Tài liệu Luận văn Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp nói chung và tại Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí nói riêng:  1
Luận văn 
Một số giải pháp cơ bản nhằm 
hoàn thiện pháp luật về tiền 
lương trong doanh nghiệp nói 
chung và tại Công ty dụng cụ cắt 
và đo lường cơ khí nói riêng 
 2
LỜI NÓI ĐẦU 
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người tạo ra của cải vật 
chất và các giá trị tinh thần cho xã hội, lao động có năng suất chất lượng hiệu 
quả cao, là nhân tố quyết định sự phát triển của Đất nước. Do vậy, việc bảo đảm 
quyền lợi cho người lao động đặc biệt là vấn đề tiền lương luôn luôn được Đảng 
và Nhà nước quan tâm. Vì thế, các quy định của pháp luật về quản lý lao động 
đã được pháp điểm hoá thành bộ luật lao động đã được Quốc hội nước 
CHXHCNVN khoá IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực kể 
từ ngày 01/01/1995. 
Tuy nhiên, từ năm 1993 chúng ta mới chính thức coi sức lao động là hàng 
hoá từ đó mà thị trường lao động ở nước ta mới dần được hình thành do tính 
chất mới mẻ của thị trường lao động ở nước ta, cho nên còn đang nảy sinh nhiều 
vấn đề bức xú...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
68 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp nói chung và tại Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí nói riêng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
Luận văn 
Một số giải pháp cơ bản nhằm 
hoàn thiện pháp luật về tiền 
lương trong doanh nghiệp nói 
chung và tại Công ty dụng cụ cắt 
và đo lường cơ khí nói riêng 
 2
LỜI NÓI ĐẦU 
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người tạo ra của cải vật 
chất và các giá trị tinh thần cho xã hội, lao động có năng suất chất lượng hiệu 
quả cao, là nhân tố quyết định sự phát triển của Đất nước. Do vậy, việc bảo đảm 
quyền lợi cho người lao động đặc biệt là vấn đề tiền lương luôn luôn được Đảng 
và Nhà nước quan tâm. Vì thế, các quy định của pháp luật về quản lý lao động 
đã được pháp điểm hoá thành bộ luật lao động đã được Quốc hội nước 
CHXHCNVN khoá IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực kể 
từ ngày 01/01/1995. 
Tuy nhiên, từ năm 1993 chúng ta mới chính thức coi sức lao động là hàng 
hoá từ đó mà thị trường lao động ở nước ta mới dần được hình thành do tính 
chất mới mẻ của thị trường lao động ở nước ta, cho nên còn đang nảy sinh nhiều 
vấn đề bức xúc và vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn cần phải giải quyết, 
trong đó vấn đề quan trọng nhất đặt ra cho luật pháp là làm thế nào để tạo ra một 
cơ chế nhằm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ lao động, vừa đảm 
bảo quyền và lợi ích hợp lý, hợp pháp cho người lao động, vừa đảm bảo quyền 
và lợi ích hợp lý, hợp pháp cho người sử dụng lao động trong đó tiền lương là 
vấn đề có tính nhạy cảm nhất, tác động tới tính cân bằng lợi ích nói trên như 
vậy thì nghiên cứu tiền lương là cần thiết. 
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có doanh nghiệp không 
những có quan hệ với Nhà nước, với các doanh nghiệp và với các chủ thể khác 
mà còn có các quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp trong đó quan hệ về bảo đảm 
tiền lương có vị trí rất quan trọng là vấn đề được đông đảo người lao động quan 
tâm. Vì vậy, em chọn đề tài: "Pháp luật về tiền lương và việc thực hiện tại 
Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí". 
 3
Chuyên đề ngoài phần lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo nội dung 
được chia làm 3 chương. 
Chương I: Những vấn đề lý luận về pháp luật tiền lương 
Chương II: Thực tiễn việc áp dụng pháp luật tiền lương tại Công ty 
dụng cụ cắt và đo lường cơ khí. 
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về tiền 
lương trong doanh nghiệp nói chung và tại Công ty dụng cụ 
cắt và đo lường cơ khí nói riêng. 
 4
CHƯƠNG I: 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TIỀN LƯƠNG 
I.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA TIỀN LƯƠNG 
I.1.1. Khái niệm tiền lương 
I .1.1.1. Tiền lương nhìn dưới góc độ kinh tế 
Tiền lương là một phức tạp và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành 
khoa học khác nhau, chủ yếu và trước hết là khoa học kinh tế và khoa học pháp lý 
Dưới góc độ kinh tế tiền lương có thể được gọi với nhiều tên khác nhau, 
như: Tiền lương, tiền công, thủ lao lao động... 
Trong cơ chế cũ, tiền lương được hiểu là một phần thu nhập quốc dân, 
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối kế hoạch cho công 
nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã 
cống hiến. 
Hiện nay ở nước ta vẫn có sự phân biệt giữa tiền lương và thu nhập lao 
động, tiền lương và phụ cấp, tiền lương và tiền thưởng. Bộ luật lao động : "Tiền 
lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và 
được trả theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc "(Điều55) "các chế độ 
phụ cấp tiền thưởng, nâng bậc lương các chế độ khuyến khích khác nhau có thể 
thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hoặc qui định 
trong qui chế doanh nghiệp" (Điều 63) ; "Người sử dụng lao động có trách 
nhiệm trợ cấp thôi việc cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương cộng với phụ 
cấp lương nếu có"(Điều 42)... Tuy nhiên những khái niệm này chủ yếu sử dụng 
trong khu vực cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước. đối với 
các doanh nghiệp không thuộc khu vực kinh tế Nhà nước thì hầu như không có 
sự phân biệt giữa tiền lương với phụ cấp lương. 
 5
Nhìn chung, về mặt kinh tế có thể hiểu tiền lương là biểu hiện bằng tiền 
của giá trị sức lao động, là giá cả sức lao động được hình thành thông qua sự 
thoả thuận giữa người sử dụng lao động và do người sử dụng lao động trả cho 
người lao động. Tiền lương tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị 
trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước. Đồng thời, tiền lương phải bao 
gồm đủ các yếu tố cấu thành để đảm bảo là nguồn thu nhập, nguồn sống chủ yếu 
của bản thân và gia đình người lao động là điều kiện để người hưởng lương hoà 
nhập vào cuộc sống xã hội. 
I.1.1.2. Dưới góc độ pháp lý 
Tiền lương nhìn dưới góc độ pháp lý là gì ? Tổ chức lao động quốc tế 
(ILO) có công ước số 95 (1949) về bảo vệ tiền lương, trong đó qui định "Tiền 
lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận tên gọi, cách tính thế nào, mà có thể 
biểu hiện bằng tiền mặt và được ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao 
động và người lao động, hoặc bằng pháp luật, pháp qui quốc gia, do người sử 
dụng lao động phải trả cho người lao động theo một hợp đồng lao động viết hay 
bằng miệng, cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải làm" (Điều 1). 
Bộ luật lao động nước ta qui định : "Tiền lương của người lao động do 
hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, 
chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được 
thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước qui định"(Điều 55). 
Như vậy, về mặt pháp lý, tiền lương được hiểu là số tiền mà người sử 
dụng lao động phải trả cho người lao động theo sự thoả thuận giữa hai bên trong 
hợp đồng lao động trên cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công 
việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước qui định. 
I.1.1.3. Một số khái niệm về tiền lương : Bên cạnh khái niệm chung về 
tiền lương, còn có một số khái niệm cụ thể về tiền lương như sau : 
 6
- Tiền lương danh nghĩa : Là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử 
dụng lao động trả cho người lao động căn cứ vào thoả thuận trong hợp đồng lao 
động, thoả ước lao động tập thể. Thực tế mọi mức lương trả cho người lao động 
đều là tiền lương danh nghĩa, bản thân nó chưa thể đưa ra một nhận thức đầy đủ 
về mức trả công thực tế cho người lao động, vì lợi ích mà người lao động nhận 
được ngoài việc phụ thuộc vào số tiền lương danh nghĩa còn phụ thuộc vào rất 
lớn vào giá cả hàng hoá dịch vụ và mức thuế mà người lao động phải sử dụng số 
tiền đó để mua sắm hoặc đóng thuế. 
- Tiền lương thực tế : Là số lượng tư liệu sinh hoạt mà người lao động có 
thể mua được từ tiền lương của mình sau khi đã đóng các loaị thuế theo qui định 
của Nhà nước. Đối với người lao động, mục đích của việc tham gia vào quan hệ 
lao động là tiền lương thực tế chứ không phải là tiền lương danh nghĩa, vì tiền 
lương thực tế quyết dịnh khả năng tái sản xuất sức lao động quyết dịnh trực tiếp 
lợi ích của họ. Sự giảm sút tiền lương thực tế khi nền kinh tế đang có lạm phát 
cao (giá cả hàng hoá tăng, đồng tiền mất giá) trong khi những thoả thuận về tiền 
lương danh nghĩa lại không điều chỉnh kịp thời là sự điển hình về sự thiếu ăn 
khớp giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Trong nhiều trường hợp, 
Nhà nước phải trực tiếp can thiệp bằng các chính sách cụ thể bảo hộ mức lương 
thực tế cho người lao động. ở một số quốc gia, mức lương tối thiểu được luật 
hoá và Nhà nước có những cơ quan giám sát chặt chẽ việc thực hiện và để kịp 
thời kiến nghị điều chỉnh lại khi xét thấy chỉ số giá cả chung đã tăng lên để đảm 
bảo giữ mức lương thực tế ổn định cho người lao động. Bộ luật lao động nước ta 
cũng qui định "Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của 
người lao động bị giảm sút thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để đảm 
bảo tiền lương thực tế" (Điều 56). 
- Tiền lương kinh tế : Các doanh nghiệp muốn có được sự cung ứng sức 
lao động như nó yêu cầu cần phải trả mức lương cao hơn mức lương tối thiểu. 
