Luận văn Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay

Tài liệu Luận văn Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay: LUẬN VĂN: Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh niên - sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Chính vì vậy, trong các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả về trình độ học vấn, chuyên môn đến lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị v.v.. để sinh viên trở thành người chủ tương lai của dân tộc vừa “hồng” vừa “chuyên”, là lớp người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩ...

pdf104 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh niên - sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Chính vì vậy, trong các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả về trình độ học vấn, chuyên môn đến lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị v.v.. để sinh viên trở thành người chủ tương lai của dân tộc vừa “hồng” vừa “chuyên”, là lớp người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh mặt tích cực, quá trình toàn cầu hoá cũng bộc lộ không ít hạn chế, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực đạo đức. Sinh viên là một tầng lớp xã hội “đặc thù”, năng động, sáng tạo trong học tập, có ý chí vươn lên, thích tìm tòi cái mới và dễ thích nghi với cái mới v.v. nhưng do kinh nghiệm và vốn sống còn hạn chế, sự trải nghiệm chưa nhiều… nên sinh viên cũng dễ bị ảnh hưởng từ mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, từ những phức tạp của xu thế toàn cầu hoá. Thực tế cho thấy, bên cạnh đại bộ phận sinh viên say mê trong học tập, chịu khó trong trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất nhân cách để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên sống thực dụng, xa hoa, lãng phí, thậm chí có lối sống “thác loạn”, xa rời truyền thống đạo lý của dân tộc. Tại đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [17, tr.172 - 173] Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận sinh viên, để không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản cho sinh viên, đào tạo các thế hệ sinh viên Việt Nam kế tục và phát huy nguyên khí quốc gia, lực lượng bổ sung quan trọng cho đội ngũ trí thức trong tương lai, nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay” càng trở nên cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, bài viết, nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức, lối sống và lý tưởng cách mạng cho thanh niên - sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tiêu biểu là một số công trình sau đây: - Nhóm các đề tài và luận văn viết về đạo đức thanh niên - sinh viên, có: +“Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện mới”, Báo cáo khoa học của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1996-1997). + Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002): “Giá trị truyền thống trước thử thách toàn cầu hoá” Nxb Chính trị Quốc gia. + “Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp”, đề tài cấp Đại học Quốc Gia Hà Nội (năm 2003). + “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của TS Võ Minh Tuấn (2003). + “Xây dựng lối sống có văn hoá của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa", Luận án TS của Đặng Thành Quang (2005). + “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo của Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng (2005); “Xây dựng bản lĩnh thanh niên hiện nay” do TS Hồ Bá Thâm (chủ biên) (2006). + “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”,Báo cáo khoa học chuyên đề Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2007. + Lê Hữu Nghĩa, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên) “ Xu thế toàn cầu hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007. + “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp (qua khảo sát một số trường Đại học và Cao đẳng ở Hà Nội)”, luận văn thạc sỹ triết học của Vũ Thanh Hương ( 2004). + “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường Đại học và Cao đẳng ở thành phố Hà Nội)”, luận văn thạc sỹ triết học của Doãn Thị Chín (2004); v.v.. - Nhóm các bài trên các tạp chí viết về đạo đức trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay: + Đặng Cảnh Khanh (2000): “Vấn đề toàn cầu hoá và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” Tạp chí Cộng sản; Vương Thị Bích Thuỷ (2000) + “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Tạp chí nghiên cứu lý luận. + “Toàn cầu hoá: lợi và hại”, Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội năm 2000; Lê Thị Tuyết Ba (2003) “Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học. + Nguyễn Trọng Chuẩn (1995) “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”. + Tạp chí triết học; Đỗ Huy (1998) “Định hướng xã hội chủ nghĩa về quan hệ đạo đức cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay”. + Tạp chí Triết học; Nguyễn Trọng Chuẩn (2001) “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”. + Tạp chí Triết học; Đỗ Huy (2002) “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo đức cá nhân”. + Tạp chí Triết học; Nguyễn Thế Kiệt (1996) “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”. + Võ Minh Tuấn (2004) “Tác động toàn cầu hoá đến đạo đức sinh viên hiện nay”. + Tạp chí Triết học; Phạm Hữu Tiến (2005): “Đấu tranh chống mặt tiêu cực của toàn cầu hoá” Tạp chí Cộng sản. + Trần Văn Miều (2007) “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”, Tạp chí Xây dựng Đảng. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên, từ nhiều góc độ khác nhau, đã làm sáng tỏ tác động hai mặt của bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới, đề ra một số phương hướng để đẩy mạnh quá trình xây dựng đạo đức trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Những đề tài trên đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà đề tài của tác giả đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó luận văn đề xuất các giải pháp chủ yếu để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận của đạo đức mới và tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. - Phân tích, đánh giá ưu, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân của những mặt tồn tại hạn chế trong thực trạng đạo đức mới của sinh viên Việt Nam hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ phức tạp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng đạo đức mới, tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trong toàn quốc, chủ yếu là sinh viên hệ chính quy. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, kế thừa có chọn lọc những giá trị của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, các phương pháp chuyên ngành và liên ngành khác. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. - Đề xuất các giải pháp cơ bản để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá . 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: - Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên. - Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình khoa học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên quan đến vai trò đạo đức trong đời sống xã hội của con người. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY 1.1. ĐẠO ĐỨC MỚI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ 1.1.1. Khái niệm đạo đức và đạo đức mới - Khái niệm đạo đức (Morality) Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử loài người và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Vì vậy, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề đạo đức luôn luôn được xã hội quan tâm, đặc biệt là các nhà triết học. Cho đến hiện nay bàn về đạo đức có nhiều hệ thống lý thuyết tiêu biểu, tiếp cận đạo đức theo các khuynh hướng khác nhau. Một là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm khách quan và của các nhà thần học. Các nhà triết học duy tâm khách quan Platôn và Hêghen lấy “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối” để lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức. Còn các nhà thần học cho đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh, con người và xã hội chẳng qua chỉ là những hình thái biểu hiện cụ thể khác của đấng thần linh và những chuẩn mực đạo đức do thần thánh tạo ra để giáo dục con người. Hai là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Họ coi đạo đức như là năng lực “tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay “thiện ý” theo cách gọi của I.Kantơ: là một năng lực có tính nhất thành, bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người. Ba là, các khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy vật. Họ đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ của con người, nhưng con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại. Tiêu biểu cho quan niệm này là nhà triết học cổ điển Đức: Phoi ơ Bắc. Bốn là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khác với các cách tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm khách quan và duy vật tầm thường, C.Mác và Ph.Ăngghen dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã xây dựng một học thuyết đạo đức có tính cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức gắn với phương thức sản xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội “Xét đến cùng mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”[50, tr.137]. Như vậy, các hiện tượng đạo đức ở các thời đại khác nhau nó có tính chất khác nhau, trong xã hội có giai cấp thì đạo đức có tính giai cấp. Cho nên, không thể coi đạo đức là nhất thành, bất biến, vĩnh viễn như lý thuyết của một số nhà đạo đức trước kia đề ra. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức giống mọi hình thái khác là phản ánh tồn tại xã hội của con người. Tiếp tục phát triển quan niệm đạo đức nói trên, G.Bandzeladze cho rằng: “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung. Bản chất đạo đức là sự quan tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi ích xã hội” [31, tr.104] Đến nay, các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về đạo đức. Để có một sự thống nhất cao về khái niệm đạo đức, là vấn đề rất khó. Ở đây, chúng tôi đồng ý với quan niệm của tập thể các nhà khoa học ở Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện với niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [33, tr.8]. Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức đánh giá hành vi của con người theo chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy có tính tích cực, có tính nhân đạo. Ngược lại, nếu hệ thống giá trị đạo đức không phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo. - Khái niệm đạo đức mới Sự vận động phát triển của xã hội loài người là một quá trình “lịch sử -tự nhiên” từ thấp đến cao, thông qua sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Phù hợp với mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể có một kiểu đạo đức tương ứng. Hình thức sơ khai của các quan hệ đạo đức đã xuất hiện rất sớm, trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ. Lúc đó, đạo đức được biểu hiện thông qua các hành vi giao tiếp, ứng xử trong các điều cấm kỵ như: không được lấy phần của nhau, không được đàn áp nhau, không được nói dối. Do điều kiện kinh tế, sinh hoạt xã hội còn ở trình độ lạc hậu, đạo đức bị lẫn lộn vào tập quán, phong tục, tín ngưỡng, lễ nghi tôn giáo. Các quy ước, chế định có tác dụng điều chỉnh hành vi con người mang ý nghĩa, giá trị đạo đức. Cùng với sự vận động phát triển của nền sản xuất xã hội, mối quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và phong phú hơn. Xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp và đạo đức mang tính giai cấp: Đạo đức chủ nô và đạo đức nô lệ. Đặc điểm lớn của đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ là thừa nhận phẩm chất cao quý và quyền uy tuyệt đối của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô, những kẻ đặc quyền, đặc lợi, tự cho phép mình là người thượng lưu, là tầng lớp quý tộc, và chỉ họ mới là người có đạo đức. Còn nô lệ, họ đề cao phẩm chất người lao động và quyền tự do, bình đẳng của con người, giai cấp nô lệ hiểu rõ được giá trị đích thực của lao động, của những tình cảm nảy sinh phát triển từ trong quá trình lao động. Họ coi lao động là nguồn gốc, là cơ sở của đạo đức, là niềm tin hạnh phúc lớn lao của cuộc sống con người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ đã thể hiện xung đột của hai loại hình đạo đức trái ngược nhau, điều đó phản ánh điều kiện kinh tế và lợi ích giai cấp trong xã hội đó. Tuy nhiên, đạo đức của giai cấp chủ nô - giai cấp thống trị xã hội đóng vai trò chi phối, thống trị đời sống đạo đức xã hội lúc bấy giờ. Xã hội phong kiến ra đời thay thế cho xã hội chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến được xác lập, kéo theo những thay đổi lớn trong đời sống xã hội, trong đó có đời sống đạo đức. Xã hội phong kiến phần nào đã cho con người lao động được giải thoát khỏi kiếp nô lệ, nhưng đồng thời lại trói buộc con người vào những thiết chế xã hội khắc nghiệt và xuất hiện kiểu bóc lột mới - kiểu bóc lột phong kiến. Giai cấp địa chủ phong kiến luôn trói buộc con người vào những luật lệ hà khắc, xơ cứng, tạo ra sự đối kháng về mặt đạo đức trong xã hội. Đó là sự phụ thuộc, phục tùng những đấng bề trên, phụ thuộc và phục tùng vương quyền, thần quyền. Quần chúng nhân dân lao động, những người được coi là tầng lớp dưới của xã hội, xuất phát từ địa vị kinh tế- xã hội, từ lợi ích của mình đã tạo ra những chuẩn mực đạo đức riêng phù hợp với đời sống của họ. Bản chất đạo đức của nhân dân lao động vẫn là tình thương yêu đối với con người, với nội dung ứng xử chủ yếu là công bằng, bình đẳng, tương thân, tương ái đối với mọi người. Chế độ tư bản thay thế chế độ phong kiến là một bước tiến trên con đường phát triển của lịch sử xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xoá bỏ tình trạng cát cứ của phong kiến, mở ra những quan hệ kinh tế mới. Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ thâm nhập vào tất cả đời sống xã hội, phá tan những sợi dây đạo đức trói buộc con người. Ở chế độ tư bản chủ nghĩa, cá nhân được giải phóng khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ đẳng cấp khắc nghiệt, ý thức con người đã bắt đầu thích nghi với những nguyên tắc, của nền kinh tế thị trường đang thâm nhập vào các quan hệ đạo đức. Khi mới ra đời, đạo đức tư sản là một bước tiến bộ lớn. Nó đấu tranh xoá bỏ quan hệ chật hẹp đẳng cấp, giải phóng cá nhân khỏi mọi áp bức của xã hội phong kiến và Giáo hội Thiên Chúa giáo, đề cao chủ nghĩa cá nhân, sự thừa nhận tự trị và những quyền tuyệt đối của các cá nhân trong xã hội. Nhưng trong quá trình phát triển của mình với những quan điểm “duy lợi”, “vị kỷ” và định hướng giá trị chung là sự giàu có, tiện nghi coi đó là những giá trị cao nhất. Điều này, đã làm cho chủ nghĩa cá nhân ngày càng trở nên phản nhân đạo, đưa ra sự giàu có của cá nhân làm nguyên tắc quyết định mọi quan hệ đạo đức trong xã hội. Chủ nghĩa tư bản làm nảy sinh ra một lớp người sống xa hoa trên sự đau khổ của người khác, nhân cách con người ngày càng bị tha hoá. Về vấn đề này, C.Mác viết: Mọi sự dường như chất chứa mâu thuẫn, chúng ta cho rằng máy móc có một sức mạnh kỳ diệu rút ngắn lao động của con người, làm cho lao động sản xuất dồi dào hơn, nhưng nó đem lại cho con người nạn đói và sự kiệt quệ. Những nguồn của cải mới, từ trước đến nay chưa từng có, do một phép lạ nào kỳ quặc và khó hiểu biến thành ngọn nguồn của sự nghèo khổ. Chiến thắng của kỹ thuật dường như được mua bằng giá của sự sa đoạ về đạo đức. Người ta có cảm tưởng rằng nhân loại càng chinh phục được bao nhiêu thì con người càng trở thành nô lệ của người khác hoặc trở thành nô lệ của sự đê tiện của chính mình bấy nhiêu [49, tr.10] Những mâu thuẫn trong đạo đức của xã hội tư bản cần phải được khắc phục, được xoá bỏ bởi sự ra đời của một nền đạo đức tiến bộ hơn. C.Mác - Ph.Ăngghen đã dự báo cho sự xuất hiện nền đạo đức mới với tính cách là biểu hiện về mặt đạo đức của xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự hình thành đạo đức mới trên cơ sở của đạo đức vô sản gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản và do đó giải phóng nhân loại ra khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Đây là cuộc cách mạng mà giai cấp bóc lột về cơ bản bị xoá bỏ, người dân lao động từng bước được giải phóng về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Cùng với thắng lợi của cách mạng vô sản và thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức mới được hình thành và phát triển trên mảnh đất hiện thực. Đạo đức mới là thành quả tiến bộ của đạo đức xã hội loài người, đây là đạo đức có tính người thực sự, là đạo đức của nhân dân lao động. Tính tự giác của quá trình hình thành và phát triển của đạo đức mới, đòi hỏi phải nắm được quy luật vận động và phát triển của xã hội, đặc biệt ở các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng, phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công đem lại hạnh phúc chân chính cho con người. Cho nên, đạo đức của những người vô sản là tiến bộ và trở thành một thực tế lịch sử, mang nội dung nhân đạo cả về mặt thực tiễn và mặt nhận thức. Tư tưởng nhân đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản là: Tất cả vì con người, tôn trọng con người, thương yêu con người, giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con người được tự do và toàn diện trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể. Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp, mang tính tự giác. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, đứng trên lập trường duy vật lịch sử Lênin đã chỉ ra cuộc đấu tranh giai cấp sẽ còn tiếp tục sau khi nhân dân lao động giành được chính quyền từ tay bọn thống trị. Vì vậy, nhiệm vụ của người cách mạng là làm cho tất cả mọi lợi ích phải phục tùng cuộc đấu tranh đó và Lênin khẳng định: “Đạo đức, đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn áp bức bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới” [44, tr.369]. Như vậy, tính chất và nội dung của đạo đức mới, đạo đức cộng sản bị quy định bởi yêu cầu của sự nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận đạo đức nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng quý giá, trong đó có tư tưởng đạo đức của Người. Hồ Chí Minh coi đạo đức mới, đạo đức cách mạng là “gốc” là “nền tảng” của người cách mạng: “Cũng như song thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [56, tr.252-253]. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa” [59, tr.186] Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng: “Không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của các cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và loài người” [56, tr.252]. Đạo đức mới là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người. Mục đích cuối cùng của nó là góp phần giải phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi mọi áp bức, bất công trong xã hội. Do vậy, đạo đức mới là đạo đức trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định phẩm chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là sự kế thừa đạo đức của dân tộc và đạo đức nhân loại. Người đã thể hiện một thái độ cách mạng khoa học đối với các hệ thống đạo đức cũ. Trên cơ sở nắm vững phép biện chứng duy vật và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đã biết “gạn đục khơi trong” kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lý của các hệ thống đạo đức trước góp phần hình thành nên lý luận về đạo đức mới ở Việt Nam. Nội dung đạo đức mới được thể hiện ở: chủ nghĩa tập thể, lao động cần cù, sáng tạo, ý thức học tập, rèn luyện vươn lên, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa … Từ những nội dung cơ bản đó, tuỳ thuộc vào yêu cầu cơ bản trong mỗi giai đoạn khác nhau của cách mạng, Đảng ta luôn bổ sung và phát triển, cụ thể hoá nội dung đạo đức mới. Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười viết: Đạo đức thể hiện lòng trung thành với lý tưởng, với mục đích cách mạng của Đảng; ở sự vững vàng về chính trị, sự kiên định trước mọi thử thách có phẩm chất trong sáng, trung thực, đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết, một lòng vì nước, vì dân; ở hành động của mình thực sự tỏ rõ là người lao động, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đạo đức còn thể hiện ở nếp sống trong sạch của bản thân và gia đình mình, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tích cực đấu tranh chống tham ô, quan liêu, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh (Báo Nhân Dân, ngày 22 - 4 -1996). Từ sự phân tích trên cho phép chúng ta đi đến kết luận: Đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hoà các giá trị và chuẩn mực tạo nên nền tảng nhân cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội [35, tr.60] 1.1.2. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá 1.1.2.1. Toàn cầu hoá - xu thế tất yếu hiện nay Ngày nay, “Toàn cầu hoá” (Globalization) đang là xu thế khách quan diễn ra mạnh mẽ và phức tạp, nó tác động tới hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Việt Nam không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá có cả những tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi toàn cầu hoá được đón nhận, cổ vũ ở nhiều nước đang phát triển thì phong trào chống toàn cầu hoá (Anti- globalization) lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… Tình hình đó đặt ra vấn đề buộc các quốc gia dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước chậm phát triển về kinh tế phải suy ngẫm để tìm ra phương thức hành động đúng đắn khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Xu thế toàn cầu hoá đã được C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ ra như một tất yếu khách quan trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1848). Trong tác phẩm này, C.Mác, Ph.Ăngghen đã dự báo rằng, với sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự phân công lao động xã hội rộng rãi làm mở rộng nhu cầu trao đổi hàng hoá: trao đổi hàng hoá mở rộng ra phạm vi thế giới hình thành thị trường thế giới, thị trường thế giới đến lượt nó liên kết các quốc gia khu vực trên toàn cầu. Lịch sử xã hội loài người là sự phát triển đi từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Sự vận động, phát triển ấy bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển theo cho phù hợp, từ góc độ này C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ ra nhân tố tác động và tính chất giai cấp của quốc tế hoá: do bị thúc đẩy bởi việc trao đổi sản phẩm và các yếu tố của quá trình sản xuất giữa người với người, đặc biệt là thị trường tiêu thụ mà giai cấp tư sản đã xâm lấn khắp toàn cầu, thiết lập các mối khai thác tài nguyên và thị trường. Vì mục tiêu lợi nhuận, giai cấp tư sản đã gây nên quá trình quốc tế hoá, quá trình phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lan rộng khắp thế giới. Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, của cải làm ra chỉ đảm bảo cho những nhu cầu tối thiểu của con người, các yếu tố của quá trình tái sản xuất vận động trong phạm vi cai quản của lãnh chúa phong kiến theo kiểu “nội bất xuất”. Thị trường, do đó cũng bị vây chặt trong địa hạt của từng lãnh chúa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra, lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phong kiến không thể dung nạp nổi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản ra đời, trước đó đã phá bỏ các rào cản do các lãnh chúa thiết lập và áp chế. Có thể nói công lao của chủ nghĩa tư bản, như một nấc thang phát triển của xã hội loài người, nó đã tạo ra: “Một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất” [48, tr.603]. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, thị trường dân tộc không chứa nổi nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế, nhà nước tư sản đã tiến hành những cuộc phát kiến địa lý và tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Xét đến cùng, phát kiến địa lý và chiến tranh xâm lược là để tìm kiếm thị trường: thị trường nguyên liệu, thị trường sức lao động và thị trường tiêu thụ sản phẩm dồi dào hơn, rẻ hơn và rộng lớn hơn. Nói tới xu thế trên đây, C.Mác - Ph.Ăngghen đã có nhiều lần đề cập đến. Hai ông cho rằng: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới” (48, tr.598); và chính “do bóp nặn của thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới” [48, tr.601]. Đến lượt nó, thị trường thế giới “thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế [48, tr.602]. Và cũng chính: Nhờ cải biến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến tất cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của những giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục [48, tr.602]. Giai cấp tư sản trong quá trình phát triển, do nhu cầu về thị trường tiêu thụ, chúng đã mở rộng địa bàn hoạt động trên phạm vị toàn thế giới. Điều này cũng đã được C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ rõ: “vì luôn bị thúc đẩy bởi những nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi” [48, tr.601]… Những phân tích trên của C.Mác - Ph.Ăngghen cho thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hoá sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản đã làm cho các nước gắn bó lại với nhau và tạo ra xu thế toàn cầu hoá. Xu thế toàn cầu hoá đã diễn ra từ lâu, nhưng thuật ngữ “toàn cầu hoá” chỉ mới xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961, và cho đến nay, khi mà toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế khách quan, tác động tới mọi quốc gia trên thế giới thì số lượng các khái niệm về toàn cầu hoá và tần suất sử dụng khái niệm này ngày càng lớn. Ở Việt Nam, thuật ngữ “toàn cầu hoá” được dùng rộng rãi vào những năm 1980 của thế kỷ trước. Từ đó đến nay, thuật ngữ này thường xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về toàn cầu hoá. Có quan niệm cho rằng, toàn cầu hoá là biểu hiện và là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo ra mối liên hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự vận động và phát triển. Quan niệm khác lại cho là, toàn cầu hoá là giai đoạn cao của quá trình phát triển lực lượng sản xuất thế giới, là kết quả phát triển tất yếu của kinh tế thị trường và khoa học - công nghệ. Cũng ở góc độ kinh tế, có quan niệm nhìn nhận, toàn cầu hoá là xu hướng bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường; là hệ thống mở, không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Uỷ ban châu Âu cho rằng: Toàn cầu hoá có thể được định nghĩa như một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau do sự năng động của việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ cũng như do có sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ. Đây không phải là hiện tượng mới mà là sự tiếp tục của một tiến trình đã được khơi mào từ lâu [63, tr.18]. Theo quan niệm này, thực chất toàn cầu hoá là toàn cầu hoá về kinh tế. Ở Việt Nam, cũng có quan niệm coi toàn cầu hoá là toàn cầu hoá kinh tế, là sự gia tăng nhanh chóng các yếu tố kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, dân tộc, khu vực, vươn tới toàn thế giới. Các tác giả sách “Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng”, đã chỉ rõ: Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt các biến cố có quan hệ lẫn nhau từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới. Toàn cầu hoá khiến cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, làm sâu sắc hơn chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp độ quốc gia, mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới [13, tr.94-95] Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi, cho đến nay, về cơ bản có hai góc độ tiếp cận về toàn cầu hoá: quan niệm tiếp cận toàn cầu hoá theo nghĩa rộng và tiếp cận toàn cầu hoá theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá được xác định như là một hiện tượng hay một quá trình làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế trên nhiều mặt của đời sống xã hội (nhiều tế, chính trị, văn hoá, an ninh, môi trường…) giữa các quốc gia, dân tộc, khu vực. Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá được hiểu là toàn cầu hoá kinh tế, chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực kinh tế. Phần lớn các nhà kinh tế xem toàn cầu hoá là quá trình kinh tế vĩ mô. Hay nói cách khác, họ thường xem xét toàn cầu hoá dưới góc độ kinh tế, như là quá trình kinh tế, một hiện tượng kinh tế có tính toàn cầu. Theo chúng tôi, mỗi quan niệm trên đều có nhân tố hợp lý của nó. Để khẳng định một quan niệm chuẩn khoa học về toàn cầu hoá là rất khó, từ tiếp cận của mình, chúng tôi cho rằng: toàn cầu hoá là sự mở rộng biên độ gia tăng liên kết, ảnh hưởng sâu sắc trên phạm vi toàn thế giới trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội bằng nhiều phương thức khác nhau mà xuất phát điểm của nó là từ kinh tế và chủ yếu là kinh tế. Toàn cầu hoá đang là một xu thế khách quan, bắt nguồn từ xã hội hoá sản xuất cao trên thế giới, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Mặc dù quá trình toàn cầu hoá đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, nên có nhiều mặt tiêu cực đe doạ độc lập và chủ quyền của các nước đang phát triển; nhưng nó vẫn lôi cuốn cả thế giới, bởi những mặt tích cực. Về tác động tích cực, toàn cầu hoá là xu thế khách quan gắn liền với xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội, là kết quả tất yếu của sư phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng. Toàn cầu hoá thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa lại sự phát triển kinh tế cao. Toàn cầu hoá góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng mạnh tỷ trọng các sản phẩm chế tác và các dịch vụ trong cơ cấu kinh tế thế giới. Phân công lao động quốc tế trở nên sâu, rộng khắp toàn cầu. Xu hướng mới của phân công lao động quốc tế là: diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng lớn, bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ nhanh; phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã đưa loài người từng bước tiến vào nền kinh tế tri thức. Khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàm lượng chất xám được kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao. Những nước nào có nền công nghệ cao thì sẽ có khả năng cạnh tranh lớn, ngược lại những nước kém phát triển với trình độ khoa học công nghệ thấp thì khả năng cạnh tranh thấp. Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn, những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học - công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản phẩm và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân tộc. Ở nhiều nước, thành quả này đến từng gia đình, từng người dân, tạo nền móng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng phát triển. Toàn cầu hoá tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam: Từ các nguồn vốn, nguồn tri thức (khoa học công nghệ - văn hoá, xã hội), kinh nghiệm về quản lý cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Toàn cầu hoá gây sức ép gay gắt về cạnh tranh cũng như hiệu quả đối với nền kinh tế, mỗi nền kinh tế muốn cạnh tranh được thì phải chú ý tới chất lượng, yếu tố thời gian, tăng giá trị thặng dư để có sức mạnh cạnh tranh đạt hiệu quả cao trong kinh tế. Mặt khác, toàn cầu hoá mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới, những đối tác mới cho từng nước, nhất là các nước đang phát triển. Toàn cầu hoá thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau hơn, làm tăng khả năng trao đổi về văn hoá - lịch sử giữa các quốc gia. Góp phần làm đa dạng và phong phú đời sống tinh thần của các nước nhờ sự tiếp biến giữa các nền văn hoá. Với lợi thế này, toàn cầu hoá đã giúp nâng cao dân trí, làm cho con người có nhiều điều kiện để phát triển về vật chất lẫn tinh thần. Những cơ hội do toàn cầu hoá tạo ra là rất lớn. Sự nhất thể hoá, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, một mặt, thu hút tất cả các nước vào guồng máy kinh tế chung của khu vực hay thế giới, nhờ vậy mà các nước nhỏ có cơ hội sử dụng các khả năng để phát triển và mở rộng các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, cũng chính trong quá trình toàn cầu hoá này cũng chứa đựng những thách thức và một loạt nguy cơ lớn. Toàn cầu hoá làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Hội nhập quốc tế càng sâu rộng, các nền kinh tế phải đối mặt với những khác biệt về thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân trong một nước và cả giữa các nước với nhau. Từ đó, một từng lớp dân nghèo xuất hiện và ngày càng tăng. Xu hướng này chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chủ nghĩa bảo hộ trên thế giới ngày càng gia tăng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và khả năng ứng dụng của nó trong việc liên kết các thị trường, sức ép giảm tiền lương ngày càng tăng, mặc dù nhóm những người có vị trí cao trong thị trường lao động ít bị tác động dưới sức ép này. Trên thực tế, người giàu ngày càng trở nên giàu hơn trong khi phần còn lại của lực lượng lao động thì không. Điều này làm cho khoảng cách thu nhập tại các nước đang phát triển và các nước phát triển ngày càng tăng. Toàn cầu hoá gây bất ổn định về mọi mặt hoạt động và đời sống con người nhất là: về việc làm, an ninh quốc gia, hệ thống kinh tế - tài chính. Toàn cầu hoá làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp: sự canh tranh khốc liệt trong quá trình toàn cầu hoá làm cho hàng loạt các doanh nghiệp gặp khó khăn phải thu hẹp sản xuất, chuyển đổi kinh doanh hoặc phá sản và ngừng hoạt động, khiến nhiều người mất việc làm. Sự gia tăng của các luồng di chuyển nhân công giữa các nước ngày càng làm cho những người lao động ( kém năng