Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán công thương

Tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán công thương: LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK Công thương Lời nói đầu Sau thời gian hơn ba năm, hoạt động của TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh bước đầu được đánh giá là khá thành công và là sự ghi nhận bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính Việt nam. Trong hoạt động của TTCK không thể không nhắc đến các CTCK với vai trò là định chế trung gian tham gia thị trường. Các CTCK giúp cho việc lưu thông hàng hóa diễn ra suôn sẻ, tấp nập, làm cho TTCK trở nên sôi động hơn, hoạt động có hiệu quả hơn và qua đó, một lượng vốn nhàn rỗi được đưa vào đầu tư cho phát triển kinh tế từ những cố gắng và nỗ lực của các CTCK đã góp phần làm nên một diện mạo của TTCK Việt nam. Là một trong những CTCK sớm đi vào hoạt động ngay từ những ngày đầu của TTCK, với số vốn ban đầu được coi là lớn và đã đạt được 1 số thành công nhất định, song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập trong quá trình tác nghiệp. Công ty được ...

pdf61 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1062 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán công thương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK Công thương Lời nói đầu Sau thời gian hơn ba năm, hoạt động của TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh bước đầu được đánh giá là khá thành công và là sự ghi nhận bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính Việt nam. Trong hoạt động của TTCK không thể không nhắc đến các CTCK với vai trò là định chế trung gian tham gia thị trường. Các CTCK giúp cho việc lưu thông hàng hóa diễn ra suôn sẻ, tấp nập, làm cho TTCK trở nên sôi động hơn, hoạt động có hiệu quả hơn và qua đó, một lượng vốn nhàn rỗi được đưa vào đầu tư cho phát triển kinh tế từ những cố gắng và nỗ lực của các CTCK đã góp phần làm nên một diện mạo của TTCK Việt nam. Là một trong những CTCK sớm đi vào hoạt động ngay từ những ngày đầu của TTCK, với số vốn ban đầu được coi là lớn và đã đạt được 1 số thành công nhất định, song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập trong quá trình tác nghiệp. Công ty được đánh giá là hoạt động tương đối hiệu quả trong nghiệp vụ môi giới và có nhiều nghiệp vụ phụ trợ từ phía Ngân hàng mẹ. Trong những năm tới, hàng hóa trên thị trường sẽ đa dạng và phong phú hơn, nhu cầu tư vấn tái cơ cấu, chuyển đổi, cổ phần hóa, bảo lãnh phát hành và niêm yết của các doanh nghiệp và nhu cầu đầu tư chứng khoán trong dân chúng trên TTCK sẽ gia tăng. Đây là cơ hội lớn đối với TTCK và các CTCK. Để khẳng định được mình, yêu cầu đặt ra cho CTCK Công thương là phải tìm ra các giải pháp để đứng vững trong điều kiện thị trường kém sôi động hiện thời và có thể thích ứng với tình hình mới trong tương lai. Xuất phát từ ý tưởng đó, em đã lựa chọn nghiên cứu để tài “nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK Công thương”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra đánh giá về thực tế triển khai các nghiệp vụ tại CTCK Công thương thời gian qua, phân tích những mặt được, những mặt hạn chế để từ đó đề ra một số giải pháp cho công ty trong qua trình hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ của mình. Chương 1 Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán 1.1. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán Cùng với sự vận động và phát triển kinh tế, nhu cầu đầu tư và tích luỹ trong xã hội không ngừng tăng và ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ đó trong nền kinh tế cũng hình thành nên một cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư. Lúc đầu sẽ xuất hiện những khoản vay trực tiếp, dựa trên quan hệ quen biết cá nhân để giải quyết nhu cầu vốn của mình. Tuy nhiên khi cung cầu vốn tăng lên thì hình thức này không đáp ứng được nữa. Thực tế đòi hỏi phải xuất hiện các trung gian tài chính, mặt khác do nhu cầu về các khoản vốn lớn nên phải có các cách khác nhau để vay vốn. Các nhà đầu tư phát hành ra chứng khoán để vay vốn. Thị trường tài chính xuất hiện. Thị trường chứng khoán nằm trong thị trường tài chính dài hạn thông qua cơ chế tài trợ trực tiếp, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán dài hạn. Cho tới nay, thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. 1.1.1.Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường phát triển.Thị trường chứng khoán là chiếc cầu nối vô hình giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Một thị trường chứng khoán lành mạnh và hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, tạo sự lành mạnh trong việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất. Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế . Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi bán lại chứng khoán trên thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu tư từ ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều hoà vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ ‘‘tính ỳ’’ của đầu tư trong sản xuất, tạo ra những động năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính, là chất xúc tác quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy các hoạt động kinh tế . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường chứng khoán thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế, tài chính. Bên cạnh việc tăng thu ngân sách từ thuế, Nhà nước thường sử dụng biện pháp phát hành trái phiếu Nhà nước-một hình thức tín dụng Nhà nước, trong đó Nhà nước vay tiền của công chúng. Thị trường chứng khoán còn là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia. Các thị giá chứng khoán được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản ánh giá trị phần tài sản Có của doanh nghiệp, mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn lành mạnh, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt đẹp thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty mới cao và ngược lại. Ngoài ra, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Rõ ràng, với cách thức hoạt động mềm dẻo linh hoạt của thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán đã phát huy vai trò tích cực và có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. 1.1.2. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán thường nhìn vào 3 mục tiêu lớn: hoạt động có hiệu quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, thị trường chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau : Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thực hiện thông qua môi giới trung gian. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. Nguyên tắc trung gian đảm bảo cho thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Có tác dụng đảm bảo an toàn về chứng khoán, tránh chứng khoán giả mạo, trộm cắp chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của sàn giao dịch. Điều này thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán tập trung – tức là Sở giao dịch chứng khoán. Nguyên tắc đấu giá: Mục tiêu của thị trường chứng khoán là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có thể xác định căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị trường. Vì vậy thị trường chứng khoán được coi là thị trường mang tính tự do nhất trong các loại thị trường. Nguyên tắc công khai thông tin : Để đảm bảo công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán, đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao dịch.Việc công khai thông tin về thị trường chứng khoán đòi hỏi thoả mãn các yêu cầu về tính chính xác, tính kịp thời và tính dễ dàng. Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp quy, các đạo luật, các quy chế, điều lệ của từng thị trường chứng khoán, nhằm bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của thị trường chứng khoán, tạo điều kiện ổn định và phát triển thị trường chứng khoán. 1.1.3. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán, hàng hoá của thị trường bao gồm nhiều loại. Nhưng xét về mặt lịch sử và theo cách gọi có tính thống nhất, các loại hàng hoá này đều có tên là chứng khoán. Có thể hiểu khái quát chứng khoán là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử (bút toán ghi sổ) xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ chứng khoán và có thể được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán Thông thường chứng khoán gồm 3 loại cơ bản là: Chứng khoán vốn: Cổ phiếu (Equity securities); Chứng khoán nợ: Trái phiếu (Debt securities); Chứng khoán phái sinh: Các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán (Derivatives). Cổ phiếu: Là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và vốn của công ty cổ phần, do đó nó được coi là một tài sản thực sự. Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông. Các cổ đông được hưởng quyền lợi hợp pháp tại công ty cổ phần tuỳ theo tỉ lệ vốn tham gia vào công ty cổ phần đó. Trái phiếu: Là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối vớ người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Các chứng khoán phái sinh: Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các giao dịch mua bán các chứng khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có các giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng quyền, chứng khế, quyền lựa chọn…Các chứng từ tài chính nay được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh. 1.1.4. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động theo nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể trung gian chứng khoán, chủ thể quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán và các tổ chức có liên quan. Chủ thể phát hành: Đây là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán và bán cho những người đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng khoán. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác theo qui định của pháp luật. Chủ thể đầu tư: Người đầu tư là người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư và thị trường chứng khoán bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Có 2 loại chủ thể đầu tư là nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức đầu tư. Chủ thể trung gian chứng khoán: Nhà trung gian chứng khoán có thể hoạt động với tư cách là nhà trung gian cá nhân, tổ chức trung gian ( pháp nhân ). Vai trò chủ yếu của nhà trung gian chứng khoán là kinh doanh, môi giới và bảo lãnh chứng khoán, ngoài ra còn thực hiện các nghiệp vụ khác như tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua bán chịu chứng khoán ... Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán: Thực hiện việc quản lý và giám sát ngành công nghiệp chứng khoán là một cơ quan chuyên trách theo dõi, hỗ trợ, kiểm soát, chỉnh lý, điều hoà hoạt động các thị trường chứng khoán trong cả nước Các tổ chức liên quan: Ngoài các tổ chức trên, trên thị trường chứng khoán còn có các tổ chức quan trọng khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán như Sở giao dịch chứng khoán; tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán; tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán; Hiệp hội đầu tư chứng khoán; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán; công ty tín thác đầu tư; các tổ chức dịch vụ vi tính về chứng khoán; trung tâm đào tạo và hành nghề chứng khoán. 1.2. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán. 1.2.1 Mô hình tổ chức công ty chứng khoán. Trong hoạt động của thị trường chứng khoán, tuỳ theo luật định ở mỗi nước mà các Ngân hàng, tổ chức tín dụng hay công ty chứng khoán có vai trò nhất định trên thị trường. ở các nước kinh tế thị trường, trong hệ thống ngân hàng hoạt động theo mô hình ngân hàng chuyên doanh hay ngân hàng đa năng một phần, các công ty chứng khoán là các chủ thể quan trọng và đông đảo của thị trường chứng khoán, thực hiện nhiều nghiệp vụ cơ bản trong lĩnh vực này. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phổ biến về công ty chứng khoán sau: Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán: Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán, được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada... Mô hình này có ưu điểm là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, khả năng san bằng rủi ro trong kinh doanh bị hạn chế. Trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình này có xu hướng giảm dần sự hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ chứng khoán. Mô hình công ty đa năng: Có hai loại công ty đa năng, đó là công ty đa năng một phần và công ty đa năng hoàn toàn. Công ty đa năng một phần: ở đây các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con độc lập. Công ty đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh tổng hợp. Mô hình này có ưu điểm là kết hợp đa năng rất cao, do đó mà giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu như thị trường có biến động mạnh thì hoạt động kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các nghiệp vụ kinh doanh. Thường thường, các nước châu Âu, châu úc thường áp dụng mô hình công ty đa năng. 1.2.1.1. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Cơ cấu tổ chức một công ty chứng khoán có thể được xây dựng từ đơn giản đến phức tạp tuỳ theo qui mô của thị trường, phương thức kinh doanh của chủ sở hữu, khách hàng…, mặt khác, tuỳ thuộc vào tính chất sở hữu của công ty. Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban Giám đốc và Giám đốc điều hành công ty. Giúp việc cho Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán. Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán gồm các phòng chủ yếu sau: Hình 1: Sơ đồ tổ chức chung của công ty chứng khoán : Phòng giao dịch: Thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán và OTC. Thông thường, phòng giao dịch bao gồm ba bộ phận: Bộ phận môi giới cho khách hàng, bộ phận tự doanh, bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán. Chức năng chính của phòng giao dịch là nhận và thực hiện giao dịch tại Sở đối với các lệnh giao dịch. Các thông báo về việc giao dịch đã được thực hiện xong chuyển đến cho người đặt lệnh và cuối cùng chuyển các tờ lệnh cho phòng tài chính - kế toán để soạn các văn bản hợp đồng tương ứng và đưa dữ liệu sang bộ phận lưu trữ. Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán cung cấp cho các bộ phận của công ty, khách hàng các báo cáo về kinh tế và tình hình hoạt động của các công ty được niêm yết, tình hình thị trường và động thái giá chứng khoán, các nhà môi giới ra các quyết định mua bán chứng khoán có lợi nhất cho công ty và cho khách hàng của công ty. Phòng kế toán- tài chính: Phòng này có hai bộ phận chủ yếu là bộ phận kế toán và bộ phận tài chính. Bộ phận kế toán xử lý các hợp đồng và tài liệu giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận tài liệu từ khách hàng, lưu trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh…Bộ phận tài chính quản lý tài chính của Công ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền quản lý việc cho khách hàng vay tiền để đầu tư chứng khoán, thoả thuận với khách hàng trong Hội đồng quản trị Giám đốc Phó giám đốc Phòng giao dịch Phòng kế toán- tài chính Phòng marketi ng Phòng quản trị – hành chính Phòng lưu ký, đăng ký lưu trữ các giao dịch nhận thế chấp chứng khoán, bảo đảm việc tuân thủ tỷ lệ vốn cho vay trên tổng giá trị chứng khoán thế chấp. Bộ phận này thường thoả thuận với các ngân hàng để vay tiền từ ngân hàng, cho khách hàng vay và ký kết các văn bản thoả thuận thế chấp có liên quan. Phòng Marketing: Với chức năng chủ yếu là quan hệ với khách hàng của công ty, nhận lệnh từ khách hàng sau đó chuyển sang phòng giao dịch để thực hiện, nghiên cứu phát triển thị trường. Phòng quản trị – hành chính tổng hợp: Phòng này có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì cơ sở kinh doanh, văn phòng làm việc, trang thiết bị đồ dùng văn phòng nói chung, duy trì điện nước, nhà ăn..; tổ chức gặp gỡ, làm việc với các cơ quan hữu quan, các tổ chức quốc tế, tổ chức kinh doanh khác; ký kết và quản lý các hợp đồng tuyển dụng lao động, quản lý nhân sự... Phòng lưu ký, đăng ký và lưu trữ thông tin: Thực hiện các việc liên quan đến lưu ký, đăng ký chứng khoán và lưu giữ thông tin về giao dịch chứng khoán, về tài khoản của khách hàng... Trong trường hợp công ty chứng khoán được cấp quản lý tài sản khách hàng, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có thể thành lập phòng quản lý tài sản. Các phòng này đem lại cho công ty những thu nhập to lớn bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó. Trên thực tế, nhiều công ty chứng khoán chào bán rất nhiều chủng loại chứng khoán và loại hình khác nhau. Vì vậy, mỗi công ty chứng khoán là một thực thể riêng biệt và rất phức tạp, có cơ cấu hoạt động riêng và cơ cấu này luôn thay đổi theo thời gian. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng và phản ánh của nhiều nhân tố, về quản lý, về thị trường, về con người. Trình độ chuyên môn hoá cao độ dẫn đến phân cấp quản lý, nhiều khi các bộ phận trong tổ chức không phụ thuộc lẫn nhau. Bên cạnh đó, thị trường tài chính có ảnh hưởng lớn đến các Công ty chứng khoán, đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của công ty. Mọi hoạt động quản lý và chuyên môn trong công ty chứng khoán đều diễn ra trong bối cảnh của thị trường chứng khoán. Mặt khác trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng số một. Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Khách hàng tin tưởng vào người môi giới về mua bán chứng khoán, giá, thời điểm...Vì vậy nhân viên môi giới phải thực hiện nguyên tắc ‘‘biết khách hàng của mình’’, nắm khả năng tài chính của khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức kinh doanh và tôn trọng khách hàng, luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên trên hết. 1.2.1.2. Các loại công ty chứng khoán Các công ty chứng khoán thường được phân loại theo hình thức kinh doanh mà công ty tiến hành. Công ty môi giới : Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là một thành viên của Sở giao dịch chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu của công ty môi giới là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên. Công ty đầu tư ngân hàng: Loại công ty này phân phối những chứng khoán mới được phát hành cho công chúng qua việc mua chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại các chứng khoán này cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty này còn gọi là nhà bảo lãnh phát hành. Công ty giao dịch phi tập trung: Công ty này mua bán chứng khoán tại thị trường OTC. Hiện nay nhiều công ty chứng khoán có vốn lớn được phép hoạt động cả ba lĩnh vực trên. Công ty dịch vụ đa năng: Những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài ba dịch vụ trên, họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán, uỷ nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên thị trường OTC. Sự kết hợp giữa sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết định cơ sở cho những dịch vụ mà họ có thể cung cấp cho khách hàng. Công ty buôn bán chứng khoán: Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty tự chịu. Công ty phải cố gắng bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Vì vậy loại công ty này hoạt động với tư cách là người uỷ thác chứ không phải là đại lý nhận uỷ thác. Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: Loại công ty này nhận chênh lệch giá qua việc buôn bán chứng khoán, do đó họ còn được gọi là nhà tạo thị trường, nhất là trên thị trường giao dịch OTC. Các công ty chứng khoán là đối tượng quản lý của các nguyên tắc, qui chế do Uỷ ban chứng khoán ban hành. Các quy chế này chi phối hoạt động của các công ty này, kiểm soát họ trong quan hệ giữa các công ty chứng khoán với nhau và giữa công ty chứng khoán với khách hàng của họ. 1.2.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán Khi thực hiện các hoạt động của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo ra sản phẩm vì họ là đại lý hay uỷ thác trong quá trình mua bán chứng khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân đầu tư, công ty và cả Chính phủ nữa. Vai trò huy động vốn: Các công ty chứng khoán là các trung gian tài chính có vai trò huy động vốn, tức là họ là các kênh chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này qua các hoạt động về nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. Vai trò xác định giá cả chứng khoán: Thông qua Sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các công ty chứng khoán cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. Vai trò thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán: Các công ty chứng khoán thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất. Vai trò thúc đẩy vòng quay của chứng khoán: Các công ty chứng khoán cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Dịch vụ tư vấn tài chính: Các công ty chứng khoán với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư. Công ty có thể tư vấn về: thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư, triển vọng ngắn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các công ty trong thời gian hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán... Các sản phẩm đầu tư: Các sản phẩm hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính, sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị trường, vì mỗi sản phẩm tài chính có những quy trình riêng biệt và nhu cầu của khách hàng là đa dạng khác nhau. 1.2.2. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. Xuất phát từ nhu cầu khách quan và chủ quan trong những hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và người đầu tư nói riêng đòi hỏi công ty chứng khoán cung cấp rất nhiều các dịch vụ trung gian. Tuy nhiên, với phạm vi hoạt động khác nhau mà các công ty chứng khoán có thể cung cấp theo hướng chuyên môn hoá các nghiệp vụ sau: 1.2.2.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán. Giao dịch chứng khoán theo uỷ thác (môi giới): Công ty chứng khoán hoạt động nghiệp vụ môi giới với tư cách là một đại lý thay mặt khách hàng để giúp người bán và người mua gặp nhau thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường chứng khoán. Lượng hoa hồng từ nghiệp vụ này được hưởng theo một tỉ lệ nhất định trên tổng doanh số chứng khoán giao dịch hộ khách hàng và chính khách hàng phải chịu hậu quả kinh tế của giao dịch đó. Đây chính là hoạt động mua bán chứng khoán và là nghiệp vụ chủ yếu của các công ty chứng khoán. Sơ đồ quy trình giao dịch: (1): Mở tài khoản. Một khách hàng có thể mở một hoặc nhiều tài khoản ở một công ty chứng khoán, gồm có: tài khoản tiền mặt, tài khoản ký quỹ, tài khoản uỷ thác. (2): Đặt lệnh: Khi khách hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải đưa lệnh cho người đại diện có giấy phép đang giữ tài khoản của mình qua điện thoại, gặp trực tiếp hoặc Khách hàng Công ty chứng khoán Sở giao dịch (2) (1) (4) (5) (3) bằng thư từ. Khi đó công ty chứng khoán sẽ kiểm tra số khách hàng cần bán hoặc số tiền trên tài khoản đủ thanh toán cho số lượng chứng khoán cần mua cả về giá trị chứng khoán và các loại phí giao dịch hay không và luôn yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một phần chứng khoán cần bán hoặc một số tiền nhất định trên tài khoản khách hàng ở công ty heo một tỉ lệ nhất định. (3): Công ty chứng khoán chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện: Các lệnh mua bán chứng khoán niêm yết chuyển trực tiếp đến sàn giao dịch Sở giao dịch chứng khoán. Còn đối với các lệnh mua hoặc bán những chứng khoán không được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán của khách hàng vẫn được chuyển tới phòng thực hiện lệnh. (4): Xác nhận lệnh cho khách hàng: Sau khi lệnh được chuyển tới thị trường thích hợp để thực hiện, một báo cáo về việc thực hiện lệnh này được lập ra để thông báo lệnh đó có được thực hiện hay không, trong đó có hai liên, một liên giao cho khách hàng, một liên giao cho phòng kế toán làm căn cứ để thanh toán. (5): Thanh toán và giao hàng: Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền thông qua ngân hàng chỉ định thanh toán và người bán sẽ giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Sau khi đã hoàn tất các thủ tục, công ty sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng mở tại công ty chứng khoán. Trong trường hợp lệnh sai, sàn giao dịch vẫn thực hiện bình thường còn những sai sót sẽ do công ty điều chỉnh. Như vậy, với nghiệp vụ này, công ty chứng khoán là một trung gian mua bán chứng khoán hộ cho khách hàng nên được hưởng hoa hồng môi giới. Đó là khoản phí mà nhà môi giới quy định khách hàng phải trả về các dịch vụ mua bán chứng khoán. Tiền hoa hồng được tính theo phần trăm trên tổng giá trị một giao dịch, tuỳ theo quy định của từng công ty chứng khoán. Đồng thời với khoản thu nhập nhận được từ hoạt động môi giới thì công ty chứng khoán cũng phải chi một khoản cho việc nộp thuế, thuế sẽ được tính trên cơ sở tổng mức hoa hồng hay chiết khấu mà công ty nhận được. Trong quá trình thực hiện các bước của lệnh theo yêu cầu của khách hàng, công ty chứng khoán phải tuân thủ những quy định trong quy chế của công ty và pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để đảm bảo lợi ích và thuận tiện cho cả khách hàng và công ty chứng khoán. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán: Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh của công ty chứng khoán nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi của chính mình. Đây là nghiệp vụ kinh doanh rất phức tạp và khó khăn, nó có thể mang lại lợi nhuận cho công ty nhưng cũng có thể gây ra không ít rủi ro. Để thực hiện tốt nghiệp vụ này, các công ty chứng khoán phải có đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của thị trường để đưa ra được quyết định đầu tư chính xác, hợp lý. Các khoản thu của nghiệp vụ này gồm hai phần chủ yếu là cổ tức và lãi vốn (số chênh lệch giữa giá mua và giá bán) nhưng phần thu lãi vốn sẽ là phần chủ yếu. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán: Với đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường, có tiềm lực tài chính, các công ty chứng khoán hoạt động rất mạnh mẽ về nghiệp vụ nay. Đây là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát hành hay chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua chứng khoán để bán lại. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Thực chất nghiệp vụ này là nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng sẽ uỷ thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc mà đã được khách hàng thoả thuận. Thực hiện nghiệp vụ này cho khách hàng, công ty chứng khoán vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán nên công ty chứng khoán nhận được khoản phí quản lý bằng tỉ lệ phần trăm trên tổng số lợi nhuận thu về cho khách hàng. Đối với các nhà đầu tư thì việc uỷ thác đầu tư này đem lại cho họ rất nhiều lợi ích như giảm rủi ro, đảm bảo ổn định lợi nhuận, giảm chi phí giao dịch và nghiên cứu, hiệu quả đầu tư được đảm bảo hơn so với tự đầu tư, đặc biệt là đối với người đầu tư ít có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: Đây là nghiệp vụ uỷ thác của khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán. Thực hiện nghiệp vụ này khách hàng sẽ đưa số chứng khoán họ cần thu gỡ hộ đến công ty và ký hợp đồng với công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có trách nhiệm bảo quản, lưu giữ anh toàn cho các chứng khoán này. Công ty chứng khoán thu được khoản phí nghiệp vụ gần như không bị rủi ro, có điều kiện mở rộng các nghiệp vụ khác để thu hoa hồng, tăng thêm nguồn lợi, bảo quản chứng khoán như vật thế chấp cho một khoản vay của khách hàng. Nghiệp vụ thu lợi tức hộ khách hàng: Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện lưu ký, công ty chứng khoán phải phối hợp với trung tâm lưu ký chứng khoán, công ty phát hành chứng khoán và một ngân hàng chỉ định thanh toán để tổ chức theo dõi kỳ hạn thu lợi tức, tỉ lệ lợi tức, số lượng các loại chứng khoán, thu đủ và gửi báo cáo, trả lợi tức cho khách hàng. Nghiệp vụ tư vấn và đầu tư chứng khoán: Là hoạt động phân tích và đưa ra những vấn đề liên quan đến chứng khoán. Trong đó khách hàng được tư vấn về lựa chon công cụ đầu tư cho phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải tuân thủ theo các nguyên tắc tư vấn là khách quan, đầy đủ, chi tiết các thông tin liên quan đến công việc cần tư vấn, tôn trọng nguyện vọng của khách hàng, thông báo cho khách hàng biết về sự thay đổi của pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư của khách hàng. Làm sao cho khách hàng luôn hài lòng về quyết định đầu tư của họ chính là thành công của hoạt động tư vấn. 1.2.2.2. Các nghiệp vụ phụ trợ của công ty chứng khoán Hoạt động tín dụng: Khi khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không có đủ tiền thanh toán, công ty chứng khoán sẽ mua bán chứng khoán qua thị trường giao dịch mua bán chịu. Thị trường này mang tính chất một giao dịch thị trường bằng tiền mặt, mặc dù đứng trên quan điểm của khách hàng thì đây là một giao dịch kỳ hạn. Giao dịch mua bán chịu là biện pháp ngăn chặn việc lên giá chứng khoán có thể xảy ra trong tương lai và giúp cho việc lưu hành chứng khoán được trôi chảy hơn thông qua việc hỗ trợ giao dịch thị trường tiền mặt. Giao dịch mua bán chịu bao gồm việc cấp tín dụng dưới dạng tiền mặt cho khách hàng khi khách hàng mua chịu, còn khi khách hàng bán chịu, công ty chứng khoán sẽ cấp tín dụng dưới dạng cổ phiếu. Khách hàng muốn được giao dịch mua bán chịu phải có đủ tiền đảm bảo trong tài khoản tiền gửi ngân hàng. Tỉ lệ mua bán chịu sẽ xác định số tiền đảm bảo cần thiết. Quỹ quản lý trái phiếu: Sản phẩm của quỹ quản lý trái phiếu là trái phiếu công ty có bảo đảm, trái phiếu giao dịch...Có nhiều loại quản lý: Khách hàng có thể ký gửi tuỳ chọn, ký gửi cố định hoặc ký gửi từng phần. Giao dịch trái phiếu theo hợp đồng chuộc lại trái phiếu: Hợp đồng chuộc lại trái phiếu từ vòng đầu tư tại một thời điểm trong tương lai sẽ được hai bên ký kết tại thời điểm giao dịch hiện tại. Có nhiều loại chuộc lại: Chuộc lại chung qui định rõ khối lượng giao dịch, đơn vị mua bán, lãi suất cố định; Chuộc lại theo qui mô lớn qui định khối lượng giao dịch lớn, đơn vị giao dịch . Ký gửi đầu tư trái phiếu số lượng nhỏ để tiết kiệm thuế: Loại ký gửi này có ưu điểm lớn về thuế, điều kiện mở tài khoản đơn giản. ở đây, người đầu tư phải giữ trái phiếu trong một thời gian từ một năm đến hết hạn, thường là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn có nhiều hoạt động khác mang tính chất đặc biệt như huy động vốn ngắn hạn... Hiện nay, luật chứng khoán ở nhiều nước cho phép các công ty chứng khoán có thể thực hiện một, hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Số vốn điều lệ tối thiểu của công ty phải bằng số vốn điều lệ tương ứng với mỗi nghiệp vụ chứng khoán mà công ty được phép kinh doanh. 1.2.3. Nguyên tắc hoạt động và đạo đức nghề nghiệp. Các công ty chứng khoán đã được cấp giấy phép kinh doanh hoạt động theo các nguyên tắc bắt buộc: Giao dịch trung thực và công bằng,vì lợi ích của khách hàng; kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ, có tinh thần trách nhiệm. Phải có hợp đồng với khách hàng trước khi thực hiện dịch vụ, không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu sai về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động gây thiệt hại cho khách hàng. Bảo vệ tài sản của khách hàng bằng cách tách biệt tài sản của khách hàng với tài sản của mình. Đảm bảo nguồn vốn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng. Tổ chức và thực hiện công tác kiểm soát nội bộ, tổ chức và thực hiện hạch toán và quản lý tài chính theo qui định của pháp luật. Đảm bảo có đủ nhân viên kinh doanh chứng khoán có kỹ năng đã qua đào tạo và được giám sát kỹ lưỡng, không được bán chứng khoán mình không sỡ hữu hoặc không có lệnh bán của khách hàng, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền cho phép, không được nhận lệnh mua bán của khách hàng ngoài trụ sở công ty, không được tham gia hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi giấy phép hoạt động được cấp. Bên cạnh đó, cán bộ nhân viên công ty chứng khoán đều phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cơ bản trong giao dịch kinh doanh chứng khoán. Các nguyên tắc đó là: Trung thực và công bằng: Khi nhân viên tư vấn cho khách hàng hoặc hoạt động thay mặt cho khách hàng, họ phải đảm bảo tính độc lập, công khai và không thiên vị. Họ không được đòi hỏi, nhận, mời hay cho, tặng bất kỳ một món quà biếu hay hối lộ nào từ phía khách hàng hoặc dành cho khách hàng, nhất là khách hàng tiềm năng nhằm mưu cầu một sự cư xử ưu đãi và thiên vị so với các đối tượng khác. Ngoài ra, khi tính các loại phí, nhân viên không được tính vượt mức cho phép trong từng trường hợp cụ thể. Năng lực: Nhân viên phải nắm vững và tuân thủ các luật lệ, qui chế, qui định hiện hành liên quan đến giao dịch kinh doanh chứng khoán, cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư và các hoạt động khác có chức năng phụ trợ cho việc kinh doanh chứng khoán và cung cấp các dịch vụ đầu tư. Trong quá trình giao dịch với khách hàng, họ phải thể hiện là nhân viên có đủ năng lực cần thiết bao gồm cả việc đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn phù hợp để có thể làm tốt ở cương vị được giao phó. Thông tin về khách hàng: Nhân viên phải tiến hành tất cả các bước hợp lý để nhận biết một cách đầy đủ từng khách hàng, tình trạng tài chính, kinh nghiệm và mục đích đầu tư của từng khách hàng, để bảo vệ chính mình, bảo vệ đồng nghiệp và bảo vệ thị trường, nhân viên phải từ chối việc hành động thay mặt cho khách hàng hiện thời hay khách hàng tiềm năng nếu họ không có một hồ sơ rõ ràng. Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra yêu cầu, nhân viên phải cung cấp được đầy đủ các thông tin như: tên tuổi, địa chỉ, tình hình tài chính, danh mục đầu tư của khách hàng. Thông tin cho khách hàng: Nhân viên phải cung cấp cho khách hàng những thông tin đày đủ về công ty mình, các điều kiện thuận lợi hay hạn chế liên quan tới việc kinh doanh của khách hàng. Tất cả các thoả thuận về việc cung cấp dịch vụ giữa nhân viên với khách hàng, giữa công ty với khách hàng đều phải được viết bằng văn bản và phải được quy định đầy đủ, chi tiết. Sau khi thực hiện giao dịch cho khách hàng, nhân viên phải nhanh chóng xác nhận các đặc điểm chính của giao dịch như: ngày giờ giao dịch, loại chứng khoán giao dịch, giá cả và số lượng chứng khoán giao dịch. Bên cạnh đó, các thông tin liên quan tới công ty niêm yết đều phải công khai, rõ ràng minh bạch. Ưu tiên khách hàng: Nhân viên phải được xử lý các lệnh của khách hàng một cách công bằng và theo thứ tự thời gian nhận được chúng, đảm bảo rằng trong mọi trường hợp các lệnh của khách hàng phải được ưu tiên hơn so với lệnh của chính công ty mình. Xung đột về lợi ích: Trường hợp nhân viên có một lợi ích trong một giao dịch với khách hàng hoặc có mối quan hệ sẽ làm nảy sinh xung đột về lợi ích, họ phải tự giác không làm tư vấn cho khách hàng hoặc thực hiện các giao dịch đó trừ khi đã công khai hoá cho khách hàng biết được lợi ích đó và được khách hàng chấp nhận trước khi tiến hành vụ giao dịch và nhân viên cũng đảm bảo rằng họ đã làm mọi việc để khách hàng được đối xử công bằng Tuân thủ các qui định: Nhân viên phải chấp hành pháp luật, thực hiện và duy trì các biện pháp thích hợp để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, các nguyên tắc của cơ quan có thẩm quyền. Quy định về đạo đức nghề nghiệp mang tính định tính cao và đòi hỏi các cá nhân phải có ý thức tự giác thực hiện cùng với các quy tắc về hoạt động đảm bảo lợi ích của công chúng đầu tư và thị trường hoạt động lành mạnh. 1.3. Hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán và các nhân tố ảnh hưởng 1.3.1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán Tất cả các doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều phải đặt ra những mục tiêu cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó trước hết doanh nghiệp phải xác định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với sự biến động của thị trường. Đồng thời phải tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy hiệu quả kinh doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó đạt được hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường dựa trên các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. 1.3.1.1. Chỉ tiêu định lượng Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh a) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: Doanh lợi trên vốn = doanh kinhvèn Tæng vay l·inhuËn Lîi  b) Chỉ tiêu phản ánh doanh lợi trên doanh thu: Doanh lợi trên doanh thu = thu Doanh nhuËn Lîi c) Mức doanh lợi trên tổng tài sản: Lãi trên tài sản = ns¶ tµi Tæng nhuËn Lîi d) Hiệu năng vốn kinh doanh (năng suất): Doanh thu trên vốn = doanh kinhVèn thu Doanh e) Hiệu quả sử dụng tài sản cố định: Số vòng quay của TSCĐ = dÞnh cè ns¶ Tµi thu Doanh f) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu (tỷ suất lợi nhuận): Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = h­u së chñ Vèn nhuËn Lîi 1.3.1.2. Chỉ tiêu định tính. Chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh là những chỉ tiêu không thể lượng hoá được bằng con số. Chỉ tiêu này thường được đánh giá bởi thị trường, các nhà phân tích, đặc biệt là khách hàng. ở công ty chứng khoán chỉ tiêu định tính được nói đến là vị thế và uy tín của công ty trên thị trường. Điều này thể hiện ở định hướng hoạt động của công ty có phù hợp với tình hình thị trường, điều kiện thực tế của chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu của khách hàng hay không, chất lượng nhân sự trong công ty, vị trí địa lý của trụ sở công ty có thuận lợi về giao thông, có ở trung tâm hay không, đặc biệt là có chiến lược marketing phù hợp, từ đó công ty tạo ra được cách thức để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng ... Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì các chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các công ty càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi một công ty đạt được những tiêu chuẩn định tính cũng đồng nghĩa với việc tình hình kinh doanh của công ty rất có hiệu quả, có vị thế cạnh tranh cao trên thị trường và đạt được các tiêu chuẩn định lượng. Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ tiêu định lượng là tiền đề, là cơ sở để đạt được chỉ tiêu định tính, ngược lại chỉ tiêu định tính tác động trở lại để hoạt động kinh doanh của công ty thêm hiệu quả. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chứng khoán. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của một công ty. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty nào cũng luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì nó quyết định sự sống còn của công ty. Hoạt động kinh doanh của công ty lại chịu chi phối bởi rất nhiều các yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài công ty và chính vì thế hiệu quả kinh doanh của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố này. Là một mắt xích quan trọng của thị trường, những biến đổi của thị trường đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Nó có thể tạo cho công ty những nguy cơ hoặc cơ hội kinh doanh. Thị trường chịu sự tác động của các chính sách kinh tế chính trị xã hội của một quốc gia và tình hình kinh tế của toàn cầu. Những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội ổn định, vững mạnh sẽ tạo được lòng tin đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế cùng với hoạt động tài chính tiền tệ. Vấn đề thu nhập quốc dân của một quốc gia và thu nhập bình quân đầu người chính là những yếu tố tác động đến nhu cầu về số lượng hàng hoá, dịch vụ, về chủng loại, chất lượng, về thị hiếu... Trên cơ sở đó, hoạt động kinh doanh của các công ty nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng sẽ gặp nhiều thuận lợi. Các nhà đầu tư sẵn sàng hơn trong việc tham gia vào thị trường, các công ty cũng sẵn sàng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ làm tăng qui mô của thị trường nên những công ty biết đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sẽ là những công ty làm ăn có hiệu quả. Trong môi trường này, sự tăng trưởng, các chính sách kinh tế, lạm phát, biến động tài chính tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Ngược lại những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội bấp bênh, kém ổn định, xung đột xảy ra liên miên gây ra những cơn sốt, cú sốc, sức ép thị trường... thì các công ty chứng khoán cũng khó có thể hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các công ty tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo hướng không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh doanh của riêng bản thân công ty mà còn phải quan tâm đến hiệu quả của toàn xã hội. Cùng với điều này, thì nội dung của các chính sách quản lý kinh tế, chính sách quản lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mọi hoạt động kinh doanh chứng khoán đều phải nằm trong khuôn khổ của các quy định này. Chính vì thế, một chính sách quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán, dẫn đến sự phát triển của thị trường chứng khoán và toàn bộ nền kinh tế, trái lại, một chính sách cứng nhắc, thiếu hợp lý sẽ gây nhiều trở ngại cho sự phát triển của toàn bộ thị trường nói chung và đến sự phát triển của một công ty nói riêng. Một khi thị trường chứng khoán phát triển, có nghĩa là hàng hoá trên thị trường đa dạng và phong phú, nó sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư và các công ty có điều kiện để đầu tư, để có sự lựa chọn phù hợp nhất. Tuy nhiên, với một hệ thống bao gồm nhiều loại hàng hoá sẽ phát sinh những khó khăn đối với các nhà đầu tư khi tự quyết định sự lựa chọn của mình. Vì vậy, nhất thiết nhà đầu tư sẽ cần đến công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, khi thị trường chứng khoán phát triển sẽ xuất hiện nhiều loại rủi ro khó lường trước, do đó công chúng cũng như công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, khi thị trường chứng khoán phát triển, công ty chứng khoán muốn tồn tại, phát triển và cạnh tranh được với các công ty chứng khoán khác thì công ty không những buộc phải có những thay đổi cho phù hợp với thị trường mà còn phải tiếp tục hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng và từ phía bản thân công ty. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Sản phẩm của công ty chứng khoán là các dịch vụ cho kinh doanh nên yếu tố cạnh tranh sẽ thể hiện ở mức độ thực hiện dịch vụ nhanh chóng, thoả mãn nhu cầu khách hàng. Muốn vậy, công ty phải áp dụng kỹ thuật công nghệ phù hợp, từ đó nâng cao được năng suất, chất lượng và giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng vòng quay vốn lưu động, tăng lợi nhuận. Không phải ngẫu nhiên mà trong cùng một môi trường kinh doanh, cùng chịu một chế độ quản lý mà kết quả kinh doanh của các công ty lại khác nhau. Mà chính bởi có sự khác nhau về các nhân tố nội tại giữa các công ty. Nhân tố nội tại chính là cơ sở vật chất, mục tiêu phát triển, uy tín của công ty, mạng lưới khách hàng, khả năng của ban lãnh đạo, trình độ của cán bộ công nhân viên..., tất cả các yếu tố này đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Vì vậy, để có thể đẩy mạnh và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty phải biết tận dụng những thế mạnh cũng như hạn chế những điểm yếu của công ty mình. Một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn thường là những doanh nghiệp có qui mô lớn, phạm vi hoạt động rộng. Và cũng chính vì thế, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc rất nhiều về vốn. Bên cạnh đó, trong công ty con người luôn đóng vai trò trung tâm. Mức độ hiệu quả công việc của từng người sẽ ảnh hưởng tới hệ thống bởi vì tổng hợp hiệu quả của các cá nhân sẽ được hiệu quả chung của công ty. Một công ty hoạt động có hiệu quả khi các cá nhân trong công ty có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tính tự giác, kỷ luật cao, đồng thời các thành viên trong công ty phải có mối quan hệ bình đẳng, hoà hợp, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu chung toàn công ty. Thực tế cho thấy, những công ty mạnh trên thị trường đều là những công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, tác phong khoa học và tính kỷ luật cao. Cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên thì vấn đề về các nhà quản trị trong công ty cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhà quản trị luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo ra những phương án mới cho chiến lược phát triển kinh doanh đông thời phải biết quan tâm đến đời sống của nhân viên trong toàn công ty, tạo ra không khí làm việc vui vẻ, phấn khởi. Từ đó, hiệu quả của công ty sẽ tăng lên. Chương 2 Thực trạng hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam. 2.1. Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua. Với những nỗ lực vượt bậc và sau hơn bốn năm tích cực chuẩn bị các khuôn khổ pháp lý, hạ tầng cơ sở, hàng hoá và các điều kiện phụ trợ khác, ngày 20-7-2000 trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương đi vào hoạt động. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, mở ra kênh huy động vốn trung và dài hạn bên cạnh hệ thống ngân hàng, khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối: ‘‘ Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ’’. Tuy qui mô thị trường còn nhỏ bé, vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn nhưng đây là bước thí điểm, tập dượt quan trọng để các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau hơn ba năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước được phát triển và xã hội Việt Nam đã phần nào làm quen được với sự tồn tại và hoạt động của thị trường chứng khoán. Cho đến nay, đã có 23 công ty niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết trên thị trường là 1200 tỉ đồng. Các công ty niêm yết đều là những doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, và hoạt động kinh doanh của các công ty có chiều hướng tốt, đều có lãi. Thêm vào đó, các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán được hưởng ưu đãi về thuế nên mức trả cổ tức rất cao đã rất hấp dẫn người đầu tư. Thời gian đầu khi thị trường mới đi vào hoạt động, các công ty niêm yết đều đã cố gắng để đáp ứng các quy định do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đề ra. Tuy nhiên, do chưa có thói quen trong môi trường hoạt động của thị trường chứng khoán, nên đa số các công ty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin; hầu hết các công ty chỉ chú trọng vào thông tin định kỳ và thông tin phải cung cấp theo yêu cầu, chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan tới hoạt động của công ty. Về thị trường trái phiếu, đã thực hiện thành công các đợt đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ. Đã có 41 loại trái phiếu niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán, trong đó có 39 loại trái phiếu chính phủ và 2 trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường đạt 4.276,338 tỉ đồng. Đến nay đã có 13 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường. Tính đến 31/12/2003 số tài khoản giao dịch của khách hàng được mở tại các công ty chứng khoán là trên 17.000, trong đó có tài khoản của 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty chứng khoán đang triển khai mở rộng phạm vi hoạt động, mở chi nhánh và đại lý nhận lệnh tại 7 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Nhìn chung, kết quả kinh doanh của các công ty chứng khoán đều có chiều hướng tốt, các chỉ tiêu báo cáo tài chính cho thấy các công ty chứng khoán có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đảm bảo. Hiện nay, cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn trong doanh thu của các công ty chứng khoán, và tiếp đến là các nghiệp vụ như tự doanh, môi giới..., thì đến hết năm 2002 doanh thu từ hoạt động môi giới và tự doanh đã chiếm tỷ lệ đáng kể. Với 23 loại cổ phiếu và 41 loại trái phiếu niêm yết giao