Khoản tiền trả cao hơn vào tiền lương tối thiểu đó được gọi là tiền lương kinh tế. 
 7
Do đó, có quan niệm tiền lương kinh tế giống như tiền thưởng thuần tuý cho 
những người đã cung ứng sức lao động, với các điều kiện mà người sử dụng lao 
động đó yêu cầu. 
- Tiền lương lao động theo qui định của Bộ luật lao động. 
I.1.2. Ý nghĩa pháp lý của tiền lương 
Với phương diện là một yếu tố thuộc phạm trù kinh tế, tiền lương có các 
chức năng cơ bản như : Chức năng là thước đo giá trị, chức năng tái sản xuất sức 
lao động, chức năng kích thích lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh chức 
năng tích luỹ... thì với phương diện là một yếu tố thuộc phạm trù chính sách xã 
hội, tiền lương thực hiện chức năng là công cụ bảo đảm công bằng xã hội, bảo 
vệ người lao động và giúp người lao động, gia đình họ hoà nhập vào sinh hoạt 
xã hội... 
Về phương diện pháp lý tiền lương có ý nghĩa quan trọng thể hiện ở các 
diểm sau : 
- Chế độ tiền lương là công cụ pháp lý bảo vệ người lao động là công cụ 
để Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập dân cư và đảm bảo công bằng xã 
hội. 
- Chế độ tiền lương là phương diện pháp lý để Nhà nước định hướng 
phân công lao động xã hội và phát triển kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô. 
- Chế độ tiền lương là cơ sở pháp lý để người sử dụng lao động, người 
lao động thực hiện các chính sách, pháp luật về kinh tế, tài chính và Ngân sách 
có liên quan. 
- Chế độ tiền lương là cơ sở pháp lý để người lao động, người sử dụng 
lao động và đại diện hai bên thoả thuận với nhau khi giao kết hợp đồng lao 
động, thoả ước lao động tập thể và là cơ sở pháp lý để các cơ quan, tổ chức giải 
quyết tranh chấp lao động tiến hành giải quyết tranh chấp giữa hai bên. 
 8
- Tiền lương theo quy định của Bộ luật lao động : Tiền lương của người 
lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng 
suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động 
không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định (Điều 55). 
I.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT TIỀN LƯƠNG : 
Để tiền lương thực sự thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, bảo đảm 
đời sống người lao động và gia đình họ cũng như góp phần thực hiện mục tiêu 
"Dân giàu nước mạnh. xã hội công bằng văn minh" có những nguyên tắc cơ bản 
và quan trọng của tiền lương cần phải được quán triệt xuyên suốt quá trình xây 
dựng, thực hiện chế độ pháp lý về tiền lương như sau : 
I.2.1. Tiền lương phải được trả trên cơ sở thoả thuận nhưng không trái 
pháp luật. Nguyên tắc này được xác định tại Điều 55 Bộ luật lao động. Quan hệ 
lao động được thiết lập giữa người lao động và người sử dụng lao động tuân 
theo nguyên tắc thoả thuận, bình đẳng và không trái pháp luật. Là một nội dung 
cơ bản trong quan hệ lao động, tất yếu là tiền lương cũng phải tuân theo nguyên 
tắc này. Tiền lương phải được trả trên cơ sở thoả thuận và không trái pháp luật 
còn bởi tiền lương là giá cả của sức lao động trong thị trường lao động dưới sự 
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nguyên tắc này đòi hỏi khi giao 
kết hợp đồng lao động cũng như giao kết thoả ước lao động tập thể và cả khi 
thực hiện việc trả lương, hai bên người lao động và người sử dụng lao động phải 
có sự bàn bạc trao đổi, tiến tới thống nhất các vấn đề có liên quan đến tiền lương 
không bên nào được áp đặt ý chí cho bên kia và ngược lại. Tuy nhiên, do phải 
chịu tác động của yếu tố cung cầu của nền kinh tế thị trường trong điều kiện mà 
sức ép dôi thừa lao động xã hội luôn lớn, thì trong nhiều trường hợp, nguyên tắc 
thoả thuận, bình đẳng này khó có thể được thực hiện triệt để. Do đó, bên cạnh 
việc thoả thuận, bình đẳng đòi hỏi việc trả lương không được trái pháp luật, nhất 
là phải tuân thủ nghiêm ngặt những qui định có tính bắt buộc nhằm bảo vệ cho 
 9
người lao động, như về lương tối thiểu về việc trả lương khi làm thêm giờ, làm 
đêm... 
I.2.2. Không được trả hoặc thoả thuận mức lương thấp hơn mức lương 
tối thiểu do Nhà nước qui định. Nguyên tắc này cũng được xác định tại Điều 55 
Bộ luật lao động. Khi tham gia quan hệ lao động mục đích quan trọng và có ý 
nghĩa nhất đối với người lao động là có thu nhập. Đồng thời khi đã tham gia 
quan hệ lao động có ý nghĩa là người lao động đã dành hết thời gian lao động 
trong khả năng cho phép công việc mà mình đảm nhiệm. Thu nhập thông qua 
tiền lương mà họ nhận được từ người sử dụng lao động phải đảm bảo cho họ tái 
sản xuất sức lao động "Tái sản xuất sức lao động" ở đây bao gồm cả tái sản xuất 
sức lao động giản đơn và tái sản xuất sức lao động mở rộng. Tiền lương của 
người lao động phải đảm bảo giá trị thực tế để người lao động có thể chi tiêu 
duy trì cuộc sống cho mình và một phần cho gia đình của mình cũng như một 
phần cho tích luỹ dành cho cuộc sống khi hết tuổi lao động. 
I.2.3. Tiền lương phải được thoả thuận và trả theo năng suất, chất lượng 
và hiệu quả công việc : 
Xét về bản chất tiền lương chính là giá cả của sức lao động, biểu hiện giá 
trị sức lao động dưới sự tác động của các qui luật cung - cầu trong nền kinh tế 
thị trường. Việc tiền lương phải được trả theo năng suất lao động, chất lượng 
hiệu quả công viẹc cũng chính là việc tuân thủ và phán ánh bản chất này. 
Trong cơ chế cũ, khái niệm tiền lương thuộc phạm trù phân phối và được 
phân phối theo số lượng và chất lượng lao động của công nhân viên chức đã hao 
phí và được kế hoạch hoá từ trung ương đến cơ sở, được Nhà nước thống nhất 
quản lý. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nguyên tắc này vãn giữ nguyên giá 
trị các nước tư bản phát triển cũng đề cao nguyên tắc này. Tuy nhiên trong cạnh 
tranh hiệu quả kinh doanh cảu doanh nghiệp không giống nhau thu được ít hơn. 
Vì vậy, nguyên tắc phân phối theo lao động có thể chỉ thích hợp trong một 
 10
doanh nghiệp, một đơn vị cụ thể; khó áp dụng và thích hợp trong một phạm vi 
rộng lớn hơn vì tiền lương trong nền kinh tế thị trường không chỉ tuân thủ 
nguyên tắc theo lao động mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Nguyên tắc 
tiền lương phải được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công 
việc đã khắc phục một cách cơ bản hạn chế này. 
I.2.4. Tiền lương phải được trả bình đẳng giữa lao động nam và lao động 
nữ. Nguyên tắc này được xác định tại Điều 63 Hiến pháp và điều 111 Bộ luật lao 
động : 
Xuất phát từ mục đích bảo vệ lao động nữ do một thực tế tồn tại từ rất 
lâu trong việc sử dụng lao động là : lao động nữ luôn bị xem nhẹ hơn so với lao 
động nam nên tiền lương trả cho lao động nữ thường thấp hơn so với lao động 
nam. Do vậy, nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng chế độ tiền lương cũng như 
khi thoả thuận và thực hiện việc trả lương, không được có sự phân biệt về trả 
lương với lý do giới tính. Nếu công việc như nhau, năng suất và chất lượng công 
việc như nhau thì lao động nữ và lao động nam phải được trả lương như nhau. 
I.2.5. Tiền lương phải được trả trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi 
làm việc. Nguyên tắc này được xác định tại Điều 59 bộ luật lao động. trong điều 
kiện thực tế ở nước ta những năm qua, cho thấy có rất nhiều hiện tượng trả 
lương bị lạm dụng, như : lương trả cho người lao động qua nhiều khu trung gian, 
bị cắt xén khấu trừ sai nguyên tắc, bị thường xuyên trả chậm.... những hành vi 
này gây rất nhiều khó khăn, phiền hà cho người lao động và gia đình họ, nhất là 
khi tiền lương thực tế lại quá eo hẹp. Do vậy, việc tiền lương phải được trả trực 
tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn, tại nơi làm việc là một yêu cầu hết sức quan trọng 
nhằm bảo vệ người lao động. Là một nguyên tắc pháp lý quan trọng, nguyên tắc 
còn góp phần đảm bảo cho các nguyên tắc khác được tôn trọng và thực hiện. 
 11
I.3. CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH : 
Chế độ tiền lương là tổng hợp các qui định của Nhà nước nhằm xác định 
các mức lương, hình thức và cách thức trả lương để người lao động và người sử 
dụng lao động làm căn cứ thoả thuận và tiến hành việc trả lương trong quan hệ 
lao động. 
Chế độ tiền lương bao gồm các nhóm qui định chủ yếu như : Lương tối 
thiểu, thang lương, bảng lương, hình thức và cách thức trả lương, những biện 
pháp bảo đảm tiền lương cho người lao động. 
1.3.1. Lương cơ bản. 
Tiền lương cơ bản là tiền lương người lao động nhận được hàng tháng 
theo cấp bậc công việc được quy định trong hệ thống thang lương bảng lương. 