lực, ít được đào tạo) đứng trước nguy cơ mất việc làm cho những người có khả năng cạnh tranh cao hơn và ngày càng khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm mới. Tự do hoá thương mại và đầu tư tạo điều kiện làm gia tăng các luồng đầu tư ra nước ngoài, và như vậy làm cho những người lao động trong nước bớt cơ hội có việc làm. Trong tình hình như vậy, những bất trắc và nguy cơ khủng hoảng có thể đột ngột nổ ra, với những tác hại dây chuyền khốc liệt thì khó lường được. Dưới tác động của toàn cầu hoá, quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các nhà nước - dân tộc phần nào bị thu hẹp, nó làm rung chuyển nền tảng đời sống của các quốc gia, đồng thời đặt ra những vấn đề nhạy cảm. Ngày càng có nhiều vấn đề vượt qua tầm kiểm soát của nhà nước (vấn đề môi trường, sinh thái, các luồng di chuyển vốn, các luồng thông tin, đặc biệt là thông tin điện tử, các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, vấn đề tội phạm và khủng bố quốc tế..) và đòi hỏi phải được xử lý, điều tiết ở quy mô rộng lớn hơn phạm vi mỗi quốc gia. Toàn cầu hoá đặt ra cho các nước đang phát triển trước những thách thức khốc liệt nếu vượt qua được thì thắng lợi, còn nếu ứng phó không được thì thất bại. Nguy cơ trước tiên là những nước nghèo và người nghèo ngày càng nghèo hơn do bị thiệt thòi vì những quy định áp đặt từ những nước lớn. Đồng thời, những nước nghèo và nước kém phát triển nếu không nhanh chóng tạo ra một thiết chế kinh tế khu vực và toàn cầu, không có khả năng cạnh tranh và hội nhập thực sự thì chỉ đơn thuần thành nơi cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các nước có kinh tế phát triển, thành nơi tiếp nhận các công nghệ lạc hậu hoặc thải loại, thành nơi mà các nước phát triển chuyển giao ô nhiễm dưới vỏ bọc chuyển nhượng hay viện trợ công nghệ, nghĩa là thay thế sự phụ thuộc này bằng một sự phụ thuộc khác, trong khi lại không tranh thủ được những lợi thế của các nước đi sau do toàn cầu hoá mang lại. Vấn đề môi trường đang trở thành vấn đề nóng cần được quan tâm trong quá trình toàn cầu hoá của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, trong quá trình toàn cầu hoá đã làm tăng nguy cơ trầm trọng về vấn đề môi trường ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Sự phát triển kinh tế và công nghiệp hoá ở các nước này đã và đang làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, không khí và các nguồn nước bị ô nhiễm. Tình trạng này đe doạ đến an toàn cuộc sống của con người và làm ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Ngày càng có nhiều nước đặt vấn đề bảo vệ môi trường lên vị trí quan trọng trong chính sách và gắn với an ninh quốc gia. Mọi vấn đề toàn cầu nảy sinh như: chủ nghĩa khủng bố, nạn dịch AIDS, hiện tượng En- ni-nô…đều trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Các nước cần phải nhận thức rằng: những khiếm khuyết của toàn cầu hoá hiện nay là tất nhiên, song cũng góp phần vào việc đặt ra hoặc cảnh báo những vấn đề tương lai và thậm chí hé mở cả giải pháp. Thực tế đã chứng minh, toàn cầu hoá là xu thế khách quan, là quá trình hợp với quy luật không thể đảo ngược được của thời đại ngày nay. Các dân tộc không thể đi ngược với xu thế của thời đại, dẫu biết đó là xu thế phức tạp, chứa đựng cả âm mưu đen tối của các siêu cường. Nếu cho rằng, tiến hành toàn cầu hoá: là mất đi tính “tự lực, tự cường” thì thật là sai lầm bởi sự thật hoàn toàn ngược lại. Làm như vậy là tước đi khả năng tự vệ và chống trả những tiêu cực hàng ngày, hàng giờ chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế nước mình. Như thế là chúng ta chấp nhận thua ngay khi chưa phát huy phòng vệ, nghĩa là vẫn bị xu thế toàn cầu hoá chi phối, vẫn bị loại trừ và cô lập. Sớm nhận thức được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương hội nhập kinh tế thế giới và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực: chính trị, văn hoá, xã hội…Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [17, tr.112]. Xuất phát từ những chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, hơn 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về hội nhập kinh tế quốc tế, về kinh tế đối ngoại và chính trị đối ngoại, nhờ đó góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. 1.1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay - Sinh viên - tầng lớp xã hội đặc thù: Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về sinh viên, nhưng quan niệm được nhiều người trong giới khoa học xã hội ủng hộ là quan niệm cho rằng: Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia, hoạt động lao động trong một lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội hoặc sinh viên là những người đang học tập ở các trường Cao đẳng, Đại học trong và ngoài nước [21, tr.13] Khác với những bộ phận thanh niên khác, sinh viên là những công dân có độ tuổi từ 18 đến 30 đang học tập ở bậc Đại học, Cao đẳng, đang chuẩn bị những nền tảng tri thức, kỹ năng cần thiết cho các hoạt động chuyên môn nghề nghiệp sau này. Một trong những biểu hiện đặc thù của sinh viên là chỗ họ luôn nêu cao khả năng tự ý thức, tự đánh giá và luôn luôn muốn tự khẳng định mình: Tự ý thức của sinh viên được hình thành trong quá trình xã hội hoá và liên quan đến tính tích cực xã hội của sinh viên. Giúp sinh viên có những hiểu biết và thái độ đối với bản thân mình để chủ động định hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Trong quá trình học tập ở các trường Đại học, Cao đẳng việc định hướng tương lai của sinh viên có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tự ý thức của họ. Mức độ tự ý thức của sinh viên phụ thuộc vào mục đích và thời gian đặt ra cho mục đích đó. Những sinh viên nào, luôn đặt ra mục đích phấn đấu cho bản thân mình, thì họ có một kế hoạch lâu dài, những dự định tốt đẹp và có ý chí vươn lên trong cuộc sống. Thực tế cho chúng ta thấy, những sinh viên có kết quả học tập xuất sắc thường chủ động tích cực, sáng tạo, tìm tòi những tri thức mới, tích cực hoạt động nhận thức, khám phá tri thức và sống đúng mực với mọi người và luôn muốn khẳng định nhân cách của mình . Năng lực tự đánh giá của sinh viên, góp phần quan trọng trong việc tham gia các hoạt động xã hội và tự rèn luyện bản thân. Tự đánh giá là thể hiện thái độ đối với bản thân và kết quả sự biểu hiện các thuộc tính nhân cách và năng lực hoạt động, giao tiếp và tự giáo dục. Sinh viên hoạt động trong môi trường lao động trí tuệ căng thẳng, luôn phải tìm tòi khám phá những tri thức khoa học về thế giới xung quanh. Trong môi trường đó, sinh viên không chỉ lớn lên về mặt tri thức, mà còn phát triển các chức năng tâm lý: tư duy, trí nhớ, tình cảm…Bên cạnh học tập, sinh viên còn tham gia vào các hoạt động xã hội: hiến máu nhân đạo, chiến dịch mùa hè xanh, tư vấn mùa thi…đã làm khả năng tự đánh giá của sinh viên có những bước phát triển mới về mặt nhận thức và kinh nghiệm. Biểu hiện thứ hai của tính đặc thù ở sinh viên chính là việc xây dựng kế hoạch để thực hiện nghề nghiệp mà mình đã chọn: Nét đặc trưng của sinh viên là sự hình thành kế hoạch trên cơ sở do kết quả của quá trình học tập và mục tiêu mà cá nhân đặt ra. Trong quá trình học tập, sinh viên tiếp thu những tri thức từ các môn khoa học và tham gia các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội nên xu hướng nghề nghiệp của sinh viên được hình thành và phát triển. Đó là ý định của cá nhân muốn sử dụng những tri thức, kinh nghiệm, năng lực của mình vào nghề nghiệp đã chọn. Sự hình thành xu hướng nghề nghiệp ở sinh viên được xác định bởi tính ổn định hay không ổn định, bởi ưu thế của các động cơ xã hội và triển vọng phát triển ở từng cá nhân. Nội dung xu hướng nghề nghiệp được biểu hiện ở: các động cơ liên quan đến nghề nghiệp trong tương lai; mong muốn thực hiện tốt trách nhiệm công việc; tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ học tập phức tạp; có tình cảm nghề nghiệp và mong muốn đạt thành tích trong hoạt động nghề nghiệp, những biểu hiện này liên quan đến thái độ, sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên. Đó là sự chuẩn bị cả về mặt sức khoẻ, tinh thần và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu công việc. Nó đảm bảo cho niềm tin đúng đắn vào nghề nghiệp trong tương lai, là cơ sở để khẳng định nhân cách và củng cố tình yêu vào lĩnh vực chuyên môn mà mình lựa chọn. Biểu hiện thứ ba của sinh viên chính là quá trình hình thành và phát triển nhân cách của họ Nhân cách sinh viên là nhân cách của con người trẻ tuổi đang chuẩn bị để thực hiện chức năng người chuyên gia có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực nào đó của xã hội. Sinh viên đang giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực tâm sinh lý sang trưởng thành về phương diện xã hội (ổn định nhân cách). Trong thời kỳ này sinh viên có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp. Sinh viên xác định con đường hướng tới tương lai, có kế hoạch cho hoạt động của mình, độc lập trong phán đoán hành vi, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên, ở giai đoạn này thế giới nội tâm của sinh viên có nhiều phức tạp và mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa khả năng và ước mơ; điều kiện và kinh nghiệm; mong muốn học những môn học mình yêu thích với yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học tập: số lượng thông tin quá nhiều và thời gian xử lý thông tin quá ít. Sự phát triển nhân cách của sinh viên nằm trong một quá trình biện chứng của các vấn đề nảy sinh và giải quyết các mâu thuẫn: là quá trình chuyển các yêu cầu bên ngoài vào ngay chính bên trong của bản thân họ và là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực với mục tiêu cao nhất là đáp ứng các chuẩn mực của nghề nghiệp. Tóm lại, sinh viên hiện nay đang sống, học tập và rèn luyện trong bối cảnh nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ với nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Họ đang đứng trước trọng trách nặng nề nhưng rất vẻ vang của đất nước giao phó: họ là những trí thức trẻ trong tương lai và là nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là những người có tri thức, năng động, nhạy cảm, có khả năng tiếp thu những cái mới, có thái độ phê phán những cái sai, cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ; có quan niệm tích cực, tiến bộ về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân đạo, về lối sống mới, nếp sống mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, sinh viên tỏ rõ sự nhạy cảm, năng động đi vào các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kinh tế mới và đã mau chóng hội nhập với xu thế của thế giới. Với mục tiêu đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, một số ngành chủ đạo của đất nước như: tin học, bưu chính viễn thông, vật liệu mới, hàng không, ngân hàng, dầu khí, công nghệ sinh học… đang được đầu tư mạnh mẽ, lực lượng lao động chủ yếu trong các ngành đó là sinh viên mới tốt nghiệp, họ đã thể hiện khả năng của mình trong lĩnh vực công nghệ mới . Xứng đáng cho vị trí tiên phong trong chiến lược “đi tắt đón đầu” để phát triển đất nước. Ở độ tuổi sinh viên, nhận thức về cuộc sống, quan điểm sống đang trong quá trình hình thành và từng bước đi vào ổn định lại chưa được trải nghiệm nhiều. Do vậy, tính chưa vững