dịch thì bình quân giá trị giao dịch chứng khoán trong một phiên đạt 4.578 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 88,5%. Thị trường cổ phiếu hoạt động sôi động thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Thời gian đầu thị trường tăng giá liên tục do sự mất cân đối lớn về cung cầu và tâm lý đầu tư. Chỉ số VN-Index lên đỉnh cao là 571 điểm, nhưng đến năm 2002, thị trường ít biến động, có xu hướng giảm liên tục. Chỉ số VN-Index đã tụt xuống mức 139,64 điểm vào phiên ngày 1/4/2003. Sự suy giảm của thị trường có dấu hiệu xuất hiện từ tháng 10/2001. Sang những tháng đầu năm 2002, sự suy giảm thực sự bộc lộ nhưng ở mức nhẹ và có hồi phục vào hai tháng 6 và 7, nhưng về những tháng cuối năm sự sụt giảm tăng tốc. Sau nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán, đến nay dao động giá các cổ phiếu đã đi vào ổn định xoay quanh giá trị nội tại của các công ty. Việc lựa chọn các mức giá của người đầu tư đã căn cứ vào những phân tích đánh giá về công ty niêm yết mà không chạy theo phong trào như trước. Biên độ giao động giá chứng khoán là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ổn định thị trường và bảo vệ các nhà đầu tư trong thời kỳ hoạt động ban đầu của thị trường chứng khoán, và điều đó được thể hiện qua việc điều chỉnh biên độ theo tình hình thực tế của thị trường. Trong thời gian đầu, trung tâm giao dịch TP HCM chỉ giao dịch 3 phiên/ một tuần; từ 1/3/2002 nâng lên 5 phiên/ một tuần, đồng thời nghiên cứu cải tiến quy trình thanh toán, giảm thời gian thanh toán từ 4 xuống còn 3 ngày theo thông lệ quốc tế. Cùng với việc thực hiện tăng phiên giao dịch, hình thức giao dịch thoả thuận cũng được chính thức thực hiện đối với cổ phiếu từ ngày 1/3/2002. Hoạt động giao dịch thoả thuận được thực hiện thông qua công ty chứng khoán và cũng tuân thủ biên độ giao động giá 3% như giao dịch khớp lệnh. Xét một cách tổng quát, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại có qui mô và phạm vi còn nhỏ, thể hiện ở các mặt như hàng hoá ít về số lượng và chủng loại; mạng lưới dịch vụ kinh doanh chứng khoán chỉ tập trung ở một số thành phố lớn, chưa hoàn thiện về chất lượng; chưa có thị trường cho nhiều loại hình doanh nghiệp; các hệ thống giao dịch, lưu ký, thanh toán, giám sát, công bố thông tin của trung tâm giao dịch chứng khoán còn nhiều hạn chế về khả năng cung ứng dịch vụ; đồng thời có thể thấy rằng mức độ sử dụng kỹ thuật thông tin hiện đại còn hạn chế, thể hiện ở trình độ bán thủ công của hệ thống giao dịch trong trung tâm giao dịch chứng khoán và hệ thống dịch vụ của các công ty chứng khoán. 2.2. khái quát Công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam. 2.2.1 Sự ra đời và phát triển của công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. 2.2.1.1. Lịch sử hình thành của công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Căn cứ theo Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 01/11/1999 về việc cho phép các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán là điều kiện tiền đề cho việc thành lập công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Xét về điều kiện, Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã hội tụ đầy đủ các điều kiện thành lập công ty chứng khoán của một ngân hàng thương mại. Đề án thành lập và dự thảo điều lệ công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt, chấp thuận cho Ngân hàng Công Thương Việt Nam thành lập công ty chứng khoán. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Tên giao dịch quốc tế: Incombank Securities Co.Ltd. (Viết tắt là IBS) Thành lập theo quyết định số 126/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 01/09/2000 của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Giấy phép hoạt động số 07/GPHĐKD ngày 06/10/2000 do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104000012 ngày 04/10/2000 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp. Trụ sở chính: Số 306 Bà Triệu - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Điện thoại: 84.4.9741764 – 84.4.9741054. Fax: 84.4.9741760. Email: ibs-ho@hn.vnn.vn Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh: Số 153 Hàm Nghi, Quận I, TP.Hồ Chí Minh. Điện thoại: 84.4.9140200. Fax: 84.4.9140201. Email: ibs-hcm@hcm.vnn.vn Vốn điều lệ: 55 tỷ đồng Việt Nam 2.2.1.2. Các lĩnh vực hoạt động: Với số vốn điều lệ 55 tỷ VND, IBS được cấp giấy phép hoạt động cả 5 nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường chứng khoán, đó là môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương là công ty trực thuộc, hạch toán độc lập của Ngân hàng Công Thương Việt Nam; thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được tổ chức theo mô hình chủ tịch Công ty và Giám đốc được qui định tại luật Doanh nghiệp, là công ty TNHH một thành viên. Bộ máy lãnh đạo công ty gồm chủ tịch công ty và giám đốc, trong đó phó giám đốc trực tiếp phụ trách hoạt động tại chi nhánh TPHCM. Công ty chính thức đi vào hoạt động ngày 16 tháng 11 năm 2000. Tháng 10 năm 2002 Công ty Chứng khoán Công thương được cải tổ thành lập 6 phòng ban ở Hà Nội với 37 nhân viên. Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh gồm 4 phòng ban với 20 nhân viên. Với việc sắp xếp bố trí lại các phòng ban như trên công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tạo ra một mô hình mang tính đột phá so với các công ty chứng khoán khác trên thị trường. 2.2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Công ty Chứng khoán Công Thương Việt Nam Sơ đồ 3 Chi nhánh TP.HCM *Phòng môi giới Đại diện giao dịch của Công ty, môi giới chứng khoán. Trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng. Tư vấn, cung cấp thông tin thường xuyên về từng phiên giao dịch, thông tin tài khoản và các thông tin liên quan tới chứng khoán, thị trường chứng khoán cho khách hàng. Tiếp nhận và xử lý lệnh mua, bán chứng khoán. Đề xuất giải pháp nâng cao Chủ tịch công ty Phòng môi giới Phòng tự doanh, phát hành Tư vấn niêm yết Kế toán lưu ký Kiểm soát Văn phòng Giám đốc Kế toán lưu ký Phòng môi giới Văn phòng Phòng kinh doanh chất lượng dịch vụ, kiến nghị phương hướng nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới liên quan đến hoạt động môi giới. *Phòng tự doanh phát hành Kinh doanh chứng khoán cho công ty. Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Tổ chức tự doanh chứng khoán theo đúng quy trình tại trụ sở chính và lập báo cáo, phân tích đánh giá kết quả hoạt động tự doanh toàn Công ty. Phối hợp các bộ phận trong Công ty thực hiện công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường và triển khai các sản phẩm dịch vụ mới có liên quan. Đại lý bảo lãnh phát hành. Tổ chức triển khai các hợp đồng đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ khác có liên quan được ký kết với khách hàng. * Phòng tư vấn, phân tích Nghiên cứu, phân tích chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tư vấn đầu tư, tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoá và tư vấn tài chính. Làm đầu mối công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường. Quản lý danh mục đầu tư. Nghiên cứu, phân tích. Nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Nghiên cứu, phân tích tình hình thị trường, ra các bản tin phân tích, bình luận về chứng khoán và đánh giá các động thái của thị trường. Xây dựng hồ sơ doanh nghiệp. Tìm kiếm đối tác tiếp nhận các dịch vụ của Công ty. Quản lý danh mục đầu tư. Thực hiện quản lý danh mục đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng. *Phòng kế toán tài chính và lưu ký Quản lý tài chính, hạch toán kế toán, thanh toán giao dịch, lưu ký chứng khoán, ngân quỹ. Quản lý tài chính. Dự thảo kế hoạch tài chính năm, quý trình Giám đốc Công ty phê duyệt và giám sát kết quả thực hiện kế hoạch được duyệt. Giám sát về mặt tài chính trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch mua sắm tài sản, quản lý trang thiết bị, tài sản của Công ty. Tham mưu cho Giám đốc công ty các vấn đề về phân phối lợi nhuận, sử dụng các quỹ, thu chi tài chính. Tham mưu cho Giám đốc công ty về xây dựng đơn giá tiền lương, thanh toán tiền lương, thưởng... Phối hợp với các phòng ban có liên quan trong việc hạch toán kế toán quản lý, điều hành vốn. Tổ chức kế toán giao dịch, hạch toán và quản lý tình hình hoạt động tài khoản tiền gửi, chứng khoán lưu ký của khách hàng mở tại Công ty. Lưu ký: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ lưu ký, tiếp thị về lưu ký đối với cá nhân và pháp nhân. Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư chứng khoán liên quan đến hoạt động lưu ký chứng khoán. Tổ chức thực hiện hoạt động lưu ký thống nhất từ trụ sở chính, chi nhánh và các đại lý giao dịch của Công ty. Quản lý kho lưu ký. Ngân quỹ, thực hiện nhận và trả tiền, chứng khoán chứng chỉ của khách hàng. Thu và chi tiền mặt nội bộ Công ty theo đúng quy trình thu chi tiền mặt và chứng chỉ có giá hiện hành. Nộp và lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng thương mại. Định kỳ hoặc đột xuất tiến hành kiểm tra công tác tài chính, lưu ký của trụ sở chính và các chi nhánh để kịp thời phát hiện sai sót và có biện pháp khắc phục, xử lý đáp ứng yêu cầu phát triển nghiệp vụ kinh doanh của Công ty. Tổng hợp và cung cấp số liệu cho Ban điều hành Công ty định kỳ hoặc đột xuất để chỉ đạo hoạt động kinh doanh. *Phòng kiểm soát Kiểm tra việc ghi chép sổ sách kế toán. Kiểm tra cách tính toán, đối chiếu hoá đơn với ghi chép vào sổ. *Văn phòng Công ty Phòng hành chính - tổng hợp. Tổ chức cán bộ và đào tạo quản lý lao động và tiền lương. Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ theo đúng quy định của pháp luật. Phối hợp với các bộ phận liên quan tổ chức các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của Công ty. Thực hiện công tác lễ tân, tạp vụ. Tổ chức thực hiện công tác an ninh, bảo vệ, giữ gìn an toàn tài sản và an ninh trật tự toàn Công ty. Quản trị - tin học: Xây dựng kế hoạch mua sắm tài sản và triển khai thực hiện việc mua sắm thiết bị, phương tiện làm việc của công ty theo đúng quy định. Tổ chức bảo dưỡng tài sản cố định theo định kỳ. Quản lý hệ thống tin học, gồm cả phần cứng và phần mềm, hệ thống mạng máy tính của Công ty. Tổ chức cán bộ và đào tạo. Tham mưu cho ban điều hành xây dựng bộ máy tổ chức nhân sự; sắp xếp, phân công lao động giữa các đơn vị trong công ty đảm bảo phát huy tốt năng lực của từng cá nhân, đáp ứng yêu cầu công tác kinh doanh. Giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch đào tạo, quy hoạch cán bộ, làm thủ tục đề bạt cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của Giám đốc Công ty. 2.2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh khai trương và đi vào hoạt động tháng 7/2000 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh hình thức gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng, giờ đây các doanh nghiệp và nhà đầu tư còn có thể huy động và đầu tư vốn trực tiếp thông qua thị trường chứng khoán. Ban đầu Ngân hàng Công Thương dự tính chấp nhận thua lỗ trong ba năm, nhưng thực tế hoạt động cho thấy kết quả kinh doanh khá khả quan, công ty liên tục làm ăn có lãi và tăng trưởng cao. Có được điều này là do sự năng động nhạy bén của ban lãnh đạo công ty cũng như đội ngũ nhân viên của các phòng ban. Mặt khác công ty cũng nhận được sự hỗ trợ về con người, phương tiện vật chất kỹ thuật của Ngân hàng Công Thương Việt Nam và sự quan tâm quan tâm chỉ đạo của Chính phủ tới thị trường. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 2 năm: (đơn vị tính: triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2002 2003 Doanh thu 6.583 16.000 Chi phí HĐKD 1.300 6.700 Chi phí QLDN 2.800 3.200 LN + Lãi vay 2.483 6.100 Lợi nhuận 2.400 5.700 Nguồn IBS *Phòng môi giới Làm trung gian thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán theo yêu cầu của khách hàng. Tư vấn giúp khách hàng đưa ra những quyết định mua, bán hợp lý. Cung cấp kịp thời tới khách hàng những thông tin giao dịch chứng khoán sau từng phiên giao dịch, thông tin về tài khoản cá nhân khách hàng, thông tin về các tổ chức niêm yết. Ngoài ra còn tổ chức các buổi thuyết trình, bình luận xu thế biến động của thị trường, tổng hợp diễn biến giao dịch trong tuần. Thực hiện lệnh mua bán chứng khoán thông qua hệ thống các đại lý, qua điện thoại, fax...Vì vậy số tài khoản của khách hàng mở tại công ty tăng hàng năm. Tính đến cuối năm 2003 số tài khoản của khách hàng mở tại công ty là 2.000 tài khoản chiếm khoảng 10% số lượng tài khoản trên toàn thị trường. Trong đó có nhiều tài khoản của các tổ chức cá nhân có vốn đầu tư lớn và giao dịch thường xuyên. Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty có đội ngũ các nhân viên môi giới chứng khoán trên sàn của công ty (trụ sở chính và chi nhánh) và hai đại diện giao dịch nhận lệnh và nhập lệnh của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng các trang bị về cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ thống máy tính, mạng thông tin, bảng điện tử) Doanh thu qua các năm cũng tăng và biến động cùng với xu thế của thị trường. Năm 2001 hoạt động môi giới nhộn nhịp, nhưng sang các năm 2002, 2003, thì hoạt động trầm lắng xuống. Đầu năm 2004 thị trường khởi sắc trở lại, với những động thái mang tính tích cực. Kết quả hoạt động kinh doanh của phòng môi giới: (đơn vị tính triệu đồng) (Nguồn IBS) *Phòng tự doanh Nghiệp vụ tự doanh của công ty là nghiệp vụ mua bán chứng khoán với nguồn vốn của công ty nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ mua bán và sở hữu chứng khoán. Với nghiệp vụ này, công ty có thể tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung, trên thị trường phi tập trung (mua bán các loại chứng khoán chưa niêm yết), góp vốn vào các doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hoá. Kết quả hoạt động của bộ phận tự doanh: (đơn vị tính triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Doanh thu từ tự doanh 30 145 1.900 (Nguồn IBS) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Doanh thu từ môi giới 807 520 300 *Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty là giúp các tổ chức phát hành chuẩn bị các điều kiện cần thiết (tư vấn về cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, trung gian tín dụng), thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán (lập hồ sơ xin phép niêm yết, thăm dò thị trường); thực hiện việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành cho công chúng đầu tư. Theo quy định hiện nay việc bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam chỉ áp dụng phương thức “cam kết chắc chắn”, nghĩa là công ty cam kết sẽ phân phối toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có thực hiện phân phối được hết ra công chúng hay không. Để thực hiện nghiệp vụ này, xu hướng của công ty là sẽ kết hợp với các công ty chứng khoán và các tổ chức tín dụng khác hình thành tổ hợp bảo lãnh để chia sẻ trách nhiệm, hạn chế rủi ro. Bộ phận bảo lãnh đã thực hiện được 20 đợt với tổng giá trị bảo lãnh 2000 tỷ đồng. Doanh thu từ bảo lãnh phát hành cũng có sự chuyển hướng tích cực như năm 2002 chỉ là 80 triệu đồng, nhưng năm 2003 con số này đã lên tới hơn 5,1 tỷ đồng. Đây là một bước tiến quan trọng của công ty trong việc chiếm lĩnh thị trường và công tác tiếp thị bảo lãnh phát hành. *Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư Là nghiệp vụ giúp khách hàng quản lý vốn thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo tiêu chí vì quyền lợi của khách hàng với phương châm phân tán rủi ro, đảm bảo nguồn doanh lợi. Để thực hiện nghiệp vụ này, giữa công ty và khách hàng sẽ ký hợp đồng trong đó khách hàng uỷ thác cho công ty một số vốn và công ty sẽ thực hiện quản lý số vốn đó với các điều khoản cụ thể theo yêu cầu của khách hàng. Từ chỗ chỉ hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn điều lệ được cấp, bước sang năm 2003 IBS đã mạnh dạn vay vốn và nhận uỷ thác đầu tư hàng trăm tỷ đồng từ các ngân hàng thương mại để đầu tư tài chính, đảm bảo thanh khoản, an toàn, hiệu quả cao nên được các đối tác hết sức tin cậy. Năm 2001 chỉ mới có 420 triệu đồng nhưng đến cuối năm 2003 IBS đã nhận uỷ thác đầu tư gần 400 tỷ đồng, quản lý danh mục đầu tư tự doanh hơn 300 tỷ đồng. *Nghiệp vụ tư vấn đầu tư Cùng với tăng nhanh doanh số của các hoạt động ở các nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành. IBS vẫn hết sức chú trọng các hoạt động dịch vụ tư vấn doanh nghiệp, coi đây là mục tiêu chiến lược lâu dài và căn bản. Đã có khoảng 50 tổ chức doanh nghiệp được IBS chăm sóc thường xuyên và cung cấp dịch vụ liên quan (tư vấn chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, tư vấn định giá hoặc tái thẩm định giá trị doanh nghiệp, tư vấn hoàn tất cổ phần hoá, tư vấn làm trung gian đấu giá phát hành, tư vấn niêm yết, tư vấn đầu tư, lưu ký và thực hiện quyền cổ đông, can thiệp vay cầm cố thế chấp...). Công ty đã tuyển dụng và đào tạo những chuyên gia phân tích tài chính, phân tích thị trường, đồng thời kết hợp với các chuyên gia tín dụng của ngân hàng Công Thương Việt Nam trong việc đánh giá tài chính doanh nghiệp Mức phí cho hoạt động tư vấn sẽ được thoả thuận giữa khách hàng với công ty. Hiện tại, để thực hiện chính sách tiếp thị, công ty không thu phí đối với hoạt động tư vấn. Nhưng dự kiến cuối năm 2004 sẽ thu phí đối với hoạt động này. *Nghiệp vụ lưu ký và đăng ký chứng khoán Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty đăng ký là thành viên của trung tâm lưu ký và có cán bộ thực hiện công tác lưu ký chứng khoán. Việc lưu ký có thể do khách hàng mang chứng khoán đến công ty hoặc cán bộ lưu ký nhận chứng khoán tại địa điểm khách hàng yêu cầu. Sau khi nhận lưu ký của khách hàng, công ty thực hiện tái lưu ký các chứng khoán tại trung tâm lưu ký để đảm bảo điều kiện giao dịch cho chứng khoán. Số lượng chứng khoán được lưu ký tại công ty chứng khoán công thương hàng năm đều tăng khá, phản ánh sự tin tưởng của nhà đầu tư khi lựa chọn công ty. Phí lưu ký chứng khoán mà công ty thu của khách hàng được tính trên cơ sở mức phí do Trung tâm lưu ký quy định đối với thành viên lưu ký (công ty) và cộng thêm một tỷ lệ thoả thuận giữa khách hàng và công ty. Kết quả hoạt động lưu ký chứng khoán (đơn vị tính triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 2003 Doanh thu từ lưu ký 270 270 (Nguồn IBS) Từ nhu cầu của khách hàng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của công ty, IBS có thể phối hợp với NHCT Việt Nam và các đơn vị của NHCT Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ tiện ích như cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, thực hiện việc cầm cố chứng khoán, chứng khoán hoá các khoản nợ, quản lý danh mục đầu tư cho NHCT Việt Nam. Lập Đại lý nhận lệnh tại các chi nhánh: Đại lý nhận lệnh là các pháp nhân kết hợp với công ty chứng khoán trong việc nhận lệnh giao dịch của khách hàng kinh doanh chứng khoán. Tính đến nay, NHCT Việt Nam có hơn 1000 chi nhánh trải rộng trên địa bàn cả nước. Chính vì vậy, việc xây dựng mạng lưới 2.3. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 2003 % tăng 2003/2002 Doanh thu 6.583 16.000 243,05% Chi phí HĐKD 1.300 6.700 Chi phí QLDN 2.800 3.200 LNTT+ Lãi vay 2.483 6.100 245,67% Lợi nhuận 2.400 5.700 237,5% (Nguồn IBS) Bảng cân đối tài sản (đơn vị: triệu đồng) Tài sản 2002 2003 Nguồn vốn 2002 2003 Tài sản LĐ 397.000 501.000 Nợ 345.000 446.000 Tài sản CĐ 3.000 5.000 Vốn CSH 55.000 60.000 Tổng tài sản 400.000 506.000 Tổng nguồn vốn 400.000 506.000 (Nguồn IBS) Sau hơn ba năm hoạt động, công ty chứng khoán ngân hàng Công thương đã dần tạo chỗ đứng trên thị trường, khẳng định hướng chiến lược của công ty là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn thị trường. Việc tham gia thị trường sau khi trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM hoạt động đã giúp công ty có được kinh nghiệm từ các công ty đi trước, từ đó có điều kiện trao đổi dịch vụ, kỹ thuật, đào tạo và nâng dần uy tín của công ty đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Công ty đã đầu tư vào trang thiết bị, nhà cửa máy móc phương tiện kỹ thuật liên lạc. Tất cả các trang thiết bị phục vụ cho việc giao dịch, kết nối và xử lý thông tin đều đáp ứng nhu cầu hiện tại. Việc đầu tư này đã mang lại cho công ty những thành công trong việc hoạt động hiệu quả trên thị trường tài chính này. Vì vậy khi đánh giá về hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua chúng ta có thể xem xét một số chỉ tiêu sau: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh a) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: Doanh lợi trên vốn = doanh kinhvèn Tæng vay l·inhuËn Lîi  Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn năm 2002 là 0,0062 nhưng sang năm 2003 hệ số này là 0,012. Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn kinh doanh bỏ ra trong năm 2002 sẽ thu được 0,0062 đồng (lợi nhuận + lãi vay), năm 2003 sẽ thu được 0,012 đồng (lợi nhuận + lãi vay). Điều này cho thấy lợi nhuận của công ty thấp trong khi vốn bỏ ra thì lớn. Lợi nhuận thấp do công ty chỉ có lợi nhuận ở nghiệp vụ môi giới và tự doanh. Nhưng năm 2003 so với năm 2002 hệ số này tăng 94,48%, tình hình này sẽ được cải thiện khi thị trường đi vào ổn định, công ty sẽ mở rộng các nghiệp vụ và tăng lợi nhuận. b) Chỉ tiêu phản ánh doanh lợi trên doanh thu: Doanh lợi trên doanh thu = thu Doanh nhuËn Lîi Chỉ tiêu doanh lợi trên doanh thu năm 2002 là 0,364 nhưng sang năm 2003 hệ số này giảm xuống còn 0,356. Sự sụt giảm 2,2% này là do trong năm 2003 mặc dù công ty có doanh thu lớn nhưng bên cạnh đó chi phí cho quản lý cũng chiếm khá cao. Thị trường chứng khoán năm 2003 có những dấu hiệu đảo chiều vì vậy sự sụt giảm này là không đáng kể. Các kế hoạch của công ty đều hoàn thành. c) Mức doanh lợi trên tổng tài sản: Lãi trên tài sản = ns¶ tµi Tæng nhuËn Lîi Chỉ tiêu doanh lợi trên tài sản năm 2002 là 0,006 nhưng sang năm 2003 hệ số này tăng lên 0,0112. Sự tăng 86,66% này chứng tỏ năm 2003 công ty đã có lợi nhuận cao hơn năm 2002. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty do đó cũng được nâng cao. Đây chính là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. d) Hiệu năng vốn kinh doanh (năng suất): Doanh thu trên vốn = doanh kinhVèn thu Doanh Chỉ tiêu hiệu năng vốn kinh doanh năm 2002 là 0,01645 nhưng sang năm 2003 hệ số này tăng lên 0,03162. So với năm 2002 chỉ tiêu này tăng 92,2%. Phản ánh trình độ sử dụng vốn có hiệu quả của công ty chứng khoán. e) Hiệu quả sử dụng tài sản cố định: Số vòng quay của TSCĐ = dÞnh cè ns¶ Tµi thu Doanh Số vòng quay TSCĐ năm 2002 là 2,1943 lần, năm 2003 tăng lên 3,2 lần Vòng quay tài sản cố định tăng chứng tỏ công ty khai thác tốt tài sản cố định. Điều này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực trong công ty ngày càng được nâng cao. Với một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chủ yếu là dịch vụ mà sức sản xuất của tài sản cố định như trên là hợp lý. f) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu (tỷ suất lợi nhuận): Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = h­u së chñ Vèn nhuËn Lîi Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được phản ánh bằng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này năm 2002 là 0,0436, năm 2003 là 0,095 cho biết cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào tài sản trong năm 2002 tạo ra được 0,0436 đồng lợi nhuận và 0,095 đồng lợi nhuận năm 2003. Như vậy năm 2003 hệ số này tăng 117,88% so với năm 2002. Điều đó cho thấy hiệu quả của việc sử dụng vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán ngày càng tăng. Tỷ suất lợi nhuận ngày càng cao. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Kết quả Doanh số giao dịch công ty thực hiện cho khách hàng qua từng tháng đều tăng. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước phát triển, tạo lòng tin cho công chúng đầu tư. Bên cạnh đó, công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới nhanh chóng, chính xác với độ an toàn cao, từ đó tạo niềm tin nơi khách hàng để họ tích cực hơn trong việc tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán. Với việc đảm bảo nguyên tắc cơ bản của thị trường chứng khoán cũng như các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, hình ảnh của công ty đã được nhiều người biết đến. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn đầu tư hoạt động dần dần có hiệu quả và thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty. Điều quan trọng hơn cả là tất cả các nghiệp vụ mà công ty thực hiện liên quan trực tiếp đến khách hàng đã được khách hàng tin tưởng, hài lòng do đó số khách hàng đến với công ty ngày càng tăng. Có được những thành công đáng kể trên là nhờ: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên có trình độ, hiểu biết và được đào tạo cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã chỉ đạo và thực hiện các nghiệp vụ một cách an toàn, hiệu quả và tạo được lòng tin ở khách hàng. Ban lãnh đạo công ty là những người có thâm niên trong ngành tài chính, ngân hàng nên dù ở giai đoạn đầu hoạt động nhưng việc điều hành các nghiệp vụ của công ty đều trôi chảy, tất cả các cán bộ kinh doanh chủ chốt đều đã qua các lớp đào tạo của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và có giấy phép hành nghề. Các nhân viên môi giới của công ty đều đã được lựa chọn kỹ và được trung tâm giao dịch chứng khoán đào tạo. Ngoài ra, một số đã được gửi ra nước ngoài đào tạo chuyên sâu hoặc được chuyên gia nước ngoài sang đào tạo tại chỗ; cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đã góp phần quan trọng trong quá trình hoạt động hiệu quả của công ty. Điển hình là bảng điện tử giúp cho khách hàng theo dõi thông tin giao dịch từ Trung tâm giao dịch chứng khoán. Bảng điện tử giúp cho nhà đầu tư có thông tin cập nhật nhất về giá cả, khối lượng chào bán và đặt mua của từng loại chứng khoán, giá cả và khối lượng dự kiến khớp lệnh của từng loại chứng khoán. Tuy nhiên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam còn sơ khai. Hàng hoá trên thị trường tuy đã tăng về số lượng những vẫn còn ít và chưa đa dạng về chủng loại. Quy mô thị trường còn nhỏ bé cả cung và cầu. Hệ thống giao dịch thanh toán còn ở mức ban đầu, chưa bao quát đầy đủ các chức năng của hệ thống. Mặt khác chưa có luật về chứng khoán nên hiệu lực của các văn bản pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán không cao, dẫn đến nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Những hạn chế này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của các công ty chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương nói riêng. Mặt khác, việc một số tổ chức niêm yết công bố thông tin không chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của mình (BBC, CAN) đã khiến lòng tin của nhà đầu tư trên thị trường suy giảm. Điều này dẫn đến thị trường hoạt động không sôi động và giảm đi nguồn thu đáng kể của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, số người hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán không nhiều, kiến thức về thị trường rộng đã khiến cho các công ty chứng khoán rất khó khăn trong việc tuyên truyền phổ biến kiến thức cho người đầu tư. Cũng chính vì điều đó, các công ty gặp khó khăn khi tiếp xúc với khách hàng là công ty để tư vấn cho họ cổ phần hoá và đưa chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán vì đội ngũ lãnh đạo của các công ty chưa chủ động cổ phần hoá, họ vẫn còn ngại công bố thông tin trên thị trường Nhìn lại sau 03 năm thành lập và đi vào hoạt động, ngoài những kết quả đã đạt được, điều cần nhấn mạnh ở đây là IBS đã không chỉ bảo toàn mà còn tăng trưởng vốn. IBS đã có lợi nhuận ngay năm đầu di vào hoạt động, các năm sau lợi nhuận trước thuế đều gấp 1,5 - 2 lần năm trước và hoàn thành vượt mức kế hoạch trên giao. Đạt được điều này là không dễ dàng trong lúc còn có tâm lý bi quan chung trước tình hình hiện nay của thị trường chứng khoán Việt Nam và không ít các công ty chứng khoán khác làm ăn thua lỗ, tài chính khó khăn. IBS luôn được các đoàn kiểm toán độc lập, thanh kiểm tra của UBCKNN và NHCTVN đánh giá tốt. 2.42. Hạn chế Bên cạnh đó, IBS đang có những mặt tồn tại, hạn chế cần sớm khắc phục ngay như: Lao động, nhân sự không ổn định, khó đáp ứng yêu cầu phát triển sắp tới: Do vậy cần có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút cán bộ giỏi đáp ứng công việc đòi hỏi kỹ năng, chịu được áp lực cao, có tính chuyên nghiệp, quan hệ tốt với khách hàng, năng động, sáng tạo, nhạy bén. Để thực hiện các công việc như: tìm kiếm, phát hiện cơ hội đề xuất phương án kinh doanh; tổ chức triển khai linh hoạt hiệu quả kế hoạch vạch ra; xây dựng, duy trì tốt quan hệ mật thiết với các đối tác; biết hoạch định chiến lược và tiếp nhận ứng dụng tiến bộ tin học vào nghiệp vụ chứng khoán. Tính chất hoạt động kinh doanh còn chưa ổn định, mang tính thương vụ, ăn may là chủ yếu, chưa phải đã thực sự căn cơ. Biểu hiện là các nguồn thu từ các nghiệp vụ còn thấp. Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ và dàn xếp tài chính tạm giúp IBS cầm cự được, nhưng về lâu dài khi cơ chế, chính sách phát hành, huy động vốn qua Thị trường chứng khoán có thay đổi hoặc các đối tác, bạn hàng đổ xô vào cùng làm, cạnh tranh khốc liệt là khó khăn. Bởi vậy rất cần có cơ chế, chính sách chính thức hỗ trợ kinh doanh cho IBS từ Ngân hàng Công thương Việt Nam, phù hợp chiến lược phát triển đa năng, đa dạng hoá, gắn kết kinh doanh ngân hàng với chứng khoán, bảo hiểm... Số lượng lao động thiếu, hạn chế về kinh nghiệm trong hoạt động nghiên cứu phân tích tư vấn đầu tư cho khách hàng, tư vấn cho các doanh nghiệp cổ phần hoá... Mặc dù các bộ phận nghiên cứu phân tích, tư vấn doanh nghiệp của IBS đã có rất nhiều cố gắng, nắm bắt khách hàng, thu thập tư liệu tình hình, nhưng công việc hoàn thành được vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với công sức bỏ ra. Cơ chế chính sách và phương thức hoạt động của IBS còn cứng nhắc, khó thích ứng với các quan hệ thị trường, ngoài ra việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ tin học còn chậm, chưa tập trung cao và đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên. Mức độ tin học hoá còn thấp trong các hoạt động quản lý giao dịch, tài khoản, thông tin khách hàng, truyền tải lệnh giao dịch, lưu ký, phân tích, tư vấn đầu tư, giao dịch từ xa... IBS chưa có giao dịch qua mạng, chưa có Website riêng, vẫn truyền lệnh qua line điện thoại, qua fax nên chi phí cao, tốc độ chậm, không an toàn. Nguy cơ tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh là rất lớn. Vì vậy IBS đang tìm cách khắc phục những điểm yếu trên và luôn bám sát 05 nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra: ổn định nguồn nhân lực; kiện toàn công tác điều hành; đào tạo và đào tạo lại nâng cao năng lực cho cán bộ nhân viên; củng cố lành mạnh hoá tài chính; hiện đại hoá tin học và quy trình kỹ thuật nghiệp vụ Công ty. So với các công ty chứng khoán khác trên thị trường thì IBS có vốn điều lệ là 55 tỷ đồng, đây là cơ sở tốt để thực hiện các nghiệp vụ đòi hỏi vốn lớn như bảo lãnh phát hành, tự doanh. Mặt khác các nghiệp vụ như môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán chưa thực sự hoạt động đúng theo tiềm năng của công ty. Trong quá trình hoạt động IBS còn một số vướng mắc về tư duy và tác phong của cán bộ nhân viên khi họ chưa kịp đổi mới với kinh doanh và do số cán bộ công ty còn quá ít (toàn công ty chỉ có 57 người) nên áp lực công việc quá lớn đối với người lao động. IBS có trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, do vậy chưa tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư ở các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. IBS có điều kiện thuận lợi hơn các công ty chứng khoán khác khi mở rộng thêm các nghiệp vụ phụ trợ do có ưu thế của ngân hàng Công thương Việt Nam nhưng do thị trường vẫn còn quá nhỏ, quá ít nghiệp vụ khiến cho công ty không phát huy hết khả năng vốn có của mình. 2.4.3. Nguyên nhân Với những gì mà công ty đã đạt được trong hơn ba năm qua có thể nhận thấy rằng tiềm năng phát triển của công ty là rất lớn. Sự quan tâm của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chính phủ đã tạo điều kiện cho công ty hoạt động phát triển. Tuy nhiên với những hạn chế trước mắt như trên đòi hỏi cần phải có sự đánh giá nghiêm túc và rút ra những bài học để từ đó công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Qua quá trình hoạt động lãnh đạo của công ty cũng đã dám nhìn thẳng vào những vấn đề khó khăn của thị trường cũng như từ bản thân công ty, từ đó đưa ra những đối sách phù hợp với thực tiễn. Về những hạn chế kể trên xuất phát từ những nguyên nhân sau: IBS vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất nước ta hiện nay. Với số vốn điều lệ 1700 tỷ đồng ngân hàng công thương có các chi nhánh giao dịch trên toàn quốc, số lượng khách hàng rất lớn trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. IBS có thể dựa vào vị thế, tiềm năng của ngân hàng mẹ để mở rộng thêm các dịch vụ mà các công ty chứng khoán khác không có được. Từ thực trạng của IBS trong thời gian qua, cùng với các kết quả đạt được cũng như các mặt hạn chế, công ty cần có các biện pháp kịp thời để tiếp tục phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu để ngày càng phát triển vững vàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thiếu kinh nghiệm kinh doanh thực tế nên công ty vẫn còn lúng túng khi triển khai các nghiệp vụ kinh doanh. Điều này cũng dễ hiểu khi thị trường chứng khoán Việt Nam vừa mới đi vào hoạt động và là công ty chứng khoán thành lập muộn so với các công ty chứng khoán khác. Các nghiệp vụ của công ty tuy đã triển khai hết nhưng còn hạn chế, chủ yếu chỉ là nghiệp vụ môi giới và tự doanh, lưu ký còn các nghiệp vụ khác thì chưa phát triển. Mặt khác, số công ty niêm yết trên thị trường còn ít, hàng hoá cho thị trường hiếm hoi thì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty khó để được thực hiện được. Bên cạnh đó, công ty vẫn chưa mở rộng tối đa quan hệ đối ngoại của mình để tích luỹ kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, khoa học kỹ thuật hiện đại... Hoạt động marketing của công ty còn yếu: Tiềm năng khách hàng của thị trường rất lớn nhưng khách hàng hiện tại còn quá ít. Một phần do các hoạt động Marketing của công ty chưa phát triển, chưa tiếp cận được với khách hàng tiềm năng. nhằm phân loại khách hàng, xây dựng một quy trình cung cấp dịch vụ tương ứng cho mọi loại khách hàng. Chính sách khách hàng được tập trung vào các khâu: Quảng cáo, tiện ích và chế độ ưu đãi về phí. Tuy nhiên cho đến nay, công tác Marketing của công ty vẫn chưa tốt, dẫn đến thông tin chưa đầy đủ ảnh hưởng đến phân tích chứng khoán, ảnh hưởng đến tư vấn đầu tư cho khách hàng. Trên thực tế, công ty vẫn chưa chủ động trong công tác tìm kiếm khách hàng. Hầu hết các khách hàng đã mở tài khoản tại công ty là những khách hàng tự đến với công ty. Mặt khác, việc tuyên truyền về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được công ty chú trọng phát triển. Cho đến nay công ty vẫn chưa xây dựng được trang Web để công chúng đầu tư tìm hiểu và theo dõi những thông tin cần thiết. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh: Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh bị hao mòn vô hình rất nhanh. Mặt khác việc buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh, thời gian là tiền bạc, hệ thống công nghệ thông tin phải đủ mạnh để xử lý chính xác và kịp thời. Mặc dù văn phòng làm việc cũng như các trang thiết bị của được đánh giá là khá tốt so với các công ty chứng khoán khác, nhưng muốn thực hiện các nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, nghĩa là khách hàng ký gửi chứng khoán cho công ty, công ty tiến hành kinh doanh hộ khách hàng, thanh toán tiền lãi và cổ tức, trên thực tế, hệ thống tin học chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đồng thời khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ mà công ty chưa thể nhanh chóng nâng cấp được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của mình nên hiện tại vẫn chưa đáp ứng được tốt yêu cầu của kinh doanh chứng khoán. Tâm lý của nhà đầu tư : Đa số việc mua bán cổ phiếu diễn ra giữa các nhà đầu tư nhỏ với tâm lý đầu tư “ngắn hạn” nhằm mua cổ phiếu theo biến động giá hơn là dựa vào đánh giá tiềm năng phát triển của công ty thông qua việc đánh giá tình trạng tài chính và thị trường một cách toàn diện. Các nhà đầu tư Việt Nam chưa có thói quen phải trả tiền khi sử dụng các dịch vụ họ được cung cấp, thị trường chỉ có rất ít loại chứng khoán nên họ vẫn có thể theo dõi và tự quyết định cho bản thân nên mua, bán chứng khoán nào, vào lúc nào. Chính vì thế, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chưa thực sự được các nhà đầu tư cho là cần thiết. Mặt khác, họ vẫn chưa thấy được lợi ích khi có một danh mục đầu tư hợp lý mà chỉ sợ mất phí, cho nên mặc dù là một dịch vụ tốt và rất có hiệu quả nhưng quản lý danh mục đầu tư cũng không được các nhà đầu tư quan tâm. 2.5. Những thuận lợi và khó khăn của IBS. Quá trình huy động vốn cho nền kinh tế thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình và trái phiếu công ty, cũng như việc phát hành cổ phiếu của các công ty cổ phần đòi hỏi phải có nhưng tổ chức kinh tế thực hiện việc phát hành, làm đại lý mua bán nhằm tạo tính thanh khoản cho các công cụ nợ này. Chính vì vậy, các công ty chứng khoán được coi là chủ thể chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các tổ chức kinh tế Việt Nam đã thành lập hay có dự định thành lập đều có những thuận lợi nhất định. Các tổ chức này đều nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước. Các văn bản pháp lý cơ bản đã được ban hành. Trong 2 năm hoạt động đầu tiên, các khoản thuế, phí, lệ phí hoạt động kinh doanh đều không phải nộp. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng gắn chặt quá trình cổ phần hoá với quá trình phát hành cổ phiếu ra công chúng thông qua các công ty chứng khoán. Nhà nước mở thị trường Chứng khoán Bảng II tại Hà Nội dành cho các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung được mở rộng dẫn đến quy mô và phương thức quốc tế như: khớp lệnh nhiều lần, mức ký quỹ giảm, biên độ dao động tăng... Cùng với tất cả điều đó, nền kinh tế Việt Nam bất chấp kinh tế thế giới suy giảm vẫn đang đà phát triển mạnh. Tổng sản phẩm quốc nội năm 2003 ước đạt 580 nghìn tỷ đồng, tăng 7,24% so với năm 2002. Với kết quả đó, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất (cùng với Trung Quốc và Hàn Quốc). Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư được cải thiện. Cho đến nay, thu nhập tăng khoảng 10% so với 10 năm trước. Kinh tế phát triển, thị trường và giá cả ổn định tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi để thị trường chứng khoán phát triển. IBS ra đời thừa kế được bề dày hoạt động của ngân hàng mẹ, hiện có nhiều chi nhánh tại các tỉnh, thành phố, quận huyện trong cả nước và có quan hệ đại lý với các ngân hàng, tổ chức tài chính và đang tài trợ cho nhiều dự án lớn trong và ngoài nước. Mặt khác, IBS có đội ngũ cán bộ trẻ, tư cách đạo đức tốt, năng động, sáng tạo, được đào tạo bài bản và có giấy phép hành nghề. Đây cũng là điểm thuận lợi cho công ty trong quá trình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, với một thị trường chứng khoán hoạt động còn ở mức “sơ khai”, trình độ hiểu biết của người dân còn hạn chế và cơ chế quản lý còn nhiều bất cập thì cùng với những công ty chứng khoán khác, IBS phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Cho đến nay, trên thị trường đã có 13 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động. Sắp tới, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước còn dự định cấp giấy phép cho 2-3 công ty nữa, vì vậy, IBS sẽ đối mặt với tình hình cạnh tranh rất gay gắt. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa hội tụ đủ điều kiện về khung pháp lý, số lượng công ty niêm yết còn ít, do vậy tình hình vẫn chưa được cải thiện căn bản. Hiện nay, giá trị mỗi phiên giao dịch rất thấp, các công ty chứng khoán lại rơi vào tình trạng khó khăn, bởi vì các khoản thu chủ yếu từ nghiệp vụ môi giới, các nghiệp vụ khác lại chưa phát triển. Thêm vào đó sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán của các nhà kinh tế và hoạch định chính sách, chủ doanh nghiệp còn rất “khiêm tốn”, các công ty ngại lên sàn giao dịch, vì vậy trong hơn 100 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết thì chỉ có 23 công ty niêm yết. Diễn biến giá trên thị trường rất phức tạp, khó dự đoán. Thời gian đầu giá tăng liên tục nhưng khối lượng bán lại rất ít, ngược lại khi thị trường xuống dốc liên tục giá giảm thì lại bán ra nhiều mà không mua. Điều này làm cho các công ty chứng khoán thực sự khó khăn. Đồng thời, khi thị trường hoạt động tẻ nhạt, kém sôi động cũng tác động không ít đến tâm lý của nhân viên công ty. Cảm giác buồn tẻ trên sàn giao dịch đã phần nào khiến các nhân viên mất đi cảm giác hào hứng và hăng say làm việc. Mặt khác, mặc dù khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán đã được ban hành nhưng vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, mới chỉ có nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Một số điểm liên quan đến phát hành chứng khoán chưa được quy định rõ như: việc phát hành và niêm yết chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần... Bên cạnh đó, các quy định về công khai sản xuất- kinh doanh, cơ cấu sở hữu, bộ máy quản trị của doanh nghiệp chưa được áp dụng một cách rộng rãi, hoạt động kinh doanh của hầu hết các công ty chứng khoán và các chủ thể khác tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường đều bị thua lỗ mà chưa tìm ra biện pháp khắc phục. Thực tế cho thấy, vốn càng lớn thì càng có lợi và sức cạnh tranh càng cao. Do vậy, hiện tại, IBS vẫn còn thiếu vốn, đây cũng là một khó khăn của công ty. Mặt khác, IBS vẫn có hệ thống cán bộ công nhân viên còn quá mỏng. Toàn công ty có 57 cán bộ công nhân viên ở cả trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Khi Nhà nước mở thêm Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội nghĩa là công việc về đại thể sẽ tăng gấp đôi, trong đó có 3 người phải nhập lệnh hàng ngày tại sàn. Cùng với điều đó, khi mạng lưới chi nhánh mở rộng cần cán bộ làm việc tại chi nhánh và quản lý các đại lý nhận lệnh, khi chuyển giai đoạn cần cán bộ để mở rộng các phòng và bổ sung cán bộ cho các bộ phận hiện mới bắt đầu triển khai. Với số lượng cán bộ công nhân viên như hiên nay, thực sự IBS gặp rất nhiều khó khăn. chương 3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam 3.1. Định hướng hoạt động của UBCKNN và của IBS trong thời gian tới. 3.1.1. Định hướng của UBCKNN. Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế, UBCKNN đã đề ra chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cho giai đoạn 2003-2010, với quan điểm chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đi từ qui mô nhỏ đến lớn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng thị trường hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả, bảo vệ người đầu tư, và có thể linh hoạt thích ứng thực tế; đồng thời tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường. Mục tiêu tổng quát của chiến lược là: “Củng cố, ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô thị trường; tăng cường hiệu quả quản lý giám sát thị trường, bảo vệ người đầu tư. Góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Tạo ra môi trường nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá và huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển”. Mục tiêu giai đoạn 2003-2005 là củng cố thị trường chứng khoán và hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường, từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thị trường chứng khoán, tăng cung hàng hóa, hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường, xây dựng và phát triển các định chế hoạt động trên thị trường. Một số chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt mức 2-3% GDP. Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán ban đầu cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống giao dịch tự động tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh để thay thế hệ thống giao dịch ban đầu. Phát triển các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, thành lập một số công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 là tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ, khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế. 3.2 Định hướng của IBS Để đánh giá về hiệu quả kinh doanh của các công ty chứng khoán Việt Nam hiện nay, thực ra không nên nhìn vào những con số kinh doanh cụ thể, bởi vì với thị trường chứng khoán ở giai đoạn đầu, mục tiêu của các công ty chứng khoán chưa phải là lợi nhuận. Mục tiêu chiến lược xuyên suốt quá trình hoạt động của IBS là: “Phát triển và phát triển bền vững”. Hiện tại, công ty đã qua giai đoạn hình thành (2001-2002) và bước vào giai đoạn kiện toàn công ty (2002-2005), trong giai đoạn này, IBS sẽ tích luỹ kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán, cẩn trọng, bảo toàn vốn, góp phần làm sôi động thị trường chứng khoán và khẳng định uy tín của IBS trên thị trường chứng khoán. Đến giai đoạn 2005-2010 là giai đoạn phát triển công ty. Nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược và các chỉ tiêu kế hoạch nêu trên, trong 3 năm tới công ty sẽ tập trung triển khai các chính sách về khách hàng, chính sách sản phẩm và công nghệ. Chính sách khách hàng được tập trung vào các khâu: quảng cáo, tiện ích và chế độ ưu đãi về phí. Từ chính sách khách hàng, IBS triển khai chính sách sản phẩm và công nghệ, trong đó, tập trung vào các việc: Đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm mà cụ thể là cung cấp các sản phẩm có hàm lượng thông tin cao, thời gian đáp ứng nhanh nhất và với một văn hoá kinh doanh mang đậm tính công nghiệp. Đồng thời công ty chuẩn bị một số cán bộ tinh thông nghiệp vụ để cung cấp các thông tin phân tích, đánh giá chất lượng cao, xây dựng các chương trình phần mềm tiên tiến với các phương pháp dự báo, dự đoán và ra quyết định có sử dụng Toán tài chính ở mức tiên tiến trong việc cung cấp các sản phẩm nói trên. 3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sau khi nghiên cứu những điều kiện thuận lợi, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân dẫn tới điều đó, chúng ta thấy rằng IBS cần phải có những biện pháp để khắc phục khó khăn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 3.3.1. Kế hoạch hoá hoạt động Marketing. Để đáp ứng mục tiêu mở rộng thị phần cũng như nâng cao uy tín của mình trên thị trường, IBS cần phải phát triển mạnh công tác kế hoạch hoá hoạt động Marketing và xây dựng những nội dung cụ thể để có thể thực hiện tốt hoạt động này. Mục tiêu của hoạt động Marketing phục vụ chung cho mục tiêu chung của công ty trong tương lai, cụ thể là nhằm vào khách hàng tiềm năng của công ty, thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Khách hàng ở đây không chỉ đơn thuần là các nhà đầu tư cá nhân mà còn là các tổ chức kinh tế có ý định tham gia thị trường chứng khoán. Khi đã xác định được mục tiêu của hoạt động, bước tiếp theo là tiến hành phân đoạn thị trường. Đoạn thị trường được hiểu là một nhóm các nhà đầu tư có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp kích thích của Marketing và phân đoạn thị trường là quá trình phân chia các khách hàng thành nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay về hành vi. Như vậy, về thực chất việc phân đoạn thị trường là phân chia theo những tiêu thức nhất định thị trường tổng thể quy mô lớn, không đồng nhất, muôn hình muôn vẻ về nhu cầu thành các nhóm (đoạn, khúc) nhỏ hơn đồng nhất về nhu cầu. Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý: Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một công ty chứng khoán. Với phương châm phục vụ: “Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của IBS “ thì một giải pháp về khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK Công thương.pdf
Tài liệu liên quan