Đề tài tình yêu và hôn nhân trong truyện thơ Mường Thanh Hóa

Tài liệu Đề tài tình yêu và hôn nhân trong truyện thơ Mường Thanh Hóa: AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 41 ĐỀ TÀI TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG TRUYỆN THƠ MƯỜNG THANH HÓA Lê Thị Hiền1 1Trường Đại học Hồng Đức Thông tin chung: Ngày nhận bài: 14/09/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 11/02/2019 Ngày chấp nhận đăng: 08/2019 Title: The theme of love and marriage in Muong Thanh Hoa poetry Keywords: Muong poetry, theme of love, theme of marriage, Thanh Hóa Từ khóa: Truyện thơ Mường, đề tài tình yêu, đề tài hôn nhân, Thanh Hóa ABSTRACT Poetry is one of the unique cultural products of Muong people in Thanh Hoa. Poetry reflects many different themes of Muong social life, but focuses on two major themes, the topic of love and the topic of marriage. Understanding the topic of Muong poetry in addition to affirming the value of Muong poetry in relation to other minority poets contributes to the preservation, promotion and preservation of the cultural identity of the people. Muong eth...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài tình yêu và hôn nhân trong truyện thơ Mường Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 41 ĐỀ TÀI TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG TRUYỆN THƠ MƯỜNG THANH HÓA Lê Thị Hiền1 1Trường Đại học Hồng Đức Thông tin chung: Ngày nhận bài: 14/09/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 11/02/2019 Ngày chấp nhận đăng: 08/2019 Title: The theme of love and marriage in Muong Thanh Hoa poetry Keywords: Muong poetry, theme of love, theme of marriage, Thanh Hóa Từ khóa: Truyện thơ Mường, đề tài tình yêu, đề tài hôn nhân, Thanh Hóa ABSTRACT Poetry is one of the unique cultural products of Muong people in Thanh Hoa. Poetry reflects many different themes of Muong social life, but focuses on two major themes, the topic of love and the topic of marriage. Understanding the topic of Muong poetry in addition to affirming the value of Muong poetry in relation to other minority poets contributes to the preservation, promotion and preservation of the cultural identity of the people. Muong ethnic group in particular and the culture of ethnic groups in the territory of Vietnam in general. TÓM TẮT Truyện thơ là một trong những sản phẩm văn hóa độc đáo của người Mường ở Thanh Hóa. Truyện thơ viết về nhiều đề tài khác nhau của đời sống xã hội Mường, nhưng tập trung vào hai đề tài lớn, đó là đề tài tình yêu và đề tài hôn nhân. Tìm hiểu đề tài của truyện thơ Mường bên cạnh việc khẳng định giá trị của truyện thơ Mường trong tương quan với truyện thơ các dân tộc thiểu số khác còn góp phần vào việc bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc Mường nói riêng và của nền văn hóa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong bộ phận văn học dân gian Mường Thanh Hóa, truyện thơ là một trong những sản phẩm văn hóa độc đáo và giàu giá trị với những tác phẩm như: Út Lót Hồ Liêu, Nàng Nga đạo Hai Mối, Nàng Ờm chàng Bồng Hương, Anh Loóng Choóng, Nàng con côi,... Truyện thơ đã phản ánh một cách chân thực và đầy đủ những hiện tượng đời sống của con người lúc bấy giờ. Chúng ta có thể bắt gặp trong truyện thơ Mường Thanh Hóa những đề tài lớn như: đề tài tình yêu, đề tài hôn nhân, đề tài về người mồ côi, đề tài về người phụ nữ,... Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi đi sâu tìm hiểu những đề tài được phản ánh mang tính chất phổ biến và tiêu biểu nhất của truyện thơ Mường ở Thanh Hóa, đó là đề tài tình yêu và đề tài hôn nhân qua ba truyện thơ: Út Lót Hồ Liêu, Nàng Nga đạo Hai Mối, Nàng Ờm chàng Bồng Hương. 2. NỘI DUNG 2.1 Đề tài tình yêu 2.1.1 Quan niệm về tình yêu của người Mường và sự thể hiện đề tài tình yêu trong truyện thơ các dân tộc thiểu số Theo quan niệm của người Mường, đến tuổi trưởng thành, người Mường được tự do tìm hiểu theo những cách riêng của mình. Họ thường quen nhau từ những buổi lên nương, hoặc qua các hoạt động văn hóa tập thể. Qua những buổi gặp gỡ ấy, AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 42 trai gái có thể tỏ tình với nhau, rồi yêu nhau, thề nguyền và hẹn ước. Trong xã hội phong kiến xưa, nếu như các chàng trai cô gái Kinh không được tự do yêu đương bởi quan điểm “nam nữ thụ thụ bất thân” thì các chàng trai, cô gái Mường có thể tự do tìm hiểu bạn đời, trao duyên gửi phận cùng bạn tình, đắm say cùng nhau trong những câu hát cho đến khi trăng lặn, đêm tàn. Các chàng trai, cô gái Mường khi yêu nhau tha thiết, họ mong muốn giữ trọn việc“trao duyên gửi nghĩa”, muốn được tiến tới hôn nhân“chung cửa chung nhà”, được hạnh phúc bên nhau mãi mãi. Đó là một khát vọng hết sức bình thường, giản dị và chính đáng. Nhưng trong xã hội cũ, khát vọng giản dị ấy lại không thể thực hiện được, đó mãi chỉ là điều không có thực mà thôi. Không phải ngẫu nhiên mà đề tài này trở thành chủ yếu và phổ biến trong hệ thống truyện thơ Mường Thanh Hóa. Bởi vì từ đề tài này, chúng ta có thể tìm thấy tiếng lòng của người Mường trong xã hội cũ với những khát vọng về tình yêu và hạnh phúc, những băn khoăn, trăn trở của họ để tìm ra lối thoát cho cuộc sống đen tối, và đặc biệt hơn đó là thái độ, phản ứng của họ trước những quan niệm, tập tục hà khắc của thế lực phong kiến... Nhân vật trung tâm của những truyện thơ về đề tài tình yêu là là “các chàng trai và các cô gái, nạn nhân của tục lệ hôn nhân gả bán, ép uổng ngang trái dưới chế độ cũ” (Võ Quang Nhơn, 1983, tr. 418). Những chàng trai cô gái này gặp nhau, yêu nhau nhưng không đến được với nhau; tình yêu của họ gặp phải sự phản đối của gia đình, xã hội. Tác giả Võ Quang Nhơn trong công trình nghiên cứu Văn học dân gian các dân tộc ít người đã nêu ba giai đoạn chủ yếu của đề tài tình yêu đôi lứa trong truyện thơ các dân tộc thiểu số. Đây có thể xem là mô hình mang tính phổ biến cho truyện thơ các dân tộc thiểu số về đề tài tình yêu, trong đó có truyện thơ Mường. 