Như vậy tiền lương cơ bản mang tính ổn định và bắt buộc vì nó có giá trị 
pháp lý, người lao động hàng tháng tuỳ theo tính chất công nhân ngoài việc 
được trả tiền lương cơ bản có thể được trả các khoản phụ cấp khác và các loại 
tiền thưởng, tiền làm thêm giờ… 
Trong cơ chế thị trường sức lao động được coi là hàng hoá thì tiền lương 
là giá cả của sức lao động được các bên trong quan hệ hợp đồng lao động thoả 
thuận nhất trí với nhau và được ghi cụ thể trong hợp đồng lao động có thể coi 
tiền lương đó là tiền lương cơ bản. 
Tóm lại, tiền lương cơ bản là tiền lương người sử dụng lao động trả cho 
người lao động phù hợp với giá trị của sức lao động. 
I.3.2. Lương tối thiểu : 
I.3.2.1. Khái niệm lương tối thiểu : 
Tiền lương tối thiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động làm công 
việc giản đơn nhất, ở mức độ nhẹ nhàng nhất và trong điều kiện lao động bình 
 12
thường. Bảo đảm cho người lao động bù đắp sức lao động giản đơn và một phần 
tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng (Điều 56 Bộ luật lao động). 
I.3.2.2. Ý nghĩa pháp lý của tiền lương tối thiểu : 
Luật hoá mức lương tối thiểu là nhằm hạn chế sự giãn cách quá lớn giữa 
tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế và là một hình thức tác động quan 
trọng nhất của Nhà nước vào chính sách tiền lương trong điều kiện thừa nhận và 
phát triển thị trường lao động. Đặc biệt, với các nước trong quá trình công 
nghiệp hoá, lạm phát luôn thường trực, nguồn nhân lực tăng quá nhanh so với 
khả năng tạo việc làm của nền kinh tế, sự xâm nhập lớn của chủ nghĩa tư bản 
nước ngoài để tận dụng thị trường và nguồn nhân lực tại chỗ... thì việc Nhà nước 
công bố các mức lương tối thiểu ở mỗi thời kỳ là một yêu cầu hết sức cần thiết. 
Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng, việc luật hoá mức lương tối thiểu sẽ làm mất 
đi sự linh hoạt thuộc về cơ chế tự điều tiết của thị trường lao động, ảnh hưởng 
đến cả tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài của những nền kinh tế đang 
cần vốn... 
Từ trước đến nay, tiền lương tối thiểu được xem như là cái ngưỡng cuối 
cùng để xây dựng lên các mức lương khác, tạo thành hệ thống tiền lương của 
một ngành nào đó hoặc hệ thống tiền lương chung thống nhất của một nước, là 
căn cứ để hoạch định chính sách tiền lương. 
I.3.2.3. Các loại lương tối thiểu 
- Căn cứ vào qui định của Điều 56 Bộ luật lao động có các loại lương tối 
thiểu sau : 
* Lương tối thiểu chung : Là mức lương tối thiểu được áp dụng thống 
nhất trong phạm vị cả nước, mọi mức lương kẻ cả mức lương tối thiểu khác, 
cũng không được thấp hơn mức lương tối thiểu chung. 
 13
* Lương tối thiểu vùng : là mức lương tối thiểu được áp dụng cho từng 
cùng lãnh thổ nhất định, căn cứ trên mức lương tối thiểu chung và có tính đến 
những yếu tố đặc thù vùng lãnh thổ đó. 
* Lương tối thiểu ngành : Là mức lương tối thiểu được áp dụng cho một 
ngành nhất định, cũng căn cứ trên cơ sở mức lương tối thiểu chung và có tính 
đến các yếu tố lao động đặc thù của từng ngành nghề đó. 
Ngoài ra, đối với người lao động là công dân Việt Nam làm việc trong 
các doanh nghiệp được thành lập theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, 
trong khu chế xuất, trong cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, theo qui 
định của pháp luật lao động được áp dụng một mức lương tối thiểu riêng. 
Việc qui định một mức lương tối thiểu riêng cho các đối tượng này xuất 
phát từ quan điểm : các quan hệ lao động ở đây đòi hỏi cường độ lao động và chi 
phí lao động cao hơn so với các quan hệ lao động khác. Đồng thời, do cách thức 
tổ chức, quản lý lao động và việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến mà năng 
suất, chất lượng và hiệu quả lao động ở đây cũng cao hơn so với các quan hệ lao 
động khác trong xã hội, do đó đòi hỏi mức lương tối thiểu cũng phải cao hơn so 
với mặt bằng lương tối thiểu chung. Tuy nhiên, sự khác biệt này cũng chỉ có tính 
chất nhất thời. Chúng sẽ mất đi khi mà những sự khác biệt nêu trên không còn 
tồn tại. 
ILO có công ước số 26 qui định : "các mức lương tối thiểu được ấn định 
là bắt buộc đối với những người sử dụng lao động và người lao động hữu quan ; 
nhưng mức đó không thể hạ thấp bởi những người sử dụng lao động và những 
lao động, dù băng thoả thuận cá nhân hay bằng thoả ước lao động tập thể, trừ 
phi nhà chức trách có thẩm quyền cho phép chung hoặc cho phép đặc biệt" 
(Điều 3). Công ước cũng qui định : "Mọi thành viên phê chuẩn công ước này 
phải có biện pháp cần thiết thông qua một hệ thống kiểm tra và chế tài để sao 
cho một mặt là những người sử dụng lao động và những người lao động hữu 
quan được biết các mức lương tối thiểu hiện hành và mặt khác là tiền lương thực 
 14
tế phải chi trả không được thấp hơn các mức lương tối thiểu được áp dụng" 
(Điều 4). 
I.3.2.4. Về việc xác định mức lương tối thiểu : 
Bộ luật lao động qui định : "Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá 
sinh hoạt, đảm bảo cho người làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao 
động bình thường bù đắp sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ tính 
lương cho các lao động khác". 
Việc xác định lương tối thiểu cụ thể có những phương pháp riêng. ILO 
có công ước số 26 (1928) số 99 (1955) và số 131(1970) qui định về việc xác 
định lương tối thiểu. Trong đó, công ước số 131 qui định việc lưu ý những yếu 
tố cần thiết để xác định mức lương tối thiểu phải gồm những nhu cầu của người 
lao động và gia đình họ, có chú ý tới mức lương trong nước, giá cả sinh hoạt, 
các khoản trợ cấp an toàn xã hội và mức sống so sánh của các nhóm xã hội khác, 
những nhân tố kinh tế, kể cả những đòi hỏi của phát triển kinh tế, năng suất lao 
động và mối quan tâm trong việc đạt tới và duy trì một mức sử dụng lao động 
cao. 
Ở nước ta, từ 1960 đã có sự nghiên cứu và thống nhất lấy 46 mặt hàng 
thiết yếu nhất làm cơ sở để tính lương tối thiểu. Đến 1993 trên cơ sở nghiên cứu 
khoa học, thừa kế kinh nghiệm lịch sử, tham khảo kinh nghiệm nhiều nước trên 
thế giới và phối hợp công trình nhiều khoa học của các ngành hữu quan, chúng 
ta đã hoàn thiện thêm một bước rất cơ bản về phương pháp ấn định tiền lương 
tối thiểu bao gồm 4 phương pháp cơ bản sau: Phương pháp căn cứ vào nhu cầu 
của người lao động và gia đình họ, phương pháp tính toán dựa trên cơ sở thu 
nhập quốc dân, phương pháp dựa trên hệ thống thang lương, bảng lương hiện 
hành, phương pháp dựa trên kết quả điều tra thực tế về thu nhập thực tế của các 
tầng lớp dân cư và giá công lao động của thị trường xã hội. 
 15
Với các phương pháp đó thì tiền lương tối thiểu ở nước ta hiện nay được 
xác định trên căn cứ chủ yếu về; May mặc, ở, đi lại, trang bị đồ dùng sinh hoạt, 
bảo vệ sức khoẻ, văn hoá, học tập, bảo hiểm tuổi già, nuôi con 
Về việc công bố và áp dụng lương tối thiểu, theo quy định của bộ luật lao 
động thì ''Chính phủ quy định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối 
thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến Tổng 
liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện người sử dụng lao động'' (Điều 56). 
I.3.3 Thang lương, Bảng lương 
I.3.3.1 Thang lương 
Về mặt pháp lý, thang lương là hệ thống các quy phạm phân định những 
mức lương tương ứng với từng bậc nghề nhất dịnh thuộc từng nghề, công việc, 
tạo thành những quan hệ tỷ lệ trả công lao động khác nhau theo trình độ chuyên 
môn khác nhau giữa các nhóm người lao động 
Thang lương bao gồm một số nhất định các bậc và những hệ số tiền 
lương tương ứng. Mỗi bậc trong thang lương thể hiện mức phức tạp và mức tiêu 
hao lao động của một công việc, Công việc ít phức tạp và tiêu hao năng lượng ít 
nhất thì thuộc bậc thấp nhất gọi là khởi điểm. Trong thang lương của khu vực 
sản xuất - kinh doanh, bậc khởi điểm gọi là bậc 1. Mức lương bậc 1 phải cao 
hơn mức lương tối thiểu. Mỗi bậc trong thang lương thể hiện một hệ số của bậc 
đó so với bậc khởi điểm chênh lệch giữa bậc cao nhất và bậc thấp nhất của 
thang lương được gọi là bội số của thang lương. 
Pháp luật lao động bắt buộc việc thoả thuận và trả lương trong mọi 
trường hợp không được thấp hơn mức lương tối thiểu, còn việc trả lương theo 
các bậc trong thang, bảng lương thì về cơ bản theo sự thoả thuận giữa người lao 
động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, căn cứ vào các tiêu chuẩn, cấp bậc kỹ 
thuật, hai bên vẫn phải cùng nhau xác định bậc lương của từng người lao động 
để làm cơ sở tích các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương khi làm 
 16
thêm giờ, làm đêm, ngừng việc nghỉ việc, nghỉ hàng năm và các trường hợp nghỉ 
việc khác của người lao động... 
Đồng thời đây cũng là cơ sở tích đơn giá tiền lương làm cơ sở hạch toán 
cho các doanh nghiệp. 
Hệ thống thang lương doanh nghiệp được xác định theo ngành, ( hoặc một 
nhóm ngành) kinh tế kỹ thuật. Trong đó, các nghề phải có tiêu chuẩn cấp bậc kỹ 
thuật rõ ràng. Trong một thang lương có một hoặc một số nhóm lương thể hiện 
điều kiện lao động nặng nhọc độc hại khác nhau của từng ngành nghề. Mỗi nhóm 
lương có hệ số mức lương bậc một thể hiện yêu cầu đào tạo ban đầu của nghề và 
hệ số bậc cao nhất thể hiện mức độ phức tạp của công việc trong nghề. Số bậc và 
bội số thang lương phản ánh mức độ phức tạp kỹ thuật của mỗi ngành, nghề được 
xác định căn cứ vào nội dung công việc theo tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật. 
I 3.3.2 Bảng lương : Đối với công chức và viên chức các doanh nghiệp, 
do đó những nghề và công việc không thể phân chia được mức độ phức tạp, 
hoặc đặc điểm của công việc phải bố trí lao động theo cương vị và trách nhiệm 
nên không thể áp dụng theo thang lương mà áp dụng bảng lương. Bảng lương 
cũng có bậc khởi điểm, có bội số của bảng lương. Mỗi chức danh trong bảng 
lương có tiêu chuẩn nghiệp vụ và chuyên môn để làm căn cứ xếp lương của 
công chức Nhà nước và viên chức doanh nghiệp. Khác với doanh nghiệp mỗi 
công chức Nhà nước đều phải xếp vào một bậc nhất định trong bảng lương qui 
định thống nhất của Nhà nước. 
Theo Nghị định số 26 - CP, ngày 23-5-1993, có các loại bảng lương cơ 
bản sau : 
- Bảng lương công nhân, nhân viên trực tiếp sản xuất kinh doanh và phục 
vụ : áp dụng cho công nhân ở những ngành nghề và tiêu chuẩn cấp bậc không rõ 
ràng, không phân chia được những mức độ phức tạp rõ rệt hoặc do đặc điểm của 
công việc phải bố trí công nhân theo cương vị và trách nhiệm công việc. Mỗi 
 17
chức danh trong bảng lương được xác định theo một trình độ nhất định tương 
ứng với nội dung của công việc cụ thể. 
- Bảng lương viên chức chuyên môn, nghiệp vụ và phụ cấp chức vụ lãnh 
đạo : áp dụng cho các ngành nghề có tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể cao hơn tiêu 
chuẩn kỹ thuật các ngành nghề đã áp dụng thang lương và áp dụng cho những 
người vừa làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ vừa giữ chức vụ lãnh đạo trong 
các doanh nghiệp. 
- Bảng lương chức vụ quản lý doanh nghiệp : áp dụng cho 3 chức danh : 
Giám đốc, phó Giám đốc, và Kế toán trưởng của doanh nghiệp và được xác định 
theo hạng doanh nghiệp. Việc phân hạng doanh nghiệp căn cứ vào mức độ phức 
tạp quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mức độ phức tạp quản lý được thể 
hiện qua các chỉ tiêu vốn ; số lượng lao động trong doanh nghiệp. Hiệu quả sản 
xuất - kinh doanh thể hiện qua các chỉ tiêu : Doanh thu, thực hiện nghĩa vụ đối 
với Nhà nước ; lợi nhuận và tỷ số lợi nhuận trên vốn giao. 
I.3.4. Hình thức trả lương : 
Theo Điều 58 bộ luật lao động có các hình thức trả lương cơ bản sau : 
I.3.4.1. Lương theo thời gian : Là hình thức trả lương theo thời gian, có 
các hình thức trả lương cụ thể là : trả lương theo năm, trả lương theo tháng, trả 
lương theo ngày và trả lương theo giờ. 
Tiền lương năm : Là tiền lương được tính và trả theo từng năm. Hình 
thức trả lương này hầu như chưa được đáp dụng ở nước ta và thường được áp 
dụng ở một số nước phát triển cho một số công nhân viên công vụ, đặc biệt là 
cấp cao. Lương năm ổn định hơn các loại lương tháng, lương ngày... 
Tiền lương tháng : Là tiền lương được tính và trả theo từng tháng. Hình 
thức trả lương này được áp dụng một cách khá phổ biến, nhất là đối với công 
chức, viên chức. Trong các chế độ về tiền lương cũng thường qui định về mức 
lương tháng. Lương tháng tương đối ổ định những trong sản xuất - kinh doanh 
 18
lại có nhược điểm là không khuyến khích sự chuyên cần, không phản ánh năng 
suất lao động khác nhau giữa những người cùng làm một công việc cho nên phải 
áp dụng thêm các loại bổ sung khác (tiền thương, phụ cấp....) 
Tiền lương ngày : Là tiền lương được tính và trả cho từng ngày. Hình 
thức trả lương này đã được áp dụng khá phổ biến trong khu vực sản xuất - kinh 
doanh nhằm khắc phục nhược điểm đã nói trên của hình thức trả lương theo 
từng tháng. Lương ngày được xác định trên cơ sở lấy tiền lương tháng chia cho 
26 ngày. 
Tiền lương giờ : Là tiền lương được tính và trả theo từng giờ. Lương giờ 
được xác định trên cơ sở lấy tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn ấn định 
cho ngày lao động (ca làm việc). Nhiều nước khi ấn định lương tối thiểu, chỉ ấn 
định mức lương giờ. Ưu điểm của phương pháp này là phản ánh tương đối 
chuẩn xác tiêu hao lao động mỗi đơn vị giờ lao động, tiện để tính toán số tiền 
lương giờ làm thêm, số tiền lương những giờ tiếp xúc trực tiếp với điều kiện lao 
động không bình thường (nóng, độc hại...). 
Ngoài các hình thức trả lương theo thời gian trên còn có những doanh 
nghiệp áp dụng hình thức trả lương tuần. Lương tuần được xác định bằng cách 
nhân số giờ trong tuần với mức lương giờ hoặc nhân mức lương ngày với số 
ngày trong tuần hoặc lấy lương tháng nhân với 12 và chia cho 52 tuần. 
Áp dụng lương theo thời gian thì đơn giản trong thực hiện việc trả lương 
nhưng không khuyến khích được tăng năng suất lao động. Vì vậy, để khắc phục 
một phần nhược điểm này, lương theo thời gian thường được chia làm 2 loại : 
Lương theo thời gian đơn giản và lương theo thời gian có thưởng. Áp dụng 
lương theo thời gian xó thưởng khuyến khích tốt hơn sự nỗ lực tăng năng suất 
lao động, tăng chất lượng, tiết kiệm... 
Ở nước ta, các doanh nghiệp chủ yếu áp dụng các hình thức trả lương 
theo tháng, đi cùng với nó là chế độ thưởng. 
 19
I.3.4.2. Lương theo sản phẩm : 
Là tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng 
sản phẩm họ làm ra. Mỗi loại sản phẩm có đơn giá tiền lương cho mỗi đơn vị 
sản phẩm. Người lao động làm được bao nhiêu sản phẩm thì lấy đơn giá tiền 
lương nhân với số lượng sản phẩm làm ra đó, sẽ ra số lương người lao động 
được hưởng. 
Trả lương theo sản phẩm phản ánh tương đối chuẩn xác lượng lao động 
thực tế bỏ ra, đồng thời phân biệt được năng lực có thể khác nhau giữa những 
người cùng làm một loại sản phẩm, lại gắn chặt thu nhập với kết quả lao động cụ 
thể, kích thích nâng cao trình độ mọi mặt, sử dụng tốt và hợp lý thời giờ làm 
việc và nghỉ ngơi, tăng cường kỷ luật doanh nghiệp , cải tiến quản lý doanh 
nghiệp .Do đó ,lương theo sản phẩm có tác dụng tínc cực . Tuy vậy , cũng dễ 
nảy sinh hiện tượng chạy theo số lượng ,coi nhẹ chất lượng và tiết kiệm nhiên 
liệu nguyên vật liệu, giữ gìn máy móc thiết bị và dụng cụ an toàn , vệ sinh loa 
động , tranh thủ thời gian quá mức, gây ảnh hưởng không tốt đếm sức khỏe. 
Lương theo sản phẩm không thích hợp với công việc cơ khí hoá, tự động hoá 
cao .Vì vậy những công việc đòi hỏi chất lượng cao thì chỉ nên áp dụng hình 
thức trả lương theo thời gian có thưởng. 
Trả lương theo sản phẩm bao gồm các hình thức sau : 
-Lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế :Là hình thức trả lương 
cho người lao động trực tiếp làm ra sản phẩm theo sự tỷ lệ thuận với số lượng 
sản phẩm hoàn thành đúng chất lượng yêu cầu. 
-Lương theo sản phẩm gián tiếp :Là hình thức trả lương cho công nhân 
phụ cùng tham gia với công nhân chính đã hưởng lương theo sản phẩm không 
hạn chế, như đối với công nhân sửa chữa hoặc bảo toàn, bảo dưỡng máy. 
 20
Lương theo sản phẩm có thưởng : Là hình thức trả lương mà ngoài mức 
lương trả, người lao động còn được hưởng tiền thưởng hoàn thanh hoặc hoàn 
thành vượt mức định, thưởng tiết kiệm, thưởng chất lượng . 
Lương theo sản phẩm luỹ tiến : Là hình thức trả lương theo hai đơn giá 
khác nhau, đơn giá bình thường cho số lượng sản phẩm trong định mức và đơn 
giá cao hơn cho số lượng sản phẩm vượt định mức để kích thích sản xuất càng 
nhiều sản phẩm càng tốt. 
