Luận văn Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng

Tài liệu Luận văn Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng: LUẬN VĂN: Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Chương I Lý luận cơ bản về phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.1. Vai trò của phân tích tình hình tài chính trong quản lý tài chính tại các doanh nghiệp xây dựng 1.1.1. Đặc điểm kinh doanh xây dựng Kinh doanh xây dựng có đặc điểm chính là: Điều kiện và tình hình sản xuất trong xây dựng thiếu tính ổn định, luôn biến động theo địa bàn và giai đoạn thi công. Cụ thể là trong xây dựng, con người và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn sản phẩm của ngành này thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành khác. các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng luôn thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng . Đặc điểm này gây khó khăn cho việc tổ chức ...

pdf97 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1048 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Chương I Lý luận cơ bản về phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.1. Vai trò của phân tích tình hình tài chính trong quản lý tài chính tại các doanh nghiệp xây dựng 1.1.1. Đặc điểm kinh doanh xây dựng Kinh doanh xây dựng có đặc điểm chính là: Điều kiện và tình hình sản xuất trong xây dựng thiếu tính ổn định, luôn biến động theo địa bàn và giai đoạn thi công. Cụ thể là trong xây dựng, con người và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn sản phẩm của ngành này thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành khác. các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng luôn thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng . Đặc điểm này gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm phát sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất, đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chu ý tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, đội ngũ lao động cũng như các yếu tố đầu vào khác. Chu kỳ sản xuất (thời gian thi công công trình xây dựng) thường rất dài chịu ảnh hưởng rất lớn về khí hậu, thời tiết. Điều này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu dài tại công trình đang được xây dựng. Các tổ chức xây dựng thường dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vôhình do tiến bộ của khoa học công nghệ. Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi trúng thầu vì sản phẩm xây dựng rất đa dạng có tính cá biệt cao, chi phí lớn. Điều này có nghĩa quá trình mua bán xảy ra trước lúc bắt đầu sản xuất . Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng rất lớn của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại xây dựng nhưng nếu nó được đặt ở nơi có sản nguồn nguyên liệu, nhân công thì người nhận thầu có nhiều cơ hội giảm bớt chi phi sản xuất và thu được lợi nhuận cao hơn. Việc tiêu thụ sản phẩm xây dựng được tién hành trực tiếp giữa người mua và người bán không qua khâu trung gian. Quá trình cung và cầu xây dựng xảy ra tương đối không liên tục như các ngành khác. Thị trường xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường đầu tư, nhất là lãi suất tín dụng để đầu tư và vào mức thu lợi đạt được của đầu tư. Trong xây dựng không có giá cả thống nhất cho sản phẩm toàn vẹn. Chính sách và chiến lược giá cả của chủ thầu xây dựng thường khó linh hoạt. Từ những đặc điểm kinh doanh sản phẩm xây dựng như trên , công tác tổ chức kinh doanh xây dựng cũng có những nét riêng biệt so với ngành khác cụ thể là: Các giải pháp tổ chức kinh doanh xây dựng có tính cá biệt cao và luôn biến đổi linh hoạt. Sau mỗi lần nhận được công trình mới cần phải một lần thay đổi cơ cấu tổ chức và quản lý của doanh nghiệp kèm theo các biện pháp điều hành cho phù hợp với địa điểm xây dựng mới. Các giải pháp tổ chức kinh doanh rất phức tạp và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn về không gian và thời gian. Bộ máy quản lý xây lắp có thể trải rộng trên lãnh thổ, nhất là công trình trải rộng trên các tuyến dài. Thời gian xây dựng một công trình kéo dài qua nhiều năm. Việc phối hợp giữa các đơn vị thi công đòi hỏi trình độ quản lý cao. Quá trình tổ chức quản lý kinh doanh dễ bị gián đoạn do khoảng cách lớn, do thời tiết, do nhận thầu công trình không liên tục, do suy thoái kinh tế. Việc duy trì lực lượng lao động trong thời gian không có việc làm là một điều khó khăn. Công tác quản lý sản xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư, vào khả năng thắng thầu và khó chủ động hơn các ngành khác. Sự vận động của các quy luật kinh tế thị trường trong xây dựng cơ bản có một số đặc điểm khác với các ngành khác nên chiến lược marketing về sản phẩm, về giá, vệ tiêu thụ, cạnh tranh , chiến lược thị trường cũng có những đặc điểm riêng biệt. 1.1.2. Yêu cầu quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây dựng Vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động , thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý, sau nữa nó phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Để sử dụng tốt công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong sản xuất kinh doanh, cần thiết phải tổ chức quản lý tài chính. Tổ chức quản lý tài chính là việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp trong các doanh nghiệp xây lắp phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: Thứ nhất: quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây dựng phải tôn trọng luật pháp. Trong nền kinh tế thị trường mục tiên chung của mọi doanh nghidn’deeuf hưóng tới lợi nhuận tối đa. Một mặt, đây là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy cạnh tranh tăng trưởng kinh tế . Mặt khác, để đạt được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp có thể bất chấp tất cả thậm chí điều đó có thể phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của doanh nghiệp khác. Từ đó dẫn đến sự hỗn loạn trật tự xã hội và đó cũng chính là dấu hiệu của suy thoái kinh tế. Vì vậy song song với “bàn tay vô hình ” của nền kinh tế thị trường dứt khoát phải có một “bàn tay hữu hình” của Nhà nước diều chính nền kinh tế. Một nền kinh tế hoàn hảo cần thiết phải tồn tại cả hai cơ chế: thị trường và sự quản lý của Nhà nước , cũng ví như tiêng vỗ tay thì không thể thiếu một bàn tay. Thứ hai: quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây lắp cần tôn trọng nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hạch toán kinh doanh chỉ có thể phát huy được tác dụng trong môi trường đích thực của nó là nền sản xuất hàng hoá mà dỉnh cao là kinh tế thị trường. Sở dĩ như vậy là vì yêu cầu tối cao của nguyên tắc này (lấy thu bù chi) đã hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của các doanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa. Do có sự thống nhất đó nên trong nền kinh tế thị trường hạch toán kinh doanh không chỉ có điều kiện để thực hiẹn mà còn là yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nếu như không muốn mình bị phá sản. Để thực hiện dược yêu cầu lấy thu bù chi và có lãi của nguyên tắc này, việc quản lý tài chính của doanh nghiệp phải hướng vào hàng loạt các biện pháp như chủ động tận dụng, khai thác các nguồn vốn , bảo toàn và phát huy có hiệu quả đồng vốn, việc đầu tư vốn phải bám sát nhu cầu thị trường ... tất cả những biện pháp đó đều nhằm thực hiện một mục đích xuyên suốt quá trình kinh doanh là kinh doanh phải có hiệu quả . Thứ ba: quản lý tài chính doanh nghiệp xây dựng phải đảm bảo thu hút các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp . Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu tố tiền đề đó là vốn điều kiện. ở nước ta, chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận cùng song song cùng tồn tại trong cạnh tranh... Việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu lợi nhuận cao trở thành động lực và đòi hỏi bức bách đối với doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường khi đã có nhu cầu vốn tất yếu nảy sinh cung ứng vốn. Thị trường vốn tất yếu được hình thành và quy luật cung cầu về vốn sẽ có môi trường để hoạt động. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác, thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của mình. Vấn đề ở đây là người quản lý phải xác nhận chính xác nhu cầu vốn, cấn nhắc, lựa chọn các phương án đầu tư sao cho có hiệu quả cao, lựa chọn các hình thức thu hút thích hợp, sử ụng các đòn bẩy kinh tế như lãi suất vay, lợi tức cổ phần...để đủ sức huy động vốn kinh hoạt, sử dụng các nguồn vốn và cân dối khả năng thanh toán... Thứ tư: quản lý tài chính trong xây dựng phải giữ vững nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức và sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triên của doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mối doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khăt khe: sản xuất theo giá thị trường, bán nhữg sản phẩm (bao gồm hàng hoá và dịch vụ) mà thị trường cần và chấp nhận được, chứ không thể bán cái mà doanh nghiệp không có. Để đáp ứng được điều đó, người quản lý một mặt phải bảo toàn được số vốn bảo ra mặt khác phải sử dụng các biện pháp nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn. Để thực hiện yêu cầu này, cán bộ quản lý tài chính doanh nghiệp phải sử dụng cả hai chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính. Thứ năm: quản lý tài chính cần phải giữ đảm bảo an toàn phòng ngừa rủi ro bát trắc. Đảm bảo an toàn đề phòng những rủi ro, bất chắc được coi là một trong những nguyên tắc kinh doanh nói chung, trong quản lý tài chính doanh nghiệp nói riêng. Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của quá trình quản lý: an toàn trong việc chọn nguồn vốn, an toàn trong góp vốn đầu tư liên doanh, an toàn trong sử dụng vốn. Để đảm bảo an toàn, trước khi ra một quyết định tài chính cần cân nhắc, xem xét trên nhiều phương án, góc độ khác nhau. Thứ sáu: quản lý tài chính doanh nghiệp luôn phải giữ “chữ tín”. Đây là một tiêu chuẩn đạo đức, thể hiện văn hoá trong kinh doanh và là tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong quản lý tài chính. Trong thực tế đã cho thấy kẻ làm mất chữ tín, chỉ tham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là một nguy cơ dẫn tới phá sản. Trong quản lý tài chính doanh nghiệp, để giữ chữ tín cần nghiêm túc, tôn trọng kỷ luật thanh toán, các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, các cam kết trong liên doanh góp vốn và phân chia lợi nhuận. 1.1.3. Vai trò của phân tích tình hình tài chính trong quản lý tài chính tại các doanh nghiệp xây dựng Tài chính doanh nghiệp: là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc huy động, tổ chức, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Qua đó người sử dụng thông tin có thế đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp , nắm vững tiềm năng, xác định chính xác hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp . Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp không những cho biết tình hình tài chính doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy kết quả hoạt động mà đạt được trong hoàn cảnh đó. Mục đích của phân tích tình hình tài chính giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lời và triển vọng của doanh nghiệp. Do đó phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như ban giám đốc, hội đồng quản trị, các nhà đầu tư, các cổ động, các chủ nợ, các khách hàng chính, người cho vay, các ngân hàng, các nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý... kể cả các cơ quan Nhà nước và bản thân người lao động . Tuy nhiên trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hiện nay, các doanh nghiệp xây lắp cũng như các doanh nghiệp ở Việt Nam khác đều bình đẳng trong kinh doanh. Tình hình tài chính của doanh nghiệp xây dựng không chỉ là mối quan tâm đặc biệt của chủ đầu tư mà còn là quan tâm của nhiều đối tượng khác. Sự quan tâm này dưới nhiều góc độ khác nhau, song nhìn chung đều tập trung vào khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa, mức độ rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp.... Bởi vậy phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu chính sau: Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp mối quan tâm của họ là lợi nhuận và khả năng thanh toán, việc phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ các thông tin nhằm đánh gá tình hình tài chính đã qua, thực hiện cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng đắn. Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp . Họ đặc biệt chú ý đến lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thanh tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng chú ý tới lượng vốn chủ sở hữu, bởi vốn chủ sở hữu là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sắn sàng cho vay nếu các thông tin cho thấy người vay không đảm bảo chắc chắn rằng khoản vay đó co thể và sẽ được thanh toán ngay khi đến hạn. Đối với các nhà cung cấp vật tư, thết bị hanhg hoá, dịch vụ họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hay không. Phân tích tình hình tài chính cho thấy khả năng thanh toán hiện tại và sắp tới của khách hàng. Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâp của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi , khả năng thanh toán vốn của doanh nghiệp , mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn, khả năng điều hành và hiệu quả công tác quản lý. Phân tích tình hình tài chính cung cấp thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư. Ngoài ra tình hình tài chính doanh nghiệp cũng thu hút sự quan tâm của các cơ quan quản lý Nhà nước như thuế, tài chính, thống kế, chủ quản ... bởi nó cũng liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của họ trong việc hướng dẫn, tư vấn, kiểm tra việc thực hiện các thể lệ, chế độ chính sách do họ đề ra đối với doanh nghiệp . Như vậy, vai trò quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng và tiềm năng của doanh nghiệp . 1.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính với việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của doanh nghiệp xây dựng 1.2.1.Thu thập thông tin trong phân tích tình tình tài chính Trong phân tích tình hình tài chính cần phải thu thập và sử dụng mọi nguồn thông tin từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài , từ những thông tin số lượng đến những thông tin giá trị. Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là nguồn thông tin quan trọng hàng đầu. Thông tin kế toán được phản ánh tương đối đầy đủ trong báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính: là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và hế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị. (Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính). Hệ thống báo cáo tài chính được tổng hợp và trình bầy một cách tổng quát và toàn diện tình hình tài sản, công nợ nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp trong một kỳ hạch toán. Thông tin do báo cáo tài chính cung cấp cho phép đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp xây lắp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng cho việc đề ra các quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào các doanh nghiệp xây dựng của các chủ doanh nghiệp , chủ sở hữu, các nhà đầu tư , các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp . Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ban hành theo Quyết định sô 167/2000/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Bộ trưởng bộ Tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nội dung và kết cấu cụ thể như sau: * Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng hợp quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị và nguồn hình thành tài sản ở một thời điểm nhất định. Như vậy Bảng cân đối kế toán phản ánh mối quan hệ cân đối tổng thể giữa “tài sản” và “nguồn vốn” của doanh nghiệp, thể hiện phương trình kế toán cơ bản : Tài sản = nợ phải trả + nguồn vốn chủ sở hữu Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị tài sản và nguồn vốn tại một thời điểm . Thời điểm đó thường vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán . Tuy vậy so sánh số liệu giữa hai thời điểm trên bảng cân đối kế toán cũng co thể thấy được một cách khái quát sự biến động của tài sản , nguồn vốn của doanh nghiệp trong kỳ. Bảng cân dối kế toán là tài liệu quan trọng phản ánh một cách tổng quát năng lực tài chính, tình hình phân bổ và sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như triển vọng kinh tế tài chính trong tương lai. Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần (có thể kết cấu theo kiểu hai bên hoặc một bên) là phần “tài sản” và phần ”nguồn vốn”. Phần tài sản: phản ánh toàn bộ giá trị hiện có của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Các chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản được sắp theo nội dung kinh tế của các loại tài sản của doanh nghiệp trong quá trình tái sản xuất . Về mặt kinh tế: Các chỉ tiêu phản ánh bên có thể hiện giá trị tài sản theo kết cấu hiện có tại doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo như tài sản (TSCĐ, vật liệu, hàng hoá, ...), tiền tệ (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng,...) các khoản đầu tư tài chính hoặc dưới hình thức nợ phải thu ở tất cả các khâu, các giai đoạn trong quá trình sản xuất, kinh doanh (thu mua, tiêu thụ, ...) Căn cứ vào nguồn số liệu này, trên cơ sở tổng số tài sản và kết cấu tài sản hiện có mà đánh giá một cách tổng quát quy mô tài sản, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Các chỉ tiêu bên Tài sản phản ánh toàn bộ số tài sản hiện có đang thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng của doanh nghiệp. Phần “Nguồn vốn” phản ánh “nguồn hình thành” các loại tài sản của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn cốn được sắp xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp - vốn chủ sở hữu), nguồn đi vay, nguốn vốn chiếm dụng,... Tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động, thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt kinh tế: Số liệu phần “Nguồn vốn” của Bảng Cân đối kế toán thể hiện quy mô, nội dung, thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Số liệu của các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp về số tài sản đang quản lý, sử dụng đối với Nhà nước, với cấp trên (về nguồn vốn của Nhà nước) với các nhà đầu tư, với cổ đông, với liên doanh, với ngân hàng, tổ chức tín dụng (về các khoản vốn vay) với khách hàng, với các đơn vị kinh tế khác. ở cả hai phần ngoài cột chỉ tiêu còn có các cột phản ánh mã số của chỉ tiêu, cột số đầu năm và số cuối kỳ. * Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Báo cáo ”Kết quả hoạt động kinh doanh “là một báo cáo kế toán tài chính phản ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra báo cáo này còn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước cũng như tình hình thuế giá trị gia tăng bán hàng nội địa trong một kỳ kế toán. “Báo cáo kết quả kinh doanh”cũng là báo cáo tài chính quan trọng cho nhiều đối tượng khác nhau nhằm phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Thông qua số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, có thể kiểm tra được tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước về các khoản thuế và các khoản phải nộp khác, đánh giá được xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các ký khác nhau. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 3 phần: - Phần phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ hoạt động (Phần I: Lãi lỗ) phần này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu nhập chi phí của từng hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thuộc phần này đều được theo dõi chi tiết theo số quý trước, quý này và quý kể từ đầu năm. - Phần phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước gồm các chỉ tiêu liên quan đến các loại thuế, các khoản phí và các khoản phải nộp khác (Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước). Các chỉ tiêu ở phần này cũng được chi tiết thành số còn phải nộp kỳ trước, số phải nộp kỳ này, số đã nộp trong kỳ này và số còn phải nộp đến cuối kỳ này cùng với số phải nộp, số đã nộp luỹ kế từ đầu năm đến cuối kỳ báo cáo. - Phần phản ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được giảm và thuế giá trị gia tăng bán hàng nội địa (Phần III “Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, thuế GTGTđược giảm, thuế GTGT bán hàng nội địa’). Phần này chi tiết các chỉ tiêu liên quan đến thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, đã hoàn lại, được giảm, đã giảm và số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ, còn được hoàn lại, còn được giảm cuối kỳ... * Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo Chuẩn mực kế toán Việt nam số 24 - “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ” trên bao gồm tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn, còn các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng kể từ ngày mua khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền nhất định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đến thành tiền (Kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi...). Doanh nghiệp được trình bày các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. * Thuyết minh báo cáo tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành của hệ thống thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được. Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp; nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn đế áp dụng; tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng; phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị của doanh nghiệp. Mặc dù mỗi loại báo cáo tài chính cung cấp những thông tin khác nhau, nhưng không báo cáo nào chỉ phục vụ cho một mục đích hoặc cung cấp thông tin cần thiết để đáp ứng mọi yêu cầu sử dụng. Mỗi báo cáo trong hệ thống báo cáo tài chính có mối liên hệ tương hỗ lẫn nhau, chúng phản ánh những khía cạnh khác nhau của cùng một nghiệp vụ, cùng một sự kiện. Vì vậy để đánh giá đúng đắn về thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp phải xem xét các báo cáo tài chính trong một hệ thống và thực hiện phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính của nó. 1.2.2. Hiệu quả quản lý tài chính Để hiểu khái niệm hiệu quả quản lý tài chính trước hết cần xem xét khái niệm hiệu quả. Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Hiệu quả được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau nên hình thành nhiều khái niệm khác nhau như hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị xã hội, hiệu quả trực tiếp, hiệu quả gián tiếp, hiệu quả tương đối, hiệu quả tuyệt đối...Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ ra chi phí để có được kết quả có khái niệm hiệu quả quản lý tài chính. Hiệu quả quản lý tài chính: phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra , trình độ sử dụng các nguồn lực để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả quản lý tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp , các nhà đầu tư. Hiệu quả quản lý tài chính chỉ liên quan đến việc thu chi có liên quan trực tiếp. 1.2.3. Đánh giá khái quát tình hình tài chính Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định chung về tình hình tài chính doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho người sử dụng thông tin biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp có khả quan hay không.Việc đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp được thực hiện thông qua các chỉ tiêu. 1.2.3.1. Phân tích tình hình biến động của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp * Phân tích tình hình biến động về quy mô tài sản và nguồn vốn Để đánh giá trước hết tiến hành so sánh tổng số nguồn vốn, tổng tài sản của kỳ so với đầu năm cho thấy quy mô của tài sản cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra cần xem xét biến động từng khoản mục trong tổng tài sản hoặc nguồn vốn để thấy được mức độ đảm bảo cho quá trình kinh doanh. Có thể lập bảng phân tích theo mẫu sau: Bảng 1.1 Phân tích tình hình biến động quy mô tài sản Tài sản Số đầu năm Số cuối năm Tăng giảm Số tuyệt đối Số tương đối (%) A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (100=110+120+130+1 40+150+160) I. Tiền II Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn III Các khoản phải thu IV . Hàng tồn kho V Tài sản lưu động khác VI Chi sự nghiệp B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn (200=210+220+230+2 40+241) I Tài sản cố định II Các khoản đầu tư tài chính dài hạn III Chi phí xây dựng cơ bản dở dang IV . Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn Tổng cộng tài sản (250=100+200) Bảng 1.2 : Phân tích tình hình biến động quy mô nguồn vốn nguồn vốn Số đầu năm Số cuối năm Tăng giảm Số tuyệt đối Số tương đối (%) A. Nợ phải trả (300=310+320+330) I. Nợ ngắn hạn II Nợ dài hạn III Nợ khác B.Nguồn vốn chủ sở hữu (400=410+420) I. Nguồn vốn , qũy II Nguồn kinh phí, qũy khác Tổng cộng nguồn vốn (430=300+400) 1.2.3.2. Phân tích quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn Trên lý thuyết, nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bảo đảm đầy đủ cho mọi hoạt động có nghĩa là: Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nguồn vốn chủ sở hữu Nếu lấy ký hiệu trên bảng cân đối kế toán ta có : (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản = B nguồn vốn chủ sở hữu Trong thực tế hiếm có doanh nghiệp nào được như vậy mà thường chỉ xảy ra một trong hai trường hợp sau: Trường hợp 1: (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản > B nguồn vốn chủ sở hữu Thể hiện doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải cho tài sản của mình. Để hoạt động kinh doanh bình thường , doanh nghiệp phải huy động thêm vốn từ các khoản vay hoặc đi chiếm dụng vốn từ đơn vị khác. Trường hợp 2: (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản < B nguồn vốn chủ sở hữu Trường hợp này vốn chủ sở hữu không sử dụng hết cho tài sản, nên đã bị các đối tượng và doanh nghiệp khác chiếm dụng hoặc số vốn thừa được doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động khác ngoài sản xuất . 1.2.3.3. Vốn luân chuyển thuần (hoạt động thuần) là chỉ tiêu phản ánh phần chênh lệch giữa tổng giá trị thuần của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn với tổng số nợ ngắn hạn.Một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì cần thiết phải duy trì một mức vốn luân chuyển hợp lý để thỏa mãn các khoản nợ ngắn hạn, dự trữ hàng tồn kho đầy đủ. Vốn hoạt động thuần càng lớn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên nếu vốn hoạt động thuần quá cao sẽ làm giảm hiệu quả đầu tử vì lượng tài sản lưu động quá nhiều so với nhu cầu và vì phần dư này không làm tăng thêm thu nhập doanh nghiệp. Vốn hoạt động thuần = Tổng giá trị thuần của TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Tổng số nợ ngắn hạn 1.2.4. Phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh 1.2.4.1. Phân tích cơ cấu nguồn vốn: Phân tích cơ cấu nguồn vốn là việc xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn chiếm tổng số nguồn vốn cũng như xu hướng biểu tượng của từng nguồn vốn cụ thể. Qua đó đánh giá sự biến động về mặt tài chính cũng như mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp đủ khả năng tự chủ về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ (Ngân hàng, nhà cung cấp) là cao. Ngược lại, nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số nguồn vốn (cả về số tuyệt đối và tương đối) thì khả năng đảm bảovề mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp. Khi phân tích cơ cấu nguồn vốn cần tính ra và so sánh tỷ trọng của từng nguồn vốn chiếm trong tổng số giữa cuối kỳ so với đầu năm, giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, dựa vào xu hướng báo động về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn để nhận xét về mức độ bảo đảm và độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc cả về số tuyệt đối và tương đối theo từng nguồn vốn cụ thể để nhận xét. Cũng qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà phân tích nắm được các chỉ tiêu liên quan đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Từ đó giúp các nhà phân tích có cơ sở để xác định đúng tính hợp lý về cơ cấu nguồn vốn và xu hướng hoạt động của cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Có thể sử dụng bảng phân tích theo bảng 1.3 như sau: Bảng 1.3: Mẫu phân tích cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp Số đầu kỳ Số cuối kỳ nguồn vốn Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng(%) A Nợ phải trả I Nợ ngắn hạn II Nợ dài hạn III Nợ khác B Nguỗn vốn chủ sở hữu I Nguỗn vốn qũy II Nguồn kinh phí, quỹ khác Tổng cộng nguồn vốn (tài liệu sử dụng để phân tích là Bảng cân đối kế toán phần “nguồn vốn” 1.2.4.2. Phân tích tình hình biến động về cơ cấu tài sản Phân tích cơ cấu về tài sản là chỉ tiêu hết sức có ý nghĩa. Một doanh nghiệp có cơ cấu tài sản hợp lý không những sử dụng hiệu quả mà còn tiết kiệm được vốn trong kinh doanh. Việc phân tích thông qua lập bảng theo mẫu sau: Bảng 1.4: Mẫu phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp Số đầu kỳ Số cuối kỳ tài sản Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng(%) A Tài sản lưu động I Vốn bằng tiền II Đầu tư ngắn hạn III Các khoản phải thu IV Hàng tồn kho V Tài sản lưu động khác B Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tổng cộng tài sản (tài liệu sử dụng để phân tích là Bảng cân đối kế toán phần “tài sản” 1.2.4.3. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài sản. Các tài sản này được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay - nợ. Việc cung ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh liên tục và có hiệu quả. Do vậy cần phải tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động và hình thành nguồn vốn. Có thể phân loại nguồn vốn (nguồn tài trợ) tài sản dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành 02 loại: - Nguồn tài trợ thường xuyên: là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Nguồn tài trợ thường xuyên bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay - nợ dài hạn , trung hạn ( trừ vay, nợ quá hạn ). - Nguồn tài trợ tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong khoảng thời gian ngắn. Nguồn tài trợ tạm thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay - nợ quá hạn kể cả các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua, của người lao động... Các nguồn vốn bảo đảm cho hoạt động sản xuất - kinh doanh (nguồn tài trợ tài sản) của doanh nghiệp được thể hiện khái quát qua bảng 1.5: Bảng 1.5 : Các nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp Tổng số tài sản TSCĐ - TSCĐ hữu hình - TSCĐ vô hình -TSCĐ thuê mua - Đầu tư dài hạn. Vốn chủ sở hữu Thường xuyên Nguồ n tài trợ - Vay dài hạn trong hạn - Nợ dài hạn, trung hạn TSLĐ - Tiền - Nợ - Đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho -VV - Vay ngắn hạn - Nợ ngắn hạn - Chiếm dụng bất hợp pháp Tạm thời Để phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết cần liệt kê tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong thời kỳ (kỳ kế hoạch và kỳ báo cáo) để biết được tình hình biến động của nguồn vốn trên. Từ đó đánh giá tình hình bảo đảm nguồn vốn trên cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đánh giá được tính hợp lý của sự biến động về nguồn vốn. Đối với các khoản chiếm dụng bất hợp pháp, trong bất kỳ trường hợp nào cũng cho thấy hoạt động tài chính của doanh nghiệp là bất thường. Tiếp theo, so sánh tổng nhu cầu về tài sản (tài sản cố định và tài sản lưu động) với nguồn vốn chủ sở hữu hiện có đủ hoặc lớn hơn tổng số nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp cần sử dụng số thừa này một cách hợp lý (đầu tư vào tài sản lao động, tài sản cố định, hoạt động kinh doanh, trả nợ vay...) tránh bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, khi nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp có biện pháp huy động và sử dụng phù hợp (huy động nguồn tài trợ tạm thời hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư tránh đi chiếm dụng vốn bất hợp pháp. 1.2.5. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán 1.2.5.1. Phân tích tình hình thanh toán Tình hình thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tài chính có hiệu quả, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, ít bị chiếm dụng vốn, ít đi chiếm dụng vốn và ngược lại. Tình hình thanh toán của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả (%): Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản nợ phải trả = Tổng số khoản phải thu x 100% Tổng số khoản phải trả Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng so với các khoản đi chiếm dụng. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 100% chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn, còn nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 100% chứng tỏ doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác. - Tỷ suất nợ phải trả tổng quát (%) Tỷ suất nợ phải trả tổng quát = Tổng số nợ phải trả x 100% Tổng nguồn vốn (Tổng tài sản) Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn công ty bỏ ra thì có bao nhiêu đồng nợ phải trả. Đây là chỉ tiêu phản ánh tổng quát tình hình công nợ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ công nợ của công ty càng lớn. Quản trị công ty cần xác định rõ nguyên nhân khê đọng các khoản phải trả nhằm sớm có biện pháp xử lý công nợ, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính. - Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (%) Tỷ suất nợ phải trả tổng quát = Tổng số nợ phải trả x 100% Vốn chủ sở hữu Để có nhận xét , đánh giá đúng đắn về tình hình thanh toán của doanh nghiệp, khi phân tích còn phải sử dụng các tài liệu hạch toán hàng ngày nhằm: - Xác định tính chất , thời gian và nguyên nhân các khoản phải thu, phải trả; - Các biên pháp mà đơn vị áp dụng để thu hồi nợ và thanh toán nợ; - Nguyên nhân dẫn đến các khoản tranh chấp nợ phải thu , phải trả Có thể lập bảng phân tích theo mẫu sau: Bảng 1.6: Bảng phân tích tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu và nợ phải trả Chỉ tiêu Tổng số còn phải thu hay phải trả Số nợ quá hạn Đầu kỳ Cuối kỳ Cuối kỳ so với đầu kỳ Đầu kỳ Cuối kỳ Cuối kỳ so với đầu năm  Tỷ lệ  Tỷ lệ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 I.Các khoản phải thu - Phải thu từ khách hàng - Trả trước cho người bán - Cho vay - Phải thu tạm ứng - Phải thu nội bộ - Phải thu khác II.Các khoản phải trả 2.1. Nợ dài hạn - Vay dài hạn - Nợ dài hạn 2.2. Nợ ngắn hạn - Vay ngắn hạn - Phải trả cho người bán - Người mua trả trước .- Doanh thu nhận trước - Phải trả công nhân viên - Thuế và các khoản nộp Nhà nước - Phải trả nội bộ - Phải trả khác Tổng cộng 1.2.5.