thứ nhất của văn học. Ngôn ngữ văn 
học là hình thái hoạt động của ngôn ngữ 
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
172 
mang ý nghĩa thẩm mỹ, giúp nhà văn xây 
dựng hình tượng, tái hiện lời nói và thế 
giới tư tưởng của con người. Ngôn ngữ ở 
mỗi thể loại mang những sắc thái biểu cảm 
khác nhau. Ngôn ngữ truyện ngắn hiện đại 
nói chung là ngôn ngữ đa thanh, gần gũi 
với đời sống. Ở giai đoạn văn học trước, 
vấn đề tình yêu và hạnh phúc gia đình được 
nhà văn nhìn bằng cái nhìn đơn giản một 
chiều, lãng mạn: tình yêu thì mãnh liệt, 
trong sáng và gắn liền với hôn nhân, tình 
yêu đem lại hạnh phúc cho con người; 
ngôn ngữ ở đây đơn thanh, một giọng (lãng 
mạn, lạc quan, ngợi ca). Sau 1975, nhất là 
từ 1986 trở lại đây, các nhà văn đã có sự 
thay đổi lớn trong cách nhìn về hiện thực, 
có quan niệm mới về con người. Cuộc sống 
với sự đa dạng, phong phú, phức tạp, bề 
bộn, con người được nhìn nhận từ nhiều 
chiều, nhiều phương diện. Trong sáng tác 
của các nhà văn đã có sự chuyển biến từ 
ngôn ngữ một giọng sang ngôn ngữ nhiều 
giọng, đối thoại; có sự tác động, hoà trộn 
giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể 
chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Chính sự 
hòa trộn giữa các loại ngôn ngữ ấy đã tạo 
nên sự thay đổi giọng điệu của tác giả khi 
trần thuật. Giọng điệu là yếu tố hàng đầu 
của phong cách nhà văn, là phương tiện 
biểu hiện quan trọng trong tác phẩm và là 
yếu tố có vai trò thống nhất các yếu tố khác 
của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. 
Giọng điệu tác phẩm thể hiện quan hệ thẩm 
mỹ của nhà văn với hiện thực được mô tả. 
Cái nhìn của nhà văn đối với đời sống sẽ 
quy định giọng điệu của tác phẩm. Sự thay 
đổi cái nhìn của nhà văn sẽ dẫn tới sự thay 
đổi giọng điệu. 
Giọng điệu truyện ngắn của các nhà 
văn nữ Việt Nam đương đại thực sự giàu 
sức lôi cuốn. Các nhà văn nữ đã tìm đến 
con người trong bề sâu hiện thực ẩn kín và 
khám phá họ trong mối quan hệ giữa ý 
thức và vô thức, giữa cao cả và thấp hèn. 
Các chị đã chọn chỗ đứng bình đẳng với 
nhân vật, để cho nhân vật nói thật tiếng nói 
của mình. Thật khó phân biệt được đâu là 
giọng tác giả, đâu là giọng nhân vật, giọng 
người kể chuyện, với nhiều sắc thái, âm 
điệu khác nhau, hoà trộn, đan xen, khi thì 
mỉa mai giễu cợt, khi thì tư biện triết lý, 
khi thì đanh thép, khi thì khắc khoải âm 
thầm Họ đã tạo nên một lối trần thuật đa 
thanh hiện đại. Mỗi nhà văn lựa chọn cho 
mình một giọng điệu, một tiếng nói riêng. 
Tuy nhiên, nói như M.Khrapchenko: 
“giọng điệu chủ yếu không loại trừ mà còn 
cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học 
những sắc điệu khác nhau. Những sắc điệu 
này diễn đạt sự phong phú của những bối 
cảnh, cảm xúc trong việc lý giải những 
hiện tượng, những khía cạnh khác nhau và 
giống nhau của đối tượng sáng tác” (19). 
Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt 
Nam đương đại viết về tình yêu và hạnh 
phúc gia đình cho thấy có không ít những 
cây bút có giọng văn trần thuật táo bạo, 
mạnh mẽ với các sắc điệu chua chát, sắc 
lạnh, đanh đá, nhưng nhìn chung vẫn trên 
nền của dòng mạch cảm xúc trữ tình đằm 
thắm pha chút thâm trầm triết lý... Phần lớn 
các truyện đều da diết sự khắc khoải, day 
dứt, âu lo về nhân cách, nhân tính đang có 
chiều hướng giảm sút trong bối cảnh sống 
của xã hội đương đại. Đấy là sự xót xa, cay 
đắng, đau đớn của người viết về những khổ 
đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là 
người phụ nữ trước câu chuyện tình yêu và 
hạnh phúc gia đình; về số phận những cô 
gái nông thôn quê mùa, chất phác trước sự 
giả dối, lừa lọc của những kẻ mang danh trí 
thức (Ngỗng non - Lê Minh Khuê) (20); về 
LÊ PHƯỚC THÀNH 
173 
sự sa bẫy của những cô gái mới lớn mang 
đầy khao khát yêu đương (Hậu thiên 
đường - Nguyễn Thị Thu Huệ); về sự hoài 
nghi, mất niềm tin của người con gái ngay 
trước cha đẻ của mình (Kịch câm - Phan 
Thị Vàng Anh) (21), v.v... Không ảo tưởng, 
không triết lý suông, các nhà văn nữ đã nói 
những điều cần nói về cái rất thực của đời 
sống hôm nay: “Đời người bạc bẽo” 
(Nguyễn Thị Thu Huệ - Người xưa) (22); về 
thiên chức - thân phận – và tình yêu của 
người phụ nữ: “phụ nữ chúng tôi có những 
giai đoạn chẳng khác nào con gà ấp bóng... 