- Lương khác : Là hình thức trả một khoản tiền trước cho toàn bộ khối 
lượng công việc phải hoàn thành theo các điều kiện về trước thời gian, về chất 
lượng công việc. Hình thức trả lương này thường được áp dụng trong những 
trường hợp khó định mức chi tiết công việc đòi hỏi thời gian hoàn thành khẩn 
trương. 
Việc xác định và áp dụng các hình thức trả lương nào là thuộc thẩm 
quyền người sử dụng lao động nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, 
theo qui định của pháp luật, họ phải duy trì hình thức trả lương đã chọn trong 
một thời gian nhất định và thông báo cho người lao động biết. Điều này nhằm 
góp phần ổn định, tránh xáo trộn trong việc nhận tiền lương và kế hoạch chi tiêu 
của bản thân người lao động và gia đình họ (Điều 58 Bộ luật lao động). 
I.3.5. Chế độ tiền thưởng : 
Chế độ tiền thưởng bao gồm hệ thống các qui định vủa Nhà nước bổ 
sung cho chế độ tiền lương nhằm khuyến khích người lao động làm việc có năng 
suất, chất lượng và hiệu quả không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, sức 
sáng tạo trong lao động. 
Tiền thưởng được xác định phù hợp với phần tiền lương cơ bản và làm 
sao để tiền lương không mất đi tác dụng của nó đối với người lao động. Do tính 
chất quan hệ lao động khác nhau mà việc qui định trả công lao động cũng khác 
nhau giữa khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực sản xuất kinh doanh. 
 21
Trước đây, chế độ thưởng đối với công nhân viên chức được qui định rất 
phong phú, gồm thưởng hoàn thành định mức, thưởng sản phẩm có chất lượng 
cao, thưởng tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, thưởng sáng kiến cải tiến kỹ 
thuật... Hiện nay, Bộ luật lao động qui định : '' Nhà nước khuyến khích việc 
quản lý lao động dân chủ, công bằng, văn minh trong doanh nghiệp và mọi biện 
pháp, kể việc trích thưởng từ lợi nhuận của doanh nghiệp, nhằm đạt hiệu quả cao 
trong quản lý lao động, sản xuất của doanh nghiệp" (Điều 11) ; "người sử dụng 
lao động có trách nhiệm trích lợi nhuận hàng năm để thưởng cho người lao động 
đã làm việc cho doanh nghiệp từ một năm trở lên, theo qui định của Chính phủ 
phù hợp với đặc điểm của từng loại doanh nghiệp" (Điều 64). 
Việc trích thưởng từ lợi nhuận còn lại (sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ 
đối Nhà nước) để thưởng cho những người lao động đã làm việc cho doanh 
nghiệp từ một năm trở lên được qui định như sau : 
- Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 
trong khu vực chế xuất, khu công nghiệp, mức tiền thưởng do hai bên thoả thuận 
nhưng không thấp hơn một tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 
- Đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc thành phần 
quốc doanh, mức tiền thưởng không quá 6 tháng tiền lương theo hợp đồng. 
- Đối với các doanh nghiệp tư nhân, mức tiền thưởng do hai bên thoả 
thuận, nhưng mức trích thưởng ít nhất 10% lợi nhuận. 
Còn với khu vực hành chính sự nghiệp, xuất phát từ tính chất lao động 
mà chế độ tiền lương được Nhà nước qui định cứng và hoàn toàn phụ thuộc vào 
Ngân sách, nên chế độ thưởng đối với người lao động chỉ được áp dụng khi 
hoàn thành nhiệm vụ hoặc công tác được giao. Nguồn thưởng cũng do Nhà nước 
cấp và được tính trên quỹ lương. Cơ sở để công tác được giao và trên cơ sở tiền 
lương làm chuẩn. 
 22
I.3.6. Chế độ phụ cấp : 
Chế độ phụ cấp bao gồm hệ thống các qui định của Nhà nước về các 
khoản phụ cấp nhằm bổ sung cho chế độ tiền lương với việc tính đến đầy đủ các 
yếu tố không ổn định, thường xuyên trong điều kiện lao động và điều kiện sinh 
hoạt của người lao động mà khi xây dựng các thang, bảng lương đã thể tách hết. 
Theo Nghị định số 26CP, ngày 23-5-1993, có các loại phụ cấp chủ yếu 
sau : 
- Phụ cấp khu vực : Nhằm bù đắp thêm cho người lao động làm việc ở 
những vùng có điều kiện khí hậu xấu, xa xôi, hẻo lánh, đi lại sinh hoạt khó khăn, 
góp phần ổn định lực lượng lao động ở những vùng có địa lý tự nhiên không 
thuận lợi. Chế độ phụ cấp khu vực được qui định cụ thể tại Thông tư số 15 - 
LĐTBXH - TT, ngày 02/6/1993, của Bộ thương binh lao động xã hội. 
Việc xác định phụ cấp khu vực dựa trên hai yếu tố : Theo yếu tố địa lý tự 
nhiên và vùng xa xôi hẻo lánh đi lại khó khăn, theo địa giới hành chính. 
Khi các yếu tố trên thay đổi thì phụ cấp khu vực được xác định lại. Mức 
phụ cấp qui định khác nhau thuỳ thuộc vào các yếu tố khí khậu, điều kiện đi lại, 
sinh hoạt... và được tính tên lương tối thiểu. 
- Phụ cấp thu hút : Nhằm khuyên khích người lao động đến làm việc ở 
những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế, đảo xa đất liền mà ở dó thời gian đầu 
chưa có cơ sở hạ tầng kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của 
người lao động. Chế độ phụ cấp thu hút được qui định tại Thông tư số 16 - 
LDTBXH - TT, ngày 2-6-1993, của Bộ lao động thương binh xã hội. 
Mức phụ cấp thu hút được tính bằng tỉ lệ phần trăm trên lương cấp bậc, 
chức vụ chuyên môn nghiệp vụ. Mức phụ cấp qui định khác nhau tuỳ thuộc theo 
điều kiện cụ thể. Thời gian hưởng phụ cấp thuỳ thuộc vào điều kiện xây dựng 
cải tạo cơ sở hạ tầng hoặc tình hình cải thiện điều kiện sinh hoạt và đời sống. 
 23
- Phụ cấp trách nhiệm : Nhằm bù đắp cho những người vừa trực tiếp sản 
xuất hoặc làm công tác nghiệp vụ, vừa kiêm công tác quản lý không thuộc chức 
vụ lãnh đạo bổ nhiệm, hoặc những người làm công việc đòi hỏi trách nhiệm cao 
chưa xác định trong lương. Chế độ phụ cấp trách nhiệm được qui định cụ thể tại 
Thông tư số 17 - LĐTBXH -TT ngày 2/6/1993, của Bộ lao động - thương binh 
và xã hội. Mức độ phụ cấp được tính trên lương tối thiểu và có các mức khác 
nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc kiêm nhiệm hoặc mức độ trách nhiệm cụ 
thể. 
- Phụ cấp lưu động : Nhằm bù đắp cho những người làm một số nghề 
hoặc công việc thường xuyên thay đổi nơi ở và nơi làm việc, điều kiện sinh hoạt 
không ổn định, có nhiều khó khăn như : xây dựng, về sinh phòng dịch, xây đắp 
đường dây thông tin liên tỉnh, khảo sát, đo đạt, khí tượng địa chất... chế độ phụ 
cấp lưu động được qui định cụ thể tại Thông tư số 19 LĐTBXH - TT, ngày 
2/6/1993, của Bộ lao động thương binh và xã hội. 
- Phụ cấp độc hại, nguy hiểm : Nhằm bù đắp tiền lương tối thiểu đối với 
công nhân viên chức làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm được qui định 
tại Thông tư số 23, ngày 7-7-1993. 
- Phụ cấp chức vụ : áp dụng cho những người vừa làm công tác chuyên 
môn, nghiệp vụ, vừa giữ chức vụ lãnh đạo được bổ nhiệm. Chế độ phụ cấp chức 
vụ được qui định tại bảng lương viên chức chuyên môn nghiệp vụ ban hành kèm 
theo Nghị định số 26-CP ngày 23-5-1993 của Chính phủ và Thông tư số 31 - 
LĐTBXH - TT, ngày 9 -12-1993, của Bộ lao động thương binh và xã hội. 
Mức phụ cấp chức vụ được tính trên lương tối thiểu, bao gồm nhiều mức 
khác nhau, tuỳ thuộc vào cấp tổ chức, loại tổ chức và hạng doanh nghiệp. 
- Phụ cấp đắt đỏ : Nhằm bù đắp tiền lương đối với người lao động làm 
việc ở những nơi có chỉ số giá sinh hoạt cao hơn chỉ số giá sinh hoạt bình quân 
chung của cả nước từ 10% trở lên. Chế độ phụ cấp đắt đỏ được qui định cụ thể 
tại Thông tư số 24 - LB - TT ngày 13-7-1993. Phụ cấp đắt đỏ gồm nhiều mức 
 24
được tính trên lương tối thiểu, chỉ số giá sinh hoạt được công bố từng thời kỳ đối 
với từng vùng cụ thể. 
I.3.7. Chế độ trả lương trong một số trường hợp khác : 
I.3.7.1. Trả lương trong trường hợp người lao động làm đêm : 
Theo Điều 61 Lộ luật lao động, Điều 8 của Nghị định 197 - CP, ngày 
31-12-1994 thì người lao động làm việc vào ban đêm được trả ít nhất bằng 30% 
so với sô tiền lươnglàm việc vào ban ngày (nếu không thường xuyên làm việc 
vào ban đêm); ít nhất bằng 35% lương làm việc vào ban ngày (nếu thường 
xuyên làm việc theo chế độ 3 ca ngày hoặc chuyên làm việc vào ban đêm). 
I.3.7.2. Trả lương trong trường hợp người lao động làm thêm giờ : 
Theo điều 61 Bộ luật lao động, Điều 8 Nghị định 197 - CP thì người lao 
động làm thêm giờ được trả lương như sau : 
Nếu hưởng lương theo thời gian thì người lao động được trả lương làm 
thêm giờ khi làm thêm giờ ngoài giờ tiêu chuẩn. Nếu làm thêm vào ngày thường 
được trả ít nhất bằng 150% của tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường, 
vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ, được trả ít nhất bằng 200% của tiền 
lương giờ của ngày làm việc bình thường. 