chắc trong nhận thức và hành động, cộng với tính đặc thù của lứa tuổi nhiều khi dẫn đến những hành động tự phát, thiếu khách quan. Chính vì vậy, có một bộ phận sinh viên mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ngại tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể, thờ ơ với chính trị, ý chí phấn đấu chưa cao. Một số sinh viên có lối sống cá nhân thực dụng, xa rời những đạo đức truyền thống của dân tộc. Suy giảm về đạo đức, lệch lạc về lối sống trong một bộ phận sinh viên ngày càng rõ, biểu hiện ở khuynh hướng vật chất hoá trong các quan hệ ứng xử, coi nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống được mệnh danh là “hiện đại”, theo kiểu “văn minh tiêu thụ”. Xuất hiện xu hướng sùng ngoại, sùng bái đồng tiền, đua đòi ăn diện, đòi hưởng thụ vượt quá mức thu nhập cá nhân và gia đình cho phép. Vì vậy, đã vi phạm pháp luật, những tệ nạn xã hội như nghiện hút, uống rượu, mại dâm, đua xe, trộm cắp, vi phạm quy chế đào tạo. Biểu hiện lười học, thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử, ý thức chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp chưa cao ở một số sinh viên. Do ảnh hưởng của lối sống tự do cá nhân, nhiều sinh viên hiện nay có cái nhìn khác trước đây về tình yêu, tình dục trước hôn nhân. Đặc biệt là vấn đề “yêu thử”, “sống thử”, trong một bộ phận sinh viên đã để lại những hậu quả nghiêm trọng, những hệ luỵ xã hội đáng quan ngại. - Vị trí, vai trò của sinh viên trong sự nghiệp phát triển đất nước. Theo quan điểm của các nhà kinh điển mác xít, sinh viên có vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội: “Tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [46, tr.118] Trong Thư "gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa", Ph.Ăngghen viết: "Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên" [51, tr.613] V.I.Lênin thì cho rằng: “Thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng” [42, tr.67], ông đánh giá rất cao tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ và khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng của thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò to lớn của thanh niên sinh viên trong tiến trình lịch sử, những người có khả năng “dời non”, “lấp biển”. Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp tết Nguyên đán năm 1946, Bác viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [55, tr.167] Bác cũng khẳng định: “Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà” [56, tr. 375], “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” [56, tr.185] Trong những lần dự Đại hội Đoàn toàn quốc, Đại hội Hội sinh viên, khai giảng năm học mới của trường Đại học nhân dân hay là gửi thư cho thanh niên sinh viên Hồ Chí Minh đều căn dặn: Thanh niên sinh viên phải đoàn kết chặt chẽ, luôn trau dồi đạo đức, rèn luyện thể lực, học lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động; học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, vị trí của thanh niên sinh viên trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đồng thời, các ông cũng nhắc nhở những người cộng sản là muốn cho thanh niên hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang của mình, thì Đảng Cộng sản phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện họ. Trong đó, vấn đề xây dựng đạo đức cho sinh viên là nhiệm vụ hàng đầu của công tác giáo dục và rèn luyện sinh viên. Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong cương lĩnh hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công tác thanh niên sinh viên là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của “cách mạng”. Bởi vậy, việc đoàn kết, tập hợp thanh niên sinh viên nhằm phát huy vị thế, vai trò của thanh niên trong thực tiễn cách mạng Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý. Nghị quyết Trung ương 4, khoá VII của Đảng ta khẳng định: Vấn đề thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người… Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên [70, t.2]. Trong bài phát biểu tại Đại hội lần thứ VII Hội Sinh viên Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định: Với vai trò lực lượng ưu tú trong thế hệ trẻ, là lớp người có học vấn, có sức khoẻ, có trình độ chuyên môn, được đào tạo có hệ thống, các thế hệ sinh viên chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao rất quý báu của xã hội ta. Các bạn là lực lượng sẽ có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi đầu chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học và công nghệ tiên tiến…Đảng luôn đặt niềm tin vững chắc vào thanh niên, vào sinh viên và không ngừng cổ vũ các bạn ra sức phát huy mọi tiềm năng sáng tạo để gánh vác những nhiệm vụ nặng nề nhưng vẻ vang và hoàn thành tốt nhiệm vụ đó” và yêu cầu phải xây dựng “thế hệ sinh viên Việt nam ngày nay tiếp nối xuất sắc truyền thống vẻ vang của các thế hệ cha anh đi trước, là một thế hệ sinh viên yêu nước nồng nàn, giác ngộ lý tưởng cách mạng sâu sắc, kiên định con đường đã chọn; có học vấn cao, chuyên môn giỏi, thích ứng nhanh, có đạo đức, phẩm chất trong sáng, có chí lớn trong học tập, nghiên cứu, sáng tạo vươn lên tới đỉnh cao của khoa học và công nghệ, quyết tâm không cam chịu thua kém bất cứ ai: có tinh thần thương yêu gắn bó với nhân dân, có lối sống đẹp, trình độ thẩm mỹ lành mạnh và thể lực dồi dào [21, tr.27-28] Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định nhiệm vụ chung của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ là: “Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [12, tr.126] Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá X) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đã khẳng định vai trò, vị trí của thanh niên sinh viên: thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt vào ở vị trí trung tâm chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Hiện nay, sinh viên đang và sẽ là lực lượng chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiều người trong số họ sẽ trở thành những cán bộ chủ chốt trong các ngành kinh tế - xã hội. Sinh viên là lực lượng tiêu biểu cho tiến bộ xã hội và đang tự vươn lên để khẳng định vị trí của mình, tham gia vào đời sống chính trị và kinh tế của xã hội mới, văn minh và hiện đại. Sinh viên Việt Nam hiện nay tích cực tham gia vào sự nghiệp đổi mới, góp phần vào việc đưa đất nước hội nhập khu vực và thế giới, nhằm phát triển nhanh kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, coi đó là sự định hướng lý tưởng, niềm tin của tuổi trẻ và là cương lĩnh hành động của sinh viên hiện nay. Như vậy, khi nói đến vị trí, vai trò của sinh viên cần nói đến vai trò xung kích trong học tập, phát huy trí tuệ tài năng và tính tích cực của họ, góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sinh viên cũng là lực lượng trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống và bản lĩnh, thiếu hiểu biết về chính trị nên dễ bị các thế lực xấu lôi kéo, kích động dẫn đến mất định hướng chính trị, làm những việc có hại cho Đảng, cho nhân dân, đất nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng như toàn xã hội cần phải quan tâm, phát hiện và dự báo được nhu cầu, lợi ích của sinh viên. Đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay để xác định nhiệm vụ, vai trò cho sinh viên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng đạo đức mới cho sinh viên là đòi hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hoá. Sinh viên hiện nay, là những người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới, là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến đổi vô cùng nhanh chóng của đất nước và thế giới. Sinh viên là những người có tri thức, có năng lực sáng tạo, nhạy cảm với mọi sự thay đổi, dễ dàng tiếp thu những cái mới, nên toàn cầu hoá đã tác động không nhỏ tới sinh viên. Sự tác động của toàn cầu hoá tới sinh viên diễn ra mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Tác động lớn nhất của toàn cầu hoá đối với sinh viên đó là đề cao ý thức cá nhân, tính cá nhân, là việc xem xét các giá trị đạo đức dưới lăng kính cá nhân. Tính cá nhân được coi như là một trong những thước đo của hành động, đạo đức hay phi đạo đức chỉ phụ thuộc vào một phần của những giá trị đạo đức do cộng đồng trước để lại, còn chủ yếu phụ thuộc vào mỗi cá nhân tạo thành cộng đồng mới hôm nay. Chính xu hướng toàn cầu hoá a đã tạo nên những chất xúc tác, đòn bẩy và cũng đặt ra những yêu cầu phải từ bỏ những giá trị quá khứ đã lỗi thời, không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Trong đó, sinh viên là lực lượng cơ bản. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đã làm biến đổi thang giá trị trong xã hội, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người. Nó tác động tới đạo đức sinh viên tạo ra sự đồng nhất tương đối giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của cộng đồng với những quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Với đặc điểm là trẻ tuổi, có tri thức và dễ dàng tiếp thu cái mới, lại được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hoá tiến trình giao lưu quốc tế, sinh viên ngày càng thích ứng nhanh với quá trình hội nhập quốc tế. Điều đó, đã tạo ra sự xích lại gần nhau của các giá trị đạo đức mang tính nhân loại trong tính cảm thông và cởi mở. Thực tế cho thấy, những biểu hiện các quan niệm đạo đức như: đấu tranh cho một thế giới hoà bình, dân chủ, tiến bộ; chống phân biệt chủng tộc; cùng nhau xây dựng hành tinh xanh; Sinh viên các nước trên thế giới chung tay vào đẩy lùi các đại dịch. Bên cạnh những cái chung đó, sinh viên Việt Nam đang chủ động hoà nhập thế giới, mở ra cơ hội giao lưu, học hỏi. Điều đó đã làm đa dạng hoá chuẩn mực đạo đức, nó không chỉ mang chuẩn mực của đạo đức của dân tộc, mà còn mang chuẩn mực tiến bộ, mang hơi thở của thời đại. Cùng với việc kế thừa và giữ gìn giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sinh viên cũng ngày càng có ý thức về sự hoà nhập, mở rộng phạm vị giao tiếp, tiếp thu những yếu tố đạo đức, tinh thần tốt đẹp từ bên ngoài. Vì vậy, đa số sinh viên vẫn giữ được phong cách, truyền thống dân tộc và lối sống lành mạnh, có ý thức và trách nhiệm về những vấn đề mang tính quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đã tạo điều kiện cho nhiều quan niệm mới về tốt, xấu, công bằng, bình đẳng, tự do, dân chủ xuất hiện. Những quan niệm mới này góp phần vào việc giải phóng về mặt tư tưởng những gì đã lỗi thời, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho những hành động có tính hiệu quả để tham gia vào thị trường nhân lực và các mối quan hệ khác trong xã hội. Những quy tắc ứng xử của sinh viên vì thế cũng biến đổi, các nguyên tắc được hướng tới mang tính hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Đó là các nguyên tắc xử lý nhanh, gọn, chuẩn xác phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nhất định, để đưa ra quyết định đúng đắn cho bản thân mình và xã hội. Nó định hướng giá trị cho sinh viên về cuộc sống hôm nay: có kiến thức, có bằng cấp, có việc làm, sống có mục đích. Họ vừa quan tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình và làm giàu chân chính, đồng thời coi trọng lợi ích chung của cộng đồng, đất nước. Học tập, rèn luyện để có kiến thức, kỹ năng tốt, là để lập thân, lập nghiệp, làm