Luận văn Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở xí nghiệp xây lắp điện công ty điện lực 1

Tài liệu Luận văn Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở xí nghiệp xây lắp điện công ty điện lực 1: LUẬN VĂN: Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện- Công ty Điện Lực 1 Lời Mở đầu Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng vững và ngày một phát triển. Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan tâm chính của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Trong thời gian qua, điện lực là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, có vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Thêm vào đó, tính phức tạp của công việc và sản phẩm xây lắp điện, vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả và quản lý các chi phí đầu vào càng phức tạp, làm thế nào để tránh lãng phí, để tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế lại...

pdf83 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 900 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở xí nghiệp xây lắp điện công ty điện lực 1, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện- Công ty Điện Lực 1 Lời Mở đầu Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng vững và ngày một phát triển. Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan tâm chính của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Trong thời gian qua, điện lực là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, có vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Thêm vào đó, tính phức tạp của công việc và sản phẩm xây lắp điện, vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả và quản lý các chi phí đầu vào càng phức tạp, làm thế nào để tránh lãng phí, để tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế lại càng trở nên cấp bách hơn. Cùng với các doanh nghiệp trong cả nước Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện lực 1 thuộc Tổng công ty Điện lực đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong công ty nói riêng và trong ngành điện nói chung bằng cách nâng cao trình độ, phương pháp quản lý các công trình đồng thời hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín chất lượng và khả năng thắng thầu các công trình. Đề tài: "Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện- Công ty Điện Lực 1" Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 phần: Phần I: Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường Phần II: Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Phần III: Những biện pháp cơ bản nhằm phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Phần i Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và LÂU DàI củA CáC DOANH NGHIệP hoạT Động trong cơ chế thị trường I. Khái niệm và các phương pháp phân loại chi phí trong giá thành 1. Khái niệm giá thành và các cách phân loại chi phí trong gía thành a. Khái niệm giá thành Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ. Để tiến hành các hoạt động sản xuất, doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản: - Tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những TSCĐ khác. - Đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu... - Sức lao động của con người. Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng tài sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định, tương ứng với việc sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu... là những chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, tương ứng với việc sử dụng lao động là chi phí tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên điều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống, còn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá. Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến hoạt động sản xuất ra sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý, các hoạt động mang tính chất sự nghiệp... chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ: Hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả những chi phí của doanh nghiệp về sử dụng tư liệu sản xuất, trả lương, phụ cấp ngoài lương và những chi phí phục vụ khác để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quá trình sản xuất ở một doanh nghiệp, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản xuất, mặt khác kết quả sản xuất doanh nghiệp thu được những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội. Những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành gọi chung là thành phẩm cần phải tính được gía thành tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư lao động tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện, nhằm đạt được mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ gía thành. Gía thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.  Quan hệ giữa chi phí sản xuất với gía thành. Chi phí sản xuất và gía thành là 2 khái niệm riêng biệt có những mặt khác nhau: - Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn gía thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành. - Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này nhưng chưa thực tế phát sinh. Ngược lại giá thành sản phẩm lại chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ. - Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và gía thành có mối quan hệ rất mật thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ là cơ sở để tính gía thành của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành, sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến gía thành sản phẩm hạ hoặc cao. Quản lý gía thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. Để làm rõ hơn bản chất của chi phí ta hãy xem xét nó trong mối quan hệ với giá trị và giá cả hàng hoá.  Quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá trị. Về kết cấu cả chi phí và giá trị đều bao gồm ba bộ phận C - V và m. Tuy nhiên chi phí và giá trị có sự khác nhau cả về lượng lẫn chất. Trước hết, chi phí là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong kỳ kinh doanh. Còn giá trị hàng hoá là lượng lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm, trong đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Chi phí là một đại lượng cụ thể còn giá trị mang tính trừu tượng. Mặt khác, chi phí chủ yếu bao gồm hai bộ phận đầu của giá trị sản phẩm. Các Mác viết : "Về mặt số lượng, chi phí sản xuất TBCN của hàng hoá khác với giá trị của hàng hoá vì rằng nếu V= K + m thì K = V - m. Hao phí về lao động trong chi phí chỉ là một phần của toàn bộ lượng lao động kết tinh trong giá trị hàng hoá. Điều đó có nghĩa là giữa giá trị và chi phí còn một khoản chênh lệch - đó chính là phần giá trị thặng dư do lao động mới sáng tạo ra cho xã hội.  Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá cả. Giữa chi phí và giá cả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp. Các- Mác viết : "Giới hạn thấp nhất của giá bán hàng hoá là do chi phí sản xuất của nó quy định". Hơn nữa chi phí lại bị ảnh hưởng của sự thay đổi về giá cả thị trường. Giá cả của sản phẩm này thay đổi kéo theo sự biến động về giá của các sản phẩm khác. Và như vậy gián tiếp nó sẽ ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá cả và chi phí, Các - Mác đã chỉ ra mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng như sau: "Giá cả của hàng hoá được xây dựng trên chi phí. Ngoài ra chi phí sản xuất chính là giá mua mà bản thân nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá, nghĩa là giá mua do chính ngay quy trình sản xuất hàng hoá quyết định" Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả do quan hệ cung - cầu quyết định. Vì vậy, chi phí chỉ cung cấp thông tin để nhà quản trị ra quyết định đúng đắn, linh hoạt và kịp thời. b. ý nghĩa kinh tế của chỉ tiêu gía thành Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động... trong sản xuất, cũng như trong các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ gía thành. Nó thể hiện được trình độ tiến bộ của kỹ thuật - công nghệ sản xuất, trình độ tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ý nghĩa của chỉ tiêu gía thành sản phẩm được thể hiện trên các mặt sau đây: - Giá thành sản phẩm là thức đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm cơ sở để tính giá cả tiêu thụ và xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm, tính lơi nhuận của doanh nghiệp và do đó nó là căn cứ xác định các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp đưa ra các phương án sản xuất, các quyết định đúng đắn về chính sách sản phẩm, các biện pháp tổ chức sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao. - Giá thành sản phẩm là cơ sở chính sách để kiểm soát tình hình, chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra những nguyên nhân dẫn đến chi phí phát sinh không hợp lý để loại trừ. Mặt khác, các doanh nghiệp thấy rõ sự cần thiết và khả năng của doanh nghiệp trong việc giảm từng loại chi phí để có hướng đầu tư tích cực, hạ thấp tối thiểu mức chi phí trong từng khoản mục cấu thành giá thành sản phẩm. - Giá thành sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu khác, nó vừa là mục tiêu, vừa là kết quả của việc thực hiện các chỉ tiêu khác như: tăng năng suất lao động, giảm định mức tiêu hao nguyên vât liệu,nhiên liệu, năng lượng, chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản trị. - Giá thành sản phẩm là một công cụ sắc bén trong việc hạch toán kinh doanh, tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, chỉ tiêu giá thành sản phẩm đòi hỏi phải được tính toán chính xác. Những chi phí đưa vào gía thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong gía thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Chính vì vậy trong công tác quản lý doanh nghiệp, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, những quản lý doanh nghiệp nắm vững được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng hoạt động, từng loại sản phẩm cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân tích, đánh giá tình hình kế hoạch của doanh nghiệp, để có các quyết định quản lý thích hợp. c. Các cách phân loại chi phí trong gía thành. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau, để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất, có thể tiến hành phân loại chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm theo các tiêu thức khác nhau.  Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí và theo công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất - Trước hết, theo nội dung kinh tế của chi phí, chi phí sản xuất được phân thành tám yếu tố chi phí sản xuất. Những yếu tố này được sử dụng khi lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn định mức. Phân loại theo nội dung kinh tế giữ được tính nguyên vẹn của từng yếu tố chi phí, mỗi yếu tố đều là chi phí ban đầu do doanh nghiệp chi ra và không phân tích được nữa. Mối yếu tố đều bao gồm mọi khoản chi có cùng nội dung và tác dụng kinh tế giống nhau, không kể nó được chi ra ở đâu và quan hệ của nó với quá trình sản xuất như thế nào. - Căn cứ vào công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất người ta chia các chi phí thành những khoản mục nhất định. Các khoản này được dùng trong việc xác định giá thành đơn vị sản phẩm cũng như giá thành sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra, cách phân loại này còn cho thấy ảnh hưởng của từng khoản mục đến kết cấu và sự thay đổi của giá thành. Qua đó nó cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Những yếu tố chi phí sản xuất và những khoản mục chi phí để tính gía thành đối chiếu với nhau và được sắp xếp theo bảng sau: Bảng 1: Nội dung của yếu tố chi phí sản xuất và khoản mục tính gía thành sản phẩm Yếu tố chi phí sản xuất Khoản mục tính gía thành 1. Nguyên vật liệu chính mua ngoài 2. Vật liệu phụ mua ngoài 3. Nhiên liệu mua ngoài 4. Năng lượng mua ngoài 5. Tiền lương CNVC 6. Bảo hiểm xã hội CNVC 7. Khấu hao TSCĐ 8. Các chi phí khác bằng tiền 1. Nguyên vật liệu chính 2. Vật liệu phụ 3. Nhiên liệu dùng vào sản xuất 4. Năng lượng dùng vào sản xuất 5. Tiền lương của CNSX 6. BHXH của CNSX 7. Khấu hao TSCĐ dùng vào sản xuất 8. Chi phí phân xưởng 9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 10. Thiệt hại về ngừng SX và SP hỏng 11. Chi phí ngoài sản xuất  Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành, người ta chia ra: Chi phí trực tiếp và chi phí gián - Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất ra từng loại sản phẩm và được tính trực tiếp vào giá thành của đơn vị sản phẩm hay loại sản phẩm. Chi phí trực tiếp bao gồm: + Tiền lương và bảo hiểm xã hội của sản xuất. + Nguyên vật liệu chính, phụ dùng vào sản xuất. + Nguyên liệu, động lực dùng vào sản xuất. + Công cụ lao động nhỏ dùng vào sản xuất. + Chi phí trực tiếp khác bằng tiền. - Chi phí gián tiếp là những chi phí có quan hệ đến hoạt động chung của phân xưởng, của doanh nghiệp và được tính vào giá thành một cách gián tiếp bằng phương pháp phân bổ: Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng giống như chi phí trực tiếp, nhưng những khoản này được chỉ ra cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp hoặc các bộ phận khác của doanh nghiệp. Cách phân loại này không cứng nhắc, cố định mà tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp công nghiệp. Phân loại theo cách này có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm và sản lượng hàng hoá.  Phân loại chi phí căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí và tình hình tăng giảm sản lượng hàng hoá, người ta chia ra: Chi phí biến đổi (biến phí) và chi phí cố định (định phí) - Chi phí biến đổi là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này như là chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Trong chi phí biến đổi người ta còn chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỷ lệ (là chi phí biến đổi cùng hướng và cùng mức độ với sự biến đổi của sản lượng sản phẩm làm ra) và chi phí biến đổi không cùng tỷ lệ (là những chi phí có thể tăng nhanh hơn kết quả sản xuất hoặc cũng có thể chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất) - Chi phí cố định là những chi phí về nguyên tắc không thay đổi theo sản lượng sản phẩm trong giới hạn đầu tư. Đó là những khoản chi mà doanh nghiệp phải ứng chịu trong mỗi đơn vị thời gian cho các đầu vào cố định. Nói một cách khác, chi phí cố định là những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không sản xuất sản phẩm, nó hoàn toàn không chịu sự tác động của bất kỳ sự biến đổi nào của việc thay đổi sản lượng sản phẩm trong một giới hạn quy mô nhất định. Ví dụ: Khấu hao TSCĐ, chi phí lãi vay ngân hàng (trung và dài hạn), chi phí bảo hiểm, tiền thuê đất đai, tiền lương của những người quản lý... Thông thường chi phí trực tiếp là chi phí biến đổi, còn một số bộ phận trong chi phí gián tiếp thuộc chi phí cố định. Nhờ cách phân loại này người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lý của chi phí sản xuất chi ra. Mặt khác đó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng sản phẩm tối thiểu và xây dựng một chính sách giá cả hợp lý linh hoạt đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Ngoài việc phân loại chi phí theo các cách chủ yếu trên đây, trong thực tế còn rất nhiều cách phân loại khác nữa, chẳng hạn như căn cứ vào cấu thành của chi phí, căn cứ vào quá trình luân chuyển của chi phí... Bằng những tiêu thức phân loại khác nhau, cho phép nhà quản trị doanh nghiệp với những mục tiêu cụ thể sẽ vận dụng ý nghĩa của từng phương pháp vào quá trình phân tích và quản lý chi phí, nhằm đạt hiệu quả cao hơn. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến gía thành sản phẩm a. Nhân tố công nghệ - kỹ thuật sản xuất Giá thành sản phẩm phụ thuộc nhiều vào cấu trúc sản phẩm, quá trình công nghệ sản xuất và máy móc thiết bị. Sản phẩm thiết kế càng hợp lý thì vừa có chất lượng cao lại vừa giảm được chi phí nguyên vât liệu, năng lượng để sản xuất ra sản phẩm. Với công nghệ tiên tiến, khép kín, máy móc thiết bị hiện đại càng làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí tiêu hao nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng, là tăng sản lượng sản phẩm ... điều đó cho phép hạ chi phí sản xuất, góp phần hạ giá thành sản phẩm. b. Các định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật là cơ sở cho việc tính các chi phí trong gía thành. Đồng thời đó là chỉ tiêu để quản lý các chi phí trong sản xuất, đánh giá kiểm tra chất lượng công tác. Nếu định mức xây dựng các chi phí cao, không hợp lý sẽ gây nên tình trạng lãng phí. Các đơn vị sản xuất do thực hiện các định mức dễ dàng nên không đầu tư biện pháp để tiết kiệm các chi phí, sẽ không khuyến khích người lao động tìm các biện pháp để nâng cao năng suất lao động, giảm tiêu hao nguyên vât liệu, từ đó dẫn đến không tiết kiệm các chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Ngược lại nếu định mức xây dựng các chi phí thấp hơn khả năng thực tế có thể thực hiện được thì sẽ mất đi ý nghĩa thực tế của nó, các đơn vị sản xuất, người lao động đã cố gắng nhưng không thực hiện được mức, sẽ gây chán nản, phát sinh tư tưởng. Đồng thời gía thành kế hoạch sẽ không chính xác, dẫn đến các chính sách giá không đúng gây bất lợi cho doanh nghiệp. c. Tổ chức lao động và sử dụng con người Tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Chất lượng lao động ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công việc. Người sử dụng lao động phải bố trí lao động hợp lý, đúng ngành nghề, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người làm cho họ thực sự gắn bó, cống hiến hết tài năng sức lực cho doanh nghiệp, người sử dụng lao động phải biết sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế, khuyến khích và phát huy cao độ khả năng đóng góp của người lao động. d. Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp lý, chặt chẽ có thể hạn chế lãng phí lao động, nguyên vât liệu, nhiên liệu, giảm tỷ lệ phế phẩm... Trong cơ chế thị trường vai trò tài chính ngày càng cao, nó có tác động không nhỏ trong việc hạ gía thành sản phẩm. Sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư sẽ tránh được những tổn thất do ngừng sản xuất. e. Nhân tố thị trường Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quyết định giá cả thị trường. Vì vậy, thị trường giá cả có ảnh hưởng quan trọng đến giá thành sản phẩm. Đối với thị trường đầu ra, nếu làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, có nghĩa là doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm, làm cơ sở cho việc doanh nghiệp tăng năng suất lao động, tăng thời gian sử dụng máy móc... điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Đối với thị trường đầu vào: nơi cung cấp các yếu tố đầu vào như nguyên vât liệu, nhiên liệu... để doanh nghiệp tiến hành sản xuất. Sự biến động và tính chất giá cả thị trường có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp phải luôn chủ động tìm hiểu thị trường, phán đoán khả năng, diễn biến của thị trường về giá cả và khối lượng vật tư hàng hoá trên thị trường, từ đó có những biện pháp ứng phó thích hợp, nhằm tiết kiệm chi phí, góp phần hạ gía thành. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp cần xem xét kỹ các nhân tố trên, tù đó xác định cho doanh nghiệp phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm, thích ứng với điều kiện và tình hình của doanh nghiệp mình. 3. Cách phân loại giá thành sản phẩm a. Phân loại gía thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính gía thành. Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu tính gía thành, giá thành sản phẩm chia làm 3 loại: - Gía thành kế hoạch Gía thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán gía thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch gía thành và kế hoạch hạ gía thành của doanh nghiệp. - Gía thành định mức Giá thành định mức là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính gía thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Gía thành định mức mang đặc trưng của gía thành kế hoạch, nhưng được xác định không phải trên cơ sở mức kế hoạch cho cả kỳ kinh doanh (tháng, quý). Việc xây dựng gía thành này cho phép các nhà quản lý xác định kịp thời những chênh lệch so với định mức, trên cơ sở đó tìm ra biện pháp thích hợp để hạ gía thành sản phẩm. - Giá thành thực tế Giá thành thực tế là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ. Gía thành sản phẩm thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. b. Phân loại gía thành theo phạm vi tính toán và phát sinh chi phí. Theo phạm vi tính toán gía thành, gía thành sản phẩm được chia làm 3 loại: - Gía thành phân xưởng Gía thành phân xưởng bao gồm tất cả những chi phí trực tiếp, chi phí quản lý phân xưởng và chi phí sử dụng máy móc thiết bị. Nói cách khác, nó bao gồm những chi phí của phân xưởng và tất cả những chi phí của phân xưởng khác nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm tại phân xưởng đó. - Giá thành công xưởng (gía thành sản xuất ) Gía thành công xưởng bao gồm gía thành phân xưởng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Có thể nói gía thành công xưởng (gía thành sản xuất) bao gồm tất cả những chi phí để sản xuất sản phẩm trong phạm vi toàn doanh nghiệp. Gía thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất. - Giá thành toàn bộ Gía thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm gía thành công xưởng cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó. Gía thành toàn bộ của sản phẩm chỉ được tính toán xác định khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ được tiêu thụ. Gía thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước thuế lợi tức của doanh nghiệp. Gía thành phân xưởng, công xưởng hay toàn bộ đều được tính cho từng đơn vị sản phẩm, loại sản phẩm, loạt sản phẩm và toàn bộ sản lượng hàng hoá tiêu thụ. II. Cơ cấu gía thành và phương pháp xác định các yếu tố chi phí trong gía thành. 1. Cơ cấu giá thành Cơ cấu giá thành thể hiện tỷ trọng của từng khoản mục chi phí trong tổng giá thành (số tương đối ). Từ đó giúp cho nhà quản lý biết được khoản mục chi phí nào chiếm tỷ trọng lớn để có kế hoạch hạ thấp khoản mục chi phí đó dẫn đến hạ thấp tổng giá thành chính là hạ thấp giá thành dơn vị sản phẩm. Từ đó nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ví dụ: Trong công trình trạm biến áp và đường dây hạ thế khu Quyết Thắng - Sơn La có cơ cấu giá thành như sau: Đơn vị: nghìn đồng Khoản mục Tên công trình Vật liệu Nhân công Thuê ngoài và máy thi công Chi phí khác Giá thành sản phẩm TBA và đường dây hạ thế... 351.687 57.106 10.090 59.461 478.314 Qua đó nhà quản lý biết được khoản mục chi phí nào chiếm tỷ trọng lớn (CFVL hay CFNC hay CFTN+MTC hay CFSXC ). Từ đó có kế hoạch hạ thấp giá thành. 