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán Nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp là cơ sở đánh giá tình hình thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và triển vọng trong tương lai. Để phân tích đầu tiên cần tính ra và so sánh số đầu kỳ, số cuối kỳ các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán như: - Hệ số thanh toán tổng hợp - Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn - Hệ số thanh toán của tài sản lưu động - Hệ số thanh toán nhanh Trong đó quan trọng là hai chỉ tiêu hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tổng hợp. Sau đó dựa vào các tài liệu hạch toán liên quan, tiến hành thu thập số liệu liên quan đến các khoản có thể dùng để thanh toán với các khoản phải thanh toán của doanh nghiệp và sắp sếp các chỉ tiêu này vào bảng phân tích theo trình tự nhất định. Tiêu chí sắp xếp của các chỉ tiêu nhu cầu thanh toán là mức độ khẩn trương của việc thanh toán, còn với chỉ tiêu khả năng thanh toán là khả năng huy động. Doanh nghiệp bảo đảm được khả năng thanh toán trong từng giai đoạn nếu các khoản có thể dùng để thanh toán lớn hơn các khoản phải thanh toán còn nếu ngược lại các nhà quản lý phải tìm kế sách huy động nguồn tài chính đảm bảo cho việc thanh toán nếu không muốn bị rơi vào tình trạng phá sản. Bảng phân tích có dạng như bảng 1.7. Đồng thời trên cơ sở bảng phân tích trên cần tính ra chỉ tiêu “hệ số khả năng thanh toán tổng hợp (Hk)” và “hệ số thanh toán nhanh (Hn)” như sau: - Hệ số khả năng thanh toán tổng hợp (Hk) Hệ số khả năng thanh toán tổng hợp (Hk) = Khả năng thanh toán Nhu cầu thanh toán Chỉ tiêu này có thể tính cho cả thời kỳ hoặc cho từng giai đoạn (hiện thời, tháng tới , quý tới...). Nếu Hk >1 chứng tỏ doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán và tình hình tài chính bình thường hoặc khả quan. Nếu Hk <1 chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán. Hk càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu. Khi Hk = 0 thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị phá sản. - Hệ số thanh toán nhanh (Hn): Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Hn) = Tổng số vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn Tổng số nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết với số vốn bằng tiền và các chứng khoán ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh bằng tiền mặt hiện có, doanh nghiệp có điều kiện thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn hay không. Trị số này nếu lớn khả năng thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan, còn nếu nhỏ cho thấy doanh nghiệp còn khó khăn cho thanh toán công nợ và do đó phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền để thanh toán. Tuy nhiên nếu tỷ suất này quá lớn sẽ không tốt vì nó cho thấy vốn bằng tiền quá nhiều vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Bảng 1.7 : Bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán Các khoản phải thanh toán Số tiền Các khoản phải thanh toán Số tiền 1 2 3 4 I.Các khoản phải thanh toán I.Các khoản có thể thanh ngay toán ngay 1. Các khoản nợ quá hạn 1. Tiền mặt Phải nộp ngân sách Tiền Việt Nam Phải trả ngân hàng Vàng bạc đá qúy Phải trả công nhân , viên chức Ngoại tệ Phải trả nười bán 2. Tiền gửi Ngân hàng Phải trả ngưới mua Tiền Việt Nam Phải trả nội bộ Vàng bạc đá qúy Phải trả khác Ngoại tệ 2. Các khoản nợ đến hạn 3. Tiền đang chuyển Nợ ngân sách 4. Các khoản tương đương tiền Nợ ngân sàng vv... II.Các khoản phải thanh toán trong thời gian tới II. Các khoản có thể thanh toán trong thời gian tới 1. Tháng tới 1. Tháng tới Ngân sách Đầu tư ngắn hạn khác Ngân hàng Khoản phải thu vv... Vay ngắn hạn vv.... 2. Quý tới 2. Quý tới vv... vv... Tổng cộng Tổng cộng 1.2.6 . Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh Hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng nhân tài vật lực của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh khi phân tích cần kết hợp các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, khả năng sinh lợi của vốn... Chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh là “Hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp” được tính bằng công thức: Hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp = Kết quả đầu ra chi phí đầu vào Việc xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện trên các chỉ tiêu sau 1.2.6.1. Hiệu quả sử dụng vốn Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Các công thức phản ánh khái quát hiệu quả sử dụng vốn là: -Hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp: Hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp = Kết quả đầu ra Số vốn sử dụng bình quân Hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp cho biết cứ một đơn vị sử dụng vốn vào kinh doanh đem lại mấy đơn vị kết quả đầu ra. Hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại. * Phân tích hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ tài sản. - Hiệu quả sử dụng tổng tài sản: Hiệu quả sử dụng tổng tài sản = Tổng số doanh thu thuần (hoặc tổng giá trị sản xuất Tổng tài sản bình quân Trong đó : Tổng tài sản bình quân = Tổng tài sản hiện có đầu kỳ và hiện có cuối kỳ 2 Hiệu quả sử dụng tổng tài sản phản ánh một đơn vị tài sản bình quân đem lại mấy đơn vị doanh thu thuần ( hay tổng giá trị sản xuất). Hiệu quả sử dụng tổng tài sản càng lớn hiệu quả sử dụng tổng tài sản càng tăng và ngược lại. - Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản = Lợi nhuận thuần trước thuế (hay lợi nhuận thuần sau thuế hoặc lợi nhuận gộp Tổng tài sản bình quân Tỷ xuất sinh lợi trên tổng tài sản cho biết một đơn vị tổng tài sản bình quân đem lại mấy đơn vị lợi nhuận thuần trước thuế ( hay lợi nhuận thuần sau thuế hoặc lợi nhuận gộp. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản càng lớn thì hiệu quả sử dụng tổng tài sản càng cao và ngược lại. - Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Tổng số doanh thu thuần (hoặc tổng giá trị sản xuất) Nguyên giá bình quân (hay giá trị còn lại bình quân ) tài sản cố định Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tài sản cố định bình quân đem lại mấy đơn vị tổng doanh thu hoặc tổng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu này càng cao vốn cố định sử dụng càng hiệu quả. - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Tổng số doanh thu thuần (hoặc tổng giá trị sản xuất) Tài sản lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tài sản lưu động bình quân đem lại mấy đơn vị tổng doanh thu hoặc tổng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu này càng cao vốn lưu động sử dụng càng hiệu quả * Phân tích hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ nguồn vốn Việc xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ nguồn vốn là mối quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư, nhà tín dụng và các cổ đông vì nó gắn với lợi ích của họ cả hiện tại và tương lai. Để phân tích khả năng sinh lợi của vốn người ta thường tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau: - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận thuần trước thuế (hay lợi nhuận thuần sau thuế hoặc lợi nhuận gộp Doanh thu thuần - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: Khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu quan trọng giúp người quan tâm đánh giá được khả năng sinh lợi và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu sử dụng phân tích là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận thuần Vốn chủ sở hữu bình quân Ngoài các chỉ tiêu trên khi phân tích khả năng sinh lợi của vốn, có thể kết hợp sử dụng thêm chỉ tiêu hệ số thanh toán lãi vay: Hệ số thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế + Chi phí lãi vay Số tiền lãi vay phải trả Chỉ tiêu trên phản ánh cứ một đồng lãi vay phải trả của công ty thì thu được bao nhiêu đồng lãi trước thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí lãi vay. Có ba trường hợp xảy ra: Nếu hệ số thanh toán lãi vay = 1 công ty không có lãi. Nếu hệ số thanh toán lãi vay > 1 và càng lớn hơn 1 bao nhiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty càng có hiệu quả bấy nhiêu. Không những công ty có thể hoàn trả vốn vay mà có thể trả cả lãi vay. Nếu hệ số thanh toán lãi vay < 1 và càng nhỏ bao nhiêu thì rủi ro về tài chính của công ty càng lớn. Công ty cần có biện pháp khắc phục nếu không muốn bị phá sản. 1.2.6.2. Phân tích tốc độ luân chuyển của tài sản lưu động (vốn lưu động) Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các quá trình tái sản xuất. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giả quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - Số lần luân chuyển của của vốn lưu động: Số lần luân chuyển của vốn lưu động = Tổng số vốn luân chuyển thuần Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh, số vốn lưu động quay được được mấy lần . Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. - Độ dài bình quân một lần luân chuyển: Độ dài bình quân một lần luân chuyển vốn lưu động (ngày) = Thời gian của kỳ phân tích Số lần luân chuyển của vốn lưu động Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để cho vồn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn và ngược lại. Do đó công ty sẽ tiết kiệm được vốn lưu động. 1.3 Năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.3.1 Khái niệm đấu thầu và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp Thuật ngữ “đấu thầu ” đã trở nên quen thuộc ở nước ta trong hơn một thập kỷ qua, nó xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Có nhiều khái niệm khác nhau về đấu thầu: Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (do Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa biên soạn , xuất bản năm 1995 ) thì “đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt , người muốn xây dựng công trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện xây dựng công trình để người nhận xây dựng công trình (người dự thầu ) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm tài sản và xây dựng các công trình tư nhân và Nhà nước”. Trong lĩnh vực xây lắp ở Việt Nam, khái niệm đấu thầu được nêu tại khoản 1 điều 3 “quy chế đấu thầu” ban hành theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 thì “đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu” . Như vậy đấu thầu có các đặc điểm sau: - Đấu thầu là hoạt động mua bán - Đấu thầu chỉ tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường khi có sự tồn tại và phát triển của cạnh tranh. Trong đấu thầu xây lắp ta thấy tồn tại ba quan hệ cạnh tranh : cạnh tranh giữa chủ đầu tư với các nhà thầu; cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau và cạnh tranh giữa nhà thầu với người cung cấp. Nổi bật nhất là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dự thầu. Để đạt thành công trong đấu thầu thì các nhà thầu buộc phải phát huy tối đa năng lực của mình đáp ứng yêu cầu mời thầu. Khi nói về năng lực đấu thầu (hay năng lực cạnh tranh trong đấu thầu) của doanh nghiệp là nói đến các nội lực bên trong như năng lực về tài chính, kỹ thuật, công nghệ, quảng cáo, tổ chức quản lý, đội ngũ nhân viên ...của doanh nghiệp và việc sử dụng các nội lực đó để phục vụ cho các cuộc đấu thầu khác nhau tạo ra lợi thế hơn hẳn các doanh nghiệp khác. Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về năng lực đấu thầu của doanh nghiệp nhưng tựu chung lại đều đề cập tới hai vấn đề cơ bản là chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận. Như vậy năng lực đấu thầu (hay năng lực cạnh tranh trong đấu thầu) của doanh nghiệp là toàn bộ năng lực và việc sử dụng các năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác nhằm duy trì vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và thu được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Thực tế trong nền kinh tế thị trường , hoạt động đấu thầu ngày càng sôi động , cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày gay gắt . Để đứng vững và mở rộng thị phần đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải không ngừng nâng cao năng lực đầu thầu. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.3.2.1. Nhân tố khách quan * Nhà nước và chính trị Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hoạt động của doanh nghiệp bị chi phối bởi tất cả các điều luật, các quy định do Nhà nước đặt ra. Hiện nay trên thị trường xây dựng hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng dựa theo Luật xây dựng, các nghị định và văn bản hướng dẫn đặc thù, ngoài ra còn có các quy định về khung giá, mức giá, những quy định về thuê mướn, thuế, cho vay, quảng cáo, bảo vệ môi trường. . . các chế tài bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ Chính sách của Nhà nước hoặc của Chính phủ có thể tạo cơ hội hoặc gây bất lợi cho doanh nghiệp. Chẳng hạn Luật xây dựng tại điều 100 khoản 2 , quy định đấu thầu hạn chế trong hoạt động xây dựng : “Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình, công trình sử dụng vốn nhà nước thì không cho phép 2 doanh nghiệp trở lên thuộc cùng một tổng công ty, tổng công ty với công ty thành viên, công ty mẹ và công ty con, doanh nghiệp liên doanh với một bên góp vốn trong liên doanh cung tham gia đấu thầu một gói thầu”, quy định này nhằm làm hạn chế các doanh nghiệp khi dự thầu. Hoặc quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 tại điều 10 - Quy định điều kiện đấu thầu quốc tế và ưu đãi nhà thầu: “Nhà thầu nước ngoài khi tham gia dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam hoặc phải liên doanh với nhà thầu Việt Nam hoặc phải cam kết sử dụng thầu phụ Việt Nam”.... tức là tạo thêm ưu đãi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia đấu thầu quốc tế. Những bộ phận của nhân tố chính trị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp và hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hoạt động của các cơ quan Chính phủ và Luật pháp có tác động trực tiếp đến tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các Nhà quản lý doanh nghiệp phải quan tâm, nắm vững thông tin Luật pháp , các thủ tục hành chính và các quy định khác của Chính phủ trong kinh doanh và đấu thầu. Tuy vậy nếu chỉ tuân thủ các quy định hiện hành vẫn chưa đủ mà doanh nghiệp cần phải tính đến việc phản hồi thông tin, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc đưa ra các quy định mới phù hợp, tự mình gây ảnh hưởng đối với các quy định có thể được ban hành. Hơn nữa, việc tự mình đặt ra và làm theo các quy định còn cần thiết hơn so với các quy định của Nhà nước. * Những đối thủ cạnh tranh Sự hiểu biết về đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân. Các đối thủ cạnh tranh nhau quyết định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành ưu thế trên thị trường. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định hoặc chi phí dự trữ chiếm tỷ trọng lớn, sự đa dạng hóa của các đối thủ cạnh tranh, hàng rào cản trở rút lui. Hiện nay trên thị trường xây dựng có rất nhiều doanh nghiệp cả trong và ngoài nước cùng tham gia, làm tăng tính chất và quy mô cạnh tranh trong ngành, làm giảm mức lợi nhuận doanh nghiệp. Nếu trên thị trường có một số doanh nghiệp dẫn đầu thì cạnh tranh gay gắt chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp yếu thế hơn. Trong đấu thầu xây dựng , các doanh nghiệp có năng lực đấu thầu cao ( các doanh nghiệp ở vị trí dẫn đầu ) thường sử dụng phương thức cạnh tranh bằng giá dự thầu, chất lượng công trình, tiến độ thi công để giành được hợp đồng. * Quyền lực của nhà cung cấp Trong hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp có quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như vật tư, thiết bị, tài chính, nguồn nhân lực ...Giá thành sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào giá cả của các đầu vào này. Đặc biệt trong đấu thầu , doanh nghiệp quyết định hạ giá dự thầu phần lớn dựa trên cơ sở giá cả hàng hóa mà nhà cung cấp cam kết bán cho doanh nghiệp nếu trúng thầu. Những ưu thế và đặc quyền của nhà cung cấp cho phép họ có ảnh hưởng nhất định đối với doanh nghiệp. Họ có thể tạo ra áp lực đối với doanh nghiệp . Có rất nhiều cách để họ có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ có thể tăng giá, giảm chất lượng những loại vật tư kỹ thuật mà họ cung ứng, không đảm bảo tiến độ theo yêu cầu của doanh nghiệp... Các nhà cung ứng có thế lực mạnh khi: - Là nhà độc quyền cung ứng một loại vật tư thiết yếu cho doanh nghiệp - Doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp - Loại vật tư, hàng hóa cung cấp là yếu tố đầu vào quan trọng quyết định lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc đến chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Trên thị trường xây dựng, danh tiếng của nhà cung cấp có ảnh hưởng rất lớn đến chủ đầu tư do có sự liên quan đến chất lượng công trình. Tạo được mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp có danh tiếng sẽ là lợi thế mạnh của doanh nghiệp. * Quyền lực của chủ đầu tư Chủ đầu tư là tổ chức được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và thực hiện dự án. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm về quá trình lựa chọn nhà thầu do vậy chủ đầu tư có ảnh hưởng rát lớn đến các doanh nghiệp tham gia đấu thầu . Hiện nay ở nước ta quy chế đấu thầu qua nhiều lần sửa đổi vẫn còn nhiều hạn chế. Khả năng thắng thầu của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào chủ đầu tư, họ là người trực tiếp quyết định và lựa chọn hồ sơ dự thầu của doanh nghiệp. Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP mặc dù quy định rất rõ về điều khoản ưu đãi cho các nhà thầu Việt Nam. Nhưng trên thực tế , do nguồn gốc vốn đầu tư nên nhiều khi việc đấu thầu bị chi phối hoàn toàn từ bên cho vay. Trong trường hợp này nhà thầu Việt Nam phải chịu chấp nhận theo ý chủ quan của Chủ đầu tư. Hơn nữa chủ đầu tư cũng là người lựa chọn tư vấn để đánh giá hồ sơ dự thầu, do vậy cùng với chủ đầu tư đơn vị tư vấn cũng có vai trò quyết định đến khả năng trúng thầu của doanh nghiệp. Tạo mối quan hệ thân tín với các nhà tư vấn nhằm học hỏi kinh nghiệm , trình độ và tác động đến việc chấm điểm hồ sơ thầu là rất cần thiết. 1.3.2.2. Nhân tố chủ quan * Nguồn nhân lực Con người là nhân tố cơ bản của sản xuất - kinh doanh. Đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp, chủ đầu tư đặc biệt chú trọng đế cấp độ sau: - Lãnh đạo : Ban Giám đốc doanh nghiệp Lãnh đạo và Ban Giám đốc doanh nghiệp là những cán bộ ở cấp quản lý cao nhất trong doanh nghiệp, quyết định đến sự thành công hay thất bại của đơn vị trong kinh doanh. Khi đánh giá bộ máy lãnh đạo người ta thường quan tâm đến các tiêu thức như kinh nghiệm lãnh đạo, trình độ, các hoạt động của doanh nghiệp, phẩm chất kinh doanh và các mối quan hệ... Sâu xa hơn nữa là tinh thần đoàn kết, đồng lòng của nhân viên, của ekip lãnh đạo, uy tín của Ban lãnh đạo trong và ngoài doanh nghiệp , điều này làm tăng sức mạnh của chính doanh nghiệp và tạo sự tín nhiệm đối chủ đầu tư. - Chức năng: Cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp Để đánh giá điểm mạnh , điểm yếu của đội ngũ cán bộ quản lý chủ đầu tư thường tiếp cận trên các khía cạnh: + Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, tác phong làm việc, sự am hiểu về kinh doanh và pháp luật của từng thành viên trong ekip quản lý. + Cơ cấu về các chuyên nghành đào tạo phân theo trình độ sẽ cho biết khả năng chuyên môn hóa cũng như khả năng đa dạng hóa của doanh nghiệp. Thông thường , cơ cấu cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề có chuyên môn vê lĩnh vực chính mà doanh nghiệp đang kinh doanh phải chiếm ít nhất 60% tổng số lao động, bởi điều này liên quan đến chất lượng và kỹ thuật công trình. - Thực hiện: cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân Đây là đội ngũ lao động trực tiếp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp trên các khía cạnh như chất lượng công trình và tiến độ thi công. Người phụ trách đơn vị phải có trình độ quản lý (tổ chức điều phối lao động, thiết bị hợp lý, tránh lãng phí nhằm hạ thấp giá thành, tăng lợi nhuận nhưng phải đảm bảo chất lượng), am hiểu sâu về công việc mà đơn vị đang thực hiện, biết chăm lo quyền lợi cho người lao động... mới tạo ra sự ủng hộ, lòng nhiệt thành từ phía người lao động. Tuy nhiên , lãnh đạo đơn vị giỏi cũng chưa đủ mà cần có đội ngũ lao động tay nghề chuyên sâu, có khả năng sáng tạo, trung thực, có trách nhiệm trong công việc. Bởi đây chính là những người trực tiếp thực hiện những ý tưởng, chiến lược và chiến thuật kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo cấp trên, những người tạo nên chất lượng công trình và năng lực đấu thầu cho doanh nghiệp. * Tài chính Năng lực tài chính có vai trò quyết định đối sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực tài chính thể hiện ở quy mô tài sản nguồn vốn tự có, khả năng huy động tài sản nguốn vốn khác nhau , hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác , để đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp xây dựng cần xem xét cơ cấu vốn cố định, vốn lưu động với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ thi công. Với khả năng tài chính dồi dào , doanh nghiệp có thể tham gia đấu thầu nhiều công trình khác nhau, có nhiều cơ hội để đầu tư trang thiết bị thi công nhằm đáp ứng kịp thời quy trình công nghệ hiện đại, đồng thời sẽ tạo được niềm tin với các tổ chức tài chính tín dụng và nhà cung cấp vật tư hàng hóa. Năng lực tài chính mạnh tác dụng tích cực đến quá trình đấu thầu. Trước hết , nó giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong điều kiện giới hạn về vốn. Thứ hai nó tạo niềm tin nơi chủ đầu tư về khả năng quản lý hiệu quả đồng vốn được giao. Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là yếu tố quyết định đến khả năng huy động các nguồn tài chính từ bên ngoài cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy , trong đấu thầu quốc tế nếu xét trên phương diện tài chính , các doanh nghiệp trong nước thường mất ưu thế so với các doanh nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân do bản thân các doanh nghiệp nước ta thường có quy mô không lớn, công tác tổ chức , bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả, tình trạng nợ chồng chéo phổ biến, tạo ra sự mất cân đối về vốn cho doanh nghiệp. Hơn nữa nhiều công trình sử dụng vốn ngân sách, Nhà nước không đáp ứng đủ vốn theo đúng tiến độ kế hoạch , chậm thanh toán làm cho một số doanh nghiệp phải chịu lãi ngân hàng số tiền rất lớn thậm chí có nguy cơ phá sản. Điều đó cho thấy tiềm lực tài chính có vai trò rất lớn , không thể thiếu trong kinh doanh. * Máy móc thiết bị công nghệ thi công Thiết bị máy móc là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản cố định của doanh nghiệp. Nó đại diện cho trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất hiện có, giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Mức độ cơ giới hóa trong xây dựng được chủ đầu tư đánh giá cao, bởi nó liên quan rất nhiều đến chất lượng và tiến độ thi công công trình. ưu thế về máy móc thiết bị và công nghệ thể hiện qua các đặc tính: tính hiện đại; tính đồng bộ; tính hiệu quả; tính đổi mới. Năng lực máy móc thiết bị và trình độ công nghệ ảnh hưởng rất nhiều đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Yếu tố kỹ thuật này quyết định việc lựa chọn tính toán các giải pháp hợp lý trong tổ chức thi công, bố trí con người và thiết bị một cách hài hòa, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, rút ngắn tiến độ thi công, tiết kiệm chi phí xây dựng, hạ giá thành công trình , góp phần nâng cao năng lực đấu thầu của doanh nghiệp. * Hoạt động quảng cáo tiếp thị Trong nền kinh tế thị trường để bán được hàng hóa không thể thiếu khâu quảng cáo tiếp thị . Không giống như các doanh nghiệp công nghiệp đưa sản phẩm của mình ra thị thường để khách hàng chọn. Doanh nghiệp xây dựng phải dựa vào danh tiếng của mình để khiến cho khách hàng tìm đến để yêu câu sản xuất sản phẩm cần thiết. Do vậy danh tiếng là nhân tố quyết định năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng. Danh tiếng thành tích, kinh nghiệm thi công của doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đến khả năng trúng thầu dự án bởi mối quan tâm hàng đầu của chủ đầu tư là chất lượng và tiến độ công trình. Hoạt động quảng cáo tạo ra hình ảnh tốt đẹp, giúp doanh nghiệp phát triển thị trường, khẳng định phạm vi ảnh hưởng của mình đến sự lựa chọn của các chủ đầu tư. Có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.3.3. Các tiêu thức đánh giá năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.3.3. 1. Các chỉ tiêu chung Các chỉ tiêu đánh giá khái quát năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng gồm: - Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh - Hệ số vay nợ - Khả năng thanh toán lãi vay - Khả năng thanh toán nhanh Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng Nhân tố khách quan ngoài Nhân tố chủ quan Nhà nước và chính trị Đối thủ cạnh tranh Quyề n lực của nhà cung cấp Quyề n lực của chủ đầu tư Nguồ n nhân lực Tài chính Hoạt động quản g cáo Máy móc thiết bị công nghệ thi - Khả năng thanh toán tức thời Nội dung ý nghĩa và phương pháp tính toán các chỉ tiêu trên đã được nêu trong các phần trước của luận văn. 1.3.3. 