giàu cho mình và gia đình, và cống hiến cho xã hội, vì một đất nước phồn vinh, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá đã tạo điều kiện cho sinh viên mở rộng giao lưu học hỏi bạn bè trên thế giới, làm cho sinh viên hôm nay năng động hơn, quyết đoán hơn. Mặt khác, sinh viên vừa giữ gìn và phát huy được các giá trị đạo đức truyền thống, bồi đắp thêm những giá trị đạo đức mới trong quá trình giao lưu học hỏi, làm cho sức sống của các giá trị đạo đức truyền thống phù hợp với hoàn cảnh mới, làm cho nhiều giá trị đạo đức mang tính phổ quát hơn. Cùng với mặt tích cực, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng gây nên những tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức sinh viên. Trước hết là những biểu hiện có tính thực dụng trong quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử của một bộ phận sinh viên. Một số sinh viên có lối sống cá nhân, thực dụng, vật chất hoá trong các quan hệ ứng xử về: tình bạn, tình yêu, trong quan hệ thầy trò. Nhiều sinh viên không chịu rèn luyện, tu dưỡng, lười học, thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử, ý thức chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp chưa cao.. Hiện tượng mua bán bằng, điểm không còn là chuyện hiếm thấy…Một số sinh viên có thái độ bàng quan với những người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện, phong trào đền ơn, đáp nghĩa được phát động một cách rầm rộ. Sự hy sinh và quan tâm vì người khác ngày càng giảm sút, và nếu có cũng được xem xét dưới góc độ kinh tế. Nhiều sinh viên xuất hiện thái độ đòi hỏi về quyền lợi hơn là hy sinh, đòi hỏi hưởng thụ mà quên mất nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Coi trọng lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần, quan tâm tới lợi ích trước mắt hơn lợi ích lâu dài, lấy lợi ích kinh tế đặt lên trên giá trị đạo đức. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã du nhập lối sống và sản phẩm công nghệ hiện đại cho những nước đang phát triển, đã ảnh hưởng tới sinh viên một cách nhanh chóng, làm cho họ xa rời với đạo đức truyền thống. Ảnh hưởng lối sống cá nhân tự do phương Tây, nhiều sinh viên ngày nay có cái nhìn khác trước về tình yêu, tình dục trước hôn nhân. Vấn đề “yêu thử”, “sống thử” trong một bộ phận sinh viên đã để lại hậu quả nghiêm trọng. Sự lạnh lùng trong các quan hệ tình cảm đang có xu hướng lan dần trong sinh viên. Nhiều giá trị đạo đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt có quan niệm cho rằng, đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất trong mọi lúc, mọi nơi. Như vậy, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một làn sóng vô cùng mạnh mẽ kéo theo nhiều mọi quốc gia, nhiều dân tộc, nhiều gia đình và cả cá nhân vào cuộc. Cũng như sinh viên nhiều nước, sinh viên Việt Nam là đối tượng chịu ảnh hưởng khá mạnh của xu thế toàn cầu hoá. Họ là nguồn nhân lực đầy sức mạnh, trẻ và có tri thức, có khả năng tiếp cận nhanh chóng cái mới và thay đổi linh hoạt. Vì vậy, việc phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, có tác dụng to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cho nên, Đảng ta chỉ rõ: “ Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại” [17, tr.207] 1.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ 1.2.1. Nội dung xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt hơn đòi hỏi phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá và đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, Internet tạo thuận lợi cho giao lưu văn hoá, đồng thời đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc. Ở trong nước việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, triển khai thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 và đến 2020 sẽ tạo ra cho đất nước phát triển mới, những điều kiện vật chất đảm bảo đáp ứng tốt hơn cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển sinh viên. Tuy vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong những năm qua còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất mà Đảng ta xác định đó là tụt hậu về kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã dẫn tới tham ô, lãng phí, quan liêu đến mức trở thành “quốc nạn”. Thực tế trên đây đã tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong đời sống nhân dân, trong đó có tầng lớp sinh viên. Sinh viên là những con người trẻ tuổi, năng động, nhiệt tình, sôi nổi nhưng nhiều khi thiếu bản lĩnh trong cuộc sống. Để cho sinh viên có những định hướng đúng đắn trong các hoạt động xã hội của mình, cần phải giáo dục, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất nhân cách, những giá trị đạo đức mới mà nội dung của nó bao gồm: - Thứ nhất, giáo dục ý thức tự giác, sáng tạo, trong học tập và nghiên cứu khoa học cho sinh viên theo tinh thần “ Học tập - sáng tạo - hội nhập - phát triển”. Đất nước đang trong quá trình đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang phát triển một cách mạnh mẽ. Nền kinh tế tri thức đang chứng tỏ vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh viên thời hội nhập được đặt vào vị trí quan trọng có ý nghĩa quyết định tương lai của nước nhà. Sự kiện Việt Nam gia nhập vào WTO đã mở ra cánh cửa đầy tiềm năng và thách thức lớn cho thế hệ trẻ. Sinh viên Việt Nam thời kỳ hội nhập phải tự trang bị cho mình sự nhạy bén, bản lĩnh và kỹ năng để đáp ứng lại những yêu cầu xã hội đặt ra. Sinh viên Việt Nam phải nhận thức được rằng học tập và sáng tạo là nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất, học tập không chỉ có nghĩa là học kiến thức mà còn là khám phá tri thức, là nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ. Nhưng để việc học tập đạt kết quả tốt, cần phải tự đặt cho mình một cái đích, tự tìm ra cho mình một cách học hiểu quả, luôn khám phá và sáng tạo, biết kết hợp học đi đôi với hành. Trong nhiều năm qua, thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục nước nhà, các nhà trường đã quan tâm nhiều hơn tới việc học tập của sinh viên, từng bước đổi mới phương pháp giảng dạy, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng giảng đường, phòng thí nghiệm. Đa số sinh viên đã chủ động, tích cực học tập, tham gia nghiên cứu khoa học. Qua số liệu tổng hợp về kết quả giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy số công trình tham gia đoạt giải đã tăng 3,55 lần (năm 2007 so với năm 1998). Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo trao giải thưởng “sinh viên nghiên cứu khoa học” cho 593 công trình do 1.124 sinh viên thực hiện. Bảng 1.1: Số liệu tổng hợp kết quả giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo STT Năm Số công trình đoạt giải Giải nhất Giải nhì Giải ba Giải khuyến khích Số trường được khen thưởng 1 1998 167 15 26 36 90 17 2 1999 246 15 44 69 118 27 3 2000 296 20 62 90 124 24 4 2001 375 18 66 96 195 29 5 2002 427 19 75 97 236 30 6 2003 447 16 54 75 302 31 7 2004 476 15 56 76 329 7 8 2005 478 16 46 80 336 20 9 2006 511 14 52 82 363 25 10 2007 593 14 63 98 419 21 Nguồn: Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường Đại học, Học viện và Cao đẳng, Bộ Giáo dục và Đào tạo [69, tr.71]. Để chuẩn bị cho tương lai, để thích ứng với thị trường lao động đòi hỏi chất lượng cao, nhiều sinh viên một lúc còn học hai trường, phấn đấu học thêm ngoại ngữ, tin học và các môn bổ trợ khác. Theo một điều tra của Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục cho thấy 70% sinh viên học thêm ngoại ngữ, 30% sinh viên học thêm tin học và 25% sinh viên học thêm các môn khác. [21, tr.23]. Sinh viên đã có ý thức tham gia từng bước chủ động tham gia góp phần đổi mới quá trình đào tạo, từ phương pháp học thụ động chuyển dần sang phương pháp chủ động tiếp nhận, tổng hợp và phân tích thông tin theo hệ thống: nhiều sinh viên đã tự giác tự học tập, tự nghiên cứu. Bên cạnh những ưu điểm, tiến bộ nêu trên, hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên còn bộc lộ nhiều vấn đề. Trước hết, chúng ta có thể nhận thấy số lượng sinh viên tự học, tự nghiên cứu, chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học có tăng nhưng còn nhỏ và phân bố không đồng đều giữa các trường; hoạt động này chủ yếu tập trung vào các sinh viên học giỏi, một bộ phận học khá và thường tập trung vào những năm cuối đại học, gắn với việc làm khoá luận tốt nghiệp. Về phương pháp tự học, có đến 50,4% sinh viên chưa có phương pháp học cụ thể. Khảo sát tình hình sinh viên năm 2008 cho thấy có tới 75,2% sinh viên cho rằng “chất lượng học tập và rèn luyện của sinh viên gần đây thấp” là đúng. Trong đó nguyên nhân hàng đầu là do “bản thân sinh viên chưa tích cực” (69,9%), “Phương pháp học tập chưa tốt” (32,8%), “phương pháp đào tạo chưa phù hợp”. (28,6%) [23, tr.45]. Chất lượng nghiên cứu khoa học còn nhiều bất cập trên cả bốn tiêu chí: phương pháp nghiên cứu; nội dung nghiên cứu; hiệu quả kinh tế xã hội; giáo dục và cách trình bày công trình. Thời gian nghiên cứu không mang tính liên tục, xác lập đề tài thiếu vững chắc, không ít đề tài chung chung, thiếu tính sáng tạo. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối với thực tiễn đời sống và việc nâng cao chất lượng đào tạo chưa cao, bệnh hình thức, sao chép, trong nghiên cứu còn nhiều. Từ những vấn đề như trên, chúng tôi nhận thấy cần phải giáo dục ý thức tự giác, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học cho sinh viên theo tinh thần “ Học tập - sáng tạo - hội nhập - phát triển” mà Đại hội đại biểu Toàn quốc Hội Sinh viên việt Nam lần thứ VIII (tháng 2 năm 2009) đã đề ra. Sinh viên Việt Nam là những con người thông minh, can đảm, dám đương đầu với mọi thử thách của cuộc sống, và đặc biệt có năng lực tư duy sáng tạo không thua kém bạn bè trên thế giới. Nhưng điều đáng quý là năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên Việt Nam luôn được thể hiện những đóng góp về tri thức và sức lực vì sự độc lập của tổ quốc, sự phồn vinh của đất nước. Để tiếp tục phát huy tính tự giác và năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Theo chúng tôi, mỗi sinh viên Việt Nam cần phải xác định được các yêu cầu sau: Một là, sinh viên phải thấy rõ được vai trò tự học, tự rèn luyện là một trong những yếu tố quyết định đến kết quả học tập của mình. Tính tích cực tự giác của con người chỉ được hình thành dựa trên cơ sở nhận thức thế giới tự nhiên, xã hội và ngay chính bản thân mình. Ở trình độ nhận thức kinh nghiệm, việc tự giáo dục, tự rèn luyện mang tính tự phát, khi nhận thức con người vươn tới trình độ nhận thức lý luận khoa học thì tính tự giác được nâng lên. Tự học, tự rèn luyện, là quá trình tự thân vận động, là quá trình hướng nội, là sự chiến thắng chính bản thân mình, nó thể hiện tính tích cực của ý thức khi bản thân ý thức trở thành nguyên nhân tác động. Tự học, tự rèn luyện của sinh viên trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải có ý chí, nghị lực và quyết tâm rất cao, phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo. Để học tập tốt và vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của tri thức một cách chủ động, vững chắc, chúng ta hãy thực hiện theo lời khuyên của Bác Hồ: Học ở trong nhà trường, học trong sách vở, học trong nhân dân. Hai là, sinh viên xác định được mục tiêu học tập của mình và từ đó tìm ra được