1. Đôi bạn yêu nhau tha thiết. 2. Tình yêu bị tan vỡ - nỗi khổ đau của các chàng trai và cô gái bị cha mẹ ép duyên, gả bán cho người khác. 3. Đôi bạn tình tìm cách thoát ra khỏi cảnh ép buộc ngang trái đó. (Võ Quang Nhơn, 1983, tr. 418) Ở giai đoạn đầu, tình yêu của đôi trai gái thường trải qua những sự việc như sau: Đôi trai gái yêu nhau – Họ cảm mến nhau và yêu nhau từ lúc nào không biết – Họ thề nguyền sẽ cùng bên nhau mãi mãi. Giai đoạn thứ hai, tình yêu của đôi trai gái thường trải qua những biến cố như sau: Cha mẹ của chàng trai/cô gái ép duyên lấy người khác – Hai người cách xa nhau – Họ đau khổ nhưng trái tim vẫn hướng về nhau – Họ quyết tâm vượt qua mọi rào cản để đến với nhau. Kết cục tình yêu của đôi trai gái trong truyện thơ Mường là cả hai nhân vật trung tâm đều chết: Không lấy được nhau – Chàng trai/cô gái tìm đến cái chết – Họ chết bên nhau. Tác giả Cao Sơn Hải trong công trình Nàng Út Lót đạo Hồi Liêu (Tình ca dân tộc Mường song ngữ) cho rằng các truyện thơ Mường về đề tài tình yêu là những bản trường ca về tình yêu – hay còn gọi là tình ca “các bản tình ca ấy như một hằng số: Đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết – Bị cha mẹ (thế lực xã hội cũ) ngăn trở cấm đoán – Đôi tình nhân trẻ đấu tranh nhưng không cân xứng – Họ chết để giữ mối tình chung thủy- Lên án xã hội cũ – Khát vọng tình yêu tự do hạnh phúc” (Cao Sơn Hải, 2013, tr.56). Tiếp cận ở một góc độ khác, TS. Bùi Thiên Thai trong bài viết Kết cấu quan hệ nhân vật trong truyện thơ các dân tộc thiểu số về bi kịch tình yêu cũng đã mô hình hóa ba giai đoạn quan trọng trong bi kịch tình yêu được phản ánh trong truyện thơ các dân tộc thiểu số như sau: Khách thể/ chủ thể yêu nhau – Kẻ cản trở dùng đủ mọi phương cách để cản trở - Khách thể/ chủ thể cùng tự tử hoặc nén đau thương chia lìa hoặc trốn chạy để thành hôn (Bùi Thiên Thai, 2015, tr.38-39). Hầu như truyện thơ các dân tộc thiểu số về đề tài tình yêu nói chung và truyện thơ Mường nói trên đều xây dựng những mối tình không thành với những biến cố na ná, gần giống với mô hình trên. Tuy nhiên, mỗi truyện thơ lại khai thác đề tài đó ở những khía cạnh khác nhau với những sắc thái khác nhau. 2.1.2 Sự thể hiện đề tài tình yêu trong truyện thơ Mường Cũng giống như truyện thơ các dân tộc thiểu số khácđề tài tình yêu là đề tài lớn, mang tính phổ biến và tiêu biểu nhất trong hệ thống truyện thơ AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 43 Mường Thanh Hóa. Với 5 truyện thơ được sưu tầm và biên dịch hiện nay, đã có tới 3 truyện thơ xoay quanh chủ yếu về đề tài tình yêu, đó là các truyện thơ: Nàng Nga Đạo Hai Mối, Út Lót Hồ Liêu, Nàng Ờm chàng Bồng Hương,... Đó là những bản tình ca hay nhất mọi thời đại, luôn sống mãi trong tâm thức và đời sống văn hóa của người Mường nói riêng và các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Truyện thơ Út Lót Hồ Liêu xoay quanh câu chuyện tình yêu giữa nàng Út Lót và chàng Hồ Liêu. Nàng Út Lót là người con gái vừa đẹp vừa thông minh, là con gái thứ ba của đạo Tu Liêng và bà Cun Táo. Trên đường đi hầu vua Kẻ Chợ, Út Lót đã gặp chàng Hồ Liêu, sự gặp gỡ ngẫu nhiên tình cờ ấy cũng chính là sự gặp gỡ của số phận, hai người làm bạn với nhau.Trong những ngày ở đất kinh kỳ, Út Lót bằng sự thông minh khéo léo của mình đã làm cho Hồ Liêu và vua Kẻ Chợ không phát hiện ra nàng là gái giả trai, nàng đã thầm yêu trộm nhớ chàng Hồ Liêu, nàng viết thư về dặn cha mẹ: “Việc gây dựng cửa nhà cho con xin đừng có vội/Năm lui tháng tới/Rồi cha cũng đáng công đợi được người rể hiền/Mẹ đáng lời khen được người rể quý/Con đã sắp trong ý/Con đã nghĩ trong lòng/Ngày chầu vua xong/Con chọn chàng Hồ Liêu về thưa cùng bố mẹ”. Tình yêu đã thai nghén trong lòng Út Lót trong những ngày cùng sống bên Hồ Liêu. Điều đó Hồ Liêu không hề hay biết. Để đến khi hết hạn chầu vua, trên đường trở về quê, Út Lót mới cởi bỏ lốt cải trang trở lại thành một cô gái dịu dàng xinh đẹp. Hai người thề nguyền vàng đá với nhau: “Anh ơi quả cau này/Rìu sắt bổ không chuyển/Dao bạc tiện không ra/Răng đen ta cắn làm ba/ Chia về hai ta mỗi người một miếng/Còn một miếng/Đặt lên đá ta nguyện một lời”. Nếu như câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thôi thì không có gì để nói. Tình yêu đẹp đẽ trong sáng của Út Lót và Hồ Liêu lại bị ngăn trở bởi luật lệ bất công của xã hội. Hồ Liêu bị cha mẹ ép cưới vợ, phải cưới một người không hề yêu, Hồ Liêu đã ra sức phản kháng đến cùng, chàng khuyên người vợ đáng thương đó nên trở về nhà cha mẹ để lấy người thực sự yêu mình thì mới có hạnh phúc. Lòng chàng đã sắt son thề nguyện cùng Út Lót. Xa cách nàng Út Lót, lại phải chịu sức ép nặng nề từ phía gia đình, Hồ Liêu buồn mà sinh ra ốm. Hồ Liêu đã nhờ chim chèo pheo giúp chàng mời hộ nàng út Lót đến cho Hồ Liêu được gặp. Nhưng Út Lót nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại của chàng mà không dám đến gặp chàng. Út Lót đã nhờ chim chèo pheo gửi cho Hồ Liêu dải yếm, dải áo và tràng cườm thơm của nàng. Những vật ấy đã giúp chàng Hồ Liêu tỉnh lại, nhưng từ đó: “Vắng bạn tình, thấy cửa tình đỡ sầu một lẽ/Vắng bạn nghĩa, thấy dấu bạn đỡ tẻ một đường/Uống nước kêu vía bạn cho nó đỡ thương/Ăn cơm gọi hồn nàng cho nó đỡ nhớ”. Và khi vợ Hồ Liêu lấy những vật kỷ niệm của nàng Út Lót đem đốt hết thì Hồ Liêu lại rơi vào hoàn cảnh đáng thương hơn. Thế mới thấy được tình yêu tha thiết mà Hồ Liêu giành cho nàng út Lót, gia đình càng phản đối và ngăn cấm bao nhiêu thì tình yêu ấy lại càng bùng lên dữ dội bấy nhiêu. Nhưng cuối cùng chàng cũng tìm đến cái chết bởi hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ không cho họ ở bên nhau. Những thế lực, những rào cản của xã hội đã toả chiết, bủa vây tình yêu của họ. Trước cái chết của Hồ Liêu, nàng Út Lót đau khổ, dẫu cho bố mẹ khuyên bảo nàng đi lấy chồng, nàng vẫn từ chối để đến lúc nàng quyết định lấy đạo Cun Cun. Thật bất ngờ, trong ngày cưới nàng đã thản nhiên bỏ đám cưới linh đình của đạo Cun Cun và họ hàng chú bác, quyết đi xuống mồ để sống cho vẹn nghĩa trọn tình với người yêu: “Nàng bước đến bên mồ dậm gót/Kêu rằng: Đạp đất, đất rã! Đạp đá, đá rời!/Đạo Hồ Liêu anh ơi/Chống nắp săng đồng cho em vào với”. Câu chuyện tình yêu của nàng Út Lót và chàng Hồ Liêu đã kết thúc bằng bi kịch. Mối tình ấy không thành trên dương thế, họ đành tìm cái chết để được ở bên nhau trọn kiếp. Truyện thơ Nàng Nga đạo Hai Mối lại kể về mối tình của Nàng Nga và đạo Hai Mối. Nàng Nga là người con gái lớn của một ông cun lang giàu có và quyền thế ở vùng Mường Đủ - Ó. Nàng có vẻ đẹp lý tưởng: “Tóc xanh vận bốn vận ba vòng/Đôi mày xanh cong/Như trăng đầu tháng/Mặt rạng như chiếc gương đồng”. Người con gái ấy đầy sức xuân, chủ động xin cha mẹ mang cành bông hoa ra chợ để tìm bạn tình. Ở đây, nàng đã gặp đạo Hai Mối. Đó là một lang đạo trẻ và quyền thế, có vẻ đẹp hào hoa. Sau những phút giây phú thử lòng, dò ý, nàng Nga đã chấp nhận cho đạo Hai Mối về ra mắt bố mẹ mình. Để rồi đến lúc chia tay, hai người hẹn ước với nhau ở sông Ngang, bến Đuộng: “Nàng Nga trao cho Hai Mối /Liền AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 44 cặp áo mới, dóng nậu khuy vàng/Liền cặp áo vàng dóng nậu khuy bạc/Hai Mối trao cho nàng Nga/Chín nén bạc hẹn có sông Ngang/Chín nén vàng hẹn có bến Đuộng/Lại trao cho cái gương cái lược/ Để nàng soi hòm chải sớm/Hẹn ngày nên cửa nên nhà/Đôi bên mẹ cha đẹp đàng đi xá lại”. Hai Mối trở về quê lo vỡ ruộng khai hoang làm cho nương giàu có, để rồi đi hỏi nàng Nga. Nhưng rồi tin sét đánh đã đến: nàng Nga đã bị ép đi lấy chồng. Sau khi biết tin đó, Hai Mối đã quyết đi tìm người yêu, chàng ra đi hai lần: Lần thứ nhất là để giành lại người yêu khi nàng trên đường về nhà chồng, nhưng việc làm này quá chậm, nàng Nga đã đi lấy chồng ở nơi xa xôi quạnh vắng lâu rồi nên chàng đành trở về; lần thứ hai Hai Mối quyết ra đi dẫu hy vọng giành lại người yêu chỉ là mong manh, chàng ra đi để tìm câu giải đáp, không biết nàng Nga còn nhớ đến lời thề nguyền ngày xưa không? Cuộc hành trình đi tìm người yêu của Hai Mối còn là cuộc hành trình đi tìm sự thật, một lẽ phải, một niềm tin ở trên đời. Là người thuỷ chung son sắt nhưng Hai Mối còn là một lang đạo trẻ, sống có trách nhiệm với dân mường, cha mẹ. Trước lúc ra đi trong con người chàng đã diễn ra cuộc đấu tranh dằn vặt giữa nghĩa vụ, đạo đức với tiếng gọi của tình yêu, và tình yêu đã vượt lên tất cả. Hai Mối sẵn sàng từ bỏ địa vị lang đạo, sự giàu có, quyền lực và cả những cuộc hôn nhân khác. Đạo Hai Mối giao cho em trai tất cả binh mường, ruộng nương, vườn rau, ao cá và những vật tượng trưng cho quyền lực của lang đạo, đó là chiếc “niếng ba hông, cồng ba ụ”. Ở chàng chỉ có một điều hướng tới duy nhất, đó là nàng Nga. Dưới con mắt và trong trái tim chàng, nàng Nga là một cái gì trọn vẹn, đẹp dịu hiền, nết na: “Khôn nết tốt lòng/Đẹp mọi lời ăn lẽ ở”. Vì tình yêu, vì một người con gái như thế nên Hai Mối đã bước chân ra đi, dấn thân vào con đường đầy gian nan, khổ ải. Khi gặp được người yêu ở đất nhà chồng, Hai Mối có ý định giết ông vua Ao ước nhưng đó chỉ là ý nghĩ thôi. Nhân vật Anh trong Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái khi mất người yêu cũng: “Không lấy được người yêu sẽ làm giặc giữa phủ/Không lấy được người tình sẽ làm loạn giữa mường”. Trước sự gặp lại đầy bất ngờ ấy, nàng Nga không khỏi ngạc nhiên; bằng sự khéo léo thông minh của mình, nàng Nga đã thuyết phục Hai Mối trở lại bình tĩnh, nàng dặn và hẹn với người tình: “- Ở đây quê lạ/Thiên hạ đất người/Trở về đường xa xôi/Nơi quê cha ta gặp lại nhau anh hỡi!”. Nàng tìm cách để được trở lại quê, tìm gặp Hai Mối để thực hiện lời hẹn ước ngày xưa, nhưng về đến quê nhà thì Hai Mối đã chết ở “rừng dâu gốc, ở rộc dâunon”,lòng nàng đau xót: “Sao đau hại đường ni hỡi đất/Sao đau xót đường ni hỡi trời/Duyên người ta đẹp chín lành mười/Duyên em với anh chín trắc mười trở”. Nàng làm ma cho đạo Hai Mối ngay ở gia đình bố mẹ đẻ của mình. Đây là việc làm trái với phong tục của con người từ trước tới nay. Tình yêu đã vượt lên trên tất cả, chỉ vì nàng mà Hai Mối đã chết. Nàng làm ma thật chu đáo cho Hai Mối như để bù đắp những thiệt thòi mà Hai Mối phải chịu đựng khi yêu nàng. Việc nàng làm ma cho Hai Mối và khóc người tình cũ thảm thiết cũng đến tai nhà vua Ao ước. Ông đã cầm roi con cún ra đánh nàng, nàng ngã cầu thang mà chết. Quan tài nàng Nga được thả theo dòng sông về với đạo Hai Mối, thực hiện lời hứa khi hai người còn sống, để rồi từ đây: “Đôi nấm mộ song song/Mãi mãi Nàng Nga ở cùng chàng đạo Hai Mối”. Cái chết đầy bi kịch của nàng Nga và đạo Hai Mối lại mở ra một chân trời hạnh phúc cho hai người, ở thế giới bên kia họ được mãi mãi ở bên nhau. Phản ánh mối tình đẹp của nàng Nga và Hai Mối, tác giả dân gian đã có cái nhìn hiện thực về cuộc sống xã hội Mường xưa một cách đầy sâu sắc. Chính điều đó tạo nên tính nhân văn của tác phẩm. Một điểm chung giữa truyện thơ Út Lót Hồ Liêu và Nàng Nga đạo Hai Mối là đều xoay quanh mối tình môn đăng hộ đối, vừa đôi phải lứa trong xã hội Mường xưa. Đó là mối tình của những nàng, những đạo thuộc dòng dõi quyền quý, sang giàu. Nàng Nga là người con gái ông Cun Lang giàu có ở mường Đủ Ó với vẻ đẹp tựa như tiên: “Má hồng trắng bóc/Vóc mình trắng trong/Cổ cao ba ngấn.../Mặt rạng như chiếc gương đồng”, Hai Mối lại là một Lang cun trẻ, giàu có của một mường khác với vẻ đẹp: “Ngời ngời tốt tướng đẹp trai/Như con phượng hoàng bay trên lèn đá trắng”. Út Lót là con gái thứ ba rất xinh đẹp và tài giỏi của Lang cun Khù, Hồi Liêu là con một Lang cun mường khác hiền lành và thông minh. Tình yêu của Nàng Nga và Hai Mối, nàng Út Lót và đạo Hồ Liêu rất đẹp, rất lãng mạn; tưởng như AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 45 không có gì ngăn trở được, bởi ở họ đã hội tụ tất cả những yếu tố cần và đủ cho một tình yêu bền vững. Tuy nhiên, những mối tình ấy lại bị ngăn trở, vùi dập một cách phũ phàng. Tại sao những mối tình môn đăng hộ đối ấy cũng không được xã hội phong kiến Mường xưa chấp nhận? Đó chính là hệ quả của chế độ gả bán hôn nhân. Dù môn đăng hộ đối, dù vừa đôi phải lứa nhưng nếu cha mẹ không ưng thì họ sẽ tìm mọi cách để ngăn tình yêu của các chàng trai cô gái. Phản ánh một cách triệt để bộ mặt xấu xa nhất của xã hội phong kiến với những tục lệ hà khắc, nặng nề; với lòng tham, thói vị kỷ của kẻ có quyền thế, truyện thơ Út Lót Hồ Liêu và Nàng Nga đạo Hai Mối đã trở thành những tác phẩm có sức tố cáo, phê phán mạnh mẽ nhất trong hệ thống truyện thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nếu như hai truyện thơ Út Lót Hồ Liêu và Nàng Nga đạo Hai Mối xây dựng mối tình môn đăng hộ đối thì truyện thơ Nàng Ờm chàng Bồng Hương lại xây dựng câu chuyện tình yêu của những người không cùng giai cấp: một con nhà thường dân, nghèo khổ và một con nhà quyền quý, giàu sang. Theo luật tục Mường xưa nhà lang đạo với nhà dân có sự cách biệt ghê gớm. Đó là sự cách biệt giữa giai tầng thống trị và bị trị. Và theo đó con gái nhà lang đạo không được gả cho con gái nhà dân thường. Ở đây nàng Ờm là con nhà đạo làng, vẫn thuộc dòng dõi nhà lang. Các nàng nhà lang đạo phải đợi một trai đạo ở mường khác đến hỏi mới được đi làm dâu. Do vậy, mối tình của nàng Ờm và chàng Bồng Hương gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của gia đình và xã hội. Đây là một bản tình ca được xây dựng theo một tư duy gắn với phong cách của người Mường, dùng hồn người chết để kể lại câu chuyện của mình. Nàng Ờm và chàng Bồng Hương quen nhau từ nhỏ, cùng chơi trò sàng gạo bằng đất, bằng mo nang, từng tập đan bằng tàu lá chuối, cùng chơi bản trên, cùng xuôi bản dưới. Hai người đã cảm mến nhau: “Anh đã mến, đã thương, đã yêu cùng nhớ/Anh trộm phép mẹ đùm cơm vào lá/Anh trộm phép mẹ đùm cá vào bao/Anh vượt mấy dốc cao/Anh lội bao suối thẳm/Ăn đi cùng anh cho đỡ thương, đỡ nhớ”. Đến khi nàng Ờm đến tuổi trưởng thành thì tình yêu được dịp bùng lên mạnh mẽ, hai người mong ước một cuộc sống hạnh phúc: “Ăn cơm chung một gian/Uống nước chung một máng/Xỉa răng chung một ống/Chết hay sống cùng trọn một đôi”. Tình yêu của nàng Ờm và chàng Bồng Hương thật đẹp, thật trong sáng. Tình yêu ấy được thai nghén từ lúc trẻ thơ, cho đến lúc trưởng thành thì tình yêu ấy lại càng son sắt. Mong ước về một cuộc sống hạnh phúc thật đơn sơ và giản dị, họ chỉ cần được ở bên nhau, được cùng nhau ăn uống, sống và chết. Nhưng giữa họ lại bị một bức tường vô hình ngăn cách, bố mẹ nàng Ờm không thích Bồng Hương đã tìm mọi cách để chia cắt hai người. Em gái Yêu còn trẻ dại nhiều khi mách cha mẹ để nàng Ờm phải chịu đòn roi. Mặc dù vậy, tình yêu của nàng Ờm và chàng Bồng Hương lại càng tha thiết. Chàng Bồng Hương lòng quyết tâm: “Đường mấy dốc anh cũng trèo/Gặp mấy sông anh cũng lội”. Dù khó khăn đến bao nhiêu, chàng Bồng Hương vẫn quyết tâm vượt qua để đến bên người mình yêu. Sự quyết tâm ấy cuối cùng cũng không vượt qua được rào cản của giáo lý phong kiến, bố mẹ nàng Ờm lại càng cay nghiệt hơn, xỉ vả và đánh đập nàng: “Nhà năm gian bố em khoá chặt/Cửa chín vóng mẹ bắt cài then/Như con nhà ngài làm kên làm quái/Chín chục roi lảy trảy bố bó làm bảy/Bảy mươi roi lèn en mẹ buộc nên ba/ Giữ em trong nhà/Bố mẹ ra tay đánh đập”. Đòn roi của bố mẹ đã khiến nàng Ờm: “Đánh em máu chảy khắp người/Áo em rách tả tơi/Chân tay em rã rời/Trông không nên người, không nên con gái”. Ở đây ta chứng kiến sự tàn nhẫn, độc ác của giáo lý phong kiến mà đại diện là bố mẹ nàng Ờm. Họ đã không cho nàng một con đường sống khi nàng vẫn quyết tâm yêu chàng Bồng Hương. Nàng:“van bố, bố không thương; em vái mẹ, mẹ không buông”. Phải chịu những trận đòn thật nghiệt ngã, để rồi cuối cùng nàng quăng mình xuống “sâm” như tìm cho mình một lối thoát. Chàng Bồng Hương đã chứng kiến tất cả, lòng đầy thương xót, chàng đã đỡ lấy nàng Ờm chạy vào rừng sâu. Chính trong giây phút này, tình yêu của họ lại càng sâu nặng. Chàng Bồng Hương nói với nàng Ờm: “Anh biết vì sao mà em phải khổ/Vì anh đi trâu cùng em bên ngõ/Vì anh đi bò cùng em trên nương/Cho bố mẹ chẳng thương/Nên em phải chịu đường roi vọt, roi thon/Em phải chịu điều giận tiếng hờn của cha mẹ”. Nàng Ờm nói: “Em muốn cùng anh nên cửa/Nhưng bố không cho nên cửa/Em muốn cùng anh nên nhà/Nhưng AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 46 mẹ chẳng cho nên nhà/Ta cùng về bên ma cho khỏi bận/Ta đi ăn lá ngón cho nó hại thân/Ta đi thắt cổ cho nó hại người/Cửa nhà không nên là vì bố mẹ”. Cuộc đối thoại giữa hai người là một cuộc đối thoại đẫm nước mắt, tiếng lòng của hai con người cất lên trong đau khổ. Thế giới này không có chỗ cho hạnh phúc của hai người, chỉ còn cách là chết thì hai người mới được ở bên nhau. Nàng Ờm, chàng Bồng Hương đã tìm đến lá ngón để kết liễu cuộc đời của mình với hy vọng ở thế giới bên kia họ sẽ có cuộc sống lứa đôi mà họ từng mơ ước. Họ đã chết nhưng tình yêu của họ còn sống mãi. Nỗi đau của họ trần trụi bao nhiêu thì sự gắn bó của mối tình ấy lại càng quyết liệt bấy nhiêu. Cái chết của họ đã thức tỉnh bố mẹ nàng, họ muốn chuộc lỗi, gọi hồn gọi vía nàng về nhưng nàng vẫn quyết liệt sắt son, nàng dặn dò bố mẹ: “Trai gái yêu nhau bố mẹ đừng ngại/Nước đang chảy không nên ngăn lại/Chớ có lội qua hại đến thân/ Đừng chém những hàng roi dài/Chớ chặt những hàng roi thon/Mà khổ số kiếp cho con/Các cô, các mẹ ơi!”. Bản tình ca Nàng Ờm chàng Bồng Hương còn vang vọng đến muôn đời bởi tình yêu của hai người đã để lại dấu tích trên núi Làn Ai: “Núi Làn Ai nghèo tiền nghèo của/Núi Làn Ai giàu nghĩa giàu tình mẹ”. Như vậy, truyện thơ Mường Thanh Hóa xây dựng một cách chân thực tình yêu của các chàng trai cô gái Mường trong xã hội xưa với mối tình Út Lót và Hồ Liêu, mối tình nàng Nga và đạo Hai Mối, mối tình nàng Ờm và chàng Bồng Hương. Đó đều là những mối tình đẹp, lãng mạn, sắt son, thuỷ chung, có sự hòa hợp của trái tim và tâm hồn từ hai phía. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây, các truyện thơ đều nhấn mạnh vào “cuộc sống đau khổ của những đôi trai gái bị thất bại trong yêu đương do xã hội cũ gây nên” (Phan Đăng Nhật, 1981, tr.198) và các nhân vật tìm cách thoát ra khỏi bế tắc của cuộc đời bằng cái chết. “Nàng Nga và nàng Út Lót vừa tỏ thái độ vừa biểu thị tấm lòng thủy chung của họ bằng cách đi xuống mồ sống cho trọn kiếp với người yêu. Còn nàng Ờm và chàng Bồng Hương rủ nhau lên đỉnh núi Làn Ai chết tạo nên một tượng đá thiên nhiên kỳ vĩ,... cái chết đó gây một mối xúc động mạnh mẽ, một tình cảm thương xót mông mênh cho thế hệ sau (Võ Quang Nhơn, 1983, tr. 430). Và “Chết như một cách chống đối lại các thế lực. Chết là không thỏa hiệp, là trả giá bằng chính sinh mạng của mình. Bằng cái chết – ánh sáng nhân tính được rạng ngời – bằng cái chết, tình yêu được thăng hoa, thiêng hóa” (Bùi Thiên Thai, 2015, tr. 41). Mặc dù phải chịu vòng kiềm tỏa của xã hội phong kiến với những quan niệm nặng nề nhưng các chàng trai cô gái trong truyện thơ Mường vẫn “một mực kiên tâm chờ đợi, theo đuổi, bảo vệ và còn đấu tranh để giành lại hạnh phúc đã bị cướp mất. Trong đó, vai trò của người phụ nữ rất quan trọng: nàng Ờm, Út Lót, nàng Nga... Chính lòng thủy chung là nhân tố hàng đầu và duy nhất của chủ quan chống lại với xã hội bên ngoài và tạo nên tình thế mới, chuyển bại thành thắng ”. Có lẽ vì điều đó nên tác giả Phan Đăng Nhật cho rằng kết thúc cho các mối tình của các chàng trai cô gái thiểu số trong xã hội xưa trong đó có truyện thơ Mường đều là kết thúc có hậu với chiến thắng của tình yêu, mặc dù đó là chiến thắng ở ngoài đời sống hiện tại (tức là các chàng trai cô gái được ở bên nhau mãi mãi ở thế giới bên kia) (Phan Đăng Nhật, 1981, tr.198). Việc trai gái yêu nhau và cùng bước sang thế giới bên kia để giữ trọn hạnh phúc của các chàng trai cô gái Mường một mặt thể hiện quyết tâm bảo vệ đến cùng tình yêu đôi lứa, một mặt phản ánh chân thực bộ mặt của xã hội Mường xưa mà đại diện là giai cấp thống trị đã đẩy tình yêu tự do của đôi lứa vào con đường không lối thoát. Họ đã đi tìm hạnh phúc trọn vẹn ở một thế giới khác, một thế giới hoàn toàn không có ở thế giới hiện tại. Rõ ràng điều này có liên quan mật thiết tới quan niệm về tình yêu của người Mường. Với người Mường, tình yêu chung thủy là tình yêu duy nhất, trước sau như một, không gì thay đổi, yêu nhau suốt đời, thậm chí sang cả kiếp khác vẫn còn yêu, đã yêu là có trách nhiệm với nhau, tình nghĩa với nhau dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Do đó, tình yêu chung thủy của người Mường không kết thúc bằng hôn nhân, cũng không chấm dứt bằng cái chết. Tình yêu ấy được duy trì đến trọn đời, trọn kiếp; dẫu khi chết đi rồi họ vẫn tiếp tục yêu nhau ở một thế giới khác. Đây là một quan niệm hết sức nhân văn, mang tính đặc trưng riêng của dân tộc Mường. 2.2 Đề tài hôn nhân 2.2.1 Quan niệm về hôn nhân của người Mường AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 47 Bên cạnh đề tài tình yêu, truyện thơ Mường Thanh Hóa còn phản ánh khá chân thực đề tài hôn nhân trong xã hội Mường xưa. Nếu như tình yêu là tình cảm yêu đương nam nữ thì hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng. Trong tiếng Việt, hôn nhân được ghép bởi hai từ gốc hôn và nhân: Hôn (婚) là bố mẹ cô dâu, nhân (姻) là bố mẹ chú rể. Hôn nhân là việc cha mẹ đôi bên lấy vợ gả chồng cho con. Trong xã hội truyền thống của người Việt, hôn nhân là việc của hai bên cha mẹ, hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. Có thể lý giải rằng tục lệ này xuất phát từ quyền lợi tập thể, mà trước hết là quyền lợi của gia tộc, rồi tới đáp ứng các quyền lợi làng xã. “Nhìn chung, lịch sử truyền thống hôn nhân của Việt Nam luôn là lịch sử hôn nhân vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng: Từ những cuộc hôn nhân nổi danh như Mỵ Châu với Trọng Thủy, công chúa Huyền Trân với vua Chăm Chế Mân, công chúa Ngọc Hân với Nguyễn Huệ, rồi vô số những cuộc hôn nhân của các con vua cháu chúa qua các triều đại được triều đình gả bán cho tù trưởng các miền biên ải nhằm củng cố đường biên giới quốc gia; cho đến tuyệt đại bộ phận các cuộc hôn nhân vô danh của thường dân – tất cả đều là làm theo ý nguyện của các tập thể cộng đồng lớn nhỏ, lớn là quốc gia, nhỏ là gia tộc” (Trần Ngọc Thêm, 2004, tr. 256-259). Cũng theo quan điểm của tác giả Trần Ngọc Thêm trong công trình Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam thì “Người Việt Nam là con người của cộng đồng. Mọi việc liên quan đến cá nhân cũng đồng thời liên quan đến cộng đồng, kể cả hôn nhân là lĩnh vực riêng tư nhất. Hôn nhân của người Việt Nam truyền thống không đơn thuần là việc hai người lấy nhau mà là việc hai bên cha mẹ, “hai họ” dựng vợ gả chồng cho con cái”. Bởi vì “việc hôn nhân tuy là của hai người nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ qua lại giữa hai gia tộc. Vì vậy, trong hôn nhân, việc đầu tiên chưa phải là lựa chọn một cá nhân cụ thể, mà là lựa chọn một gia đình, một dòng họ xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối hay không: Lấy vợ xem tông, lấy chồng kén giống (tục ngữ)” (Trần Ngọc Thêm, 2004, tr. 256-257). Vấn đề hôn nhân của người Mường ở Thanh Hóa trước Cách mạng tháng Tám được Jeane Cuisinier nhắc đến trong