Nếu hưởng lương theo sản phẩm, lương khoán thì người lao động được 
trả lương làm thêm giờ khi người sử dụng lao động có yêu cầu làm thêm số 
lượng, khối lượng sản phẩm ngoài số lượng sản phẩm làm trong giờ tiêu chuẩn. 
Đơn giá những sản phẩm làm thêm giờ ngoài định mức giờ tiêu chuẩn được tăng 
thêm 50% nếu sản phẩm làm thêm vào ngày thường, 100% nếu sản phẩm được 
làm thêm vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ. 
I.3.7.3. Trả lương trong trường hợp người lao động phải ngừng việc : 
theo điều 62 Bộ luật lao động và điều 12 của Nghị định 197 - CP thì 
trong trường hợp phải ngừng việc thì người lao động được trả lương như sau : 
 25
- Néu ngừng việc do lỗi của người lao động thì người đó không được trả 
lương. Những người lao động khác trong cùng đơn vị phải ngừng việc được trả 
lương do mức 2 bên thoả thuận, nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu. Nếu 
ngừng việc do sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động, 
hoặc những nguyên nhân bất khả kháng thì tiền lương do hai bên thỏa thuận, 
nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Trong một ca làm việc nếu 
ngừng việc theo các trường hợp trên từ 2 giờ trở lên thì người lao động được trả 
lương ngừng việc. 
I.3.7.4. Trả lương trong trường hợp người lao động nghỉ chế độ : 
Theo qui định tại BLLĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời 
gian nghỉ tết, nghỉ ngày lễ và nghỉ hàng năm, người lao động vẫn được hưởng 
nguyên lương. Trong trường hợp nghỉ vì lý do thôi việc hoặc vì công việc mà 
người lao động chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm 
thì được trả lương số ngày chưa nghỉ. 
I.3.7.5. Trả lương trong trường hợp người lao động đi học : 
Người lao động trong quá trình lao động có quyền được nâng cao về 
trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ thuật, văn hoá để thực hiện công việc được 
giao. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể và tuỳ từng loại hình đào tạo mà 
người lao động được trả lương theo sự thoả thuận với người sử dụng lao động. 
I.3.7.6. Tạm ứng tiền lương : 
Theo khoản 2 điều 61 BLLĐ và Điều 10 NĐ 197 - CP trong trường hợp 
bản thân gia đình gặp khó khăn, người lao động được tạm ứng tiền lương theo 
điều kiện do hai bên thoả thuận, nhưng ít nhất cũng bằng một tháng lương. Cách 
trả tiền lương tạm ứng do hai bên thoả thuận nhưng không được tính lãi đối với 
số tiền tạm ứng này. khi người lao động nghỉ việc để làm nghĩa vụ công dân từ 
 26
một tuần trở lên thì hoc được tạm ứng tiền lương tương ứng với số ngày tạm 
thời nghỉ việc và được khấu trừ vào tiền lương sau đó. 
I.4 TIỀN LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP 
Theo Nghị định số 28 -CP ngày 28/3/1997, quy định về đổi mới quản lý 
thu nhập tiền lương trong các doanh nghiệp Nhà nước như sau. 
1.4.1. Mức lương tối thiểu . 
- Các doanh nghiệp Nhà nước được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm 
tiền lương tỗi thiểu không quá 1,5 lần so với mức lương tối thiểu do Nhà nước 
quy định để làm cơ sở tích đơn giá tiền lương. Bộ lao động-thương binh và xã 
hội căn cứ vào giá cả sinh hoạt, tiền công lao động trên thị trường ở từng vùng, 
ngành và hiệu quả kinh doanh để hướng dẫn cụ thể hệ số điều chỉnh này đối với 
các doanh nghiệp Nhà nước. 
Khi áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm này phải đảm bảo nguyên tắc 
không làm giảm các khoản nộp Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là không làm 
giảm lợi nhuận so với năm trước đã thực hiện, trừ trường hợp Nhà nước điều 
chỉnh giá bán sản phẩm hoặc giá dịch vụ của doanh nghiệp. 
Hàng năm, căn cứ vào chỉ số trượt giá, tốc độ tăng trưởng kinh tế, Bộ lao 
động thương binh xã hội sau khi trao đổi thống nhất ý kiến với Bộ tài chính và 
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam điều chỉnh hệ số mức lương tối thiểu để tính 
đơn giá tiền lương cho phù hợp. 
1.4.2. Các quy định khác. 
- Việc đóng và hướng dẫn chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho 
công nhân viên chức trong các doanh nghiệp Nhà nước vẫn tính theo hệ số mức 
lương quy định tại Nghị định 26 - CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ và mức 
lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định. 
 27
- Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thực hiện 
theo quy định tại khoản 4 và 5, Điều 33 quy chế quản lý tài chính và hạch toán 
kinh doanh đói với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59 
-CP ngày 30/10/1996 của Chính phủ. 
- Bộ lao động thương binh và xã hội ban hành mẫu sổ lương thống nhất 
trong các doanh nghiệp Nhà nước. tiền lương và thu nhập thực nhận hàng tháng 
của người lao động được ghi đầy đủ trong sổ lương của doanh nghiệp theo quy 
định của Bộ lao động- thương binh và xã hội làm cơ sở cho việc kiểm tra, thanh 
tra thực hiện chính sách tiền lương làm cơ sở cho việc kiểm tra, thanh tra thực 
hiện chính sách tiền lương và thực hiện thuế thu nhập cá nhân theo quy định của 
Nhà nước. 
- Việc xây dựng, xét duyệt và quản lý đơn giá tiền lương của các doanh 
nghiệp Nhà nước phải đảm bảo các quy định sau đây: 
* Đơn giá tiền lương được xây dựng trên cơ sở định mức lao động trung 
bình tiên tiến của doanh nghiệp và các thông số tiền lương do Nhà nước quy 
định. 
* Bảo đảm quan hệ tiền lương bình quân hợp lý giữa các doanh nghiệp 
Nhà nước; Tiền lương thực tế thực hiện bình quân của doanh nghiệp cao nhất 
không vượt quá hai lần tiền lương bình quân chung của các doanh nghiệp được 
giao đơn giá và phải bảo đảm nguyên tắc tốc độ tăng tiền lương được giao và 
phải bảo đảm nguyên tắc tốc độ tăng tiền lương thấp hơn tốc độ tăng năng suất 
lao động. 
*Các doanh nghiệp chưa xây dựng định mức lao động và chưa có đơn 
giá tiền lương được duyệt thì quỹ tiền lương thực hiện chỉ quyết toán bằng tổng 
số lao động thực tế sử dụng với hệ số mức lương bình quân do cơ quan đơn giá 
quyết định và mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định . 
 28
- Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước phải thực 
hiện các quy định sau: 
* Chấn chỉnh công tác quản lý lao động, định mức lao động, tiền lương 
tiền thưởng theo đúng quy định của Chính phủ. 
* Xây dựng và đăng ký định mức lao động theo hướng dẫn của Bộ lao 
động thương binh và xã hội. 
* Xây dựng đơn giá tiền lương trên cơ sở định mức lao động và các 
Thông báo số tiền lương do Chính phủ quy định để trình cơ quan có thẩm quyền 
phê duyệt chậm nhất vào quý I của năm kế hoạch. 
* Phối hợp với ban chấp hành công đoàn xây dựng và ban hành quy chế 
trả lương, trả thưởng trong doanh nghiệp. Quy chế này phải bảo đảm nguyên tắc 
phân phối theo lao động, gắn tiền lương, tiền thưởng với năng suất lao động, 
hiệu quả công việc của từng người, khuyến khích được người lao động có trình 
độ chuyên môn kỹ thuật cao. 
Quy chế trả lương, trả thưởng phải được phổ biến tới từng người lao 
động trong doanh nghiệp và phải đăng ký cùng với nội dung lao động tại Sở lao 
động- thương binh và xã hội theo quy định của Bộ lao động. 
 CHƯƠNG II: 
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TIỀN LƯƠNG 
TẠI CÔNG TY DỤNG CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ. 
II.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY DỤNG CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ. 
II.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty: 
Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí được thành lập ngày 25 tháng 3 
năm 1968 khi đó Công ty mang tên là Nhà máy dụng cụ cắt gọt thuộc Bộ cơ khí 
luyện kim. 
 29
Ngày 17/8/1970 Nhà máy dụng cụ cắt gọt được đổi tên thành Nhà máy 
dụng cụ số một. 
Ngày 22/5/1993 Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng quyết định thành lập lại 
nhà máy dụng cụ số 1 theo quyết định số 292 QĐ/TCNSDT. 
Theo quyết định của Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng số 702/TCCBDT 
ngày 12/7/1995, Nhà máy Dụng cụ số 1 được đổi tên thành Công ty Dụng cụ cắt 
và đo lường cơ khí thuộc tổng Công ty máy thiết bị công nghiệp Bộ công 
nghiệp. Tên viết tắt của Công ty là DUTUDOCO tên giao dịch tiếng anh là: 
Cutting and Measuring tools Co. 
Sản phẩm chính của Công ty là các loại dụng cụ cắt gọt kim loại bao gồm 
bàn ren, taro, mũi khoan, dao phay, dao tiện, lưỡi cưa, calíp với sản lượng 22 
tấn/năm. 
Ngoài ra, Công ty còn sản xuất một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị 
trường như: tấm sàn chống trượt, neo cầu, dao cắt tấm lợp thanh trượt với sản 
lượng 200 tấn/năm. 
Trải qua quá trình hoạt động trên 30 năm với nhiều biến động đặc biệt 
trong thời buổi kinh tế thị trường, hàng loạt các Công ty cơ khí bị đình trệ thì 
hoạt động sản xuất của Công ty vẫn duy trì ổn định, sản phẩm của Công ty vẫn 
có tín nhiệm đối với thị trường trong và ngoài nước. 
Năm 1996 sản phẩm của Công ty tiêu thụ trong nước là 79% và xuất khẩu 
sang Nhật Bản là 21%. 
Hiện nay Công ty mới thành lập một chi nhánh ở phía Nam vào tháng 3 
năm 2000 để bán dụng cụ cắt nhằm mở rộng thị trường. 
Bên cạnh việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm cơ khí Công ty còn 
có một trung tâm kinh doanh với mục đích kinh doanh thương mại và cho thuê 
văn phòng nhằm đạt hiệu quả tối đa trong kinh doanh và đáp ứng được nhu cầu 
đa dạng của thị trường. 
 30
Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí nằm trên đường Nguyễn Trãi 
thuộc phường Thượng Đình Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội tổng diện tích 
của Công ty là 20000 m2 trong đó diện tích có mái che là 11000 m2. 
Công ty dụng cụ cắt và đo lương cơ khí là một doanh nghiệp Nhà nước 
cho nên nó có tư cách pháp nhân, thành lập và hoạt động theo các văn bản quy 
phạm pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước. 
II.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. 
II.1.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. 
- Tổng số cán bộ công nhân viên. 
Tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 453 người trong đó nữ là 
143 người. 
- Trình độ chuyên môn: 
Trình độ đại học: 66 người. 
Công nhân kỹ thuật: 329 người. Trong đó: 
Công nhân bậc 7: 42 người. 
Công nhân bậc 6: 84 người. 
Công nhân bậc 5: 42 người. 
Công nhân bậc 3: 19 người. 
Công nhân bậc 2: 3 người. 
- Tổ chức sản xuất: 
Lãnh đạo Công ty gồm Giám đốc, phó Giám đốc kỹ thuật, phó Giám đốc 
sản xuất và phó Giám đốc kinh doanh. 
Các phòng ban nghiệp vụ gồm: 
 + Phòng thiết kế. 
 31
 + Phòng công nghệ. 
 + Phòng cơ điện. 
 + Phòng KCS. 
 + Phòng kiến trúc cơ bản. 
 + Phòng vật tư. 
 + Phòng hành chính quản trị. 
 + Trạm y tế. 
 + Phòng tài vụ. 
 + Phòng kế hoạch kinh doanh. 
 + Phòng tổ chức lao động. 
 + Phòng bảo vệ. 
 + Trung tâm dịch vụ vật tư công nghiệp. 
Các phân xưởng sản xuất gồm: 
 + Phân xưởng khởi phẩm. 
 + Phân xưởng cơ khí I. 
 + Phân xưởng cơ khí II. 
 + Phân xưởng dụng cụ. 
 + Phân xưởng cơ điện. 
 + Phân xưởng mạ. 
 + Phân xưởng nhiệt luyện. 
 + Phân xưởng bao gói. 
 32
Giám đốc 
P.giám 
đốc 
ỹ ậ
Phòng 
thiết kế 
Phòng 
công 
nghệ 
Thư viện 
Phòng 
cơ điện 
Phòng 
KCS 
Kho 
dụng cụ 
Trạm 
biến thế 
Đo lường 
Nghiệm 
thu 
Kiểm tra 
thép 
Khu xử lý 
P.giám 
đốc 
Phân 
xưởng 
Phân 
xưởng cơ 
Phân 
xưởng 
Phân 
xưởng cơ 
Phân 
xưởng cơ 
Phân 
xưởng mạ 
Phân 
xưởng 
Phân 
xưởng 
P.giám 
đốc 
Kế toán 
trưởng 
Phòng 
tài vụ 
Phòng 
vật tư 
Kho kim 
khí 
Kho hoá 
chất 
Kho tạp 
phẩm 
Phòng 
hành 
Trạm y 
tế 
Kho 
thành 
Phòng kế 
hoạch KD 
Phòng tổ 
chức lao 
Phòng 
bảo vệ 
 33
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý công ty 
 34
II.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban: 
* Phòng kế hoạch kinh doanh: Có chức năng nhiệm vụ là điều tra thị 
trường, dự đoán tình hình tiêu thụ, tìm nguồn hàng và đối tác để ký kết hợp 
đồng. Ngoài ra còn căn cứ vào các nhu cầu của các đơn vị sản xuất trong Công 
ty để dự thảo kế hoạch sau đó trình Giám đốc duyệt sau đó lập kế hoạch sản xuất 
các đơn vị phòng ban khác theo kế hoạch này đi triển khai công việc theo chức 
năng của đơn vị mình. 
* Phòng thiết kế: Thiết kế sản phẩm theo kế hoạch thiết kế hiệu chỉnh lại 
thiết kế cũ cho phù hợp và cho tiết kiệm, theo dõi việc sản xuất chế tạo theo thiết 
kế, thiết kế thử, khảo nghiệm sản phẩm mới, xây dựng kế hoạch và chủ động 
thực hiện kế hoạch, chủ trì và cùng với các phòng công nghệ, cơ điện, hướng 
dẫn chế tạo sản phẩm mới. 
* Phòng công nghệ: 
Căn cứ bản vẽ thiết kế lập ra quy trình công nghệ cho sản phẩm cần sản 
xuất, chuẩn bị dụng cụ (dụng cụ cắt, dụng cụ gá lắp). Loại dụng cụ nào chưa có 
phải thiết kế và giao cho phân xưởng dụng cụ sản xuất. Loại nào không sản xuất 
được phải mua ngoài. Theo dõi việc thực hiện quy trình công nghệ lập ra. 
Cùng với phòng thiết kế, cơ điện, KCS đầu tư nghiên cứu để nâng cao 
chất lượng và mỹ thuật cho một số sản phẩm Công ty có dự kiến phát triển và thị 
trường có nhu cầu ngoài ra còn tham gia tiếp thị bán dụng cụ cắt và tìm việc cho 
Công ty. 
* Phòng cơ điện: Lập kế hoạch sửa chữa và thiết kế được chi tiết thay thế 
giao cho phân xưởng cơ điện thực hiện. 
- Quản lý hệ thống điện ==> gọi là quản lý kỹ thuật MMTB. 
* Phòng KCS (kiểm tra chất lượng sản phẩm) 
 35
Để thực hiện chức năng này phải kiểm tra từ khâu đầu vào cho đến khâu 
đầu ra và các khâu trong quá trình sản xuất, kiểm tra thành phẩm kiểm tra mẫu 
mã bao gói. 
* Phòng thiết kế cơ bản: Sửa chữa các công trình ở trong Công ty xây 
dựng mới các công trình, lập kế hoạch sửa chữa cho năm sau. 
* Phòng hành chính quản trị 
- Thảo công văn, lưu giữ và vận chuyển công văn, quản lý tài sản thuộc về 
hành chính. 
- Các công tác tạp vụ… quản lý con 
- Vệ sinh công cộng trong Công ty 
- Quản lý trạm y tế trường mầm non 
- Thực hiện kế hoạch mua sắm và trang bị điều kiện làm việc cho phòng 
ban, phân xưởng, giúp Giám đốc quản lý một số hợp đồng cho thuê nhà và duy 
trì tốt hoạt động của nhà trẻ. 
* Phòng tổ chức lao động 
- Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch về nhân sự 
- Tuyển dụng mới và đào tạo 
- Giải quyết các chế độ cho công nhân viên 
- Định mức thời gian lao động 
- Thanh toán tiền lương 
- Thực hiện các khâu về bảo hộ lao động 
* Phòng bảo vệ 
Bảo vệ chính trị, kinh tế, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy thực 
hiện công tác nghĩa vụ quân sự. 
* Phòng tài vụ 
 36
* Phòng vật tư 
- Thu mua vật tư 
- Căn cứ vào định mức vật tư và nhu cầu để cung cấp vật tư cho sản xuất 
- Quản lý kho vật tư chính 
- Thống kê tình hình nhập, xuất, sử dụng vật tư 
II.1.3. Thực trạng kinh doanh 
II.1.3.1 Kết quả kinh doanh 
Cuối những năm 1980 do mới chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền 
kinh tế thị trường, sản phẩm của Công ty tiêu thụ chậm và giảm sút do trình độ 
công nghệ còn thấp, thiết bị sử dụng đã quá lâu, sản phẩm làm ra chất lượng 
chưa cao so với hàng nhập ngoại và giá thành còn chưa hợp lý trước tình hình đó 
Công ty đã nghiên cứu thay thế một số thiết bị cũ bằng thiết bị mới. Nghiên cứu 
cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất do vậy 
sản phẩm của Công ty có tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng cao. Ngoài 
các sản phẩm truyền thống Công ty còn tích cực nghiên cứu đưa vào sản xuất 
các loại sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường, 
chính nhờ những kết quả đó mà doanh thu của Công ty không ngừng tăng đồng 
thời đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên được đảm bảo 
hơn. Vì vậy hoạt động sản xuất của Công ty trong cơ chế thị trường đã nhanh 
chóng ổn định thu nhập bình quân người lao động ngày càng tăng. Bảng dưới 
đây trình bày kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty từ năm 1997 đến nay. 
STT Tên chỉ tiêu 
Đơn vị 
tính 
1997 1998 1999 2000 2001 
1 Doanh thu Triệu 9830 1066 12521 15500 16040 
 37
đồng 
2 Nộp ngân sách 
Triệu 
đồng 
458 474 502 515 606 
3 Lãi 
Triệu 
đồng 
169 230 241 274 286 
4 
Thu nhập bình 
quân 
Nghìn 
đồng 
687 690 710 790 860 
 38
II.1.3.2. Những thuận lợi và khó khăn 
* Những thuận lợi 
- Về con người: Trong Công ty cán bộ công nhân viên có sự đoàn kết nhất 
trí cao, mặt khác do đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên 
ngày một đảm bảo và ổn định tạo ra tâm lý an tâm phấn khởi cho người lao động 
do vậy người lao động hăng hái trong sản xuất và thi đua. 