phương pháp học tập thích hợp. Để việc học tập có kết quả cao, trước tiên mỗi sinh viên cần xác định rõ mục tiêu cho việc học tập của mình trên giảng đường đại học. Mục tiêu sẽ là cái đích mà ta luôn hướng tới, mục tiêu càng cao thì động lực càng phải lớn để chúng ta đạt được nó. Khi đã có mục tiêu thì mỗi sinh viên cần tạo cho mình một phương pháp học tập đúng đắn phù hợp, làm sao để phương pháp mang lại kết quả tốt nhất. Ba là, Sinh viên phải tạo lập cho mình năng lực tư duy sáng tạo, đây là điều kiện cần thiết, hành trang để bước vào đời. Năng lực tư duy sáng tạo trở thành một trong những điều kiện cần thiết của mỗi sinh viên Việt Nam, làm cho khả năng tiếp thu tri thức và vận dụng tri thức trong cuộc sống một cách nhanh chóng, chính xác. Chính năng lực tư duy đã tạo nên bản lĩnh trí tuệ của sinh viên Việt Nam trong nền kinh tế tri thức và khả năng tiếp nhận, xử lý các thông tin của quá trình toàn cầu hoá. Năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên Việt Nam luôn được thể hiện ở những đóng góp về tri thức và sức lực vì sự độc lập của Tổ quốc hay sự phồn vinh của đất nước. Bốn là, sinh viên phải xây dựng được kế hoạch học tập hợp lý, khoa học, sáng tạo. Kết quả học tập của sinh viên còn phụ thuộc vào việc lập kế hoạch và việc tổ chức việc học tập của mình. Để đưa ra một kế hoạch phù hợp và có tính khoa học, sinh viên cần phải lưu ý đến các vấn đề như môn học, tâm sinh lý, sức khoẻ. Đặc biệt, trong xây dựng kế hoạch học tập sinh viên cần phải chủ động thời gian tự học, tự tìm tòi để nâng cao trình độ. Xã hội ngày càng phát triển, học tập, sáng tạo, không chỉ dừng lại ở chỗ khám phá những điều mới mẻ mà sinh viên còn phải biết chắt lọc những giá trị văn hoá, những tri thức thật sự có ích cho cuộc sống. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế thì sự tương tác đa chiều ảnh hưởng tới tất cả các quốc gia trên thế giới. Điều đó tất yếu mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi con người, đặc biệt là sinh viên, thế hệ trẻ năng động, có tri thức phải biết phát huy năng lực tư duy sáng tạo để chắt lọc những giá trị tinh tuý trong kho tàng tri thức nhân loại nhằm phục vụ cho mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. - Thứ hai, giáo dục tinh thần tập thể, nêu cao chủ nghĩa tập thể cho sinh viên, tinh thần phục vụ nhân dân, Quá trình học tập, rèn luyện ở bậc đại học, cao đẳng không chỉ là quá trình giáo dục, đào tạo cho sinh viên có phẩm chất, năng lực tham gia vào quá trình sản xuất của xã hội, mà còn chuẩn bị cho họ khả năng bước vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, gia đình, giao tiếp, giải trí…Để có thể xứng đáng là người kế tục các thế hệ đi trước, mà còn là tương lai của đất nước, của dân tộc, đòi hỏi sinh viên phải được giáo dục tinh thần phục vụ nhân dân, nêu cao chủ nghĩa tập thể. Giáo dục tinh thần phục vụ nhân dân cho sinh viên là: chúng ta giáo dục trách nhiệm của sinh viên trước cộng đồng, trước mọi người, với tinh thần: “ Đâu cần sinh viên có, đâu khó có sinh viên”. Thể hiện tính tích cực của sinh viên trong các hoạt động mang tính chất chính trị - xã hội do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Rất nhiều sinh viên đã tích cực tham gia vào các hoạt động: chiến dịch sinh viên tình nguyện, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động tình nguyện khắc phục hậu quả thiên tai, hiến máu nhân đạo. Thực tế đã cho thấy, trong hoạt động lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội, mức độ sẵn sàng tham gia của sinh viên là 63,1%, hoạt động tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng là 71,1%, hoạt động bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội chiếm 63,3%, hoạt động cải cách hành chính 40,3%, hoạt động trong hội nhập kinh tế quốc dân 53,1% [23, tr.41]. Hình ảnh những sinh viên tình nguyện toả về mọi miền đất nước, về với nhân dân “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với nhân dân”. Nó có sức lan toả cực kỳ lớn trong cộng đồng xã hội, đồng thời cũng tác động trở lại định hướng giá trị, lối sống của sinh viên: sống vì mọi người, vì cộng đồng, vì sự phát triển xã hội. Sinh viên đã không lãnh đạm, thờ ơ với cuộc sống, ngược lại họ sẵn sàng cống hiến, hy sinh lợi ích cá nhân vì cộng động và đất nước. Kết quả của phong trào sinh viên tình nguyện với các hoạt động phong phú: Các hoạt động tình nguyện tại chỗ đã duy trì 568 đội an ninh xung kích, câu lạc bộ phong chống tệ nạn xã hội với 50,867 lượt sinh viên tham; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, chung sức cùng cộng đồng, đã có 683.000 đơn vị máu do sinh viên tình nguyện hiến, tổ chức rất nhiều đợt tình nguyện chăm sóc các thương, bệnh binh tại trung tâm điều dưỡng; chiến dịch sinh viên tình nguyện hè đã có 3 triệu lượt sinh viên tham gia, thành lập 25.000 đội hình chuyên trách với sự tham gia của 400.000 sinh viên tình nguyện; chương trình tiếp sức mùa thi đã thu hút 135.201 sinh viên tham gia, tư vấn hỗ trợ 1,7 triệu lượt thí sinh, giới thiệu 976.307 chỗ trọ giá rẻ hoặc miễn phí. Có nhiều sinh viên tình nguyện đã ngã xuống khi còn đang làm nhiệm vụ: sinh viên Nguyễn Văn Ưng - Trường Cao đẳng kỹ thuật Vinh; Sinh viên Nguyễn Anh Tuấn - Trường Đại học sư phạm Hà Nội; sinh viên Bùi Khôi Nguyên - Trường Đại học Cần Thơ; sinh viên Mai Thị Lan Hương - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội; sinh viên Nguyễn Thị Thanh Lệ - Học viện Báo chí và Tuyên truyền v.v.. Sự hy sinh của những sinh viên tình nguyện sẽ mãi mãi là tấm gương sáng về thế hệ sinh viên năng động, trách nhiệm vì cộng đồng, vì nhân dân mà phục vụ, vì sự phồn vinh của đất nước. Bên cạnh những sinh viên tích cực, vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa sẵn sàng tham gia vào các hoạt động vì cuộc sống cộng đồng, họ xa rời với tập thể. Chính vì vậy cần phải giáo dục cho sinh viên tinh thần vì dân mà phục vụ, đến với nhân dân là đến với trường học thứ hai của mình. Đây chính là quá trình học đi đôi với hành, trên giảng đường là học kiến thức khoa học, đến với nhân dân là vận dụng kiến thức đó để giải quyết mọi vấn đề. Phục vụ nhân dân với tinh thần tự giác, trách nhiệm, được xem như là phẩm chất đạo đức của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Hợp tác và cạnh tranh, hội nhập và phát triển đang là xu thế chung hiện nay, vì vậy, sự quan tâm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau - một đòi tất yếu đối với mọi người, trong đó có tầng lớp sinh viên. Giáo dục cho sinh viên về chủ nghĩa tập thể: là sự thống nhất tự giác của cá nhân vì lý tưởng cao quý của con người. Nó biểu hiện bằng sự thống nhất của tình bạn, tình đồng chí, tình đồng nghiệp, tinh thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau nhằm đảm bảo cho các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ cho lợi ích xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, điều đó yêu cầu người sinh viên phải biết kết hợp hài hoà các lợi ích. Phát huy được ý thức của mỗi người về mình, về tập thể và toàn xã hội là tất yếu, nó không chỉ là tình cảm mà còn là nghĩa vụ đạo đức của mỗi sinh viên., Giáo dục chủ nghĩa tập thể cho sinh viên cần nêu những gương sáng của các cá nhân đã hy sinh bản thân, lợi ích cá nhân cho tập thể, như: Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm, và những sinh viên tình nguyện đã ngã xuống trong lúc làm nhiệm vụ để mọi người noi theo. Từ các tấm gương ấy có tác dụng làm lay động tâm hồn lớp trẻ, bồi dưỡng tình cảm đạo đức cao đẹp cho họ, giúp họ có niềm tin yêu đối với tập thể, với mọi con người trong tập thể đó. Hiện nay, đất nước ta đang chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những mặt tích cực, bản thân nền kinh tế thị trường cũng tạo nên những yếu tố tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức xã hội. Một bộ phận sinh viên hiện nay có lối sống thực dụng, đặt mục tiêu kinh tế lên hàng đầu, chỉ biết lo cho quyền lợi cá nhân, không quan tâm tới quyền lợi của tập thể. Đứng trước thực trạng đó, giáo dục đạo đức mới về chủ nghĩa tập thể cho sinh viên không thể xem nhẹ, nó đòi sự phối kết hợp của nhiều cơ quan chức năng, để cùng thực hiện một nhiệm vụ chung đó là: tạo ra một thế hệ sinh viên Việt Nam biết hy sinh vì tập thể, quan tâm tới lợi ích cộng đồng, để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. - Thứ ba giáo dục chủ nghĩa yêu nước,tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong tình hình mới. Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, có một ý nghĩa đặc biệt đòi hỏi chúng ta cần phải nhận thức một cách đầy đủ về tính chất, nội dung, đặc điểm, mâu thuẫn và mục tiêu đi tới của nó, trên cơ sở đó giáo dục cho sinh viên lòng yêu nước và tinh thần quốc tế phù hợp với hoàn cảnh lịc sử mới, trong đó có vấn đề về đấu tranh chống mọi âm mưu của các thế lực thù địch đối với hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta, nó nổi lên như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ xưa tới nay, đó là bảng giá trị văn hoá tinh thần lớn nhất của người việt. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên hiện nay là giáo dục: “ tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc và khát vọng được phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [19, tr.63] Giáo dục chủ nghĩa yêu nước để hình thành nhân cách cho sinh viên là làm cho sinh viên nhận thức được rằng yêu nước, yêu quê hương mình là bậc thang cao nhất trong hệ giá trị đạo đức Việt Nam. Từ nhận thức đó, giúp sinh viên biết chuyển giá trị đạo đức ấy từ yêu cầu bên ngoài thành nhu cầu, khát vọng bên trong đối với mỗi người. Sinh viên là lớp người mới lớn lên, đang trưởng thành, đang phát triển, họ thừa hưởng những thành quả của cách mạng do các thế hệ đi trước để lại, như thừa hưởng ánh sáng tự nhiên, khiến cho nhiều sinh viên không quan tâm đến nguyên nhân của thành quả đó. Chúng ta phải làm sao để sinh viên hiểu rằng, nếu như các thế hệ cha ông trước đây đã phải đổ xương máu giành lấy độc lập, thì ngày nay nhiệm vụ của thế hệ trẻ phải tiếp tục kế thừa và tiếp nối thế hệ cha anh đi trước. Như Bác Hồ đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” Trong công cuộc đổi mới đất nước, sinh viên phải tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, của quê hương, thể hiện rõ tính năng động, sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao ý chí tự lực, tự cường vươn lên lập thân, lập nghiệp. Phong trào sinh viên tình nguyện, phong trào tiến quân vào khoa học công nghệ, phong trào hiến máu nhân đạo, tiếp sức mùa thi, các phong trào đó đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Để tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được thì mỗi sinh viên Việt Nam phải biến chủ nghĩa yêu nước, cùng với lòng kính trọng nhân dân, với Tổ quốc thành tình cảm đạo đức, thành niềm tin, thành sức mạnh. Để sinh viên Việt Nam ra sức học tập, rèn luyện tu dưỡng phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, sánh ngang với các nước trên thế giới. Hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng âm mưu “diễn biến hoà bình” là một nguy cơ đối với chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. “Diễn biến hoà bình” đã có sự thích nghi lịch sử mới khi chúng đi từ chiến lược “kiềm chế”, đến chiến