2. Phương pháp tính gía thành đơn vị sản phẩm. a. Tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nó là công cụ quan trọng để các nhà quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, vì vậy cần thiết phải tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành của các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. - Tính đúng là tính toán chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Muốn vậy phải định đúng đối tượng tính gía thành, vận dụng đúng phương pháp tính gía thành thích hợp. Gía thành phải được tính toán trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất được tập hợp một cách chính xác, kịp thời. - Tính đủ là tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh thực sự, loại bỏ mọi yếu tố bao cấp để tính đủ đầu vào theo chế độ quy định. Tính đủ cũng đòi hỏi phải loại bỏ những chi phí không liên quan (trực tiếp) đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; những chi phí mang tính chất tiêu cực, lãng phí, lãng phí, không hợp lý. Việc tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm sẽ làm cho gía thành trở thành tấm gương thật, phản ánh đúng đắn tình hình và kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh, xác định đúng đắn kết quả tài chính, khắc phục được hiện tượng "lãi giả, lỗ thật". Chính vì vậy, tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm là việc làm cấp bách và thiết thực đối với các doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế thị trường. b. Đối tượng tính gía thành Đối tượng tính gía thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, yêu cầu phải tính được tổng gía thành và gía thành đơn vị. Xác định đối tượng tính gía thành là công việc cần thiết đầu tiên trong toàn bộ công việc tính gía thành sản phẩm doanh nghiệp. Đối tượng tính gía thành có ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp xác định gía thành thích hợp cho đối tượng đó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất ra sản phẩm hàng hoá trong kỳ kinh doanh, căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm cung cấp sử dụng của từng loại sản phẩm đó mà xác định đối tượng tính gía thành thích hợp. - Đối với các loại doanh nghiệp có sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính gía thành là từng sản phẩm, từng công việc (như đóng tàu, xây lắp...) - Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tính gía thành là từng loạt sản phẩm đã hoàn thành theo khoản mục và trên cơ sở đó xác định gía thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm (như sản xuất máy công cụ). - Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất khối lượng lớn thì việc tính gía thành sản phẩm được tính theo khối lượng từng loại và tính gía thành toàn bộ hàng hoá theo khoản mục. Trên cơ sở đó tính gía thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm (như dêt may, cà phê...) - Quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm cũng có ảnh hưởng nhất định đến đối tượng tính gía thành sản phẩm. Nếu quy trình công nghệ sản xuất đơn giản, thì đối tượng tính gía thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quy trình sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính gía thành có thể là nữa thành phẩm ở từng giai đoạn hoặc thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song (lắp ráp) thì đối tượng tính gía thành có thể là sản phẩm được lắp ráp hoàn chỉnh, cũng có thể là từng bộ phận, từng chi tiết sản phẩm. Đơn vị tính gía thành phải là đơn vị được thừa nhận trong nền kinh tế hàng hoá. Đơn vị tính gía thành thực tế cần phải thống nhất với đơn vị tính gía thành kế hoạch. c. Phương pháp tính gía thành sản phẩm Phương pháp chung trong việc tính gía thành là phương pháp tính toán, xác định gía thành đơn vị của từng loại sản phẩm và công việc đã hoàn thành theo các khoản mục chi phí. Tuy nhiên, trong thực tế, để tính gía thành tuỳ theo phương pháp hạch toán chi phí và đặc điểm quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người ta có thể áp dụng các phương pháp sau:  Phương pháp tính gía thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực tiếp. Phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẻ liên tục, đối tượng tính gía thành tương ứng phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính gía thành định kỳ hàng tháng (quý) phù hợp với kỳ báo cáo. Như tính gía thành sản phẩm điện, nước, bánh kẹo, than, quặng kim loại... Trường hợp cuối thánh có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định, cần tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp thích hợp. Trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và chi phí của sản phẩm dở dang đã xác định, gía thành sản phẩm hoàn thành tính cho từng khoản mục chi phí theo công thức sau: Z = C + Dđk - Dck Gía thành đơn vị tính như sau: J = Trong đó: Z : Tổng gía thành từng đối tượng tính gía thành J : Gía thành đơn vị từng đối tượng tính gía thành C : Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ Dđk và Dck : Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ S : Sản lượng thành phẩm Trường hợp cuối tháng không có sản phẩm dở dang, hoặc có nhưng ít và ổn định nên không cần tính toán, thì tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ đồng thời cũng là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành: Z = C  Phương pháp tính loại trừ chi phí: để tính gía thành được áp dụng trong các trường hợp: - Cùng một quy trình công nghệ sản xuất, đồng thời với việc chế tạo ra sản phẩm chính còn có thu thêm được sản phẩm phụ nữa như: Nhà máy sản xuất đường ngoài sản phẩm chính là đường kính còn thu được sản phẩm phụ là rỉ đường, nông trường chăn nuôi lợn thịt ngoài sản phẩm chính là lượng lợn thịt còn có sản phẩm phụ là phân bón... - Kết quả sản xuất ngoài thành phẩm đủ tiêu chuẩn chất lượng quy định còn có sản phẩm hỏng không sữa chữa được mà các khoản thiệt hại này không được tính cho sản phẩm hoàn thành chịu. - Các phân xưởng sản xuất phụ còn cung cấp sản phẩm hoặc lao vụ lẫn cho nhau. Cần loại trừ ra khỏi gía thành các sản phẩm, lao vụ phục vụ cho sản xuất chính. Trong trường hợp này đối tượng tính gía thành chỉ là sản phẩm chính, sản phẩm hoàn thành và sản phẩm lao vụ phục vụ cho các bộ phận không phải là sản xuất phụ. Muốn tính được gía thành của các đối tượng tính gía thành phải lấy tổng chi phí của sản phẩm phụ, chi phí thiệt hại về sản phẩm hỏng không được tính trong giá thành thành phẩm, chi Z S phí phục vụ lẫn nhau trong nội bộ các phân xưởng sản xuất phụ. Công thức tính gía thành của thành phẩm sẽ là: Z = C + Dđk - Dck - Clt Trong đó: Z : Tổng gía thành của đối tượng tính gía thành C :Tổng chi phí sản xuất đã tổng hợp Dđk và Dck : Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ Clt : Chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng chi phí đã tập hợp Để đơn giản tính toán chi phí loại trừ (Clt) thường được tính theo giá kế hoạch hoặc có thể lấy giá bán trừ lãi định mức của doanh nghiệp và trừ thuế doanh thu nếu có.  Phương pháp tính gía thành theo hệ số: áp dụng thích hợp trong trường hợp cùng một quy trình công nghệ sản xuất, sử dụng cùng một loại nguyên vật liệu, kết quả sản xuất thu được đồng thời nhiều loại sản phẩm chính khác nhau (liên sản phẩm). Như trong công nghiệp hoá chất, công nghiệp hoá dầu, trong công nghiệp nuôi ong, Xí nghiệp nuôi bò sữa... Trong các trường hợp này đối tượng doanh nghiệp tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, còn đối tượng tính gía thành là từng loại sản phẩm do quá trình sản xuất đó đã sản xuất hoàn thành. Nội dung phương pháp tính gía thành theo hệ số như sau: - Trước hết căn cứ vào đặc điểm kinh tế hoặc kỹ thuật của sản phẩm để qui định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số, trong đó chọn loại sản phẩm có đặc trưng tiêu biểu nhất làm sản phẩm tiêu chuẩn có hệ số 1. - Căn cứ sản lượng thực tế hoàn thành hoàn thành của từng loại sản phẩm và hệ số gía thành đã qui định để tính đổi sản lượng từng loại ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn. (sản phẩm có hệ số = 1) Trong đó: Si : Sản lượng thực tế của loại sản phẩm i Tổng sản lượng thực tế n i = 1  Si x H Hi : Hệ số quy định cho sản phẩm loại i - Căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và chi phí của sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính tổng gía thành của cả liên sản phẩm theo từng khoản mục (theo phương pháp tính giản đơn) - Tính gía thành của từng loại sản phẩm bằng cách lấy tổng gía thành của loại sản phẩm chia cho tổng sản lượng các loại sản phẩm đã tính đổi nhân với sản lượng đã tính đổi của từng loại sản phẩm. - Tính gía thành đơn vị của từng loại sản phẩm.  Phương pháp tính gía thành sản phẩm theo tỷ lệ: áp dụng thích hợp trong trường hợp cùng một quá trình công nghệ sản xuất, kết quả sản xuất là 1 nhóm sản phẩm cùng loại với những chủng loại, phẩm cấp, qui cách khác nhau. Như sản phẩm nhóm ống nước với nhiều kích thước, đường kính và độ dài khác nhau; sản xuất quần áo dệt kim với nhiều cỡ số khác nhau, sản xuất chè hương với nhiều phẩm cấp khác nhau. Trong trường hợp này đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quá trình công nghệ sản xuất của nhóm sản phẩm, còn đối tượng tính gía thành sẽ là từng qui cách sản phẩm trong nhóm sản phẩm đó. Để tính gía thành thực tế cho từng quy cách sản phẩm có thể vận dụng phương pháp tính hệ số cũng có thể vận dụng phương pháp tỷ lệ. Nội dung của phương pháp tính gía thành sản phẩm theo tỷ lệ: - Trước hết doanh nghiệp phải dựa vào một số tiêu chuẩn hợp lý để làm căn cứ tính tỷ lệ phân bổ gía thành thực tế cho các quy cách sản phẩm trong nhóm. Tiêu chuẩn phân bổ thường được lựa chọn là gía thành định mức hoặc gía thành kế hoạch. - Tính tổng gía thành của từng quy cách sản phẩm theo sản lượng thực tế từng quy cách nhân với đơn gía thành đơn vị định mức hoặc kế hoạch từng khoản mục. - Tính tổng gía thành định mức hoặc kế hoạch của cả nhóm theo sản lượng thực tế dùng làm tiêu chuẩn phân bổ. - Căn cứ chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả nhóm sản phẩm và chi phí sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính ra tổng gía thành thực tế của cả nhóm sản phẩm. - Tính tỷ lệ gía thành từng khoản mục: Tỷ lệ tính gía thành = Gía thành thực tế cả Tiêu chuẩn phân bổ - Tính gía thành thực tế từng quy cách sản phẩm theo từng khoản mục 3. Phương pháp xác định giá thành theo khoản mục tính toán a. Chi phí trực tiếp Là các loại chi phí trực tiếp phục vụ cho quá trình thi công xây lắp công trình, bao gồm toàn bộ chi phí trực tiếp về vật liệu, nhân công, thuê ngoài và máy thi công cần thiết để hoàn thành một đơn vị khối lượng tương đối hoàn chỉnh của các công tác hoặc kết cấu xây lắp tạo thành công trình. - Chi phí vật liệu: được xác định theo công thức: Trong đó: VL: Chi phí vật liệu xây dựng Qi : Khối lượng công việc xây lắp thứ i Dvi: Chi phí vật liệu trong đơn giá dự toán xây dựng của công việc thứ i CLvi: Chênh lệch chi phí vật tư thứ i (nếu có) - Chi phí nhân công: được tính theo công thức sau: Trong đó: NC: Chi phí nhân công Qi: Khối công việc xây lắp thứ i Dni: Chi phí cho nhân công nằm trong đơn giá xây dựng chi tiết cho công việc thứ i Tổng gía thành thực tế từng quy cách (Theo khoản = Tiêu chuẩn phân bổ có trong từng quy cách (Theo khoản x Tỷ lệ tính NC  m i= QiDni( 1+ F h1n + F h2n )  i= n m QiDvi + CL VL = F1: Các khoản phụ cấp lương (nếu có) tính theo tiền lương cấp bậc mà chưa được tính hoặc chưa tính đủ trong đơn giá xây dựng hiện hành (tính theo hệ số) F2: Các khoản phụ cấp lương (nếu có) tính theo tiền lương cấp bậc mà chưa tính hoặc chưa đủ trong đơn giá xây dựng hiện hành (tính theo hệ số) h1n: Hệ số biểu thị quan hệ giữa chi phí cho nhân công trong đơn giá so với tiền lương tối thiểu của các nhóm lương thứ n (hiện nay có 4 nhóm lương) h2n: Hệ số biểu thị quan hệ giữa chi phí cho nhân công trong đơn giá so với tiền lương cấp bậc của các nhóm lương thứ n (hiện nay có 4 nhóm lương) - Chi phí máy thi công: Được xác định theo công thức sau: Trong đó: M: chi phí máy thi công Qi: khối lượng công việc thứ i Dmi: chi phí sử dụng máy nằm trong đơn giá xây dựng chi tiết của loại công việc i Vây, chi phí trực tiếp bao gồm: T = VL+NC+M b. Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vât liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Có thể biểu diễn cơ cấu giá thành xây lắp theo sơ đồ sau: M = QiDmi  m i= Giá thành xây lắp Chi phí trực tiếp Chi phí chung Chi phí vật liệu Chi phí nhân công Chi phí máy thi công Chi phí phục vụ CN Chi phí p.vụ thi công Chi phí QLHC Chi phí khác III. Phương hướng và biện pháp phấn đấu hạ giá thành 1. Thực chất của vấn đề phấn đấu hạ gía thành sản phẩm Hạ gía thành sản phẩm là việc giảm chi phí trong các yếu tố đầu vào cấu thành nên giá thành sản phẩm. Zđvsp = Vậy, hạ thấp giá thành sản phẩm thì một mặt phải tiết kiệm chi phí sản xuất, mặt khác phải sử dụng chi phí một cách hợp lý để tăng cường kết quả sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được điều này doanh nghiệp phải áp dụng một hệ thống các biện pháp: sử dụng tiết kiệm nguyên vât liệu, phấn đấu hạ định mức sử dụng nguyên vât liệu thông qua các công tác nâng cao tay nghề, áp dụng các sáng kiến kỹ thuật, hạ thấp chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm bằng cách nâng cao năng suất, bố trí hợp lý máy móc thiết bị thi công, sắp xếp tốt khâu tiếp thị tiêu thụ nhằm giảm chi phí lưu thông... Như vậy thực chất của hạ giá thành sản phẩm là tiết kiệm lao động sống và lao động vật hoá cho một đơn vị sản phẩm đầu ra. 2. ý nghĩa của việc phấn đấu hạ gía thành sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường hiện nay sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp luôn gắn liền với yếu tố cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh đó muốn giành được chiến thắng thì mỗi doanh nghiệp phải phát huy được những thế mạnh của mình. Nhưng tựu chung lại thì nó không ngoài hai vấn đề đó là: giá cả và chất lượng. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày nay nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đến vấn đề chất lượng nhưng cạnh trnh về giá cả vẫn là công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất. Chính vì vậy các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh đều phải quan tâm đến việc giảm chi phí, hạ gía thành sản phẩm. Đối với một doanh nghiệp, việc hạ gía thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn thể hiện: Chi phí sản xuất Kết quả sản xuất - Hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Khi thị trường có sự cạnh tranh, hàng hoá đa dạng, phong phú các doanh nghiệp buộc phải nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng các hoạt động dịch vụ và phải tìm biện pháp giảm chi phí, hạ gía thành. Việc hạ gía thành sẽ tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, doanh nghiệp có thể giảm bớt giá bán để đẩy nhanh tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vố nhanh. - Hạ gía thành sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Do giá cả được hình thành bởi quan hệ cung cầu trên thị trường, nếu gía thành hạ so với giá bán trên thị trường, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao. Nếu gía thành càng hạ, doanh nghiệp sẽ càng có lợi là có thể hạ được giá bán để tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hơn và thu được lợi nhuận lớn hơn. - Hạ gía thành có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp đã tiết kiệm được các chi phí nguyên vât liệu và chi phí quản lý với khối lượng sản phẩm như cũ, nhu cầu vố lưu động sẽ được giảm bớt. Trong điều kiện đó doanh nghiệp có thể rút bớt vốn lưu động dùng trong sản xuất hoặc mở rộng sản xuất tăng thêm lượng sản phẩm tiêu thụ. Mặt khác giảm giá thành sản phẩm gán liền với việc giảm chi phí sản xuất bao gồm chi phí lao động sống và chi phí lao động vật hoá trên một đơn vị sản phẩm. Nhưng điều đó không có ý nghĩa với việc không bảo đảm tiền lương, BHXH cho công nhân để họ tái sản xuất sức lao động. Điều cốt yếu ở đây là giảm là giảm giá tiền lương trên một đơn vị sản phẩm trên cơ sở tăng năng suất lao động và qua đó dẫn đến tăng tổng mức tiền lương hàng tháng, quý cho người lao động. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi sản phẩm tiêu thụ nhanh nhờ hạ gía thành, bảo đảm việc là liên tục. Vậy hạ gía thành sản phẩm có ảnh hưởng lâu dài và tích cực tới việc không ngừng nâng cao điều kiện sống của người lao động Tóm lại, hạ gía thành sản phẩm vừa đem lại lợi ích cho doanh nghiệp vừa đem lại lợi ích cho toàn xã hội. 3. Phương hướng và biện pháp phấn đấu hạ gía thành trong doanh nghiệp. Phấn đấu hạ gía thành là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Muốn hạ gía thành phải thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng và biện pháp. Theo cách phân loại các biện pháp có liên quan đến việc giảm hoặc tăng từng loại chi phí và ảnh hưởng của nó đến gía thành sản phẩm, có thể tập trung nghiên cứu các phương hướng, các biện pháp và tính toán sự ảnh hưởng của nó như sau: a. Giảm chi phí nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng trong giá thành sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm, để tiết kiệm nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng, cần cải tiến kết cấu sản phẩm, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nhiên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản, cấp phát vât liệu... Tiết kiệm nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng sẽ làm cho chi phí nguyên vât liệu... trong gía thành giảm nhiều, vì trong kết cấu gía thành, tỷ trọng nguyên vât liệu chiếm bộ phận lớn nhất, có doanh nghiệp chiếm từ 60 - 80%. ảnh hưởng của những biện pháp này đến hạ gía thành sản phẩm được tính theo công thức sau: Theo công thức này, thì chỉ số hạ gía thành do 3 yếu tố tác động: chỉ số định mức tiêu dùng nguyên vât liệu kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo; chỉ số giá cả nguyên vât liệu và chỉ số chi phí nguyên vât liệu trong gía thành kỳ báo cáo. b. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong gía thành sản phẩm. Muốn giảm chi phí tiền lương trong gía thành sản phẩm cần tăng nhanh năng suốt lao động, bảo đảm cho năng suốt lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và tiền công. Như vậy cần: cải tiến tổ chức sản xuất; cải tiến tổ chức lao động áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, hoàn thiện định mức lao động; tăng cường kỷ luật lao động, áp dụng các hình thức tiền lương, tiền Chỉ số định mức tiêu dùng nguyê Chỉ số hạ gía thành do giảm chi phí nguyên vât Chỉ số giá cả của nguyê n vât Chỉ số nguyên vât liệu trong gía thành = x - 1 x thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ thuật của công nhân. Tốc độ tăng năng suốt lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng bình quân và tiền công cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm và do đó khoản mục tiền lương trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong gía thành. ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương được tính theo công thức sau: Công thức này cho ta thấy, chỉ số hạ gía thành sản phẩm do ba nhân tố tác động: năng suốt lao động, tiền lương bình quân và tỷ trọng tiền lương trong gía thành sản phẩm kỳ báo cáo. c. Giảm chi phí cố định trong gía thành sản phẩm Muốn giảm chi phí cố định trong gía thành sản phẩm cần phấn đấu tăng nhanh và tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra. Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong gía thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí cố định chậm hơn tốc độ tăng và quy mô tăng sản lượng. Nói cách khác, tốc độ tăng chi phí cố định không lệ thuộc với tốc độ và quy mô tăng sản lượng. Để tăng sản phẩm hàng hoá cần sản xuất nhiều. Muốn sản xuất nhiều phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao động, phải mở rộng quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra. ảnh hưởng của biện pháp này được tính theo công thức sau: Chỉ số chi phí tiền lương trong giá thành sản Chỉ số tiền lương bình Chỉ số hạ gía thành do tăng năng suốt = - 1 x Chỉ số tăng giá lao động Chỉ số giảm gía thành do giảm chi phí cố Chỉ số chi phí cố ịnh đ trong gía = - 1 x Chỉ số chi phí Chỉ số sản Công thức này cho ta thấy rõ, chỉ số hạ gía thành do sự tác động của ba nhân tố: chỉ số chi phí cố định, chỉ số sản lượng, chỉ số chi phí cố đinh trong gía thành sản phẩm kỳ báo cáo. Trên cơ sở kết quả tính toán ảnh hưởng của các biện pháp đến việc hạ gía thành sản phẩm, ta có thể tổng hợp tỷ lệ về khả năng hạ gía thành và tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Đối chiếu kết quả so sánh được nếu xét thấy mục tiêu tăng lợi nhuận chưa đạt được, chúng ta tiếp tục điều chỉnh tỷ lệ hạ gía thành và tính ngược lại sự cần thiết phải tăng (giảm) các yếu tố khác và quy định các biện pháp cần thực hiện. Chẳng hạn, từ tỷ lệ hạ gía thành chúng ta có thể xác định được: Tỷ lệ giảm tiêu hao nguyên vât liệu nếu giá cả không thay đổi; tốc độ tăng năng suốt lao động nếu tiền lương bình quân ổn định; tốc độ tăng sản lượng nếu chi phí cố định không thay đổi và ngược lại. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh là việc tăng (giảm) các yếu tố có giới hạn bởi nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trong đó, luôn luôn phải tính toán đầy đủ đến quan hệ cung cầu trên thị trường để quyết định tăng (giảm) đầu vào và đầu ra tối ưu nhất để có lợi nhuận cao nhất. Phần II phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện I.Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới phấn đấu hạ gía thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện 1. Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp a. Quá trình thành lập Xí nghiệp Xí nghiệp Xây Lắp Điện trực thuộc công ty Điện Lực I, là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập ngày 23/10/1993 theo quyết định số 532 NL/TCCB - LD của Bộ Năng lượng (nay là Bộ Công nghiệp) trên cơ sở sáp nhập hai Xí nghiệp là Xí nghiệp Xây Lắp Điện Lực và Xí nghiệp Lắp đặt điện hạ thế trực thuộc Sở Điện lực Hà Nội. Trụ sở của doanh nghiệp đặt tại số 1, đường An Dương, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Xí nghiệp Xây Lắp Điện là một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực xây dựng với ngành nghề sản xuất chính là xây dựng, sửa chữa các công trình công nghiệp và dân dụng. Xí nghiệp Xây Lắp Điện là một đơn vị kinh tế cơ sở có tư cách pháp nhân không đầy đủ, thực hiện hạch toán kinh tế phụ thuộc trong Công ty Điện lực I, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng, được đăng ký kinh doanh theo nhiệm vụ của Bộ qui định. Nguồn vốn kinh doanh ban đầu của Xí nghiệp là 2.119 triệu đồng, trong đó : - Vốn cố định : 1519 triệu đồng - Vốn lưu động: 600 triệu đồng. Theo nguồn vốn : - Vốn ngân sách cấp: 2147 triệu đồng. - Vốn tự bổ xung: 72 triệu đồng Xí nghiệp Xây Lắp Điện lực là một đơn vị của Công ty Điện lực I, thuộc ngành công nghiệp nặng, được thành lập lại từ năm 1993 đến nay chưa phải là dài, do đó nó đang trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, Xí nghiệp Xây Lắp Điện ngày càng mở rộng về quy mô cũng như cơ cấu, hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho Đất nước, góp phần làm giảm tổn thất điện năng, đem ánh sáng đến mọi miền Tổ quốc đặt biệt là đồng bào vùng sâu vùng xa, và cũng đã tham gia xây dựng công trình với nước bạn Lào. Trong tương lai Xí nghiệp chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa. b. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh Là đơn vị phụ trợ thuộc Công ty Điện lực I, Xí nghiệp Xây lắp Điện có đăng ký ngành nghề kinh doanh: - Xây dựng, cải tạo, sửa chữa công trình đường dây và trạm điện. - Xây dựng, sửa chữa công trình công nghiệp và dân dụng. Theo chứng chỉ hành nghề xây dựng số 53 BXD/CSXD ngày 14/4/1999 của Bộ Xây dựng và quyết định số 2163 EVN/ĐLI-3 ngày 3/5/1999 của Công ty Điện lực I, Xí nghiệp có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau: - Xây lắp các kết cấu công trình, thi công móng công trình. - Gia công, lắp đặt các kết cấu kim loại hòm tủ, bảng điện, cấu kiện bê tông đúc sẵn cho đường dây và trạm điện đến 35KV. - Xây dựng đường dây và trạm điện đến 110KV và một số hạng mục (gói thầu) đường dây có điện áp đến 220KV. - Xây dựng các công trình dân dụng và phần bao che các công trình công nghiệp nhóm C. Phạm vi hoạt động trên toàn quốc c. Mô hình tổ chức sản xuất và quản lý  Mô hình tổ chức quản lý: Tính chất sản xuất của Xí nghiệp là xây lắp các công trình điện có quy mô nhỏ phổ biến ở mức (100 triệu đến 600 triệu đồng), phân tán hầu hết các tỉnh phía Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra. Để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hoá cũng như đảm bảo thực hiện tốt phương án sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp thực hiện mô hình tổ chức quản lý như sau: Sơ đồ:1. Mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp Xây Lắp Điện Giám Đốc . Bộ máy bao gồm: - 6 phòng chức năng: + Phòng hành chính + Phòng kế hoạch + Phòng kỹ thuật + Phòng tổ chức lao động - tiền lương + Phòng tài chính kế toán + Phòng vật tư - 2 ban: + Ban an toàn + Ban máy tính và thông tin - 12 đội xây lắp điện - 3 đơn vị phụ trợ Giám đốc là người đứng đầu Xí nghiệp, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, các khoản giao nộp Nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn cũng như đời sống của cán bộ công nhân viên toàn Xí nghiệp. Giám đốc quản lý chung toàn Xí nghiệp và trực tiếp quản lý các phòng sau: - Phòng tổ chức lao động - tiền lương - Phòng kế hoạch P.Giám Đốc nội Phòng Hành Chính Phòng Kế Hoạch Phòng TC- LĐTL Phòng Kỷ Thuật Phòng Tài Chính Phòng Vật Tư Ban An Toàn Ban Máy Tính 12 đội xây lắp điện 3 đơn vị phù trợ P.Giám Đốc kỷ thuật - Phòng tài chính kế toán Bên cạnh đó giám đốc chịu trách nhiệm quy định quy chế quản lý của hoạt động toàn Xí nghiệp. Phó giám đốc: Phối hợp với kế toán trưởng giúp việc trực tiếp cho giám đốc trong công tác quản lý, đồng thời phụ trách khâu kỹ thuật của các công trình. Xí nghiệp có 2 phó giám đốc: + 1 phó giám đốc kỹ thuật - P.GĐ1. + 1 phó giám đốc nội chính - P.GĐ2. Phó giám đốc 1 quản lý các bộ phận sau: + Phòng hành chính + Đội vận tải + Đội xây dựng Phó giám đốc 2 quản lý các bộ phận còn lại.  Mô hình tổ chức sản xuất: Do đặc tính của công tác Xây lắp các công trình điện Xí nghiệp thành lập các đội xây lắp điện. Có 12 đội xây lắp (gọi tắt là đội điện 1, đội điện 2.., đội điện 12). Mỗi đội có từ 15 đến 30 người, bao gồm một đội trưởng phụ trách chung, một kỹ thuật viên và một nhân viên kinh tế. Các đội điện tổ chức thi công công trình theo hợp đồng kinh tế do Xí nghiệp ký kết và theo thiết kế được duyệt. Các công trình có quy mô lớn phải huy động nhiều đội cùng tham gia thi công như: Công trình đường dây 35KV Sầm Nưa - Lào (năm 1997), công trình cải tạo đường dây trung áp và các TBA Thành phố Hà Nội thuộc dự án "cải tạo lưới điện ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng Nam Định" (1999)... Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức ở các đội xây lắp Đội trưởng Kỹ thuật Nhân viên kinh tế Nhóm trưởng Công nhân  Các đơn vị phụ trợ: Do tính chất và nhu cầu của sản phẩm xây lắp, ngoài các đội điện còn có các đơn vị phụ trợ phục vụ cho việc thi công các công trình điện gồm các đội: đội xe, xưởng cơ khí và đội xây dựng. - Đội xe: có nhiệm vụ vận chuyển vật tư thiết bị đến chân công trình, xe cẩu dùng cẩu áp và dựng cột điện. Cơ cấu của đội xe bao gồm: tổ trưởng, nhân viên kinh tế, các lái xe và lái cẩu. - Xưởng cơ khí: Chuyên gia công chế biến xà sắt, hộp bảo vệ công tơ, hòm Compozit phục vụ các công trình điện trong Xí nghiệp và các đơn vị trong ngành. Cơ cấu gồm một quản đốc, một nhân viên kinh tế, công nhân cơ khí bậc cao và thợ lành nghề. - Đội xây dựng: Chuyên xây vỏ trạm, đúc cột điện loại nhỏ, các móng cột... Cơ cấu gồm một đội trưởng, một kỹ thuật viên, một nhân viên kinh tế, các công nhân bậc cao, thợ mộc, thợ xây. d. Quy trình thực hiện tác nghiệp để hoàn thành một công trình xây lắp điện Căn cứ vào các văn bản quy định về công tác xây dung cơ bản hiện hành, nhằm đưa công tác thi công và hoàn thành một công trình xây lắp điện trong Xí nghiệp được đồng bộ và hiệu quả. Để thực hiện và hoàn thành một công trình xây lắp cần trải qua các bước sau:  Bước 1: Chuẩn bị.  Bước 2:Thực hiện.  Bước 3: Kết thúc 2. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới việc phấn đấu hạ gía thành ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện a. Đặc điểm cơ sở vật chất, kỹ thuật của Xí nghiệp Xí nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng, sửa chữa các công tình điện từ Hà Tĩnh trở ra. Sản phẩm của Xí nghiệp là sản phẩm đơn chiếc. Mỗi sản phẩm có một quy trình công nghệ riêng. Công việc chủ yếu là lao động kỹ thuật. Do đặc điểm, tính chất sản xuất đòi hỏi Xí nghiệp phải có những chủng loại tài sản cố định khác nhau để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các tài sản cố định, máy móc thiết bị cỡ lớn như: Máy khoan cần K 125, máy cắt đột liên hợp, máy đột dập,... và một số phương tiện vận tải, truyền dẫn thuộc TSCĐ như: Xe Cateer 2 tấn, cẩu ZIL 130 KCZ 561K, cẩu IFA ADK 70 - 7 tấn... một số vật kiến trúc, nhà cữa thuộc TSCĐ như: Nhà kho tầng 1 mái bằng, nhà làm việc đội 5, nhà 2 tầng khu B, gara ôtô và phòng y tế, ... phần lớn đều do vốn tự có của Xí nghiệp. Nhìn chung, hệ thống máy móc thiết bị của Xí nghiệp đã khá cũ, phần lớn là loại thuộc trước 1990, tất cả số này đều đã khấu hao hết, công suất thực tế thấp so với thiết kế. Cụ thể: máy khoan cần K 125, máy cắt đột liên hợp, máy đột dập, máy khoan bê tông cầm tay, bộ dụng cụ thi công Pháp, máy trộn bê tông đều đã khấu hao hết. Bên cạnh đó Xí nghiệp cũng bổ sung một số máy móc thiết bị mới như: đầu ép cốt thuỷ lực 14 325 mm HQ, bơm thuỷ lực hoạt động bằng tay...một số phương tiện vận tải mới như: Xe ôtô Toyota Camry (năm 2001), xe ôtô tải tự cẩu FORD Trader... b. Đặc điểm nguyên vật liệu Nguyên vật liệu trong sản xuất, kinh doanh xây lắp các công trình điện có vai trò vô cùng quan trọng vì chi phí cho nguyên vât liệu trong xây dựng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn từ 60 - 70% tổng chi phí cho công tác xây lắp. Khối lượng vận chuyển trong xây lắp cũng lớn hơn nhiều ngành khác. Nên nguyên vât liệu là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến gía thành xây lắp, công tác quản lý nguyên vât liệu là một trong những nội dung quan trọng nhất của công tác hạ gía thành xây lắp. Vật liệu trong xây dựng, lắp đặt, sữa chữa các công trình điện là rất lớn, lại thường cồng kềnh, đa dạng về chủng loại. Vật tư phục vụ thi công công trình thường lấy từ các nguồn sau: + Bên A cấp + Xí nghiệp mua. +Đơn vị thi công tự mua Số lượng, chất lượng và chủng loại vật tư thiết bị tuỳ thuộc vào hợp đồng ký kết mà có mức mua và dự trữ khác nhau. Chính vì vậy, các loại nguyên vât liệu xây dựng đòi hỏi phải được cung cấp đồng bộ, hàng loạt lớn, bởi lẽ sản phẩm công trình làm ra là tổng hợp của tất cả các nguyên vât liệu một cách đồng bộ và đầy đủ, vì thông thường nơi xây dựng, lắp đặt công trình và nơi cung cấp nguyên vât liệu ở cách xa nhau. Mặt khác khi sử dụng tiết kiệm, hợp lý nguyên vât liệu, sử dụng theo đúng yêu cầu kỹ thuật của sản xuất thì chất lượng công trình sẽ nâng cao và hạ gía thành xây lắp. Đặc biệt khi tiến hành xây dựng, nên khai thác nguyên vât liệu ở gần công trình, điều đó góp phần đáng kể để giảm chi phí vận chuyển nguyên vât liệu dẫn tới hạ gía thành xây lắp. c. Đặc điểm về lao động. Lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp, là một trong những yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất và là nguồn sáng tạo ra sản phẩm. Các phương tiện sản xuất ngày càng hiện đại thì trình độ lao động đòi hỏi ngày càng cao hơn và như vậy yếu tố lao động càng có vị trí quan trọng. Lực lượng lao động được thể hiện trong bảng sau Bảng 2: Lao động của Xí nghiệp Đơn vị: người Chỉ tiêu 1999 2000 ‘00/’99(% ) 2001 ‘01/’00( %) 1. Tổng số CBCNV 363 38 4 105,785 407 105,990 - Lao động trực tiếp 294 31 6 107,483 343 108,544 - Lao động gián tiếp 69 68 98,551 64 94,118 2. Số công nhân sản xuất 254 30 0 118,110 325 108,333 3. Số lao động Hợp đồng ngắn hạn 123 13 5 109,756 142 105,185 4. Phụ nữ 44 54 122,727 77 142,593 5. Tuổi đời dưới 30 139 14 2 102,158 159 111,972 31-45 171 18 4 107,602 171 92,935 46-55 43 50 116,279 70 140 Trên 56 10 8 80 7 87,5 6. Trình độ chuyên môn - Đại học 60 70 116,667 87 124,286 - Trung cấp 43 52 120,930 65 125 Nói chung nhìn vào bảng kê về lao động của doanh nghiệp, ta thấy rằng Xí nghiệp đang có lực lượng lao động ngày càng hùng hậu, lớn mạnh, về cả số lượng và chất lượng, tỉ trọng công nhân sản xuất trực tiếp tăng dần từ 76% năm 1999 lên 80% năm 2000 và 82,5 % năm 2001. Bên cạnh việc trẻ hoá, thì trình độ chuyên môn của người lao động cũng được nâng lên bằng cách tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, còn kế đó là trung cấp, tuyển dụng mới và cho đi học. Xí nghiệp có những chế độ chính sách ưu đãi đối với những người đi học, do vậy, làm cho họ yên tâm trong học tập và còn hoàn thành công tác được giao. Tuy nhiên, việc tăng lao động và tăng cường lực lượng lao động có trình độ cũng không hề làm giảm thu nhập quá lớn, mà Xí nghiệp vẫn cố gắng để đảm bảo đời sống cho người lao động một cách tốt nhất có thể: Bảng 3: Bảng về thu nhập của người lao động Đơn vị: ng.đ Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1. Tổng thu nhập 2.657.93 2 3.508.45 6 4.638.14 2 a. Quỹ tiền lương 2.256.71 5 2.916.12 2 3.825.01 5 b.BHXH trả thay lương 6.758 11.617 20.985 c. Thu nhập khác 394.460 580.716 792.125 2.Lao động bình quân trong năm 359 365 378 3.Thu nhập bình quân 644 801 1.227 4.Tiền lương bình quân 556 666 1.075 Tuy nhiên, trong cơ cấu lao động cũng có những bất hợp lý, điều này thể hiện như sau: Rõ ràng là có sự chênh lệch về quân số giữa các đội và tính hiệu quả hoạt động chưa cao. Nhìn nhận lại những năm qua, tổng doanh thu xây lắp đạt khá, nhưng thu nhập bình quân ở mức độ trung bình thấp trong những năm 2000 trở về trước. (Năm 1999: 644 ngàn đồng/người, năm 2000 xấp xỉ 810 ngàn đồng/người). Sang năm 2001 thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên khá cao 1.227 ngàn đồng/ người. Nhưng không đồng đều chênh lệch giữa đơn vị thu nhập cao nhất (px cơ khí: 1.357.970 đồng, đội 12: 1.183.346 đồng), So với đơn vị thu nhập thấp nhất (đội 6: 338.675 đồng, đội 7: 378.350 đồng) chênh lệch nhau gần 3 lần. Những đội có thu nhập thấp hoặc trung bình thấp dưới mức bình quân của toàn Xí nghiệp rất cao, năm 2000 có 8 đơn vị (đội 1 đến đội 6, đội 9, đội 10, đội11), đến năm 2001 số đội có mức thu nhập thấp đã được rút xuống còn 4 đội 8/12 đội điện và bằng 50% (8/16 đơn vị) số đơn vị có mức thu nhập bình quân thấp hơn mức trung bình của đơn vị, hầu hết các đội này, có số quân không đông, xấp xỉ từ 15 đến 24 người, nhưng ở một tình trạng: sản lượng thi công thấp, có địa bàn hoạt động (2 đến 3 địa phương) nhưng không khai thác được công việc, hoặc không giữ được địa bàn (vì mất dần tín nhiệm với A) trong quá trình thi công, trong 8/12 đơn vị thi công điện có thu nhập thấp hơn bình quân thu nhập của Xí nghiệp thì còn có 1 biểu hiện về mặt sử dụng và phân phối tiền công chưa hợp lý, chưa huy động hết công lao động trong đơn vị. Có nhiều đội còn sử dụng nguồn tiền nhân công để thuê ngoài quá cao, ảnh hưởng đến thu nhập của công nhân trong đơn vị. Vì vậy, muốn đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động, ngoài việc quản lý chặt chẽ về lao động còn phải có yêu cầu cao trách nhiệm của đơn vị trưởng phải cố gắng bố trí lao động thường xuyên, động viên toàn thể công nhân đơn vị đi làm đều đặn, liên tục, chấm dứt tình trạng cứ chấm công chung chung theo chế độ để hưởng những phần Xí nghiệp và phải kiên quyết loại trừ một đơn vị có 2 bảng chấm công. d. Đặc điểm về tình hình tài chính - kinh doanh của Xí nghiệp Để có thể hiểu rõ hơn về Xí nghiệp Xây Lắp Điện, chúng ta sẽ xem xét tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh trong 3 năm 1999 - 2000 - 2001 Bảng 4: Báo cáo tài chính trong 3 năm Đơn vị: tr. đồng Chỉ tiêu 199 9 2000 ‘00/’99(%) 2001 ’01/’00(%) 1.Doanh thu 32.0 05 25.968 81,137 39.8 71 153,53 9 2.Lãi gộp 1.49 7 1.30 1 86,907 1.63 3 125,51 9 3.Lãi thuần 1.27 3 1.07 9 84,670 1.42 5 132,06 7 4.Tổng số vốn 92.5 33 94.0 85 101,67 7 98.4 63 104,65 3 - Vốn cố định 2.86 3 2.37 9 83,095 3.53 0 148,38 2 - Vốn lưu động 89.6 70 91.7 05 102,26 9 94.9 36 103,52 3 5.Nộp ngân sách 401 2.18 8 545,63 6 2.38 9 109,18 6 6.Thu nhập bình quân 0,64 4 0,80 1 124,37 9 1,22 7 159,42 6 (Nguồn: Phòng kế toán - Xí nghiệp Xây Lắp Điện) Dựa trên các con số thực tế của Xí nghiệp trong ba năm qua 1999-2001, nhìn chunc mọi chỉ tiêu đều có sự tăng trưởng và đều có lãi, cụ thể:  Về tổng số vốn: Tăng đều qua các năm, đồng vốn càng ngày càng có hiệu quả, tổng số vốn năm 1999 là 92.533 triệu đồng. - So với năm 1999 thì tổng số vốn năm 2000 đã tăng thêm là 1.552 triệu đồng đồng về số tuyệt đối, tăng 1.677% về số tương đối. - So với năm 2000 năm 2001 tổng số vốn đã tăng thêm là 4.378 triệu đồng đồng về tuyệt đối, tăng 4,653% về số tương đối.  