2.Các chỉ tiêu riêng - Giá trị trúng thầu và số lượng công trình thắng thầu: chỉ tiêu này cho biết một cách khái quát tình hình kết quả dự thầu của doanh nghiệp. Qua đó có thể đánh giá được chất lượng, hiệu quả của công tác dự thầu trong năm và quy mô của các công trình đã trúng thầu từ đó cho thấy tiềm lực của doanh nghiệp. - Xác xuất trúng thầu (%): + Tính theo số hợp đồng: Xác suất trúng thầu theo số hợp đồng = Số hợp đồng trúng thầu x 100% Số hợp đồng tham dự thầu + Tính theo giá trị hợp đồng: Xác suất trúng thầu theo giá trị hợp đồng = Giá trị hợp đồng trúng thầu x 100% Giá trị hợp đồng tham dự thầu - Uy tín của doanh nghiệp: chỉ tiêu này liên quan tới tất cả các chỉ tiêu trên và các yếu tố khác như: chất lượng công trình, tổ chức doanh nghiệp, tổ chức các dự án thi công, hoạt động marketing... Trên đây là toàn bộ nội dung của chương I, trên cơ sở đó thực tiễn phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 sẽ được đề cập ở chương II. Chương II Thực trạng phân tích tình hình tài chính và năng lực đấu thầu của Tổng Công ty Xây dựng Công trình giaothông I 2.1 Khái quát chung về Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I - Bộ giao thông vận tải 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I Được thành lập vào ngày 3 tháng 8 năm 1964, ra đời trong chiến tranh, trải qua hơn 40 năm liên tục phấn đấu đặc biệt trong 10 năm đất nước thực hiện đổi mới , Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1 (gọi tắt là CIENCO 1 ) luôn ổn định , tăng trưởng vững chắc, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. CIENCO 1 là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải có chức năng chính là xây dựng các công trình giao thông , xây dựng một số công trình dân dụng và công nghiệp, sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng kết cấu bê tông đúc sẵn, sửa chữa phương tiện và thiết bị thi công, nâng cấp các công trình cầu đường, tư vấn, khảo sát thiết kế công trình, đào tạo cung ứng nhân lực quốc tế, dịch vụ thương mại xuất nhập khẩu... và các công việc khác. Tiền thân của Tổng công ty là Ban xây dựng Miền Tây làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Trải qua nhiều năm trong chiến tranh và xây dựng CNXH ở Miền bắc , Tổng công ty đã nhiều lần đổi tên cho phù hợp với tình hình như Cục công trình 2, Xí nghiệp Liên hợp công trình 2...Đến tháng 5/1995 cùng với chủ trương sắp xếp và củng cố lại doanh nghiệp Nhà nước, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 được thành lập lại theo Quyết định 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ. CIENCO 1 được Nhà nước giao vốn, tài sản và các nguồn lực khác , thực hiện chế độ hạch toán độc lập, tự chủ trong kinh doanh, chịu trách nhiện hữu hạn đối với các hoạt động kinh doanh trước pháp luật trong phạm vi vốn của Tổng công ty. Qua 41 năm hoạt động Tổng công ty đã vươn lên phát triển trở thành doanh nghiệp Nhà nước hàng đầu về xây dựng giao thông, đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, đời sống người lao động đảm bảo , uy tín và thị phần được mở rộng trong và ngoài nước. Hệ thống tổ chức của Tổng công ty gồm các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và độc lập có quan hệ chặt chẽ với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị. Ban lãnh đạo Tổng công ty gồm Hội đồng quản trị , Tổng giám đốc, các phó Tổng giám đốc. Hiện nay ngoài các phòng chức năng và ban điều hành dự án, Tổng công ty có 40 đơn vị thành viên được chia thành 5 khối chuyên ngành theo lĩnh vực chuyên sâu . Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 được trình bày ở trang bên. 2.1.2. Đặc điểm kinh doanh của Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I Với chức năng chính là xây dựng các công trình giao thông như cầu, cống, sân bay, bến cảng, đường sắt, nhà máy khu công nghiệp, thủy lợi...nên sản phẩm chủ yếu của CIENCO 1 vẫn là sản phẩm xây dựng - sản phẩm có đặc điểm sau: - Sản phẩm xây dựng có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện địa chất , thủy văn, khí hậu. - Có quy mô lớn kết cấu phức tạp - Có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác - Sản phẩm xây dựng có liên quan đến nhiều ngành, vùng, địa phương - Sản phẩm xây dựng mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế , văn hóa nghệ thuật , xã hội và quốc phòng - Sản phẩm xây dựng có tính đơn chiếc, riêng lẻ Đặc điểm của sản phẩm xây dựng đã quyết định đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Chu kỳ sản xuất thường kéo dài làm cho công tác thanh quyết toán gặp nhiều khó khăn, đọng vốn nhiều, vòng quay vốn chậm, đòi hỏi sự linh hoạt trong huy động và sử dụng các nguồn vốn khác nhau cho công trình. Đồng thời kiến nghị , đề xuất với chủ đầu tư các phương thức thanh toán linh hoạt để giải ngân cho công trình Hoạt động xây dựng chủ yếu tiến hành ngoài trời , chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc gây gián đoạn quá trình thi công . Nhiều công trình của Tổng công ty năm ở khu vực miền núi , điều kiện sản xuất hết sức vất vả, hoạt động xây dựng chủ yếu diễn ra sôi động vào mùa khô, còn mùa mưa thì lại chờ việc. Tuy vậy Tổng công ty luôn cố gắng đảm bảo chế độ cho người lao động, phụ cấp cho công nhân đi xa. Tổng công ty thành lập các Ban điều hành theo từng dự án nhằm quản lý, theo dõi sát sao việc thi công, cập nhật số liệu kịp thời , hạch toán chính xác giá thành công trình. Địa bàn thi công công trình thường xuyên thay đổi gây gián đoạn thời gian thi công và làm phát sinh chi phí cho việc di chuyển máy móc con người, thiết bị thi công. ý thức được điều này nên ngay từ khi lập dự toán dự thầu Tổng công ty đã tính toán đưa chi phí vận chuyển vào giá dự thầu, khi đi vào thi công các ban điều hành lập tiến độ sát sao và có kế hoạch điều chuyển con người, thiết bị hợp lý tận dụng lao động phổ thông sẵn có tại địa bàn thi công. Hoạt động xây dựng mang tính riêng lẻ, việc thi công thường yêu cầu kỹ thuật công nghệ cao. Trong những năm qua, Tổng công ty đã không ngừng tìm kiếm nguồn tài trợ để đổi mới trang thiết bị máy móc hiện đại . CIENCO 1 là đơn vị có tổng giá trị thiết bị lớn nhất trong 5 Tổng công ty xây dựng công trình giao thông của Việt Nam (năm 2004 tổng giá trị đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị là 134 tỷ đồng). Phương thức tìm kiếm hợp đồng hiện nay chủ yếu bằng đấu thầu , trên thị trường xây dựng ở Việt Nam Tổng công ty có nhiều đối thủ cạnh tranh do vậy xác suất trượt thầu là không tránh khỏi. Nhưng khi trúng thầu công tác tổ chức quá trình thi công cũng rất phức tạp, khó khăn. Điều này do chính đặc điểm vốn có của sản phẩm xây dựng quyết định. Tổng công ty luôn nỗ lực phấn đấu thi công đạt chất lượng tiến độ khẳng định thương hiệu trên thị trường. 2.1.3. Đặc điểm quản lý tài chính Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I Căn cứ đặc điểm tổ chức, quy mô Tổng công ty, quy chế tài chính và quy chế phân cấp quản lý giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên, tính chất và mức độ phức tạp của công tác tài chính kế toán, Mô hình tổ chức bộ máy kế toán Tổng công ty áp dụng là mô hình tổ chức kế toán phân tán, bộ máy tổ chức được phân thành cấp : kế toán trung tâm và kế toán trực thuộc .Kế toán trung tâm của Tổng công ty được xây dựng gồm bộ máy kế toán tại trụ sở chính Tổng công ty chịu trách nhiệm hạch toán kế toán phần Văn phòng Tổng công ty; hướng dẫn chỉ đạo và tổng hợp Báo cáo tài chính của các đơn vị thành viên để lập báo cáo tài chính Tổng công ty, chịu trách nhiệm cuối cùng về toàn bộ hoạt động của đơn vị cơ sở trực thuộc. Kế toán cơ sở trực thuộc là bộ máy kế toán của các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, phụ thuộc chịu trách nhiệm mở sổ sách kế toán, thực hiện toàn bộ khối lượng công tác kế toán tại cơ sở và báo cáo lên Tổng công ty theo quy định. Bộ máy kế toán của Tổng công ty gồm kế toán tại Văn phòng Tổng công ty gồm 9 người và kế toán các đơn vị thành viên được bố trí theo sơ đồ 2.1. Cũng như các doanh nghiệp khác, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 là đơn vị thực hiện chế độ hạch toán độc lập , tự chủ tài chính . Tổng công ty tự cân đối các khoản thu chi , thực hiện kiểm tra giám sát các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp. Tổng công ty thực hiện phân cấp quyết định về tài chính các đơn vị thành viên, giao vốn và tài sản cho doanh nghiệp thành viên quản lý và sử dụng . Các công ty thành viên được Tổng công ty giao quyền quản lý vốn kinh doanh, được hình thành bộ phận quản lý để điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh tại cơ sở. Tổng công ty chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ về tài chính của các cơ quan Quản lý Nhà nước . Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 Phó Kế toán trưởng phụ trách thanh toán, tổng hợp Kế toán trưởng tổng công ty Kế toán thanh toán Kế toán tổng hợp Kế toán ngân hàng Thủ quỹ Phó Kế toán trưởng phụ trách đầu tư, XDCB Các đơn vị thành viên Kế toán trưởng đơn vị thành viên Kế toán phần hành Kế toán phần hành Kế toán Kế toán phần hành Kế toán phần hành Xuất phát từ đặc thù của sản phẩm và hoạt động kinh doanh xây dựng, hoạt động quản lý tài chính của Tổng công ty cũng có những nét khác biệt . Do sản phẩm xây dựng mang tính đơn chiếc, kết cấu đa dạng, phức tạp , giá trị lớn nên Tổng công ty và các đơn vị thành viên cần thiết phải lên kế hoạch chuẩn bị lượng vốn lớn đáp ứng yêu cầu đảm bảo quá trình sản xuất tiến hành liên tục không bị gián đoạn. Do việc sản xuất xây dựng thường diễn ra trong thời gian tương đối dài , yêu cầu kỹ thuật cao do vậy việc theo dõi, quản lý tài chính của từng dự án đòi hỏi cập nhật thường xuyên, chính xác. Chi tiêu hợp lý tránh lãng phí. Đồng thời Tổng công ty trước khi bắt tay vào thi công đều phải đầu tư một khoản tiền lớn để mua sắm , sửa chữa máy móc thiết bị , mua nguyên vật liệu , trong khi đó chỉ thu hồi vốn khi có khối lượng hoàn thành được chủ đầu tư chấp nhận thanh toán. Cho nên quá trình thu hối vốn của Tổng công ty cũng như các doanh nghiệp thành viên thường chậm, đôi khi còn phải chiếm dụng vốn của các nhà cung cấp. Để trang trải vốn Tổng công ty đã huy động linh hoạt từ nguồn khác nhau từ Ngân sách, từ ngân hàng, vốn vay cá nhân, vay của cán bộ công nhân viên ... Do vậy công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây dựng, tính giá trị hàng tồn kho và xác định giá trị sản lượng trong kỳ kế toán phức tạp. Thông tin kế toán có thể không đồng nhất do dựa trên các tiêu thức khác nhau để thu thập số liệu hạch toán. Doanh thu của Tổng công ty không đồng đều trong năm. Tùy thuộc vào quy định và hình thức quản lý dự án đầu từ cuả từng dự án chủ đầu tư tạm ứng hoặc thanh toán vốn theo từng đợt, thông thường doanh thu thường tăng cao vào những tháng cuối năm, Tổng công ty luôn xem xét phân bổ chi phí hợp lý, mua sắm vật tư tài sản nhằm sử dụng vốn tiết kiệm, giảm lãi vay. Tuy vậy việc điều hòa vốn giữa các đơn vị thành viên trong Tổng công ty từ đơn vị thừa sang đơn vị thiếu còn nhiều hạn chế mặc dù điều này đã được nêu rất rất rõ trong quy chế quản lý tài chính của Tổng công ty. 2.1.4. Vai trò của phân tích tình hình tài chính trong quản lý tài chính Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I Thông tin tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị doanh nghiệp, chủ đầu tư và những người quan tâm. Tài liệu chủ yếu để sử dụng để phân tích tình hình tài chính của CIENCO 1 là hệ thống báo cáo tài chính của toàn Tổng công ty và các đơn vị thành viên được lập theo Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và từ năm 2003 đến nay được sửa đổi bổ sung theo thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 và Thông tư số 105/2003/TT-BTC ngày 04/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính cho phù hợp với các chuẩn mực kế toán Việt nam và quốc tế. Ngoài ra còn có các tài liệu kế toán khác có liên quan theo yêu cầu của người sử dụng . Trong lĩnh vực xây dựng thông tin tài chính có vai đặc biệt quan trọng đối với chủ đầu tư, nhất là trong qua trình sơ tuyển và lựa chọn đơn vị trúng thầu. Có thể so sánh năng lực tài chính của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 với một số Tổng công ty khác như sau: Bảng 2.1: Tài sản của các Tổng công ty xây dựng công trình giao thông thời điểm 31/12/2004 Đơn vị tính: triệu đồng Tên Tổng công ty Tổng tài sản Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 1.774.981 Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4 1.495.718 Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5 1.132.019 Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 