Còn lại là một tình yêu đích thực” (Y Ban - 
Gà ấp bóng) (23); về tình yêu – hôn nhân: 
“cái gì làm thước đo? tình yêu hay hôn 
nhân? con sẽ không lạc loài nếu như không 
bao giờ xảy ra chuyện này. Hài nhi của con 
sẽ không lạc loài nếu như con và anh ấy đã 
cưới nhau” (Y Ban - Bức thư gửi mẹ Âu 
Cơ)... Dù ở cung bặc, sắc thái nào (ngọt 
ngào, dịu nhẹ hay đay đả, dằn vặt,...), 
giọng điệu của các chị luôn tràn đầy nữ 
tính, chân thành, mong được cảm thông, 
thấu hiểu, chia xẻ. 
Để chuyển tải bao sự trăn trở, day dứt, 
khắc khoải về tình yêu và hạnh phúc gia 
đình trong cuộc sống hiện đại, các nhà văn 
nữ đã có nhiều đổi mới, sáng tạo trong tìm 
kiếm những phương thức thể hiện sao cho 
hữu hiệu. Dẫu còn những hạn chế nhất 
định, nhưng những đóng góp của truyện 
ngắn các nhà văn nữ cho văn xuôi hiện đại 
nước nhà là không nhỏ, không thể thay thế. 
Viết về tình yêu – hôn nhân – và hạnh phúc 
gia đình, dám chắc – đây là thế mạnh nổi 
trội của các cây bút nữ... 
Chú thích: 
(1)
 Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 2002, tr.122. 
(2)
 Võ Thị Hảo, Goá phụ đen, Nxb Phụ nữ, Hà 
Nội, 2005, tr.205. 
(3)
 Lê Minh Khuê, Những dòng sông - Buổi chiều 
- Cơn mưa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2002, 
tr.153. 
(4)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr.283. 
(5)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd 
(sách đã dẫn), tr.289. 
(6)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
sđd, tr.342. 
(7)
 Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 2002, tr.49. 
(8)
 Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 2002, tr.314. 
(9)
 Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 2002, tr.312. 
(10)
 Nhiều tác giả , Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 2002,tr.313. 
(11)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr.485. 
(12)
 Nhiều tác giả, Truyện ngắn hay các tác giả 
nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr.13. 
(13)
 Báo Thanh niên, số 248 tháng 9/ 2002. 
(14)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr.141.
(15) 
Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
sđd, tr.141. 
(16)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
sđd, tr.168. 
(17)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
sđd, tr.160. 
(18)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
sđd, tr.59. 
(19)
 M.Khrapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà 
văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm 
mới, Hà Nội, 1978, tr.169. 
(20)
 Lê Minh Khuê, Trong làn gió heo may, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 1999, tr.34. 
(21) 
Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb 
Văn học, Hà Nội, 2002, tr.22. 
(22)
 Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, 
sđd, tr.350. 
(23)
 Y Ban, Người đàn bà có ma lực, Nxb Thanh 
niên, Hà Nội, 2003, tr.141. 
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
174 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Y Ban (2003), Người đàn bà có ma lực, Nxb 
Thanh niên, Hà Nội. 
2. Báo Thanh niên, số 248 tháng 9/ 2002. 
3. Võ Thị Hảo (2005), Goá phụ đen, Nxb Phụ 
nữ, Hà Nội. 
4. Nguyễn Thị Thu Huệ (2004), 37 truyện ngắn, 
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
5. Lê Minh Khuê (1999), Trong làn gió heo 
may, Nxb Văn học, Hà Nội. 
6. Lê Minh Khuê (2002), Những dòng sông - 
Buổi chiều - Cơn mưa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 
7. M.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của 
nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác 
phẩm mới, Hà Nội. 
8. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn 4 cây bút 
nữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 
9. Nhiều tác giả (2006), Truyện ngắn hay các 
tác giả nữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 19/02/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 114_8575_2215166.pdf 114_8575_2215166.pdf