Về doanh thu: So với năm 1999 tổng doanh thu năm 2000 giảm đi 6.037 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ giảm 18,863% Cũng so với năm 1999 tổng doanh thu năm 2001 đã tăng lên 7.866 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng 24,577%. Trong năm 2001 với sự tăng lên của tổng số vốn và tổng doanh thu như vậy đã đem lại mức lãi gộp là 1.633 triệu đồng, tăng 136 tr đồng về số tuyệt đối, tăng 9,085% về số tương đối so với năm 1999; tăng 332 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng 25,519% so với năm 2000. Về thu nhập tăng đều qua các năm, năm 1999 thu nhập là 0,644 tr.đồng đến năm 2000 thu nhập đã tăng lên 0,801 tr.đồng và sang năm 2001 thu nhập lại lên đáng kể 1,227 tr.đồng. Như vậy, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp có hiệu quả. e. Đặc điểm về thị trường kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Thị trường là nơi tiêu thụ sản phẩm và cũng là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh Thị trường sản phẩm của Xí nghiệp là các công trình điện Hà Tĩnh trở ra. Trong 2 năm 1996-1997 Xí nghiệp có thi công một công trình bên nước bạn Lào. Nhìn chung, thị trường tiêu thụ sản phẩm không giống như thị trường tiêu thụ của các loại sản phẩm da giày, dệt may... mà nó hoạt động trong ngành đặc thù nên sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng. Nghĩa là có hợp đồng ký kết - có công trình thì mới tiến hành sản xuất sản phẩn. Theo hình thức giao nhận công trình nên vấn đề tiêu thụ sản phẩm thị trường không phải là việc Xí nghiệp phải nghiên cứu mà ở đây Xí nghiệp chỉ tập trung ở khâu thực hiện hoàn thành các công trình đạt tiêu chuẩn, vượt tiến độ thi công và sẽ kết thúc sau khi đã bàn giao công trình. Trong năm 2001 vừa qua, Xí nghiệp đã hoàn thành nhiều công trình vượt kế hoạch tập trung phần lớn là ở phía bắc như công trình xây dựng trạm 110KW cấp điện cho khu công nghiệp Tiên Sơn, đại tu đường dây 110KV lộ 127 - 174 Thác Bà - Yên Bái... Là Xí nghiệp hoạt động trong ngành đặc thù nên ngoài những công trình được giao, chỉ định thầu, Xí nghiệp còn tham gia đấu thầu rất nhiều công trình trên phạm vi khu vực miền Bắc. Điều đó có nghĩa thị trường tiêu thụ sản phẩm của Xí nghiệp rất rộng. Là một Xí nghiệp có hiệu quả kinh doanh nổi trội nhất trong công ty Điện lực 1, nên Xí nghiệp cũng dành được nhiều công trình. Để khẳng định điều đó trong năm qua Xí nghiệp đã hoạt động liên tục để hoàn thành kịp tiến độ bàn giao đúng kế hoạch. Có thể nói rằng, Xí nghiệp Xây Lắp Điện là một đơn vị kinh doanh trên phạm vi rộng, số lượng công trình nhiều. Và điều quan trọng nhất là Xí nghiệp đã chiếm được vị trí quan trọng trong công ty nói riêng và các đơn vị xây lắp điện nói chung. II. Phân tích thực trạng về vấn đề phấn đấu hạ gía thành sản phẩm của Xí nghiệp Xây Lắp Điện 1. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh trong những năm qua ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Là một đơn vị hạch toán phụ thuộc. Xí nghiệp xây lắp Điện chỉ có kế hoạch sản xuất mà không có kế hoạch kinh doanh. Mọi sản phẩm của Xí nghiệp làm ra hoặc do trên chỉ định hoặc do đấu thầu. Trong những năm qua Xí nghiệp luôn là đơn vị dẫn đầu trong công ty về uy tín, chất lượng sản phẩm, tiến độ thi công và hiệu quả kinh tế trong toàn Xí nghiệp. Đơn vị: tr. đồng Chỉ tiêu 199 9 2000 ‘00/’99(%) 2001 ’01/’00(%) 1.Doanh thu 32.0 05 25.968 81,137 39.8 71 153,53 9 2.Lãi gộp 1.49 7 1.30 1 86,907 1.63 3 125,51 9 3.Lãi thuần 1.27 3 1.07 9 84,670 1.42 5 132,06 7 4.Tổng số vốn 92.5 33 94.0 85 101,67 7 98.4 63 104,65 3 - Vốn cố định 2.86 3 2.37 9 83,095 3.53 0 148,38 2 - Vốn lưu động 89.6 70 91.7 05 102,26 9 94.9 36 103,52 3 5.Nộp ngân sách 401 2.18 8 545,63 6 2.38 9 109,18 6 6.Thu nhập bình quân 0,64 4 0,80 1 124,37 9 1,22 7 159,42 6 (Nguồn: Phòng kế toán - Xí nghiệp Xây Lắp Điện) Qua phân tích báo cáo tài chính trong 3 năm 1999 - 2001 ở mục I, cho thấy lãi thuần qua các năm vẫn tăng đều và thu nhập bình quân đầu người vẫn tăng rõ rệt. ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện không có bảng kế hoạch sản xuất cụ thể mà chỉ là chung chung. Theo như bảng 4- báo cáo tài chính đã phân tích ở trên, ta thấy trong 3 năm vừa qua, mặc dù có sự biến động nhưng một cách tổng quát thì tình hình kinh doanh của Xí nghiệp là khá tốt, lãi sau thuế luôn là một số dương, năm 1999 thấp hơn năm 1998 nguyên nhân của việc này có thể là do năm 1999, công tác xây dựng cơ bản chịu sự tác động trực tiếp về việc áp dụng luật thuế VAT, nhất là các công trình trúng thầu năm 1998, nhưng chuyến tiếp sang năm 1999, phần thuế VAT đầu ra của sản phẩm xây lắp Nhà nước đã thu nhưng chưa được chủ đầu tư thanh toán bù cho đơn vị thi công về phần giá trị này dẫn đến lợi nhuận của Xí nghiệp được trích từ những công trình trúng thầu đó bị cắt giảm và thua thiệt. Năm 1999, Xí nghiệp được giao tổng doanh thu xây lắp về điện là 31.500 triệu đồng. Xí nghiệp đã thực hiện đạt 32.220 triệu đồng đạt 102,286% vượt kế hoạch đặt ra 2,286% hay 720 tr.đồng. Sang năm 2000, doanh thu giảm so với năm 1999 mặc dù khố lượng xây lắp thì lớn hơn nhiều. Và trong năm 2000 kế hoạch đặt ra là nâng tổng doanh thu lên 34.150 tr.đồng nhưng trong báo cáo kết quả kinh doanh tổng doanh thu là 25.968 tr.đồng chỉ đạt 76,041%. Nhưng thực tế, trong báo cáo thanh quyết toán công trình cuối năm Xí nghiệp chỉ đưa vào báo cáo số đã thu được, còn những khoản chưa quyết toán hoặc bên A chưa thanh toán được chuyển sang năm sau. Khối lượng công tác của năm 2000 có tổng trị giá 34.489 tr.đồng, nghĩa là so với kế hoạch đặt ra Xí nghiệp vẫn vượt mức 0,993%. Trong năm 2001, giá trị công trình Xí nghiệp đã thi công là 40.007 tr.đồng. Nhưng mới thu vào được 39.871 tr.đồng số còn lại được chuyển sang khoản thu của năm 2002. Năm 2001, Xí nghiệp sau khi lắp đặt, sữa chữa các công trình đã tích cực thu hồi vốn bỏ ra, giảm khoản bị bên chủ đầu tư các công trình chiếm dụng vốn xuống. Cũng qua báo cáo tài chính ở phần trên ta thấy được lãi tăng lên trong năm 2001 so với năm 2000. Nhưng năm 2000 số lãi thu được lại thấp hơn năm 1999 là vì lý do đã nói ở trên. Thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước: Xí nghiệp Xây Lắp Điện là tròn nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước thể hiện năm 1999 Xí nghiệp nộp ngân sách 401 tr.đồng sang năm 2000 khoản nộp ngân sách tăng lên 2.188 tr.đồng và năm 2001 số đó là 2.389 tr.đồng. Điều này thể hiện Xí nghiệp thực hiện rất tốt nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Khoản này tăng dần qua các năm điều đó một phần cũng chứng tỏ Xí nghiệp hoạt động rất có hiệu quả. Hiệu quả hoạt động sản xuất của Xí nghiệp còn thể hiện ở việc thu nhập bình quân tăng lên và rõ rệt nhất là năm 2001 so với năm 2000. Như vậy, có thể khẳng định rằng trong những năm gần đây tình hình hoạt động sản xuất của Xí nghiệp luôn vượt mức kế hoạch đặt ra. Xí nghiệp Xây Lắp Điện đang khẳng định hơn nữa uy tín của mình trong công ty vốn đã dẫn đầu uy tín trong những năm liên tiếp gần đây. 2. Phân tích cơ cấu giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Trong giá thành sản phẩm của Xí nghiệp bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chí phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí khác. L ãi 2. 39 5. 67 9 31 .9 95 .9 14 26 .6 74 .4 28 4. 91 6. 66 7 C ộn g 63 3. 18 2. 39 8 2. 66 8. 1 11 .4 56 76 8. 38 0. 81 6 1. 55 7. 7 50 .0 00 G iá th àn h C /Z (% ) 4, 66 8 26 ,4 08 11 ,9 38 12 ,2 48 C 29 .5 58 .1 39 70 4. 60 2. 17 8 91 .7 26 .9 00 19 0. 79 9. 26 5 M T C / Z (% ) 0, 63 5 1, 03 3 0, 15 7 1, 42 2 ả n g 5 : K ế t c ấ u g i á t h à n h x a y l ắ p m ộ t s ố c ô n g t r ì n h t i ê u Đ ơ n v ị : ồ n : B á o c á o q u y ế t t o á n t à i c h í n h n ă m M T C 3. 88 4 .5 80 27 .5 5 0. 00 0 1. 20 6 .9 10 22 .1 5 0. 14 3 N C /Z (% ) 1, 55 0 31 ,0 54 12 ,6 45 12 ,0 72 N C 9. 81 6. 00 0 82 8. 56 8. 37 4 97 .1 64 .1 69 18 8. 05 0. 64 6 V L /Z (% ) 93 ,1 68 42 ,2 54 75 ,2 60 74 ,2 58 V L 58 9. 92 3. 67 9 1. 12 7. 39 0. 90 4 57 8. 28 2. 83 7 1. 15 6. 74 9. 94 6 D oa nh th u 63 5. 57 8. 09 5 2. 72 0. 10 7. 37 0 79 5. 05 5. 24 4 1. 56 2. 66 6. 66 7 T ên c ôn g tr ìn h T uy ến cá p ng ầm ca o th ế 24 K V và tr ạm bi ến áp T ct y ph át h àn h sá ch Đ ại tu đư ờn g dâ y 11 0K V lộ 12 7- 17 4 T há c B à- Y ên B ái Đ ưa đi ện về xã G ia o A n L an g C há nh - T ha nh H oá C ải t ạo đ iệ n xã B ắc H ồn g- Đ ôn g A nh T T 1 2 3 4 a. Chi phí vật liệu Vật liệu được sử dụng trong công tác xây lắp nói chung rất đa dạng. Đây là những vật liệu xây dựng mà tính chất lý hoá của chúng rất khác nhau. Để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau. Mỗi loại vật liệu lại có nhiều chủng loại khác nhau như: Dây cáp thì có cáp trần, cáp bọc PVC, cáp vặn xoắn, cáp thép, cáp cao su, cáp điều khiển; dây điện thì có dây PVC, dây bọc PVC, dây M8, dây nhôm lõi thép, dây đồng buộc; sứ cách điện cũng có nhiều loại như sứ OA hạ thế, sứ chuỗi thuỷ tinh PCB, sứ cao thế... Đơn vị của các loại nguyên vật liệu xây lắp cũng khác nhau. Các loại cáp tính bằng mét, sứ tính bằng quả, át tô mát tính bằng cái, chống sét tính bằng bộ... Có thể nói, đối với một doanh nghiệp xây lắp như Xí nghiệp Xây Lắp Điện, nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị tổng sản lượng (70- 80). Do đó đặt ra cho Xí nghiệp một nhiệm vụ hết sức nặng nề trong công tác thu mua và quản lý, vận chuyển, dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu. Tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện nguyên vật liệu không được phân thành nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ mà được coi chung là nguyên vật liệu chính. Nó là đối tượng chủ yếu của Xí nghiệp, là cơ sở vật chất để hình thành nên sản phẩm. Không giống như một doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm giống nhau, có chung một đầu vào sau đó phân bổ cho từng khối lượng sản phẩm. Mà ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện, sau khi nhận công trình, toàn bộ nguyên vật liệu sử dụng trong xây dựng công trình được liệt kê và cung cấp toàn bộ. Do đó không sử dụng phương thức phân bổ như trong các doanh nghiệp thông thường. Sản phẩm của Xí nghiệp - một công trình xây lắp sau khi hoàn thành bàn giao thì người ta xác định giá thành bằng cách cộng tất cả các khoản chi phí bỏ ra bao gồm: chi phí VL, chi phí NC, chi phí MTC và chi phí khác. Cũng từ đó ta xác định được tỷ trọng vật liệu trong giá thành sản phẩm. Ta có: Z = VL + NC + MTC + C Từ đó suy ra: %VL = - Tỷ trọng chi phí vật liệu trong giá thành xây lắp công trình: Tuyến cáp ngầm cao thế 24KV vả trạm biến áp tổng công ty phát hành sách: - Quý 2/2001 tiêu biểu có công trình: Đại tu đường dây 110KV lộ 172 - 174 Thác Bà - Yên Bái: VL Z x 100 %VL = 589.923.679 589.923.679+9.816.000+3.884.586+ x100 = 93,168% %VL = 1.127.390. 904 2.688.111. x100 = 41,94% - Quý 3/2001 tiêu biểu có công trình: đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá: - Quý 4/2001 có công trình: cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông Anh: Nhìn vào 4 công trình trọng điểm của 4 quý trong năm 2001 thấy rõ một điều đối với vật liệu trong xây lắp chiếm tỷ trọng rất lớn - chiếm lớn hơn hoặc bằng 70% giá thành, thậm chí có công trình lên tới 93,168% như công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp tổng công ty phát hành sách Riêng trong quý 2 công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 - 174 Thác Bà - Yên Bái mặc dù tổng giá thành thì rất lớn nhưng tỷ trọng vật liệu chỉ chiếm 41,94%. Nguyên nhân vì đây là công trình mang tính chất tu bổ, sữa chữa, nên chi phí cho vật liệu không lớn lắm. Vấn đề đặt ra là vật liệu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá thành sản phẩm. Muốn giảm giá thành sản phẩm có thể bằng nhiều cách. Nếu giảm được chi phí vật liệu thì giá thành sản phẩm giảm đi rất lớn. b. Chi phí nhân công Chi phí nhân công là một bộ phận cấu thành nên giá thành xây lắp. Tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện tiền lương công nhân được tính theo lương sản phẩm. Hàng tháng nếu Xí nghiệp làm được nhiều công trình, doanh thu lớn thì trả lương cho công nhân cao và ngược lại. Tuy vậy, trong thực tế Xí nghiệp vẫn trả lương cho công nhân ổn định và tăng dần qua các năm bằng cách lấy tháng có doanh thu lớn bù cho tháng ít. Bên cạnh đó còn thực hiện chế độ khoán. Khoán cụ thể cho từng phòng. Từ đó người đứng đầu phòng đó tự có kế hoạch bố trí công việc để đạt được số lượng khoán đó. %VL = 578.282.83 768.380.8 x100 = 75,260% %VL = 1.157.749. 1.557.750. x100 = 74,322% Do đặc điểm của sản xuất, ngoài số lao động trực tiếp của Xí nghiệp ở các đơn vị thi công, đối với những công trình có khối lượng công việc lớn, Xí nghiệp cũng thuê thêm công nhân bên ngoài. Quỹ tiền lương của Xí nghiệp năm 1999 là 2.256 tr.đ sang năm 2000 tăng lên 2.916 tr.đ. Như vậy, trong giá thành xây lắp, chi phí nhân công tăng lên qua các năm. Nhìn vào 4 công trình ở trên chúng ta thấy được phần nào tỷ trọng của chi phí nhân công trong giá thành xây lắp. - Đối với công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp Tổng công ty phát hành sách: - Đối với công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 -174 Thác Bà-Yên Bái: - Đối với công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá - Đối với công trình cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông: Nếu so với vật liệu thì tỷ trọng chi phí nhân công chiếm phần nhỏ hơn trong tổng giá thành. Thường những công trình là mới chi phí nhân công bỏ ra thấp hơn những công trình đại tu, sữa chữa nâng cấp lại. Bởi lẽ, những công trình đại tu chi phí vật liệu thay mới %NC = 9.816.000 633.182.3 x100 = 1,550% %NC = 828.568.37 2.688.111.4 x100 = 30,823% %NC = 97.164.169 768.380.8 x100 = 12,645% %NC = 188.050.64 1.557.750. x100 = 12,072% chiếm tỷ trọng nhỏ, nhân công bỏ ra để phục hồi, đại tu những công trình đã xuống cấp, hư hỏng chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy, trong cơ cấu giá thành, nếu quỹ tiền lương tăng lên là một mặt mạnh chứng tỏ Xí nghiệp làm ăn hiệu quả, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Trong khi đó giá thành tăng lên không lớn lắm. c. Chi phí máy thi công Trong giá thành xây lắp, chi phí máy thi công chiếm tỷ trọng đáng kể. Bởi lẽ, tất cả các công trình điện đều phải sử dụng máy thi công. Nhưng tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện tỷ trọng này rất nhỏ. Lý do là: - Các máy thi công hầu như đã khấu hao hết nên tính vào giá thành ít - Trong các công trình điện nói là sử dụng máy móc thi công nhưng chủ yếu là những cẩu chuyên dùng. Còn đối với những công trình đòi hỏi phải huy động thêm máy móc thiết bị thì Xí nghiệp thường đi thuê ngoài. Cũng vì lý do đó mà trong cơ cấu giá thành sản phẩm của Xí nghiệp bộ phận máy thi công có cộng thêm chi phí thuê ngoài. Dựa vào bảng trên ta thấy được tỷ trọng của chi phí thuê ngoài + chi phí máy thi công (TN+MTC) trong giá thành công trình như sau: - Đối với công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp Tổng công ty phát hành sách: - Đối với công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 -174 Thác Bà-Yên Bái: - Đối với công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá %TN+MTC = 3.884.580 633.182.3 x100 = 0,613% %TN+MTC = 27.550.000 2.688.111.4 x100 = 1,025% %TN+MTC = 1.206.910 768.380.8 x100 = 0,157% - Đối với công trình cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông: Qua tỷ trọng chi phí TN+MTC trong giá thành xây lắp, ta thấy bộ phận này chiếm tỷ trọng rất nhỏ. d. Chi phí chung ( chi phí khác) Đây là những khoản chi phí không thể tính vào các yếu tố trên như tiền lãi vay Ngân hàng, công tác phí, văn phòng phí, tiền thăm dò địa chất địa bàn... Những khoản chi phí này thường khó tính vì vậy người ta tổng hợp vào và gọi là chi phí chung (đối với Xí nghiệp Xây Lắp Điện gọi là chi phí khác) Xem bảng giá thành 4 công trình trên ta thấy được tỷ trọng của khoản mục chi phí chung như sau: - Đối với công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp Tổng công ty phát hành sách: - Đối với công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 -174 Thác Bà-Yên Bái: - Đối với công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá - Đối với công trình cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông: %TN+MTC = 22.150.143 1.557.750. x100 = 1,423% %C = 29.558.139 633.182.3 x100 = 4,668% %C = 704.602.17 2.688.111.4 56 x100 = 26,213% %C = 91.726.900 768.380.8 x100 = 11,938% %C = 190.799.26 1.557.750. x100 = 12,248% Trong cơ cấu giá thành tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện, khoản mục chi phí chung chiếm tỷ trọng khá lớn so với chi phí máy thi công. Trong 4 công trình trên thì chỉ có công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến thế tổng công ty phát hành sách là có tỷ lệ chi phí chung tương đối thấp 4,668% còn 3 công trình còn lại chi phí này chiến tỷ trọng đều trên 10%. Như vậy khoản mục chi phí gián tiếp tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện là rất cao cần phải xem xét lại và có biện pháp điều chỉnh. 3. Phân tích phương pháp xây dựng kế hoạch giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Xây Lắp Điện. ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện, các công trình chủ yếu được thực hiện, hoàn thành và quyết toán, bản kế hoạch sản xuất không cụ thể. Hay nói đúng hơn tại Xí nghiệp không xây dựng kế hoạch giá thành cụ thể nào. Mà thực tế những nhà quản lý ở Xí nghiệp cũng không cần quan tâm chỉ biết có nhiều công trình và sau đó làm thế nào để thi công công trình đạt tiến độ thi công, đảm bảo chất lượng công trình, sau đó quyết toán thu hồi chi phí và có lãi. Bộ phận kế toán giá thành chỉ làm nhiệm vụ vào các sổ sách chứng từ, kết thúc các công trình có nhiệm vụ tính tổng chi phí từ các khoản mục chi phí. Và từ đó xác định được giá thành cụ thể của công trình. Lý do, sản phẩm của Xí nghiệp là đơn chiếc, không cái nào giống cái nào, dẫn đến chi phí của mỗi công trình là hoàn toàn khác nhau. Cũng vì thế mà Xí nghiệp không lập ra một kế hoạch giá thành cụ thể nào, có chăng chỉ dựa trên dự toán. Vấn đề này không phải ở mỗi Xí nghiệp Xây Lắp Điện mà hầu như ở các doanh nghiệp xây lắp nói chung. Và tính toán giá thành sản phẩm theo một cách sau đây: T T Các khoản mục chi phí Ký hiệu Cách tính Thành tiền 1 Chi phí vật liệu VL QjDjVL + CLvl 2 Chi phí nhân công NC QjDjNC(1+ F1/h1n+ F2/h2n ) 3 Chi phí máy thi công MTC QjDjM 4 Chi phí chung C PxNC 5 Giá thành xây lắp Z VL+NC+MTC+CPC ( Nội dung công thức đã được giải thích ở phần I ) Công trình sữa chữa cải tạo nhà ABCD - Cơ quan Công ty. Giá thành xây lắp được tính như sau: Đơn vị: đồng T T Các khoản mục chi phí Ký hiệu Cách tính Thành tiền 1 Chi phí vật liệu VL QjDjVL + CLvl 586.645.125 2 Chi phí nhân công NC QjDjNC(1+F1/h1n+ F2/h2n ) 105.741.271 3 Chi phí máy thi công MTC QjDjM 11.630.000 4 Chi phí chung C PxNC 109.554.494 5 Giá thành xây lắp Z VL+NC+MTC+CPC 813.571.390 ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện, trong phần chi phí máy thi công theo công thức trên bao gồm cả chi phí thuê ngoài, còn chi phí chung được tính trong chi phí khác. 4. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Xí nghiệp Xây Lắp Điện là một đơn vị phụ thuộc Công ty Điện lực 1, hàng năm xây dựng, lắp đặt, sữa chữa các công trình công ty giao cho, bên cạnh đó còn tham gia đấu thầu một số công trình. Mặc dù không có các bản kế hoạch chi tiết, cụ thể bởi lẽ mọi chi phí sau khi kết thúc công trình đều được thanh quyết toán đầy đủ. Nhưng để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành thì ta sử dụng giá dự toán các công trình làm giá thành kế hoạch để so sánh với giá thành thực tế. Vì vậy, trong quá trình lập và tính giá thành xây lắp, Xí nghiệp lấy giá sản lượng dự toán làm giá trị sản lượng kế hoạch. Do đó, giá thành kế hoạch công trình bao gồm các khoản mục chi phí: chi phí vật liệu + chi phí nhân công + chi phí thuê ngoài và máy thi công được tính trong dự toán công trình. Trong công tác tính giá thành, Xí nghiệp không xác định tỷ lệ hạ và mức hạ giá thành xây lắp. Do đó, mức hạ giá thành kế hoạch bằng không, mức hạ giá thành thực tế = giá thành thực tế - giá thành kế hoạch. Mức lãi thực tế bằng lãi kế hoạch + lãi vượt kế hoạch. Ban lãnh đạo Xí nghiệp Xây Lắp Điện đã thực sự quan tâm đến công tác hạ giá thành xây lắp. Năm 2000 có 14/16 công trình đạt mức hạ giá thành âm, tức giá thành thực tế thấp hơn giá thành dự toán, duy chỉ có một công trình là Trạm biến thế khu nhà ở 5B Nguyễn Phong Sắc - Cầu Giấy. Năm 2001, Xí nghiệp thi công trình 18 công trình thì 17/18 công trình đạt mức hạ giá thành âm chiếm 94,44%. Thật vậy, Xí nghiệp đã thực hiện rất tốt công tác hạ giá thành xây lắp. Quá trình thi công được tổ chức khoa học, đơn giản hoá bộ máy quản lý tại Xí nghiệp và công trường, tổ chức mặt bằng thi công hợp lý, thực hiện tốt, tiết kiệm và hợp lý công tác cung ứng và tiêu hao vật liệu. Xí nghiệp cũng quan tâm giáo dục đội ngũ lao động ý thức tiết kiệm chi phí, tinh thần thi đua trong sản xuất, giảm công tác phí, khoán chi phí văn phòng. Do đó, đại bộ phận các công trình có mức tiêu hao chi phí thấp hơn dự toán, đặc biệt chi phí chung (chi phí khác) giảm rõ rệt. Đó là kết quả của toàn bộ Xí nghiệp và Xí nghiệp cần tiếp tục duy trì và phát huy trong các kỳ sau. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quát cần phải thực hiện đánh giá. Trước hết, đánh giá chung tình hình thực hiện kế hoạch giá thành công trình xây lắp, nhằm khái quát tình hình thực hiện tiết kiệm chi phí, hạ giá thành xây lắp công trình của Xí nghiệp. Với nhiều công trình cụ thể có nhiều khoán mục chi phí cụ thể được thực hiện tốt, hoàn thành kế hoạch nhưng đánh giá chung chưa tốt chứng tỏ công trình còn có nhiều khâu cần phải quan tâm sữa đổi hơn nữa. Và ngược lại, không phải cứ công trình được đánh giá chung chung là tốt thì việc thực hiện các khoản mục chi phí khác đều tốt mà cần phải có sự bổ sung của cả hai khía cạnh đánh giá. Trước hết, ta đi phân tích tình hình thực hiện các khoản mục chi phí của 4 công trình tiêu biểu của Xí nghiệp để hiểu được thực trạng công tác hạ giá thành xây lắp thực tế của Xí nghiệp trong những năm qua. C ải tạ o đi ện x ã B ắc H ồn g- Đ ôn g A nh T /D (% ) 99 ,5 96 10 3, 17 5 91 ,2 14 98 ,0 09 99 ,6 85 T hự c tế 1. 