6 1.166.505 Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 1.242.806 Tổng công ty xây dựng Thăng Long 1.252.457 Tổng công ty xây dựng Trường Sơn 798.906 Tổng công ty xây dựng Sông Đà 1.570.492 Nguồn: báo cáo tài chính của các Tổng Công ty năm 2004 Bảng 2.1 cho thấy CIENCO 1 là Tổng công ty có quy mô tổng tài sản lớn nhất so với các Tổng công ty xây dựng công trình khác , thể hiện tiềm lực về tài chính của đơn vị. Tuy nhiên để phân tích sâu hơn cần căn cứ vào nhiều chỉ tiêu khác. Tại Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1, công tác phân tích tình hình tài chính có vai trò quan trọng là để phục vụ trực tiếp cho yêu cầu quản lý kinh tế tài chính và yêu cầu chỉ đạo điều hành chung của toàn Tổng công ty. Các số liệu được cập nhật kịp thời phục vụ cho công tác lập báo cáo tài chính. Tổng công ty thường xuyên tổ chức tốt khâu kiểm toán nội bộ nhằm chấn chỉnh kịp thời những sai sót tồn tại trong công tác tài chính đưa ra những nhận định chính xác về tình hình tài chính của đơn vị. Hiện nay việc lập báo cáo tài chính còn nhiều bất cập về chế độ chính sách và của bản thân doanh nghiệp gây thiếu thông tin hoặc một số thông tin chưa đủ độ tin cậy cho công tác phân tích tài chính. Ví như hiện nay Tổng công ty chưa lập được báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất toàn Tổng công ty do các đơn vị thành viên thiết lập báo cáo này chưa đồng bộ; thuyết minh báo cáo tài chính còn sơ sài thiếu một số yếu tố như chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, thu nhập của người lao động, các khoản phải thu và nợ phải trả...bảng cân đối kế toán có một số chỉ tiêu trùng lặp chưa loại trừ được các khoản cho vay phải thu phải trả nội bộ giữa các đơn vị thành viên. Do vậy việc phân tích tình hình tài chính hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá một số chỉ tiêu cơ bản , đơn giản phục vụ cho cán bộ lãnh đạo Tổng công ty, cơ quan quản lý Nhà nước và ngân hàng. 2.2. Thực trạng phân tích tình hình tài chính với việc quản lý tài chính của Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I Nhiệm vụ công tác quản lý tài chính của Tổng công ty Xuất phát đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty, công tác tài chính kế toán đề ra nhiệm vụ chung cho toàn hệ thống. Nhiệm vụ xuyên suốt là chủ động xây dựng kế hoạch thu chi tài chính bằng các nguồn vốn trung, dài và ngắn hạn; thường xuyên giám sát, hướng dẫn bộ máy tài chính kế toán tại các đơn vị thành viên, ban điều hành, chi nhánh trực thuộc cập nhật , thực hiện theo Luật kế toán, chuẩn mực kế toán và các quy định khác của Nhà nước; chi tiêu tài chính đúng chế độ, đảm bảo tiết kiệm , hiệu quả, chống thất thoát. Trong thời gian qua công tác quản lý tài chính được triển khai trên các khía cạnh sau: - Phân tích bảo toàn, phát triển vốn của Tổng công ty - Tăng cường công tác quản lý vốn, tài sản doanh nghiệp. Thành lập đoàn kiểm tra đánh giá lại tài sản chuẩn bị cho công tác cổ phần hoá các đơn vị thành viên, đánh giá lại giá trị hiện tại của tài sản, phân rõ nguồn hình thành; phát huy hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, tích cực thu hồi nợ của chủ đầu tư. - Thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh doanh, ghi chép và theo dõi tài chính, phân phối lợi nhuận, chấp hành nghiêm túc nghĩa vụ thu nộp ngân sách của Nhà nước. - Tăng cường công tác kiểm soát, quản lý thu chi ở các ban điều hành, ban dự án... Thực hiện công khai tài chính theo luật định. - Kiểm tra, đôn đốc việc thanh quyết toán công nợ kịp thời đối với các nhà thầu phụ, nhà cung cấp vật liệu, tín dụng, tránh xảy ra khiếu kiện. - Chủ động tham mưu đề xuất với Hội đông quản trị, Ban giám đốc xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật, xây dựng quỹ tiền lương. Tổ chức tập huấn phổ biến chế độ kế toán mới nhằm nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kế toán . - Thực hiện công tác báo cáo tài chính phục vụ công tác quản lý của Tổng công ty. Qua xem xét thực tế việc sử dụng báo cáo tài chính trong phân tích tình hình tài chính phục vụ công tác quản lý tài chính , Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 đã thực hiện công tác phân tích tình hình tài chính thể hiện trên các mặt sau: 2.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính với việc quản lý tài chính của Tổng công ty Để đánh giá khái quát tình hình tài chính , thông qua số liệu hàng năm thể hiện trên báo cáo tài chính Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 đã thực hiện xác định việc tăng giảm của tổng tài sản, nguồn vốn và việc tăng giảm của từng loại tài sản, nguồn vốn cụ thể. So sánh mức tăng, giảm của tổng tài sản , nguồn vốn bằng số tuyệt đối và bằng tỷ lệ cuối kỳ và có nhận xét về quy mô của Tổng công ty tăng hay giảm. Trên cơ sở tính toán tỷ trọng của từng loại tài sản , nguồn vốn với tổng số đưa ra nhận xét về vị trí của từng loại tài sản đối với doanh nghiệp giúp cho Tổng công ty thấy được mức độ tự chủ về tài chính. Trên cơ sở số liệu của bảng cân đối kế toán, Tổng công ty tiến hành phân tích tình hình cân đối giữa tài sản và nguồn vốn như sau: Nguồn vốn chủ sở hữu < tiền + hàng tồn kho + chi phí trả trước +chi phí chờ kết chuyển + chi sự nghiệp + tài sản cố định Năm 2003: 168.105.023.172< 489.959.219.019 = 94.335.206.786 +2.292.855.807 + 19.393.544.372 + 39.307.046.239 + 70.000.305 + 334.560.566.230 Năm 2004: 183.417.598.387 < 550.742.091.725 = 111830412826 + 6854104098 + 12289947117 + 48202432931 + 70000305 + 371495194448 Qua số liệu phân tích , Tổng công ty đưa ra nhận xét , CIENCO 1 có sự thiếu hụt trầm trọng nguồn vốn chủ sở hữu để trang trải cho những tài sản cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Để có nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt này Tổng công ty phải huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ mọi kênh khác nhau: ngân hàng, cán bộ công nhân viên thậm chí phải chiếm dụng vốn của một số doanh nghiệp khác... Về tình hình sử dụng tài sản và nguồn vốn hiện nay, Tổng công ty thường phân tích cả về số biến động tương đối và tuyệt đối của từng loại tài sản, nguồn vốn. Chẳng hạn có thể xem xét sự biến động của tài sản ở Tổng công ty qua bảng 2.2 và 2.3 . Sau khi tính toán các số liệu trên, phòng Kế toán Tổng công ty đã đưa ra nhận xét: Quy mô tài sản của Tổng công ty có chiều hướng tăng nhanh, trong đó tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng nhanh hơn tài sản cố định. Tài sản lưu động vầ đầu tư ngắn hạn tăng chủ yếu do tăng các khoản phải thu (cuối năm 2004 tăng 83,54% so với đầu năm 2004) chứng tỏ Tổng công ty đã mở rộng chính sách cung cấp tín dụng cho các khách hàng và đối tác, rủi ro tài chính trong khâu thanh toán tăng, công tác thu hồi nợ của Tổng công ty chưa hiệu quả. Nguyên nhân do các công trình thi công của Tổng công ty phần lớn sử dụng nguồn vốn ngân sách, thời gian thi công kéo dài, công tác thanh quyết toán gặp nhiều khó khăn. Trong năm 2004 hàng tồn kho của Tổng công ty đầu năm tăng 22,27% bằng 51.517 triệu đồng so với đầu năm , điều này do các công trình thi công kéo dài qua nhiều năm , các chi phí bỏ ra để thi công chưa thể quyết toán mà treo ở khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản đầu tư tài chính dài hạn tăng cao ( cuối năm 2004 đầu tư tài chính dài hạn tăng 70,92% bằng 773 triệu đồng so với đầu năm 2004 , chi phí xây dựng cơ bản dở dang tăng 91,59% bằng 1.874 triệu đồng so với đầu năm ) chứng tỏ Tổng công ty vừa tập trung góp vốn liên doanh, đầu tư dài hạn nhằm đa dạng hoá , phân tán rủi ro kinh doanh đồng thời chú trọng xây dựng nhà xưởng, văn phòng mua sắm tài sản cố định phục vụ thi công phát triển sản xuất theo chiều sâu. Bảng 2.2 Phân tích tình hình biến động quy mô tài sản của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 năm 2004 Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm Tăng giảm (triệu đồng) (triệu đồng) Số tuyệt đối (triệu đồng) Số tương đối (%) 1 2 3 4 5 6=5-4 7=6/4 A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (100=110+120+130+1 40+150+160) 100 913.109 1.395.128 482.019 52,79% I. Tiền 110 94.335 111.830 17.495 18,55% II Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 120 18 18 0 0,00% III Các khoản phải thu 130 487.610 894.974 407.364 83,54% IV . Hàng tồn kho 140 231.279 282.796 51.517 22,27% V Tài sản lưu động khác 150 99.795 105.438 5.643 5,65% VI Chi sự nghiệp 160 72 72 0 0,00% B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn (200=210+220+230+2 40+241) 200 338.402 379.852 41.450 12,25% I Tài sản cố định 210 334.962 371.496 36.534 10,91% II Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 220 1.090 1.863 773 70,92% III Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 230 2.046 3.920 1.874 91,59% IV . Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 240 304 2.573 2.269 746,38% Tổng cộng tài sản (250=100+200) 250 1.251.511 1.774.980 523.469 41,83% Nguồn: báo cáo tài chính của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1 Bảng 2.3 : Phân tích tình hình biến động quy mô nguồn vốn của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 năm 2004 nguồn vốn Mã số Số đầu năm Số cuối năm Tăng giảm (triệu đồng) (triệu đồng) Số tuyệt đối (triệu đồng) Số tương đối (%) 1 2 3 4 5 6=5-4 7=6/4 A. Nợ phải trả (300=310+320+330) 300 1.083.406 1.591.564 508.158 46,90% I. Nợ ngắn hạn 310 940.558 1.411.566 471.008 50,08% II Nợ dài hạn 320 124.161 160.285 36.124 29,09% III Nợ khác 330 18.687 19.713 1.026 5,49% B.Nguồn vốn chủ sở hữu (400=410+420) 400 168.105 183.417 15.312 9,11% I. Nguồn vốn , qũy 410 167.696 183.400 15.704 9,36% II Nguồn kinh phí, qũy khác 420 409 17 -392 -95,84% Tổng cộng nguồn vốn (430=300+400) 430 1.251.511 1.774.981 523.470 41,83% Nguồn: báo cáo tài chính của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1 2.2.2.Phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh với việc quản lý tài chính của Tổng công ty Để xem xét khả năng kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp đối với việc thoản mãn các khoản nợ vay dài hạn cần phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục và có hiệu quả. Việc phân tích cho phép trả lời những câu hỏi sau: Cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp thế nào, có lợi về mặt tài chính cho doanh nghiệp không ? - Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ đâu ? - Trong điệu kiện nào doanh nghiệp có thể sử dụng vốn vay mượn vào kinh doanh để lại lợi ích cho chủ sở hữu ? - Khả năng, mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Thực tế khảo sát cho thấy đa số doanh nghiệp không quan tâm đến việc phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 là một trong những doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề này. Bảng 2.4 sau đây là dẫn chứng cho việc phân tích cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1. Bảng 2.4 : Bố trí cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn 2004 TT Chỉ tiêu Số đầu kỳ Số cuối kỳ Số tuyệt đối (tr.đồng) Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối (tr.đồng) Tỷ trọng (%) A Nguồn vốn I Nợ phải trả 1.083.406 86,57% 1.591.564 89,67% II Nguồn vốn chủ sở hữu 168.105 13,43% 183.417 10,33% Tổng nguồn vốn 1.251.511 1.774.981 B Tài sản I Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 913.109 72,96% 1.395.128 78,60% II Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 338.402 27,04% 379.853 21,40% Tổng tài sản 1.251.511 1.774.981 Nguồn: báo cáo tài chính Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 Căn cứ số liệu tại bảng 2.4 đội ngũ phân tích tài chính của Tổng công ty nhận xét: Cơ cấu tài sản cố định nằm trong khoảng từ 20 đến 30% là phù hợp với đặc thù của ngành xây dựng . Năm 2004 có sự sụt giảm trong cơ cấu tài sản cố định và đầu tư dài hạn từ 27,04% xuống còn 21,40 do thiếu vốn để đầu tư mua sắm mới TSCĐ. Tỷ trọng tài sản cố định giảm do một số TSCĐ thanh lý khi hết thời hạn sử dụng, cơ cấu tài sản lưu động tăng ó xu hướng giảm có thể gây bất lợi cho Tổng công ty trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường. Một số đơn vị thành viên của Tổng công ty mua sắm tài sản cố định bằng nguồn vốn vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu bức thiết của hoạt động sản xuất. Đây thực sự là nguồn tài trợ hết sức mạo hiểm , có thể làm cho các doanh nghiệp này dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các món nợ đến hạn. Tỷ trọng nợ phải trả chiếm đa số trong tổng nguồn vốn của Tổng công ty và có xu hướng tăng lên : đầu kỳ nợ phải trả chiếm 86,57% tổng nguồn vốn đến cuối kỳ chiếm 89,67% tổng nguồn vốn , trong khi đó vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ lệ quá nhỏ bé so với nhu cầu vốn của đơn vị, chứng tỏ khả năng độc lập về tài chính thấp. Bên cạnh đó với số nợ lớn như vậy hàng tháng Tổng công ty còn phải lãi lớn, khả năng vay nợ thêm gặp nhiều khó khăn chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên. Từ đây các cán bộ phân tích kiến nghị Tổng công ty cải thiện các chỉ tiêu này bằng cách cần đẩy nhanh tốc độ thanh quyết toán công trình nhằm thu hồi vốn đầu tư, tăng khả năng vay vốn ngân hàng đáp ứng nhu cầu sản xuất. 2.2.3. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán với việc quản lý tài chính của Tổng công ty Tình hình và khả năng thanh toán các khoản phải thu và các khoản phải trả là một chỉ tiêu khá sát thực đánh giá chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hoạt động tài chính tốt, lành mạnh là doanh nghiệp thanh toán kịp thời các khoản nợ phải trả và thu kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh được tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau cũng như tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, tình trạng tranh chấp mất khả năng thanh toán. Hiện nay Tổng công ty đã tính toán một số chỉ tiểu phản ánh tình hình công nợ và khả năng thanh toán trong thuyết mình báo cáo tài chính, so sánh cuối kỳ so với đầu kỳ để biết tình hình tăng giảm và đưa ra nhận xét khái quát về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Việc tính toán các chỉ tiêu đánh giá tình hình và khả năng thanh toán được phòng kế toán Tổng công ty lập thể hiện qua bảng 2.5. Dựa vào bảng 2.5 các cán bộ kế toán Tổng công ty cho ý kiến: Hệ số thanh toán tổng hợp qua 2 năm 2003 , 2004 đều > 1 chứng tỏ Tổng công ty có khả năng thanh toán hết mọi công nợ. Hệ số thanh toán nhanh giảm rõ rệt từ 0,1003 vào năm 2003 xuống còn 0,0792 đây là một chiều hướng xấu chứng tỏ lượng tiền của Tổng công ty đang bị ứ đọng tại các công trình dở dang chưa quyết toán. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu lại ở mức cao năm 2004 là 8,6773 . Điều này có nghĩa với 1 đồng vốn sở hữu bỏ ra thì Tổng công ty cần đến 6,5 đồng vốn vay để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu điều này còn tiếp diễn nguy cơ giảm khả năng thanh toán thậm chí mất khả năng thanh toán ở một số đơn vị thành viên có thể xảy ra. Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả năm 2003 là 0,4501 trong khi sang năm 2004 tăng lên 0,5623 chứng tỏ các khoản nợ phải trả và các khoản nợ phải thu của Tổng công ty đều tăng lên, các khoản nợ phải trả nhiều hơn, Tổng công ty thiếu vốn lưu động và phải đi chiếm dụng vốn của khách hàng. Bảng 2.5 : Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 TT Chỉ tiêu Đơn vị Mã số 31/12/200 3 31/12/200 4 Tăng giảm 1 Tổng số nợ phải trả tr.đồng 300 1.083.406 1.591.564 508.158 2 Tổng tài sản tr.đồng 250 1.251.511 1.774.981 523.470 3 Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tr.đồng 100 913.109 1.395.128 482.019 4 Tổng nợ phải thu tr.đồng 130 487.610 894.974 407.364 5 Nợ ngắn hạn tr.đồng 310 940.558 1.411.566 471.008 6 Nguồn vốn chủ sở hữu tr.đồng 400 168.105 183.417 15.312 7 Tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn tr.đồng 110+12 0 94.353 111.848 17.495 8 Các chỉ tiêu phản ánh tình hình thanh toán Tỷ suất nợ phải trả tổng quát (300/250) 0,8657 0,8967 0,0310 Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (300/400) 6,4448 8,6773 2,2325 Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải 0,4501 0,5623 0,1123 trả (130/300) 9 Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán Hệ số thanh toán nhanh ((110+120)/310) 0,1003 0,0792 -0,0211 Hệ số khả năng thanh toán tổng hợp (250/300) 1,1552 1,1152 1,0301 Nguồn: báo cáo tài chính của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1 Cuối cùng phòng kế toán Tổng công ty kết luận mặc dù khả năng thanh toán của Tổng công ty có tăng lên, song nợ phải trả cũng tăng nhiều hơn , mức chủ động về tài chính bị giảm đi. Do vậy Tổng công ty đang tìm mọi biện pháp đòi nợ, thúc đẩy thanh toán nợ đúng hạn, tăng thời gian luân chuyển vốn , hạn chế các khoản phải thu khó đòi , tránh phải đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác. 2.2.4.Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh với việc quản lý tài chính của Tổng công ty * Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng quát Căn cứ số liệu trên báo cáo tài chính và số liệu tập hợp đến hết quý II năm 2005 phòng Tài chính Tổng công ty đã lập bảng phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp của CIENCO 1 qua bảng 2.6: Bảng 2.6: Hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 TT Chỉ tiêu Đơn vị 31/12/2004 30/06/2005 Tăng giảm 1 Doanh thu tr.đồng 1.341.166 645.101 2 Tổng chi phí tr.đồng 1.296.471 692.448 3 Hiệu quả sản xuất kinh 1,0345 0,9316 -0,1029 doanh tổng hợp (1/2) Từ số liệu của bảng 2.6 Tổng công ty nhận xét năm 2004 cứ một đồng chi phí đầu vào bỏ ra trong kỳ tạo ra 1,0345 đồng doanh thu . Sáu tháng đầu năm 2005 một đồng doanh thu chỉ tạo ra 0,9316 đồng lợi nhuận, nguyên nhân do đầu năm Tổng công ty tập trung vốn đầu tư vào thi công một số công trình lớn nên chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng cao chưa thu hồi được trong khi công tác thanh quyết toán tập trung chủ yếu vào dịp cuối năm. * Phân tích hiệu quả sử dụng vốn Hiệu quả sử dụng vốn là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung phản ánh trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp nói riêng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty được thể hiện qua các chỉ tiêu lợi nhuận, doanh thu, giá trị sản lượng, còn việc xem xét hiệu quả sử dụng vốn của đơn vị dưới 2 góc độ tài sản và nguồn vốn thể hiện ở bảng 2.7. Điều này chứng tỏ Tổng công ty đã có sự hiểu biết đúng đắn về khái niệm hiệu quả , trong khi hiện nay một số doanh nghiệp còn nhầm lẫn giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh . Bảng 2.7: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 TT Chỉ tiêu Đơn vị Mã số 31/12/200 3 31/12/200 4 Tăng giảm 1 Nguồn vốn chủ sở hữu tr.đồng 400 168.105 183.417 15.312 2 Tổng tài sản tr.đồng 250 1.251.511 1.774.981 523.470 3 Doanh thu tr.đồng 01 1.114.221 1.341.166 226.945 4 Lợi nhuận trước thuế tr.đồng 60 18.902 21.757 2.855 5 Lợi nhuận sau thuế tr.đồng 80 14.916 17.772 2.856 6 Lãi tiền vay tr.đồng 31 11.939 19.256 7.317 7 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu (60/01) 0,0170 0,0162 -0,0007 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trê n doanh thu (80/01) 0,0134 0,0133 -0,0001 9 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản 0,0000 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên trên tổng tài sản (60/250) 0,0151 0,0123 -0,0028 Tỷ suất lợi sau thuế trên tổng tài sản (80/250) 0,0119 0,0100 -0,0019 10 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn vốn chủ sở hữu (80/400) 0,0887 0,0969 0,0082 Nguồn: báo cáo tài chính của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1 Từ bảng 2.7 các cán bộ phân tích Tổng công ty cho ý kiến: Doanh thu và lợi nhuận 2004 đều tăng so với 2003 nhưng do tốc độ tăng không đồng đều cho nên tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2004 giảm so với 2003 (tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu 2004 là 0,0162 và năm 2003 là 0,017). Tình hình tương tự đối với tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản. Đáng chú ý là tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn vốn chủ sở hữu năm 2004 tăng 0,0082 so với năm 2003 do Tổng công ty đã có cố gắng trong việc thực hành tiết kiệm tự bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu, xây dựng và phát triển các quỹ phát triển kinh doanh, quỹ dự trữ tăng cường khả năng tài chính của doanh nghiệp. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản 2004 giảm so với năm 2003 , năm 2003 một đồng tài sản tạo ra 0,0151 đồng lợi nhuận, năm 2004 con số này là 0,0123 đồng , hiệu quả sử dụng tài sản đã giảm đi. Cơ cấu vốn vay chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn của Tổng công ty , do vậy phân tích khả năng thanh toán lãi vay là mối quan tâm của doanh nghiệp , các nhà đầu tư và các ngân hàng. Trong thời gian qua, chỉ tiêu này được Tổng công ty phân tích như sau: Bảng 2.8 : Phân tích khả năng thanh toán lãi vay TT Chỉ tiêu Đơn vị 31/12/2003 31/12/2004 Tăng giảm 1 Lợi nhuận trước thuế tr.đồng 18.902 21.757 2.855 2 Lãi vay tr.đồng 11.046 15.020 3.974 3 Hệ số thanh toán lãi vay ((1+2)/2 2,711 2,449 -0,263 Từ số liệu của bảng 2.8 các cán bộ phân tích Tổng công ty nhận xét hệ số thanh toán lãi vay từ 2,449 đến 2,711 là chỉ tiêu chấp nhận được. Mặc dù cơ cấu nợ chiếm trên 80% tổng nguồn vốn , với hệ số thanh toán như trên chủ nợ có thể yên tâm về các khoản tiền đầu tư vào CIENCO 1. Hệ số thanh toán lãi vay 2004 thấp hơn 2003 song vẫn ở mức cao điều đó còn chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty không những làm ăn có lãi mà có khả năng hoàn trả lãi vay. Với các kết quả phân tích như trên, báo cáo tài chính của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 đã nhận định vốn chủ sở hữu quá nhỏ bé so với nhu cầu sản xuất kinh doanh của Tổng công ty phải huy động vốn vay và phải đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác. Tính tự chủ trong tài chính thấp, tình hình công nợ tương đối cao, khả năng thanh toán thấp. Doanh thu tăng lên nhưng hệ số lợi nhuận giảm, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Do vậy Tổng công ty cần có biện pháp thu hồi nợ, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc tổ chức phân tích tài chính đã được quan tâm và đi vào nền nếp. Mặc dầu vậy hoạt động này cần được tiến hành thường xuyên, nâng cao chất lượng phân tích đáp ứng yêu cầu thông tin cho các đối tượng quan tâm. Điều này đòi hỏi cần tiến hành đồng bộ từ nhiều khâu từ nhận thức từ các nhà quản lý, nâng cao trình độ cán bộ chuyên môn và trang bị thông tin, cơ chế và cơ sở vật chất cho công tác phân tích tài chính. Vấn đề này sẽ được đề cập kỹ hơn ở chương sau. 2.3 Thực trạng năng lực đấu thầu của Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông I 2.3.1.Kết quả đấu thầu của doanh nghiệp trong thời gian gần đây Từ thập kỷ 90 trở lại đây, nước ta phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng mở rộng thị trường, nhưng cũng là thách thức để đứng vững trước sự cạnh tranh gay gắt không những với các đối thủ trong nước mà cả với các tập đoàn xây dựng quốc tế. Trong hoàn cảnh đó Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 đã vươn lên mạnh mẽ trở thành một Tổng công ty mạnh có uy tín trên thị trường , kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty được thể hiện qua bảng 2.9 . Nhìn vào kết quả kinh doanh của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 trong thời gian qua cho thấy Tổng công ty mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng sản lượng, doanh thu hàng năm vẫn tăng trưởng tốc độ tương đối đều dặn. Thu nhập người lao động ở mức trung bình . Sự chênh lệch giữa sản lượng và doanh thu trong năm tương đối lớn chứng tỏ tốc độ thanh quyết toán chậm chễ. Tổng công ty cần có biện pháp thu hồi vốn tránh bị đọng vốn trong khi vẫn phải vay lãi ngân hàng để thi công. Với những nỗ lực vươn lên trong cơ chế thị trường, trong những năm qua Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 không ngừng đầu tư, đổi mới thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ đồng bộ, tăng cường công tác điều hành quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật lành nghề...Tổng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng.pdf
Tài liệu liên quan