lược “mở rộng” và hai vũ khí kinh tế, văn hoá được nguỵ trang dưới chiêu bài “dân chủ hoá về chính trị”, “tự do hoá về kinh tế” đang tấn công trực tiếp chống phá công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của chúng ta. Các thế lực thù địch cũng đã sử dụng “diễn biến hoà bình” đối với sinh viên, làm cho một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, không tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước tình hình đó, giáo dục đạo đức mới cho sinh viên, chúng ta phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế mà: Biểu hiện của nó là lòng trung thành và tin tưởng không những đối với tổ quốc mình, với nhân dân lao động, mà còn đối với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, với các dân tộc bị áp bức; đoàn kết với các nước đang đấu tranh của những người lao động và của các dân tộc vì độc lập, bảo vệ chủ quyền của mỗi nước, vì hoà bình, hữu nghị và sự tiến bộ. Tinh thần dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ với tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung; lợi ích dân tộc gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích của tiến bộ xã hội. Hành động của sinh viên lúc này, là phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát huy tài năng, sức trẻ, thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện được mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Phát huy được tinh thần chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, là thực hiện phát triển truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc để xử lý một cách thận trọng, sáng tạo các quan hệ văn hoá, giao lưu trong hội nhập quốc tế. - Thứ tư giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản Trong quá trình phát triển lịch sử tư tưởng của xã hội loài người, những tư tưởng nhân đạo đã hình thành một cách tự phát trong cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức bóc lột và chống lại những hành vi vi phạm đạo đức. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XV-XVI cùng với phong trào phục hưng về văn hoá, chủ nghĩa nhân đạo mới hình thành trên một số nét cơ bản. Những tư tưởng tiến bộ về bảo vệ phẩm giá, sự tự do và phát triển toàn diện con người, bảo vệ tính người, phù hợp với lợi ích giai cấp tư sản đang lên. Nhìn chung chủ nghĩa nhân đạo còn mang tính chất trừu tượng, kêu gọi tình thương chung chung và không thể hiện được trong thực tế cuộc sống. Thực chất bản chất của chủ nghĩa nhân đạo là: Thể hiện thái độ thiện chí, có sự cảm thông, có tình thương yêu sâu sắc của con người đối với con người. Sự tận tuỵ phục vụ lợi ích của con người, đem lại tự do hạnh phúc cho con người, nó thủ tiêu tất cả mọi sự áp bức bóc lột, mọi bất bình đẳng trong xã hội, mọi người đều tự do, được thể hiện đầy đủ quyền làm người [35, tr.77] Hiện nay, trên thế giới vẫn còn tình trạng áp bức, bóc lột, vẫn còn chủ nghĩa phân biệt chủng tộc; quyền con người vẫn chưa được đảm bảo khi một quốc gia có chủ quyền vẫn bị các nước khác xâm lược; vẫn còn sự bành trướng của một số nước lớn đưa ra những áp đặt để khống chế sự phát triển của các nước yếu hơn; chủ nghĩa khủng bố đã đe doạ cuộc sống an toàn của mọi người dân. Chưa bao giờ thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu khó giải quyết như hiện nay. Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cho nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là: tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội; lao động và việc làm. Ngoài ra là vấn đề bệnh dịch, ô nhiễm môi trường. Đặc biệt là sự suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên v.v…Tất cả những vấn đề đó, đang hàng ngày, hàng giờ tác động tới nhận thức của sinh viên, chi phối hoạt động học tập và rèn luyện của họ. Để trang bị cho sinh viên có đủ bản lĩnh, trí tuệ để nhận thức và đấu tranh với những biểu hiện sai trái, tham gia tích cực vào xây dựng cuộc sống ngày tốt đẹp hơn. Cần phải giáo dục cho sinh viên tinh thần chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, đây là biện pháp tốt nhất để họ rèn luyện và phấn đấu trở thành người công dân tốt, công dân mẫu mực. Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản cho sinh viên, là giáo dục : Thái độ có thiện chí, có sự cảm thông, có tình thương yêu sâu sắc của con người đối với con người. Sự tận tuỵ phục vụ lợi ích của con người, đem lại tự do hạnh phúc cho con người, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức, mọi bất bình đẳng trong xã hội, mọi người đều được tự do, được thực hiện quyền đầy đủ trong xã hội, trong đó đặc biệt là quyền làm người. Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản cho sinh viên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là đòi hỏi sinh viên phải có lòng căm thù sâu sắc với mọi tội ác và mọi hành vi vô nhân đạo. Sự căm thù ấy phải thể hiện thành ý chí, tinh thần dũng cảm đấu tranh chống sự xâm lược và nô dịch của kẻ thù. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi mỗi sinh viên phải biết chống lại những thói hư tật xấu, chống lại những biểu hiện xâm hại đến lợi ích chính đáng của nhân dân lao động. Tích cực đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, chống lại những hủ tục, chống lại tư duy bảo thủ trì trệ và tích cực tham gia vào việc xây dựng nếp sống mới, lối sống mới. Khi sinh viên đã được giác ngộ, thấy được trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đổi mới là từng bước xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là chúng ta đang vươn tới khát vọng: Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cho nên mỗi sinh viên Việt Nam cần phải phát huy tinh thần đoàn kết, góp phần xây dựng khối đoàn kết và tương trợ lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Thực hiện chủ trương: Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động hội nhập và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [17, tr.112]. Từ quan điểm đó, mỗi sinh viên Việt Nam cần phải phát huy trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội để xây dựng một xã hội phát triển nhanh, ổn định, hoà bình, dân chủ và tiến bộ. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, một nội dung của đạo đức mới cần được giáo dục cho sinh viên, làm cho sinh viên biến tinh thần, tư tưởng và tình cảm nhân đạo thành hành động cụ thể. Giúp sinh viên phát huy hết nỗ lực trong lao động, học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học để đem lại nhiều lợi ích cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Đạo đức của chủ nghĩa xã hội là sống và phấn đấu vì nhân dân lao động, vì dân tộc mình và các dân tộc trên thế giới. Trong chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa nhân văn có những chân trời phát triển rộng lớn, đạo đức của con người luôn luôn đổi mới, cao hơn chứ không ngừng trệ lại” [2, tr.32]. Như vậy, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất, là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, mà mỗi sinh viên cần được trang bị để trở thành những cán bộ, những nhà khoa học “ vừa hồng, vừa chuyên”. 1.2.2. Yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay Thứ nhất : Xây dựng đạo đức mới cho sinh viên phải hướng tới xây dựng nhân cách sinh viên phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới. Trong từng giai đoạn cách mạng, sinh viên Việt Nam đã từng gắn bó với Tổ quốc, với nhân dân, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tri thức được coi là vốn liếng quý báu của dân tộc, trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia, vai trò của giới trí thức không ngừng tăng lên với tư cách là nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Trong hoàn cảnh đó, sinh viên Việt Nam - nguồn dự trữ chủ yếu bổ sung cho đội ngũ tri thức trong tương lai có vai trò hết sức to lớn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” [11, tr.19]. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đặt ra yêu cầu rất lớn về nguồn lực con người, vì nó quyết định sự thành bại của quá trình đó. Đó là nguồn lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt. Đứng trước yêu cầu đó, các thế hệ sinh viên cần được giáo dục và đào tạo một cách có hệ thống, được rèn luyện và phát triển toàn diện nhân cách. Thông qua hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động chính trị - xã hội tạo ra một lớp người lao động mới. Họ là những người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, có tri thức, năng lực làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, có khả năng đổi mới và hiện đại hoá những công nghệ truyền thống, từng bước xây dựng công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong bài phát biểu tại Đại hội lần thứ V Hội Sinh viên Việt Nam, Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: “sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định; trong đó sinh viên là bộ phận có vai trò hết sức quan trọng” [62, tr.177]. Để có được nhân cách sinh viên phát triển toàn diện, đáp ứng được nhu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì không còn con đường nào ngắn hơn và tốt hơn là việc tăng cường giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức mới cho sinh viên. Thứ hai : Xây dựng đạo đức mới cho sinh viên phải trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc với những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại. Trong quá trình đổi mới của đất nước, dưới sự tác động của hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hoá, hệ thống giá trị đạo đức xã hội hiện nay có sự đan xen giữa hệ giá trị đạo đức truyền thống và hệ giá trị đạo đức của nhân loại. Xây dựng đạo đức mới cho sinh viên hiện nay là chúng ta phải biết kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Như tình thần yêu nước, lòng nhân ái, thuỷ chung, yêu lao động, đức tính siêng năng, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, ý thức cộng đồng, tình nghĩa…là những giá trị đạo đức mang tính ổn định tương đối được lưu truyền qua các thế hệ, góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức của từng cá nhân và toàn xã hội. Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc” [8, tr.111]. Sinh viên - một tầng lớp xã hội đặc thù, với đặc điểm tâm sinh lý tuổi trẻ: năng động, dễ tiếp thu cái mới v.v. nhưng chính độ tuổi này cũng có những hạn chế nhất định, nhất là việc kế thừa các giá trị truyền thống, trong đó có các giá trị đạo đức. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, không ít sinh viên có tư tưởng sùng ngoại, chạy theo lối sống thực dụng, các giá trị hiện đại có xu hướng lấn át các giá trị truyền thống tốt đẹp. Vì thế, càng đi sâu vào hội nhập với khu vực và thế giới, chúng ta càng phải giáo dục cho sinh viên biết kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức của dân tộc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, biết tiếp biến tinh hoa văn hoá của nhân loại để không ngừng hoàn thiện mình. Những giá trị đạo đức mang tính phổ quát của nhân loại như: quyền tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng v.v.. Đó là những giá trị đạo đức được nhân loại xây dựng nên qua rất nhiều thế hệ, trong bối cảnh hiện nay những giá trị đạo đức đó cần phải được tăng cường giáo dục lại cho thế hệ trẻ các nước. Đất n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan