Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 
 10 
Mô hình văn hóa doanh nghiệp tại 
các ngân hàng thương mại nhà nước 
trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO 
Nguyễn Hải Minh* 
Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, 
62 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 6 tháng 7 năm 2015 
Chỉnh sửa ngày 10 tháng 9 năm 2015; chấp nhận đăng ngày 25 tháng 9 năm 2015 
Tóm tắt: Bài viết trình bày bộ công cụ chẩn đoán mô hình văn hóa doanh nghiệp dựa trên lý 
thuyết về khung giá trị cạnh tranh OCAI (Organizational Culture Assessment Instrument) của 
Cameron và Quinn (2011) [1]. Kết quả nghiên cứu đã xác định được mô hình văn hóa doanh 
nghiệp và sự dịch chuyển của các mô hình văn hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại 
nhà nước Việt Nam trước và sau khi nước ta gia nhập WTO. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải 
pháp đối với các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam nhằm định hình mô hình văn hóa 
doanh nghiệp phù hợp, từ đó tăng cường lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng. 
Từ khóa: Văn hóa doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, OCAI, Việt Nam, WTO. 
1. Đặt vấn đề ∗ 
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế 
quốc tế làm cho môi trường kinh doanh thay đổi 
một cách nhanh chóng. Áp lực cạnh tranh ngày 
càng gia tăng giữa các doanh nghiệp trong cùng 
một ngành và giữa các ngành với nhau. Các 
doanh nghiệp buộc phải thích ứng được với sự 
biến đổi của thị trường và tạo ra cho mình lợi 
thế cạnh tranh bền vững. Việc xây dựng văn 
hóa doanh nghiệp phù hợp được xem như một 
giải pháp tăng cường lợi thế cạnh tranh đối với 
các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các 
ngân hàng thương mại [2, 3]. Một số kết quả 
nghiên cứu cho thấy văn hóa doanh nghiệp có 
_______ 
∗
 ĐT.: 84-912056699 
 Email: 
[email protected] 
ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao hiệu suất 
hoạt động của doanh nghiệp [4, 5], tính đồng 
thuận của tổ chức, tăng năng suất làm việc, tăng 
cường tính tự giác của nhân viên [6]. 
Tuy nhiên, các nghiên cứu về văn hóa 
doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay chủ yếu 
tập trung vào việc đánh giá các bài học về áp 
dụng xây dựng văn hóa doanh nghiệp tại các 
nước phát triển, vận dụng các lý thuyết về văn 
hóa doanh nghiệp để đề xuất giải pháp xây 
dựng văn hóa doanh nghiệp cho các tổ chức 
khác nhau. Điều này dẫn đến việc thiếu vắng 
các nghiên cứu thực nghiệm về văn hóa 
doanh nghiệp, đặc biệt là về xác định mô hình 
văn hóa doanh nghiệp và sự dịch chuyển của 
mô hình văn hóa doanh nghiệp qua các giai 
đoạn phát triển khác nhau của doanh nghiệp. 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 11 
Do đó, bài viết hướng tới các mục tiêu: Xác 
định mô hình văn hóa doanh nghiệp và sự dịch 
chuyển của các mô hình văn hóa doanh nghiệp 
tại các ngân hàng thương mại nhà nước Việt 
Nam trước và sau khi nước ta gia nhập WTO 
(theo mô hình 4 loại hình văn hóa doanh nghiệp 
của Cameron và Quinn, 2011). Trên cơ sở đó, 
bài viết đề xuất giải pháp đối với các ngân 
hàng thương mại nhà nước Việt Nam nhằm 
định hình mô hình văn hóa doanh nghiệp phù 
hợp, từ đó tăng cường lợi thế cạnh tranh của 
các ngân hàng. 
2. Mô hình đo lường văn hóa doanh nghiệp 
OCAI 
Cameron và Quinn (2001), dựa trên lý 
thuyết về khung giá trị cạnh tranh, so sánh mức 
độ phân cực của mỗi doanh nghiệp về tính 
linh hoạt so với sự ổn định và mức độ tập 
trung nội bộ so với bên ngoài [7], đã chia văn 
hóa doanh nghiệp thành 4 loại: Văn hóa gia 
đình, văn hóa thứ bậc, văn hóa cạnh tranh và 
văn hóa sáng tạo. 
Đặc điểm văn hóa gia đình: Môi trường 
thân thiện giữa tất cả các cấp quản trị, từ lãnh 
đạo tới nhân viên; chú trọng đến làm việc 
nhóm, lãnh đạo đóng vai trò như một người 
thầy, người cha trong gia đình; tổ chức được 
gắn kết bằng các yếu tố truyền thống, bằng mục 
tiêu chung và sự trung thành của các thành 
viên; nhược điểm là kết cấu có phần lỏng, quản 
trị còn gắn nhiều yếu tố cảm tính. Loại hình văn 
hóa này thích hợp với các ngành kinh doanh vừa 
đòi hỏi sự sáng tạo thay đổi liên tục về sản phẩm, 
dịch vụ, vừa yêu cầu sự tương tác cao giữa các 
thành viên trong doanh nghiệp. 
Đặc điểm văn hóa thứ bậc: Mối quan hệ 
giữa các cấp thể hiện tính tôn ti, trật tự và luôn 
phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định do tổ 
chức đặt ra. Cả doanh nghiệp giống như một cỗ 
máy và được vận hành bởi các quy định, 
nguyên tắc và tiêu chuẩn. Hầu hết các quá trình 
sản xuất, giao dịch đều được kiểm soát chặt 
chẽ. Nhiệm vụ quan trọng của nhà quản trị là 
đảm bảo sản phẩm, dịch vụ được sản xuất theo 
đúng tiêu chuẩn, kế hoạch đặt ra và các nguyên 
tắc trong quan hệ cần phải được tôn trọng. Loại 
hình văn hóa này phù hợp với các ngành sản 
xuất, kỹ thuật, hoặc các ngành dịch vụ có quy 
trình phục vụ quy chuẩn. 
Đặc điểm văn hóa thị trường: Tinh thần 
cạnh tranh được đặc biệt đề cao trong doanh 
nghiệp, không chỉ là cạnh tranh giữa doanh 
nghiệp với đối thủ mà còn là sự cạnh tranh giữa 
các đơn vị con, giữa các nhóm và thậm chí giữa 
từng cá nhân trong doanh nghiệp. Hoàn thành 
nhiệm vụ, đạt và vượt mục tiêu đề ra luôn là ưu 
tiên số một. Lãnh đạo doanh nghiệp không quá 
quan tâm đến phương thức triển khai, đến 
những vấn đề gặp phải mà chỉ chú trọng đến 
kết quả cuối cùng. Loại hình văn hóa này phù 
hợp với các ngành thương mại, bán lẻ hay 
truyền thông. 
Đặc điểm văn hóa sáng tạo: Quá trình quản 
trị không chú trọng nhiều đến các nguyên tắc 
hay quy định. Doanh nghiệp tạo một không 
gian tự do nhất có thể để nhân viên sáng tạo. 
Các tiêu chuẩn hiện có của ngành thường cũng 
không được lưu tâm bởi để có thể tồn tại, các 
doanh nghiệp thuộc loại hình văn hóa này phải 
phát triển những sản phẩm, dịch vụ vượt tiêu 
chuẩn hiện có. Doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư 
vào các dự án có tính rủi ro cao. Loại hình văn 
hóa sáng tạo phù hợp với các doanh nghiệp 
thuộc lĩnh vưc công nghệ phần mềm hay sản 
phẩm điện tử công nghệ cao. 
Bộ công cụ chẩn đoán văn hóa doanh 
nghiệp OCAI 
Mỗi doanh nghiệp luôn phải đối mặt với 
nhiều câu hỏi: Làm sao nhận diện được doanh 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 
12 
nghiệp thuộc loại hình văn hóa nào? Ảnh hưởng 
của từng yếu tố cấu thành tạo nên diện mạo văn 
hóa doanh nghiệp ra sao? Văn hóa của doanh 
nghiệp đã thay đổi theo từng giai đoạn như thế 
nào? Phải có những điều chỉnh gì trong văn hóa 
doanh nghiệp hiện tại của đơn vị để có thể phát 
triển bền vững? 
Để trả lời những câu hỏi đó, Cameron và 
Quinn (2011) đã xây dựng bộ công cụ chẩn 
đoán văn hóa doanh nghiệp OCAI. Bộ công cụ 
OCAI được hình thành với mục tiêu đánh giá 
cụ thể các yếu tố cấu thành văn hóa doanh 
nghiệp, từ đó định dạng văn hóa doanh nghiệp 
dựa trên khung giá trị cạnh tranh. Sáu yếu tố 
cấu thành văn hóa doanh nghiệp được các tác 
giả sử dụng để phân biệt mô hình văn hóa giữa 
các doanh nghiệp gồm: Đặc tính nổi bật của 
doanh nghiệp, phong cách lãnh đạo, đặc điểm 
nhân viên, chất keo gắn kết tổ chức, chiến lược 
phát triển và tiêu chuẩn xác định thành công. 
Qua phân tích kết quả khảo sát các nhân viên 
của một doanh nghiệp, OCAI sẽ đưa ra được 
mô hình mô phỏng văn hóa doanh nghiệp của 
đơn vị đó. 
3. Mô hình văn hóa doanh nghiệp của các 
ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam 
Dựa trên đặc điểm của 4 mô hình văn hóa 
doanh nghiệp, căn cứ vào các dữ liệu nghiên 
cứu thứ cấp và quan sát trực tiếp, chúng ta có 
thể có được cái nhìn ban đầu về mô hình văn 
hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại 
nhà nước Việt Nam là sự kết hợp của cả văn 
hóa gia đình, văn hóa thứ bậc, văn hóa thị 
trường và văn hóa sáng tạo. Các ngân hàng vừa 
thể hiện là một môi trường văn hóa thân thiện, 
chia sẻ, có rất nhiều hoạt động tập thể được tổ 
chức thường xuyên nhằm gắn kết thành viên 
(Ngày hội gia đình, Hội diễn văn nghệ, Hội trại 
thanh niên1). Mặt khác, hệ thống cấu trúc 
quản trị của các ngân hàng cũng được tổ chức 
chặt chẽ, nhiều quy chế, quy trình, quy định 
được ban hành nhằm đảm bảo công tác quản trị 
được thực hiện nghiêm túc2. Một mặt các lãnh 
đạo ngân hàng thường xuyên khuyến khích, 
thúc đẩy tinh thần cạnh tranh trong nhân viên 
(thông qua việc giao chỉ tiêu huy động vốn, 
phát hành thẻ hay cho vay, thi nghiệp vụ, qua 
công tác khen thưởng, kỷ luật)3, mặt khác họ 
cũng tạo các khoảng không gian nhất định 
nhằm khuyến khích tinh thần sáng tạo trong 
nhân viên (thông qua các cuộc thi ý tưởng sáng 
tạo, khen thưởng những cá nhân, tập thể có sản 
phẩm, dịch vụ sáng tạo và hiệu quả trong hoạt 
động kinh doanh)4. 
_______ 
1
 Xem thêm: 
hoi-van-hoa-vietinbank.html 
https://www.vietcombank.com.vn/News/Vcb_News.aspx?
ID=5788; 
bong-%C4%91a-BIDV---Man-Utd-CUP/An-tuong-voi-
BIDV-Manchester-United-Cup-2014-khu-v.aspx 
-cong-hoi-thi-net-dep-van-hoa-vietinbank-tai-cac-chi-
nhanh.html 
2
 Xem thêm: https://www.vietcombank.com.vn/About/mo
hinhtochuc.png 
3
 Xem thêm: 
nghiep/su-kien-doanh-nghiep/bidv-to-chuc-cuoc-thi-can-
bo-ban-le-gioi-nam-2012-14433.html 
agribank-tai-nang-thanh-lich.html 
mo-cung-thay-chi-tieu-the-a163739.html 
4
 Xem thêm: https://www.vietcombank.com.vn/News/Vcb
_News.aspx?ID=5485 
D=5511 
https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/news/14/11/vieti
nbank-duoc-tuyen-duong-tai-festival-sang-tao-tre.html 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 13 
Hình 
Hình 1: Bốn loại hình văn hóa doanh nghiệp. 
Nguồn: K. Cameron, R. Quinn (2011). 
Bảng 1: Tổng hợp đặc điểm của 4 loại hình văn hóa doanh nghiệp 
dựa trên 6 yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp 
Văn hóa 
gia đình 
Văn hóa 
thứ bậc 
Văn hóa 
thị trường 
Văn hóa 
sáng tạo 
Đặc tính nổi bật của 
doanh nghiệp 
Môi trường 
thân thiện, 
chia sẻ 
Nguyên tắc, tôn ti 
Chú trọng kết 
quả, thúc đẩy 
cạnh tranh 
Môi tường tự 
do, năng động 
Phong cách lãnh đạo 
Người hướng 
dẫn, trưởng 
nhóm, lãnh 
đạo tinh thần 
Người giám sát, 
quản đốc 
Thống soái, 
người định hướng 
Nhạc trưởng, 
trưởng nhóm 
thám hiểm 
Đặc điểm nhân viên Đồng đội, hợp tác Ổn định, tuân thủ 
Thăng tiến, thách 
thức 
Tự do, sáng 
tạo 
Chất keo gắn kết Trung thành, truyền thống 
Quy định, quy tắc, 
tiêu chuẩn 
Chiến thắng, 
thành tích 
Đổi mới, trải 
nghiệm 
Chiến lược phát triển Phát triển đội 
ngũ mạnh 
Hệ thống vững 
chắc, ổn định 
Dẫn đầu thị 
trường 
Luôn luôn đổi 
mới 
Tiêu chuẩn thành công 
Nhân viên 
trung thành, 
ủng hộ 
Chi phí thấp nhất, 
tiêu chuẩn cao nhất Thị phần số một 
Sản phẩm tiên 
phong 
dNguồn: Tác giả tổng hợp.
Tuy nhiên, khó có thể định hình được mô 
hình văn hóa cụ thể của các ngân hàng thương 
mại nhà nước Việt Nam thiên theo văn hóa gia 
đình hay văn hóa cạnh tranh, văn hóa thứ bậc 
hay văn hóa sáng tạo nếu chỉ dựa trên các cơ sở 
dữ liệu thứ cấp nêu trên. Để xác định cụ thể mô 
hình văn hóa doanh nghiệp và sự dịch chuyển 
của mô hình văn hóa doanh nghiệp tại các ngân 
hàng thương mại nhà nước trước và sau khi 
Việt Nam gia nhập WTO, tác giả đã tiến hành 
khảo sát bảng hỏi chẩn đoán văn hóa doanh 
nghiệp OCAI tại một số ngân hàng thương mại 
nhà nước. 
Linh động, thích ứng 
Hướng ngoại Hướng nội 
Ổn định, kiểm soát 
Gia đình Sáng tạo 
 Thứ bậc Thị trường 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 
14 
Khảo sát được tiến hành theo phương pháp 
kết hợp giữa lấy mẫu ngẫu nhiên và phân tầng 
theo vị trí công việc, theo đó, các phiếu hỏi 
được gửi tới nhân viên các ngân hàng ở các cấp 
quản trị khác nhau, từ nhân viên, lãnh đạo 
phòng giao dịch đến nhân viên, lãnh đạo các chi 
nhánh và hội sở. Với mục tiêu tập trung đánh 
giá mô hình văn hóa doanh nghiệp tại các ngân 
hàng thương mại nhà nước, do đó khảo sát được 
thực hiện tại 4 ngân hàng thương mại nhà nước 
lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Thương mại 
Cổ phần Ngoại thương Việt Nam 
(Vietcombank), Ngân hàng Thương mại Cổ 
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), 
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương 
Việt Nam (VietinBank) và Ngân hàng Nông 
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 
(Agribank). Với hơn 1.500 phiếu gửi đi, tác giả 
nhận được 1.056 phiếu trả lời, trong đó có 318 
phiếu trả lời đến từ nhân viên có thời gian làm 
việc tại các ngân hàng ở cả giai đoạn trước và 
sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 
Kết quả khảo sát thể hiện ở Bảng 2 cho 
thấy, giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập 
WTO, mô hình văn hóa chủ yếu của các ngân 
hàng thương mại nhà nước Việt Nam là văn hóa 
gia đình (A = 3,07) và văn hóa thứ bậc (D = 
2,54), còn văn hóa thị trường (2,23) và văn hóa 
sáng tạo (2,14) được đánh giá thấp hơn. 
Thời kỳ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, 
kết quả nghiên cứu cho thấy xu hướng chuyển 
dịch từ văn hóa gia đình sang văn hóa sáng tạo 
(B = 2,34) và văn hóa thị trường (C = 2,57), 
khía cạnh về văn hóa gia đình (A = 2,55) và văn 
hóa thứ bậc (D = 2,49) có xu hướng giảm. 
Để khẳng định xu hướng chuyển dịch mô 
hình văn hóa doanh nghiệp nêu trên tại các 
ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam, tác 
giả tiếp tục sử dụng một kiểm định mẫu cặp 
(Paired mean t test) đối với những cá nhân đánh 
giá điểm cho cả hai thời kỳ để xem xét sự khác 
biệt có xảy ra thực sự giữa hai thời kỳ hay 
không. Kết quả phân tích với 318 người trả lời 
cho cả hai thời kỳ (Bảng 3 và Hình 1) cho thấy 
p-value của kiểm định mẫu cặp đối với tất cả 
các mô hình văn hóa doanh nghiệp đều nhỏ hơn 
0,05, hay nói cách khác thực sự có sự thay đổi 
về các thuộc tính văn hóa doanh nghiệp của các 
ngân hàng thương mại Việt Nam giữa hai thời 
kỳ trước và sau khi gia nhập WTO. Xu hướng 
cho thấy văn hóa gia đình và văn hóa thứ bậc 
giảm xuống và văn hóa sáng tạo, văn hóa thị 
trường tăng lên. 
Mặc dù có xu hướng dịch chuyển như vậy, 
mô hình văn hóa doanh nghiệp hiện tại ở các 
ngân hàng đang thể hiện sự cân bằng nhất định 
giữa các đặc điểm văn hóa hướng nội (văn hóa 
gia đình, văn hóa thứ bậc) và hướng ngoại (văn 
hóa thị trường, văn hóa sáng tạo) do khoảng 
cách giữa các mức điểm trung bình không quá 
cao (Hình 4). 
4. Đề xuất giải pháp 
Căn cứ kết quả khảo sát, kết hợp với việc 
nghiên cứu, tổng hợp khung lý thuyết về văn 
hóa doanh nghiệp, tác giả đề xuất một số giải 
pháp sau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động 
xây dựng văn hóa doanh nghiệp, hướng hoạt 
động văn hóa doanh nghiệp tác động tích cực 
vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược, nâng 
cao hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng 
thương mại nhà nước Việt Nam. 
4.1. Xây dựng bộ phận chuyên trách về quản trị 
văn hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng 
thương mại 
Mặc dù các ngân hàng ngày càng coi trọng 
vai trò của văn hóa doanh nghiệp, tuy nhiên 
trong cấu trúc quản trị của các ngân hàng hiện 
nay vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về quản 
trị văn hóa doanh nghiệp. 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 15 
Bảng 2: Kết quả khảo sát mô hình văn hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam 
Trước gia nhập WTO Sau gia nhập WTO 
Mô hình văn hóa Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
A. Văn hóa gia đình 3,07 1,06 2,55 0,58 
B. Văn hóa sáng tạo 2,14 0,36 2,34 0,48 
C. Văn hóa thị trường 2,23 0,46 2,57 0,53 
D. Văn hóa thứ bậc 2,54 0,90 2,49 0,57 
Nguồn: Tính toán từ kết quả khảo sát của tác giả. 
Bảng 3: Kết quả kiểm định sự chuyển dịch mô hình văn hóa doanh nghiệp tại 
các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam 
Trước gia nhập 
WTO 
Sau gia nhập 
WTO Chênh lệch 
Khoảng tin 
cậy 95% Mô hình 
văn hóa Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Cận 
dưới 
Cận 
trên 
p-value 
(t) 
Văn hóa 
gia đình 
3,07 1,06 2,50 0,56 -0,57 1,08 -0,66 -0,43 0,00 
Văn hóa 
sáng tạo 
2,14 0,36 2,40 0,54 0,26 0,48 0,21 0,31 0,00 
Văn hóa 
thị trường 
2,23 0,46 2,72 0,56 0,49 0,75 0,40 0,57 0,00 
Văn hóa 
thứ bậc 
2,54 0,90 2,33 0,55 -0,21 0,84 -0,31 -0,13 0,00 
Nguồn: Tính toán từ kết quả khảo sát của tác giả. 
Hình 2: Kết quả kiểm định sự khác biệt về các loại hình văn hóa doanh nghiệp tại 
các ngân hàng thương mại nhà nước trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 
Nguồn: Tính toán từ kết quả khảo sát của tác giả. 
Trong bước đầu xây dựng văn hóa doanh 
nghiệp, một số ngân hàng như Vietcombank đã 
thành lập ban xây dựng văn hóa doanh nghiệp 
Tuy nhiên, ban này thường chỉ hoạt động trong 
giai đoạn đầu nhằm xây dựng và thiết lập các 
cơ sở ban đầu về văn hóa doanh nghiệp của 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 
16 
ngân hàng như: ban hành sổ tay văn hóa doanh 
nghiệp, giới thiệu về các giá trị mang tính bản 
sắc, các giá trị cốt lõi của ngân hàng, các quy 
chuẩn về đạo đức, trách nhiệm hay các chuẩn 
mực trong hành vi ứng xử của cán bộ nhân 
viên ngân hàng... Khi những nội dung đó đã 
được lãnh đạo các ngân hàng phê chuẩn và ban 
hành thì ban xây dựng văn hóa doanh nghiệp 
cũng tự động giải tán, việc triển khai các nội 
dung cụ thể tiếp theo về văn hóa doanh nghiệp 
được quy về các bộ phận liên quan, ví dụ: bộ 
phận quan hệ công chúng đồng thời phụ trách 
về quản trị thương hiệu và cấu trúc văn hóa 
hữu hình của ngân hàng; các tổ chức đoàn thể 
như công đoàn, đoàn thanh niên triển khai các 
chương trình, sự kiện gắn kết các thành viên 
trong ngân hàng; bản thân lãnh đạo mỗi bộ 
phận “chủ động đánh giá” về mức độ tuân thủ 
các quy chuẩn về hành vi ứng xử của các nhân 
viên trong bộ phận mình phụ trách; việc 
chuyển tải các thông điệp về giá trị cốt lõi tới 
nhân viên được thực hiện trong các hội nghị, 
giao lưu giữa lãnh đạo với nhân viên Tuy 
nhiên, các ngân hàng không có cơ chế đánh giá 
mức độ nhận thức, cảm thụ của nhân viên đối 
với các giá trị đó và cũng không có phương 
thức đánh giá mức độ chuyển biến từ nhận 
thức sang hành động của nhân viên. 
g 
 Trước gia nhập WTO Sau gia nhập WTO 
Hình 3: Mô hình văn hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại nhà nước 
trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 
Nguồn: Mô phỏng từ kết quả khảo sát của tác giả.
Để khắc phục những vấn đề trên, tác giả đề 
xuất các ngân hàng thương mại nhà nước xây 
dựng bộ phận chuyên trách trong việc quản trị 
văn hóa doanh nghiệp của đơn vị (cũng như các 
bộ phận về quản trị thương hiệu, quản trị quan 
hệ khách hàng). Bộ phận chuyên trách này sẽ 
Thứ bậc 
Linh hoạt, thích ứng 
Hướng ngoại Hướng nội 
Gia đình 
Sáng tạo 
Ổn đinh, kiểm soát 
Thị trường 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 17 
thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như: tham mưu 
cho lãnh đạo chiến lược phát triển văn hóa 
doanh nghiệp của ngân hàng qua từng giai 
đoạn, phù hợp với chiến lược phát triển chung 
của ngân hàng; xây dựng kế hoạch chi tiết về 
phát triển văn hóa doanh nghiệp của ngân hàng 
trong từng năm; tham mưu lãnh đạo phân công 
các bộ phận khác nhau trong ngân hàng thực 
hiện các nội dung chuyên biệt về văn hóa doanh 
nghiệp phù hợp với bộ phận của mình; đặc biệt 
là chịu trách nhiệm quản trị, đánh giá kết quả 
triển khai văn hóa doanh nghiệp tại ngân hàng. 
Tùy theo điều kiện cụ thể, các ngân hàng 
thương mại có thể xây dựng một bộ phận tách 
riêng về quản trị văn hóa doanh nghiệp hoặc 
phân công những cán bộ chuyên trách về nội 
dung này nằm trong một phòng tổng hợp quản 
trị các vấn đề liên quan như quản trị thương 
hiệu, quản trị quan hệ khách hàng, quan hệ 
công chúng... 
4.2. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp lấy đặc 
tính thị trường làm trọng 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng 
có xu hướng chuyển dịch sang mô hình văn hóa 
thị trường và sáng tạo, đồng thời giảm các 
thuộc tính về văn hóa gia đình và thứ bậc. Như 
vậy, xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng các 
yếu tố thị trường và sáng tạo trong mô hình văn 
hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng là cần thiết 
nhằm thích ứng với môi trường cạnh tranh ngày 
càng cao trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính 
Việt Nam. Tuy nhiên, việc gia tăng các yếu tố 
văn hóa thị trường và sáng tạo không có nghĩa 
là các yếu tố văn hóa này chiếm ưu thế tuyệt 
đối so với các yếu tố văn hóa gia đình và thứ 
bậc. Ở đây là chỉ là tăng các yếu tố thị trường 
và sáng tạo trong mô hình văn hóa doanh 
nghiệp tại các ngân hàng so với thời kỳ trước 
khi Việt Nam gia nhập WTO. Về chỉ số chung, 
các yếu tố này vẫn cần giữ ở mức cân bằng nhất 
định so với các chỉ số về văn hóa gia đình và 
thứ bậc, thậm chí đối với văn hóa sáng tạo dù 
chỉ số có tăng tuyệt đối nhưng cũng chỉ nên ở 
mức độ bằng hoặc thấp hơn so với các chỉ số 
gia đình và thứ bậc. Đối với một nền văn hóa 
trọng các yếu tố truyền thống, gia đình như Việt 
Nam, việc giảm mạnh các yếu tố văn hóa gia 
đình là khó, thậm chí là không cần thiết vì các 
yếu tố văn hóa gia đình cũng có nhiều điểm 
mạnh cần phát huy. Trong xu thế chung, các chỉ 
số văn hóa gia đình có thể giảm so với giai 
đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO nhưng 
vẫn nên giữ ở mức trung bình cao so với các chỉ 
số về văn hóa thứ bậc và sáng tạo. Tương tự, 
các thuộc tính của văn hóa thứ bậc là không thể 
thiếu trong văn hóa doanh nghiệp của các ngân 
hàng, tổ chức kinh doanh tiền tệ với mức độ rủi 
ro cao, nơi đòi hỏi các mệnh lệnh được tuân 
thủ, các nguyên tắc, quy chuẩn được nghiêm 
túc thực thi. Vì vậy, các chỉ số văn hóa thứ bậc 
có thể giảm so với giai đoạn trước khi Việt 
Nam gia nhập WTO nhưng vẫn nên giữ ở mức 
cân bằng nhất định so với các chỉ số văn hóa 
sáng tạo và gia đình. 
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, khi Việt 
Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng hơn về kinh 
tế, cụ thể là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, 
mô hình văn hóa doanh nghiệp của các ngân 
hàng thương mại nhà nước nên hướng tới dạng 
thức lấy tính thị trường làm trọng, các thuộc 
tính văn hóa còn lại giữ ở mức cân bằng, cụ thể: 
Chỉ số về văn hóa thị trường là cao nhất, các chỉ 
số về văn hóa gia đình, sáng tạo và thứ bậc ở 
mức thấp hơn và tương đối cân bằng với nhau. 
Để gia tăng các thuộc tính thị trường, sáng 
tạo trong mô hình văn hóa doanh nghiệp tại các 
ngân hàng, tác giả đề xuất một số giải pháp sau: 
- Thiết kế không gian làm việc mở, tăng 
cường không khí cởi mở hơn trong các cuộc 
họp, hội nghị. Các thành viên phải được thúc 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 
18 
đẩy bởi môi trường năng động, được tự do bày 
tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Khuyến khích 
việc bày tỏ ý kiến, quan điểm của cán bộ nhân 
viên dựa trên những lập luận thực tiễn (do đặc 
tính văn hóa Việt Nam, các tranh luận thường 
dựa trên cảm tính, sử dụng ngụy biện và tấn 
công cá nhân sẽ làm cho việc chia sẻ ý tưởng, 
quan điểm bị hạn chế, dẫn đến việc bất hợp tác 
và tạo xung đột nội bộ). Cũng cần thiết phải xây 
dựng các quy tắc về trình bày ý kiến, tranh luận 
trong nội bộ. Lãnh đạo ngân hàng cần làm 
gương, là người chủ động thể hiện tinh thần 
sáng tạo, tạo động lực cho nhân viên, khuyến 
khích tinh thần đổi mới trong nhân viên. 
- Ngân hàng phải xác lập các mục tiêu mới 
cho nhân viên, khuyến khích tinh thần giao lưu, 
học hỏi trong nhân viên, khuyến khích và tạo 
môi trường chuyển giao, tích hợp tri thức trong 
nội bộ tổ chức (thiết lập được quy trình tiếp 
nhận, lưu trữ, diễn giải và chuyển hóa các kinh 
nghiệm thành tri thức nội bộ được chia sẻ giữa 
các thành viên). 
- Thường xuyên đánh giá quá trình sáng 
tạo, đổi mới của cán bộ, nhân viên qua việc 
phân tích kết quả đổi mới trong nội bộ ngân 
hàng (đổi mới các quy trình, thủ tục làm 
việc), đánh giá kết quả việc đưa ra thị trường 
những sản phẩm/dịch vụ mới. Tính hiệu quả 
trong việc tăng cường các thuộc tính văn hóa 
sáng tạo của ngân hàng phải dựa trên kết quả 
cuối cùng là các sản phẩm/dịch vụ được chấp 
nhận ở bên trong (khách hàng nội bộ) và bên 
ngoài ngân hàng (khách hàng). 
- Duy trì kỷ luật trong thực hiện mục tiêu, 
phải lấy việc hoàn thành mục tiêu là đòi hỏi bắt 
buộc của tất cả các bộ phận, đơn vị và các thành 
viên trong ngân hàng. Để thực hiện điều đó thì 
việc xác lập mục tiêu phải được xây dựng một 
cách phù hợp. Mục tiêu phải được định hướng 
dựa trên dự kiến tăng trưởng của thị trường, khả 
năng thực hiện của đội ngũ nhân viên và cần 
được định vị bởi đối thủ cạnh tranh, phải xác 
định việc cạnh tranh và chiến thắng đối thủ khi 
thực hiện các mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo 
các bộ phận cần mạnh mẽ, thẳng thắn giao 
nhiệm vụ, thúc đẩy, hỗ trợ, nhắc nhở nhân viên 
cấp dưới hoàn thành các mục tiêu chung của bộ 
phận, đơn vị. 
Ngoài tinh thần cạnh tranh với các đối thủ 
trên thị trường, mỗi ngân hàng cần xây dựng 
tinh thần cạnh tranh lành mạnh giữa các nhân 
viên với nhau. Các nhân viên phải có các mục 
tiêu xác định riêng cần hoàn thành và đánh giá 
công việc dựa trên xếp hạng hoàn thành công 
việc. Tuy nhiên, cần quan tâm đến vấn đề giao 
việc và đánh giá kết quả hoàn thành công việc 
để đảm bảo việc cạnh tranh lành mạnh giữa các 
nhân viên. Các mục tiêu cho từng cá nhân trong 
bộ phận cần gắn chặt với mục tiêu chung của tổ 
chức để đảm bảo có tính thống nhất giữa mục tiêu 
cá nhân và mục tiêu tổ chức. 
Những cá nhân, tập thể có các sản phẩm 
sáng tạo đạt hiệu quả cao, đạt và vượt các mục 
tiêu công việc, mục tiêu kinh doanh cần được 
tưởng thưởng xứng đáng, được tôn vinh trước 
tập thể nhằm tạo động lực cho những cá nhân, 
tập thể khác. Việc thưởng phạt cần thực hiện 
công khai, minh bạch và công bằng, tạo sự tin 
tưởng cho cán bộ, nhân viên. 
4.3. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao 
kiến thức và nhận thức của cán bộ, nhân viên 
về văn hóa doanh nghiệp 
Các nội dung liên quan đến văn hóa doanh 
nghiệp hết sức phong phú và đa dạng, trong đó 
có những nội dung có thể trở thành các quy 
phạm bắt buộc và được quy định dưới dạng văn 
bản, nhưng cũng có nội dung không thể bắt 
buộc mọi người thực hiện mà chỉ có thể giáo 
dục nhằm nâng cao nhận thức để bản thân cán 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 19 
bộ, nhân viên tự ý thức thực hiện. Vì vậy, công 
tác giáo dục đóng vai trò quan trọng nhằm đảm 
bảo việc triển khai các nội dung văn hóa doanh 
nghiệp đạt hiệu quả. 
Ngoài ra, văn hóa doanh nghiệp luôn chịu 
tác động của nhiều yếu tố khác nhau, một số 
đặc điểm văn hóa có thể thay đổi thường xuyên. 
Để văn hóa doanh nghiệp trong các ngân hàng 
thương mại vận hành theo đúng định hướng đã 
xác định, tác động tích cực đến hoạt động chung, 
ngân hàng cần thực hiện việc đào tạo và giáo dục 
cán bộ, nhân viên thường xuyên và liên tục. 
Để công tác giáo dục, nâng cao nhận thức 
về văn hóa doanh nghiệp được triển khai hiệu 
quả tại các ngân hàng thương mại, tác giả đề 
xuất một số điểm lưu ý sau: 
 - Để đảm bảo các chương trình đào tạo đạt 
chất lượng và đủ sức hấp dẫn, nhất là đối với 
lực lượng nhân sự có trình độ học vấn cao tại 
các ngân hàng, các giảng viên, cán bộ tham gia 
công tác đào tạo về văn hóa doanh nghiệp cho 
ngân hàng cần có hiểu biết chuyên sâu về văn 
hóa doanh nghiệp, nếu là giảng viên bên ngoài 
thì cần có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu sâu về 
môi trường văn hóa doanh nghiệp thực tế tại 
ngân hàng trước khi tiến hành xây dựng bài 
giảng và tổ chức giảng dạy. 
- Tổ chức các lớp đào tạo thường xuyên, 
nhất là đối với cán bộ mới tuyển dụng. 
- Tăng cường công tác đào tạo tại chỗ, tự 
đào tạo, hướng dẫn lẫn nhau giữa cán bộ, nhân 
viên tại các phòng ban về kiến thức văn hóa 
doanh nghiệp và thực hiện các nội dung văn 
hóa doanh nghiệp tại ngân hàng. Các bài học lý 
thuyết chỉ có thể thấm nhuần trong mỗi người 
qua những trải nghiệm thực tế và bằng cách 
thực hành thường xuyên. 
- Các tổ chức đoàn thể tăng cường tổ chức 
các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa doanh nghiệp 
của ngân hàng, ở tất cả các cấp và các chi 
nhánh trong toàn quốc; tuyên dương, động viên 
những cá nhân, tập thể điển hình trong việc 
thực hiện các nội dung văn hóa doanh nghiệp 
theo kênh khen thưởng của đơn vị. 
5. Kết luận 
Văn hóa doanh nghiệp ngày càng chứng 
minh vai trò quan trọng trong việc góp phần 
tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh 
nghiệp. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các 
ngân hàng thương mại nhà nước đã thể hiện 
nhiều nỗ lực với các hoạt động cụ thể nhằm xây 
dựng, phát triển văn hóa doanh nghiệp tại đơn 
vị. Tuy nhiên, để có thể đưa ra các nội dung xây 
dựng văn hóa doanh nghiệp phù hợp thì một 
trong những cơ sở quan trọng là phải xác định 
được mô hình văn hóa doanh nghiệp hiện tại 
của các ngân hàng. Nghiên cứu khảo sát tại 4 
ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt 
Nam đã cho thấy cái nhìn cụ thể hơn về mô 
hình văn hóa doanh nghiệp và sự dịch chuyển 
mô hình văn hóa doanh nghiệp của các ngân 
hàng này trước và sau khi Việt Nam gia nhập 
WTO. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở quan 
trọng để các ngân hàng thương mại nhà nước 
định hình được mô hình văn hóa doanh nghiệp 
cần hướng đến trong tương lai, từ đó xác định 
các nhiệm vụ cụ thể, hiệu quả hơn trong quá 
trình xây dựng, phát triển văn hóa doanh nghiệp 
của đơn vị. 
Tài liệu tham khảo 
[1] K. Cameron, R. Quinn, Diagnosing and 
Chaging Organizational Culture: Based on 
Competing Values Framework, Third Edition, 
Jossey Bass, 2011. 
[2] Đỗ Minh Cương, Văn hóa kinh doanh và triết lí kinh 
doanh, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. 
[3] Lê Thị Kim Nga, Xây dựng và phát triển văn 
hóa doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại 
N.H. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015) 10-20 
20 
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Mã số: 
KNH2008-03, 2009. 
[4] Ojo, O., “Impact Assessment of Corporate 
Culture on Employee Job Performance”, 
Bussiness Intelligence Journal, 2 (2009) 2, 388. 
[5] Shahzad, F., Luqman, R. A., Khan, A. R, 
Shabbir, L., “Impact of Organizational Culture 
on Organizational Performance: An Overview”, 
Interdisciplinary Jounral of Contemporary 
Research in Business, 9 (2012) 3, 975. 
[6] Nguyễn Mạnh Quân, Đạo đức kinh doanh và văn 
hóa công ty, NXB. Đại học Kinh tế Quốc dân, 
Hà Nội, 2007. 
[7] Tianyuan Yu, Nengquan Wu, “A Review of 
Study on the Competing Values Framework”, 
International Journal of Business and 
Management 4 (2009) 5, 37. 
[8] Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Phân 
tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS - 2 tập, NXB. 
Hồng Đức, Thanh Hóa, 2008. 
The Corporate Culture Model in State-owned Commercial 
Banks Before and After Vietnam Joined the WTO 
Nguyễn Hải Minh 
Central Hồ Chí Minh Communist Youth Union, 
62 Bà Triệu Str., Hoàn Kiếm Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: The paper presents a method of diagnosing the corporate culture model -
Organizational Culture Assessment Instrument (OCAI) based on the theory of the competitive 
value framework of Cameron and Quinn. The research results identified corporate culture models 
and the movement of these models in the state-owned commercial banks in two periods before and 
after Vietnam joined the WTO. The paper also proposes solutions for the state-owned commercial 
banks in Vietnam to determine an effective corporate culture model, thereby enhancing the 
competitive advantage of those banks. 
Keywords: Corporate culture, comercial bank (s), OCAI, Vietnam, WTO.