15 6. 7 49 .9 46 18 8. 05 0. 64 6 22 .1 50 . 14 3 19 0. 79 9. 26 5 1. 55 7. 7 50 .0 00 D ự 1. 16 1. 4 43 .0 89 18 2. 26 4. 45 2 24 .2 83 . 71 1 19 4. 67 5. 41 5 1. 56 2. 6 66 .6 67 Đ ưa đ iệ n về x ã G ia o A n L an g C há nh -T ha nh H oá T /D (% ) 10 9, 19 1 96 ,8 55 94 ,3 99 90 ,9 53 96 ,6 45 T hự c tế 57 8. 28 2. 83 7 97 .1 64 . 16 9 1. 20 6. 9 10 91 .7 26 . 90 0 76 8. 38 0. 81 6 D ự 52 9. 60 7. 39 8 10 0. 31 8. 95 0 1. 27 8. 5 18 10 0. 85 0. 37 8 79 5. 05 5. 24 4 Đ ại tu đ ườ ng d ây 1 10 K V lộ 17 2- 17 4 T há c B à- Y ên B áI T /D (% ) 98 ,8 16 10 0, 52 4 71 ,5 40 98 ,2 75 98 ,8 24 T hự c tế 1. 12 7. 3 90 .9 04 82 8. 56 8. 37 4 27 .5 50 . 00 0 70 4. 60 2. 17 8 2. 68 8. 1 11 .4 56 D ự 1. 14 0. 3 78 .3 60 82 4. 25 0. 67 6 38 .5 10 . 56 7 71 6. 96 7. 76 7 2. 72 0. 1 07 .3 70 T uy ến c áp n gầ m ca o th ế 24 K V v à tr ạm b iế n áp T ổn g T /D (% ) 99 ,9 42 95 ,0 15 90 ,7 05 96 ,2 96 99 ,6 23 T hự c tế 58 9. 92 3. 67 9 9. 81 6. 0 00 3. 88 4. 5 80 29 .5 58 . 13 9 63 3. 18 2. 39 8 N g u ồ n : B á o c á o q u y ế t o á n t à I c h í n h n ă m 2 0 0 1 B ả n g 6 : S ố l i ệ u c á c k h o ả n m ụ c c h i p h í c ủ a 4 c ô n g t r ì n h Đ ơ n v ị : đ ồ n g D ự 59 0. 26 8. 87 5 10 .3 31 . 26 3 4. 28 2. 7 68 30 .6 95 . 18 8 63 5. 57 8. 09 5 K ho ản m ục ch i V L N C T N + M T C C C ộn g T T 1 2 3 4 a. Tình hình thực hiện chi phí vật liệu trong giá thành xây lắp Để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi phí vật liệu trong giá thành thực tế với chi phí vật liệu trong giá thành dự toán, ta sử dụng công thức sau: Và mức tiết kiệm hoặc lãng phí về chi phí vật liệu trong việc thực hiện khối lượng công tác xây lắp thực tế so với kế hoạch là: ∆ZVL ∆ZVL = Chi phí vật liệu thực tế - Chi phí vật liệu dự toán Nếu: TMVL > 100% và ∆ZVL >0 thì Xí nghiệp đã lãng phí chi phí vật liệu TMVL <100% và ∆ZVL <0 thì Xí nghiệp đã tiết kiệm chi phí vật liệu Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chi phí vật liệu trong giá thành nhưng chủ yếu là 2 nhân tố sau: - Mức tiêu hao vật liệu trong thi công xây lắp - Đơn giá vật liệu Ta xem xét tình hình thực hiện kế hoạch chi phí vật liệu của 4 công trình trên như sau: Bảng 7: Tình hình thực hiện chi phí vật liệu ở 4 công trình Đơn vị: đồng T T Tên công trình Dự toán Thực tế ∆ZVL TMVL( %) 1 Tuyến cáp ngầm cao thế.. 590.268.875 589.923.679 -345.196 99,94 5 TMVL = Tỷ lệ thực hiện kế hoạch chi phí khoản = Chi phí vật liệu thực tế Chi phí vật liệu dự toán x 100 2 Đại tu đường dây 110KV. 1.140.378.3 60 1.127.390.9 04 - 12.987.456 98,81 6 3 Đưa điện về xã Giao An... 592.607.398 578.282.837 - 14.324.561 97,58 3 4 Cải tạo điện xã Bắc Hồng. 1.161.443.0 89 1.156.749.9 46 -4.693.143 99,59 6 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2001 Dựa vào bảng trên ta thấy: - Công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp tổng công ty phát hành sách đã tiết kiệm chi phí 345.196 đồng hay 0,055% - Công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 - 174 Thác Bà - Yên Bái đã tiết kiệm chi phí 12.987.456 đồng hay 1,139% - Công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá đã tiết kiệm chi phí 14.324.561 đồng hay 0,404% - Công trình cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông Anh đã tiết kiệm chi phí 4.693.163 đồng hay 99,596% Mặc dù % hạ giá thành so với dự toán không lớn lắm, nhưng vì tỷ trọng lớn trong giá thành xây lắp nên số tuyệt đối cũng tương đối lớn. Đối với tuyến cáp ngầm cao thế 24KV được thực hiện tại địa bàn Hà nội cho nên Xí nghiệp đã dự toán gía vật liệu và chi phí vận chuyển sát với thực tế thi công. Do đó trong công trình này so với dự toán, chi phí vật liệu chỉ giảm được 345.196 đồng. Ngược lại, đối với công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh theo dự toán, Xí nghiệp sẽ cung cấp vật liệu và lấy vật liệu từ thái nguyên, điều này có nghĩa chi phí vận chuyển cao. Nhưng đến khi giao nhận công trình thì bên chủ đầu tư (bên A) yêu cầu thiết bị nhập ngoại và do bên A cung cấp. Trong quá trình thi công Xí nghiệp đã làm tốt và tiết kiệm được 2,417% tương đương 14.324.561 đồng. Để thấy rõ và tổng quát hơn tình hình thực hiện chi phí vật liệu của Xí nghiệp ta xem bảng số liệu qua 3 năm liên tiếp. Bảng 8: Tình hình sử dụng chi phí vật liệu trong giá thành trong 3 năm Đơn vị: ng.đồng TT Năm Dự toán Thực tế ∆ZVL TMVL(%) 1 1999 15.114.090 15.151.875 37.785 100,250 2 2000 15.327.150 15.036.394 -290.756 98,103 3 2001 20.456.215 20.206.649 -249.566 98,780 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính hàng năm Qua bảng trên chứng tỏ Xí nghiệp đã rất cố gắng để giảm chi phí vật liệu xuống. Năm 1999 chi phí vật liệu tăng 0,250% nhưng 2 năm sau đã giảm xuống dưới 100% điều đó cho thấy công tác thu mua, sử dụng vật liệu rất có hiệu quả. Dù đây là khoản mục chi phí rất khó giảm, nhất là đối với một Xí nghiệp hoạt động trong một ngành đặc thù như Xí nghiệp Xây Lắp Điện. b. Tình hình thực hiện chi phí nhân công trong giá thành xây lắp Để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi phí nhân công trong giá thành thực tế với chi phí nhân công trong giá thành dự toán, ta sử dụng công thức sau: Và mức tiết kiệm hoặc lãng phí về chi phí nhân công trong việc thực hiện khối lượng công tác xây lắp thực tế so với kế hoạch là: ∆ZNC ∆ZNC = Chi phí nhân công thực tế - Chi phí nhân công dự toán Nếu: TMNC > 100% và ∆ZNC >0 thì Xí nghiệp đã lãng phí chi phí nhân công TMNC <100% và ∆ZNC <0 thì Xí nghiệp đã tiết kiệm chi phí nhân công Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí nhân công trong giá thành: - Khối lượng và cơ cấu khối lượng công tác xây lắp thực hiện trong kỳ - Đơn giá tiền lương cho việc thực hiện một đơn vị khối lượng công tác Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này sẽ là mức lãng phí hay tiết kiệm chi phí nhân công Phân tích tình hình sử dụng chi phí nhân công của Xí nghiệp ở 4 công trình: TMVL = Tỷ lệ thực hiện kế hoạch chi phí khoản = Chi phí nhân công thực tế Chi phí nhân công dự toán x 100 Bảng 9: Tình hình thực hiện chi phí nhân công ở 4 công trình Đơn vị: đồng T T Tên công trình Dự toán Thực tế ∆ZNC TMNC( %) 1 Tuyến cáp ngầm cao thế.. 10.331.263 9.816.000 -845.260 95,013 2 Đại tu đường dây 110KV. 824.250.676 828.568.374 4.317.698 100,52 4 3 Đưa điện về xã Giao An... 100.318.950 97.164.169 - 3.154.781 96,855 4 Cải tạo điện xã Bắc Hồng. 182.264.452 188.050.646 5.786.194 103,17 5 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2001 Trong 4 công trình thì có 2 công trình chi phí nhân công vượt dự toán, theo bảng ta có: - Công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp tổng công ty phát hành sách đã tiết kiệm chi phí 845.260 đồng hay 8,182% - Công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 - 174 Thác Bà - Yên Bái đã lãng phí 4.317.698 đồng hay 0,524% - Công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá đã tiết kiệm chi phí 3.154.781 đồng hay 3,145% - Công trình cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông Anh đã lãng phí 5.786.194 đồng hay 3,175% Trong công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV... Xí nghiệp dự định đây là công trình có tính chất thi công phức tạp, phải cắt đường và đào bới khối lượng đát khá lớn, nhưng tại thực địa thì sau khi xẻ mặt cắt, lớp đất đá bên dưới rất dễ đào bới và thi công nhanh hơn dự toán. Do giá trị công trình không lớn, mặc dù chi phí nhân công giảm 8,182% nhưng chỉ là 845.260 đồng Riêng hai công trình đại tu đường dây 110KV... và cải tạo điện xã Bắc Hồng...thực tế thi công đã phát sinh nhiều công việc ngoài kế hoạch như sử dụng lao động phổ thông để vận chuyển các vật liệu, phế thải sữa chữa ra ngoài. Đây cũng vì công trình đại tu, sữa chữa, cải tạo nên không dễ dàng lường hết mọi chi phí nhân công phát sinh. Do đó, chi phí nhân công đều tăng lên Nói chung, tình hình sử dụng chi phí nhân công ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện còn rất nhiều tồn tại như đã phân tích ở trên. Nhưng để hiểu thêm tình hình sử dụng chi phí nhân công ta xem bảng số liệu trong 3 năm gần đây Bảng 8: Tình hình sử dụng chi phí nhân công trong giá thành trong 3 năm Đơn vị: ng.đồng TT Năm Dự toán Thực tế ∆ZNC TMNC(%) 1 1999 3.022.818 3.301.854 279.036 109,231 2 2000 3.065.430 3.297.177 231.747 107,560 3 2001 4.091.243 4.209.725 118.482 102,896 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính hàng năm Như vậy chi phí nhân công qua các năm đều vượt dự toán với tỷ lệ khá cao. Hạ thấp chi phí khoản mục này là nội dung lớn của Xí nghiệp trong công tác phấn đấu hạ giá thành xây lắp trong giai đoạn tới. c. Phân tích tình hình thực hiện máy thi công trong giá thành xây lắp Tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện nhiều công trình ngoài sử dụng máy móc thiét bị của mình, Xí nghiệp còn thuê ngoài do đó dẫn đến có thêm khoản mục chi phí thuê ngoài được tính trong chi phí máy thi công. Nếu những công trình phức tạp hoặc những công trình ở xa thì Xí nghiệp thường thuê máy thi công của các đơn vị trên địa bàn. Sự thay đổi khoản mục chi phí máy thi công làm thay đổi tỷ trọng chi phí sử dụng máy chiếm trong chi phí trực tiếp và trong giá thành xây lắp. Tỷ trọng này phụ thuộc vào mức độ cơ giới hoá thi công trên từng công trình và theo từng thời kỳ. Mức độ cơ giới hoá thi công càng cao sẽ làm cho chi phí sử dụng máy thi công tăng lên, giảm chi phí nhân công xây lắp trực tiếp trong giá thành xây lắp. Để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi phí máy thi công trong giá thành thực tế với chi phí nhân công trong giá thành dự toán, ta sử dụng công thức sau: TMMTC = Tỷ lệ thực hiện kế hoạch chi phí khoản = Chi phí máy thi công thực tế Chi phí máy thi công dự toán x 100 Và mức tiết kiệm hoặc lãng phí về chi phí máy thi công trong việc thực hiện khối lượng công tác xây lắp thực tế so với kế hoạch là: ∆ZMTC ∆ZMTC = Chi phí máy thi công thực tế - Chi phí máy thi công dự toán Nếu: TMMTC > 100% và ∆ZMTC >0 thì Xí nghiệp đã lãng phí chi phí máy thi công TMMTC <100% và ∆ZMTC <0 thì Xí nghiệp đã tiết kiệm chi phí máy thi công - Chi phí máy thi công chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như khối lượng công việc máy móc đảm nhiệm và chi phí máy cho đơn vị công việc. Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này sẽ là mức tiết kiệm hay lãng phí của chi phí máy thi công. Phân tích tình hình sử dụng chi phí máy thi công (kể cả chi phí máy thuê ngoài) của Xí nghiệp ở 4 công trình: Bảng 9: Tình hình thực hiện chi phí máy thi công ở 4 công trình Đơn vị: đồng T T Tên công trình Dự toán Thực tế ∆ZMTC TMMTC( %) 1 Tuyến cáp ngầm cao thế.. 4.282.769 3.884.580 -398.189 90,7 03 2 Đại tu đường dây 110KV.. 38.510.567 27.550.000 - 10.960.567 71,5 39 3 Đưa điện về xã Giao An... 1.278.518 1.206.910 -71.608 94,3 99 4 Cải tạo điện xã Bắc Hồng.. 24.283.711 22.150.143 -2.133.568 91,2 14 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2001 Trong cả 4 công trình trên chi phí máy thi công thực tế đều thấp hơn chi phí máy thi công dự toán, theo bảng ta có: - Công trình tuyến cáp ngầm cao thế 24KV và trạm biến áp tổng công ty phát hành sách đã tiết kiệm chi phí 398.189 đồng hay 9,297% - Công trình đại tu đường dây 110KV lộ 172 - 174 Thác Bà - Yên Bái đã tiết kiệm 10.960.567 đồng hay 28,461% - Công trình đưa điện về xã Giao An Lang Chánh - Thanh Hoá đã tiết kiệm chi phí 71.608 đồng hay 5,601% - Công trình cải tạo điện xã Bắc Hồng - Đông Anh đã tiết kiệm 2.133.568 đồng hay 8,786% Đó là do các nguyên nhân sau: - Các tổ, đội thi công đều có kế hoạch sử dụng máy tiết kiệm nhất về số giờ máy thực hi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp ĐiệnCông ty Điện Lực 1.pdf
Tài liệu liên quan