công trình Người Mường. Tác giả cho rằng: “Đối với người nông dân,.nam nữ gặp nhau tự do và tự chọn bạn đời của họ, nhưng họ không thể lấy nhau mà không có sự thỏa thuận của cha mẹ. Cha mẹ có quyền từ chối, không đồng ý và còn có thể buộc họ phải theo sự lựa chọn của mình. Nhưng rất hiếm khi họ sử dụng quyền đó với con gái và không bao giờ dùng nó với con trai. Ngược lại, trong các gia đình quý tộc, con gái không được tự do nhiều như thế. Cha mẹ quyết định trước đã, trong gia đình thổ lang thì còn phải xin ý kiến của hội đồng kỳ hào và phải có hội đồng này thừa nhận” (Jeane Cuisinier, 1995, tr.354). Trong xã hội Mường trước Cách mạng tháng Tám, việc dựng vợ gả chồng được quy định bằng những luật lệ chặt chẽ và phức tạp. Khi thiết lập quan hệ hôn nhân, những người giàu có thường kết làm thông gia với nhau. Những người dân thường không kết làm thông gia với những người giàu có bởi vì những cuộc hôn nhân như vậy được xem như không tương xứng về mặt kinh tế cũng như địa vị xã hội, không khẳng định được sự thịnh vượng của gia đình, của bản mường. Hôn nhân gả bán là những tục lệ nặng nề trong hôn nhân của người Mường xưa, gây ra bao oan trái và đau khổ cho đôi lứa yêu nhau. Trong dân ca Mườngkhông ít câu ca đã thể hiện thái độ oán trách của người xưa về chế độ hôn nhân này “Bố nhà em bố tệ/ Mẹ nhà em mẹ bạc/ Không cho đôi ta đi chung một lối”. Chính vì ép buộc con cái phải lấy người không yêu nên mới dẫn đến cảnh “Chồng em đấy/ Nhưng không nhớ không thương bằng người tình thầm kín” hoặc “Chốn bố gả mẹ cho/Co ro như con vịt ốm đói/Nơi em yêu thầm thương trộm/ Sáng chói như ngôi sao mai” (Cao Sơn Hải, 2005, tr.30-31). 2.2.2 Vấn đề hôn nhân gả bán Đề tài hôn nhân, đặc biệt là gả bán được phản ánh chân thực trong các truyện thơ Mường Thanh Hóa với các truyện thơ Út Lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai Mối, Nàng Ờm chàng Bồng Hương. Những cuộc hôn nhân bị ép gả trong xã hội Mường xưa sẽ có một cái kết như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu cụ thể cuộc hôn nhân của nàng Nga trong truyện thơ Nàng Nga đạo Hai Mối; cuộc hôn nhân giữa chàng Hồ Liêu và người AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 48 vợ của mình, cuộc hôn nhân giữa nàng Út Lót và đạo mường Đẹ trong truyện thơ Út Lót Hồ Liêu. Cuộc hôn nhân giữa nàng Nga và nhà vua Ao Ước trong truyện thơ Nàng Nga đạo Hai Mối là cuộc hôn nhân tiêu biểu nhất cho tục lệ gả bán hôn nhân trong xã hội Mường xưa. Vua Ao Ước là nhà vua đầy quyền lực, giàu có ở đất nước Thượng Lào xa xôi. Mặc dù biết rằng nàng Nga và Đạo Hai Mối yêu nhau và đã thề nguyền, hẹn ước với nhau, nhưng bố mẹ nàng Nga vẫn ngăn cấm và bắt nàng lấy nhà vua Ao Ước với lời dỗ dành ngon ngọt rằng nàng sẽ được “Mặc áo cổ viền/Cầm quyền cai quản gia thất/Nầm nẫm ngón tay đeo bạc/Rực rỡ cổ tay đeo vàng/Làm hàng bậc anh bậc chị/Con chẳng phải lo chi/Những điều phiền muộn” và bởi nhà vua Ao Ước có “Cung thất thẳm sâu/Ầu vàng buồng kín”. Trước quyết định của cha mẹ, nàng Nga chỉ biết đau buồn, than thở với đạo Hai Mối. Trong bức thư viết cho đạo Hai Mối, nàng Nga đã chỉ ra rất rõ rằng cuộc hôn nhân của nàng và nhà vua Ao Ước là vì lòng tham của cha mẹ: “Bố nhà em tham bạc/Mẹ nhà em tham vàng/Chú bác, họ hàng tham ăn tham uống/Tham bình rượu mọng/Tham vò rượu siêu/Cho nên em bị ép đi làm bà/Nhà ông Vua Ao Ước/Nước vua Thượng Lào cao xa quạnh vắng”. Mặt khác: “Nhà họ có chín lần rào/Mười hai lần cổng/Chín lần cổng/Mười hai bãi chông/Có lính tráng, con hầu/Canh trong canh ngoài/Anh không có tài nào giết được” nên nàng không thể thay đổi được quyết định của cha mẹ; không thể giết chết nhà vua Ao Ước để nàng Nga và Hai Mối có thể đến bên nhau. Và cuối cùng nàng Nga đành phải chấp nhận cuộc hôn nhân sắp đặt ấy. Nhưng vì không được lấy người mình yêu, vì nặng lòng với chàng Hai Mối nên Nàng Nga khi nào cũng trong tình trạng: “cơm không buồn nhá, cá không buồn ăn/Vóc gầy da nhăn như bông hoa bông trăng héo nắng”,nàng không cười không nói. Nàng ở bên nhà chồng mà trong lòng khi nào cũng nghĩ về Hai Mối. Cuộc hôn nhân nghiệt ngã ấy không chỉ khiến nàng Nga đau khổ, sống mà như chết, mà còn khiến Hai Mối tìm đến cái chết. Và khi Hai Mối chết đi rồi, nàng Nga không còn gì để lưu luyến cõi đời này nữa, nàng cũng đã từ bỏ tất cả, từ bỏ địa vị và quyền lực trong cuộc hôn nhân với nhà vua Ao Ước để được ở trọn kiếp với người yêu. Vua Ao Ước vì ghen tức khi thấy tình cảm của nàng Nga giành cho Hai Mối đã cầm roi: “Đánh đập nàng Nga/Bui bông xơ bay đầy vai áo/Nàng Nga bổ nhào xuống sân/Hồn vía đã lìa thân xác”, và nhà vua Ao Ước cũng “nhớn nhác trượt chân/Thân rơi xuống đất, hồn xiêu phách lạc”. Kết thúc cuộc hôn nhân đầy bi kịch này là cái chết của cả ba người: Hai Mối, nàng Nga và nhà vua Ao Ước. Cái chết ấy như một tiếng thét căm phẫn phê phán tục lệ hôn nhân gả bán trong xã hội phong kiến. Tác giả dân gian ở tác phẩm này đã có “cái nhìn hiện thực về cuộc sống xã hội Mường xưa một cách sâu sắc đầy tính phê phán, tố cáo và cảnh báo các bậc cha mẹ khi không quan tâm đến tình yêu đôi lứa của con cái” (Cao Sơn Hải, 2005, tr.30). Không giống như cuộc hôn nhân giữa nàng Nga và vua Ao Ước, cuộc hôn nhân giữa Hồ Liêu và người vợ của chàng trong truyện thơ Út Lót Hồ Liêu hoàn toàn do cha mẹ hai bên tự ý quyết định. Như chúng tôi đã trình bày ở phần trước, cuộc hôn nhân không tình yêu đã khiến cho Hồ Liêu đau khổ, ngày càng ốm yếu “Cơm không ăn nước không uống/Vật vờ như cái bóng âu sầu/Người rầu rĩ mỗi ngày mỗi nặng”. Hồ Liêu không chê, không ghét bỏ gì người vợ mà cha mẹ cưới cho chàng trong lúc vắng nhà, nhưng chàng không thể yêu, không thể cùng người vợ xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Sự lạnh lùng, vô cảm của Hồ Liêu khiến cho người vợ buồn bã và chất vấn chàng: “Anh chê em phục phịch/Chê em cục mịch/Hay chê em gô răng/Chê em khô chân gân mặt”. Và đáng thương, người con gái này sẵn sàng chấp nhận làm người vợ thứ nếu chàng bằng lòng: “Nên thì anh làm cột cái/Không nên trái lại/Anh làm cột con”. Trước những lời nói ấy người vợ, Hồ Liêu vẫn từ chối tất cả, và khẳng định chỉ có một tình yêu duy nhất với nàng Út Lót mà thôi. Thấy không thể thay đổi được Hồ Liêu, người vợ đã đi tìm người khôn mồm, khéo miệng để khuyên nhủ chàng: “Dẫu mến bậu cũng không nên cửa/Dẫu mến họ cũng không nên nhà”. Nhưng tất cả đều không thể thay đổi được lòng dạ sắt đá của chàng. Chàng khuyên người vợ nên trở về bên cha mẹ, làm lại tình duyên mới và kiên quyết: “Dù em có đợi anh/Chín tháng mười hai năm/Chúng ta cũng không/Đằm tình trai gái/Chúng ta cũng không/Đậu ngãi bén duyên/Rồi ra chỉ nên trầu cau khô héo”. Mặc dù tìm đủ mọi AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 49 cách nhưng người con gái này vẫn một mực thực hiện lời bố mẹ đã đặt đâu thì ngồi đó.Cuối cùng chàng đã tìm đến cái chết. Cái chết của chàng chính là cái kết đầy bi kịch cho cuộc hôn nhân không tình yêu ấy. Chỉ có chết đi, chàng mới có thể thoát ra khỏi cuộc hôn nhân đầy ngang trái đó. Truyện thơ Út Lót Hồ Liêu ngoài việc xây dựng cuộc hôn nhân của chàng Hồ Liêu và người vợ của chàng còn xây dựng thêm một cuộc hôn nhân không tình yêu nữa, đó là cuộc hôn nhân giữa nàng Út Lót và đạo mường Đẹ. Mặc dù đạo mường Đẹ vừa già vừa xấu, vừa chột lại vừa bị què nhưng nàng Út Lót vẫn chấp nhận lấy làm chồng. Có hai nguyên nhân khiến Út Lót đi đến quyết định táo bạo ấy. Thứ nhất, sau khi quá đau buồn về cái chết của chàng Hồ Liêu, nàng lại bị cha mẹ ép phải đi lấy chồng giàu, chồng sang: “Bây giờ con phải/Đi làm bà, làm mái cun quan/Cho vui lòng cha mẹ”. Để giữ tròn đạo hiếu với cha mẹ, nàng bắt buộc phải đi lấy chồng. Mà khi đã lấy chồng, lấy một người mà nàng không yêu thì lấy ai với nàng cũng không quan trọng nữa. Thứ hai, nếu nhận lời lấy đạo mường Đẹ thì trên đường về nhà chồng, nàng sẽ được gặp lại Hồ Liêu, bởi đi về phía ấy có nơi an nghỉ của chàng. Đám cưới của nàng Út Lót và Đạo mường Đẹ được tổ chức khá linh đình, đông đúc, nhưng thật bất ngờ, khi đám rước dâu đi qua mộ Hồ Liêu, nàng đã xin phép hai họ vào thăm Hồ Liêu. Như đã hẹn trước với nàng Út Lót, khi nàng Út Lót vừa bước tới mộ, Hồ Liêu đã chống mộ cao, Út Lót bước vào, gộp săng đồng gộp lại, hai người biến thành hai hòn đá trắng. Chứng kiến cảnh đau buồn ấy, tê tái phiền lòng, đạo mường Đẹ đã biến thành con cày cun gầy nhom nằm ngủ suốt tháng Ba, tháng Tư. Cái kết cho cuộc hôn nhân này lại là một tấn bi kịch với là cái chết của cả hai người: nàng Út Lót và đạo mường Đẹ. 2.2.3 Vấn nạn hôn nhân đa thê Qua nghiên cứu truyện thơ Mường, chúng tôi còn nhận thấy một hệ quả nặng nề của chế độ hôn nhân gả bán trong xã hội phong kiến xưa, đó là nạn hôn nhân đa thê. Trước đây, hôn nhân đa thê được phản ánh khá rõ nét trong truyện cổ tích. Hình thức hôn nhân này tồn tại trong xã hội phụ hệ, khi vai trò của người đàn ông đã thay thế cho vai trò trụ cột của người đàn bà trong chế độ mẫu hệ. Trong hôn nhân đa thê, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, nhưng người đàn bà chỉ có quyền lấy một chồng: “Trai năm thê bảy thiếp/ Gái chính chuyên một chồng”. Dù có nhiều vợ, nhiều thê thiếp, nhưng người đàn ông vẫn muốn chinh phục thêm nhiều người phụ nữ khác. Trong xã hội phong kiến, việc có nhiều vợ, nhiều thê thiếp một phần thể hiện sức mạnh và quyền lực của người đàn ông trong xã hội. Trong truyện thơ Nàng Nga đạo Hai Mối có tới chín vơ thiếp và mười hai bà nàng. Tuy nhiên, biết nàng Nga là một người con gái xinh đẹp và giỏi giang, ông Vua vẫn muốn cưới nàng Nga về làm vợ. Mong ước của nhà Vua được thể hiện qua lời nói của cha mẹ nàng Nga: “Tuy rằng họ có chín thiếp/Mười hai bà nàng/Vẫn muốn sang lấy con/Làm bà thứ nhất”. Lý lẽ mà bố mẹ nàng Nga khi khuyên nhủ nàng Nga lấy vua Ao Ước làm chồng là mặc dù ông vua Ao Ước đã có chín vợ thiếp và mười hai bà nàng nhưng họ chưa phải là chính thất. Nàng Nga sau khi được cưới về sẽ làm vợ chính thất và là người “xử nhân”, là người “phân cơm sẻ gạo”, “cầm quyền quản cai gia thất”, và đặc biệt sẽ “làm hàng bậc anh bậc chị”. Dù nàng Nga một mực từ chối với lý lẽ đưa ra: “Nhà ông ấy đã có chín vợ thiếp/Mười hai bà nàng/Còn màng lấy con/Để làm người chăn lợn/Lấy con làm người chăn gà/Lấy con làm người quét nhà, nuôi chó”, cuối cùng nàng cũng phải nghe lời cha mẹ và chấp nhận cuộc hôn nhân đa thê đầy ngang trái này. Tâm lý chấp nhận làm thê thiếp đã ăn sâu vào trong tư tưởng của nàng Nga nói riêng và người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Tâm lý đó chúng ta còn bắt gặp ở người vợ của Hồ Liêu trong truyện thơ Út Lót Hồ Liêu. Mặc dù biết Hồ Liêu một lòng một dạ với Út Lót, chỉ yêu mình Út Lót, song người vợ này vẫn chấp nhận: “Nên thì anh làm cột cái/Không nên trái lại/Anh làm cột con”. Nếu không được làm người vợ cả thì người vợ Hồ Liêu sẵn sàng chấp nhận làm vợ thứ nếu Hồ Liêu bằng lòng. Với người vợ Hồ Liêu, hôn nhân không dựa trên tình yêu, hôn nhân dựa trên nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau. Do vậy, dù làm vợ cả hay làm vợ thứ, làm thê thiếp đối với nàng không còn quan trong nữa, điều quan trọng là làm sao nàng thực hiện trọn vẹn trách nhiệm của mình với bố mẹ khi sắp đặt cuộc hôn nhân này. AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 50 Có thể thấy rằng “tự do yêu đương là đặc trưng của xã hội nguyên thủy – nhưng hôn nhân môn đăng hộ đối hoặc có sự can thiệp của tiền bạc – hôn nhân gả bán lại là hệ quả của xã hội phong kiến”, và ở truyện thơ Mường chúng ta thấy rất rõ dấu ấn của bước chuyển này “Xung đột giữa một bên là cha mẹ, đại diện cho chế độ gia trưởng phong kiến và trật tự luân lý phong kiến với một bên là đôi trai gái đại diện cho lý tưởng hôn nhân tự do là những bi kịch có thật trong đời sống các dân tộc thiểu số” (Bùi Thiên Thai, 2015, tr.39) nói chung và người Mường nói riêng. Và trong truyện thơ, “mâu thuẫn giữa hai thế lực này không ngừng được đẩy cao, xung đột không ngừng được đào sâu - để đưa đến những vòng xoáy cao trào mà đỉnh điểm là quyết tâm tự tận” (Bùi Thiên Thai, 2015, tr.39). Tục lệ gả bán hôn nhân không chỉ được phản ánh trong truyện thơ Mường mà còn được phản ánh khá chân thực trong truyện thơ các dân tộc thiểu số khác như: truyện thơ Tiễn dặn người yêu, Khun Lú nàng Ủa của dân tộc Thái; truyện thơ Nhàng Dợ Chà Tăng của dân tộc Mông; Tam Mậu Ngọ, Trần Chu của dân tộc Tày Tuy nhiên, nếu như ở truyện thơ các dân tộc thiểu số khác đã “tìm được lối thoát tương đối thỏa đáng để giải quyết mâu thuẫn, bế tắc trong con đường phấn đấu vượt qua thành lũy của tục lệ gả bán phong kiến để đi đến hạnh phúc trọn vẹn: đó là hoặc cùng nhau bỏ trốn để xây dựng lại cuộc đời êm ấm ở một nơi xa xôi (truyện thơ Nhàng Dợ Chà Tăng); hoặc chàng và nàng vui vầy tái hợp với nhau trong mối tình chung thủy, sau khi phải trải qua rất nhiều lận đận, khổ đau sóng gió dập vùi của tục lệ gả bán lạc hậu trong xã hội phong kiến (truyện thơ Tiễn dặn người yêu)” thì truyện thơ Mường không giải quyết mâu thuẫn trong hôn nhân gả bán ấy theo chiều hướng có hậu như vậy, mà “phần lớn tìm đáp số trong cuộc đời ở thế giới bên kia, ở thế giới của cõi chết” (Phan Đăng Nhật, 1981, tr.428-429). Nàng Nga đã quyết xuống mồ với người yêu cho trọn nghĩa vẹn tình, nàng Út Lót kết thúc cuộc đời đau khổ bằng cái chết ngay tại nhà chồng hờ, nàng Bồng Hương tìm lên núi Làn Ai để ăn lá ngón tự vẫn. Các chàng trai và cô gái Mường đã quyết liệt biểu thị thái độ chống đối của mình với tục lệ gả bán hôn nhân, phản ứng khá mạnh mẽ và dữ dội trước hành động ép uổng của cha mẹ. Cùng thể hiện một chủ đề chống đối tục lệ cưỡng ép, gả bán, bóp chết hạnh phúc lứa đôi trong hôn nhân cũ, nhưng “có truyện thơ lại thiên về phê phán tục cheo cưới dưới uy lực của tiền của; còn những truyện thơ khác lại phê phán uy quyền của chế độ gia trưởng độc đoán, tàn bạo” (Phan Đăng Nhật, 1981, tr.430). Từ những phân tích ở trên, chúng ta nhận thấy rằng: trong truyện thơ Mường Thanh Hóa có sự đối lập giữa vấn đề tình yêu và vấn đề hôn nhân. Mâu thuẫn lớn mang tính bi kịch trong hôn nhân của người Mường trong xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa sự phóng túng của cá nhân với sự ràng buộc của phong tục tập quán, giữa tình yêu tự do và hôn nhân gả bán. Tình yêu càng tự do bao nhiêu thì hôn nhân lại càng bị ép buộc, gò bó bấy nhiêu. Trong xã hội Mường xưa, quan niệm về hôn nhân đã mang tính chất tiến bộ: Hôn nhân phải dựa trên cơ sở tình yêu. Tác giả Cao Sơn Hải cũng từng đưa ra nhận định: “Tình yêu có thể không đi đến hôn nhân, nhưng hôn nhân phải bắt nguồn từ tình yêu. Tình yêu, hôn nhân phải tự nguyện, không chấp nhận ép buộc, không tán thành quan điểm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, hôn nhân không chấp nhận đa thê” (Cao Sơn Hải, 2013, tr.55). Thứ hôn nhân gả bán, hôn nhân ép buộc không thể tồn tại bền lâu, điều đó chỉ đẩy những chàng trai cô gái với tình yêu tha thiết của mình vào bước đường cùng mà thôi. 3. KẾT LUẬN Như vậy, truyện thơ là một thể loại quan trọng trong kho tàng văn học dân gian của người Mường. Truyện thơ Mường phản ánh một cách khá chân thực hiện thực đời sống xã hội của người Mường lúc bấy giờ. Một xã hội rộng lớn với nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh khác nhau được tái hiện thông qua cảm quan tiến bộ của người sáng tác. Tuy nhiên, dù phạm vi phản ánh của truyện thơ phong phú như thế nào thì cũng đều tập trung vào hai đề tài lớn: đó là đề tài tình yêu và đề tài hôn nhân. Hai đề tài này được thể hiện trong truyện thơ vừa mang những đặc điểm chung của truyện thơ các dân tộc thiểu số, vừa mang những điểm riêng, độc đáo. Tìm hiểu đề tài của truyện thơ Mường bên cạnh việc khẳng định giá trị của truyện thơ Mường trong tương quan với truyện thơ các dân tộc thiểu số khác còn góp phần vào AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 41 - 51 51 việc bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc Mường nói riêng và của nền văn hóa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cao Sơn Hải. (2005). Nàng Nga - Đạo Hai Mối. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Cao Sơn Hải (2013).Nàng Út Lót đạo Hồi Liêu. (Tình ca dân tộc Mường – song ngữ). Thanh Hóa: Nhà xuất bản Thanh Hóa. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên). (1992). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Minh Hiệu & Hoàng Anh Nhân. (1986). Tuyển tập truyện thơ Mường Thanh Hóa. Tập 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Jeane Cuisinier. (1995). Người Mường, địa lý nhân văn và xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động. Phan Đăng Nhật. (1981). Văn học các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Trước Cách mạng tháng Tám 1945). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hoá. Võ Quang Nhơn. (1983). Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam.Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Lê Trường Phát. (1997). .Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số. Luận án phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm Hà Nội. Vũ Anh Tuấn. (2004). Truyện thơ Tày nguồn gốc quá trình phát triển và thi pháp thể loại. Hà Nội:Nhà xuất bản Đại học Quốc gia. Bùi Thiên Thai. (2015). Kết cấu quan hệ nhân vật trong truyện thơ dân tộc thiểu số về bi kịch tình yêu. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Văn học (1). Trần Ngọc Thêm (2004). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1576049625_05_le_thi_hienpdf_8164_2200913.pdf