Trải qua quá trình phát triển hơn 30 năm cùng với sự quan tâm của lãnh 
đạo Công ty trong việc đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho nên tay nghề của công 
nhân trong Công ty rất cao. 
- Về thị trường: Do có quá trình phát triển tương đối lâu dài cho nên Công 
ty có rất nhiều khách hàng đặc biệt do sản phẩm của Công ty có chất lượng cao 
và giá cả hợp lý nên Công ty rất được tín nhiệm trên thị trường, mặt khác do sự 
phát triển của nền kinh tế đất nước cho nên các nhu cầu về các sản phẩm của 
Công ty tăng và là điều kiện thuận lợi để Công ty mở rộng sản xuất tăng thu 
nhập cho người lao động. 
* Những khó khăn : 
- Hầu hết máy móc thiết bị trong Công ty đã lạc hậu do vậy hao phí 
nguyên nhiên vật liệu, tốn lao động, chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng đòi hỏi 
phải đầu tư lớn. 
- Thị trường có nhiều thuận lợi song ngày càng có nhiều đối thủ cạnh 
tranh nhất là các đơn vị trong quân đội. 
II.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TIỀN LƯƠNG TẠI CÔNG TY DỤNG 
CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ. 
II.2.1. Hình thức trả lương trong Công ty 
Tuỳ theo từng đối tượng, công việc trong Công ty áp dụng các hình thức 
trả lương khác nhau. 
 39
Trong Công ty có các hình thức trả lương như sau 
* Hình thức trả công theo sản phẩm 
Công ty áp dụng hình thức này đối với những loạt sản phẩm nhiều và ổn 
định và đối với công nhân trực tiếp sản xuất những loạt sản phẩm nhiều và ổn 
định tạo ra sự chủ động trong việc lập kế hoạch về định mức lao động và đơn giá 
tiền lương, Công ty xác định đơn giá tiền lương dựa trên cơ sở định mức lao 
động, việc tính định mức lao động căn cứ vào hao phí lao động thực tế và giá cả 
của sản phẩm của Công ty được thị trường chấp nhận, do thiết bị máy móc của 
Công ty lạc hậu cho nên có sự hao phí lớn về sức lao động trong quá trình tính 
định mức lao động cũng phải căn cứ vào yếu tố này, đây chính là yếu tố làm 
giảm tính cạnh tranh của sản phẩm trong Công ty vì chi phí lao động trong cơ 
cấu giá thành tăng và đẩy giá thành tăng lên. 
* Hình thức trả lương khoán gọn 
Công ty áp dụng hình thức này đối với những hàng đơn chiếc không ổn 
định. Trong quá trình sản xuất những mặt hàng mới, những mặt hàng mới phát 
sinh với số lượng không đáng kể và ngoài kế hoạch Công ty áp dụng hình thức 
này để sản xuất kịp thời đáp ứng nhu cầu nhanh chóng của khách hàng. 
* Hình thức trả lương theo thời gian 
Công ty áp dụng hình thức này đối với sản xuất dụng cụ, sửa chữa và khối 
phòng ban. 
Đối với sản xuất dụng cụ do công việc phức tạp và lại không thường 
xuyên cho nên để đảm bảo thu nhập và tiền lương cho người lao động theo quy 
định, sửa chữa bao gồm cả bảo dưỡng máy móc, khôi phục và nâng công suất 
của máy. Tất cả những công việc đó không thể tính định mức lao động và xác 
định khối lượng công việc chính xác để áp dụng các hình thức trả lương theo sản 
 40
phẩm và theo khoán được cho nên phải áp dụng hình thức trả lương theo thời 
gian để đảm bảo thu nhập cho người lao động. 
Đối với khối phòng ban, khối này do tính chất lao động là lao động gián 
tiếp cho nên không thể áp dụng các hình thức trả lương khác ngoài hình thức trả 
lương theo thời gian việc trả lương theo thời gian căn cứ vào kết quả sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp và trách nhiệm quản lý các mặt, ngoài ra doanh 
nghiệp Nhà nước trả lương cho cán bộ quản lý căn cứ vao hạng doanh nghiệp 
căn cứ vào các tiêu chí do Nhà nước quy định. 
II.2.2. Thang lương, bảng lương 
II.2.2.1. Thang lương 
Theo nguyên tắc làm theo công việc gì thì hưởng lương theo công việc 
đó, cho nên trong Công ty do đặc điểm công việc không có sự phân chia tỷ mỷ 
độ phức tạp theo thang từ một đến bảy để tươg ứng với bậc thợ của công nhân 
mà công việc thường chỉ ở loại bậc 3 do vậy công nhân các bậc đều làm ở mức 
công việc này ví dụ công nhân bậc 2 hoặc bậc 3 cũng có thể làm được việc bậc 4 
và công nhân bậc 5, bậc 6 cũng làm công việc bậc 4 cho nên có hệ số lương như 
nhau nhưng công nhân bậc cao được phụ cấp thêm một số tiền nhất định tỷ lệ 
với lương tối thiểu hàng tháng gọi là phụ cấp người có tay nghề cao để khuyến 
khích người lao động tự học tập để nâng cao tay nghề. 
Hàng tháng căn cứ vào hệ số lương theo cấp bậc công việc sau đó nhân 
với lương tối thiểu ra tiền lương hàng tháng một công nhân nhận được, đồng 
thời cũng căn cứ vào tiền lương này doanh nghiệp cân đối giữa tiền lương này 
với tiền lương tính theo đơn giá tiền lương ở hình thức trả lương theo sản phẩm 
để đảm bảo ăn khớp với nhau giữa tiền lương theo sản phẩm và tiền lương theo 
cấp bậc công việc. 
II.2.2.2. Bảng lương 
Trong Công ty không áp dụng bảng lương 
 41
II.2.3. Quỹ lương, nguồn hình thành quỹ tiền lương và sử dụng quỹ tiền 
lương của Công ty 
II.2.3.1. Quỹ lương: tổng quỹ tiền lương trong Công ty được hình thành 
từ 3 nguồn đó là: quỹ tiền lương từ sản xuất công nghiệp, quỹ tiền lương từ kinh 
doanh vật tư hàng hoá và quỹ tiền lương từ cho thuê nhà. 
Để thấy được quỹ tiền lương tương quan với các chỉ tiêu khác trong 
doanh nghiệp sau đây là bảng tình hình thực hiện lao động và tiền lương và thu 
nhập năm 2000. 
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính 
Kế hoạch 
được duyệt 
Thực hiện 
1 2 3 4 5 
1 Chỉ tiêu sản xuất 1000đ 15.500.000 14.743.527 
 * Tổng doanh số - 
 Trong đó 
 + Sản xuất công nghiệp - 11.500.000 9.698.422 
+ Kinh doanh vật tư và sản xuất 
hàng hoá 
- 3.000.000 4.071.253 
 + Cho thuê nhà - 1.000.000 973.852 
 * Tổng chi có cả lương - 15.400.000 14.574.799 
 * Tổng các khoản nộp Ngân sách - 443.000 688.877 
 * Lợi nhuận - 100.000 68.728 
2 Chỉ tiêu lao động người 
 42
 Lao động định kiến - 468 440 
 Lao động thực tế sử dụng - 460 430 
3 Tổng quỹ tiền lương ngoài đơn giá 100đ 714.280 714.280 
 + Quỹ tiền lương bổ xung - 537.880 537.880 
 + Quỹ lương làm thêm giờ - 176.400 176.400 
4 
Tổng quỹ tiền lương trong đơn 
giá 
- 3.360.572 2.928.204 
5 Tiền lương bình quân 1000đ/ng/năm 738 706 
6 Quỹ thu nhập khác 1000đ 350.000 436.097 
7 Thu nhập bình quân - 802 790 
II.2.3.2. Nguồn hình thành quỹ tiền lương và sử dụng quỹ tiền lương. 
Nguồn hình thành quỹ tiền lương dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ sản 
xuất - kinh doanh của Công ty, nguồn quỹ tiền lương (Vkh) để trả cho cán bộ 
công nhân viên được xác định như sau: 
 Vkh = (Vđg x Csxkd) + Vbs + Vtg 
Trong đó: 
 Vđg : Là đơn giá tiền lương sản phẩm do cơ quan chủ quản giao 
 Csxkd : Số lượng sản phẩm - dịch vụ thực hiện theo kế hoạch 
 Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung theo quy định 
 43
 Vtg : Quỹ tiền lương làm thêm giờ 
Nguồn quỹ tiền lương nêu trên được gọi là tổng quỹ tiền lương của Công ty. 
Để đảm bảo quỹ tiền lương thực hiện không vượt chi so với quỹ tiền 
lương được hưởng, tổng quỹ tiền lương được phân chia cho các quỹ như sau: 
* Quĩ tiền lương trả trực tiếp cho cán bộ công nhân viên theo lương sản 
phẩm, lương khoán, lương thời gian (Vc) tối đa bằng 84% tổng quỹ tiền lương 
* Quĩ khen thưởng từ quỹ tiền lương chi cho cán bộ công nhân viên quà lễ 
tết hàng năm, có thành tích trong sản xuất công tác (Vkt) 10% tổng quỹ tiền 
lương 
* Quĩ khuyến khích cá nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay 
nghề giỏi (Vkk) bằng 1% tổng quỹ tiền lương. 
* Quĩ dự phòng sản xuất bằng 5% tổng quỹ tiền lương 
Quỹ tiền lương thực hiện hàng tháng của Công ty trả cho cán bộ công 
nhân viên (Vcty) công thức xác định như sau 
Cách 1 : Xác định theo nguồn quỹ lương sản phẩm kế hoạch hàng năm 
 Vcty = 12
Vc x k 
Trong đó : 
 VC : Quỹ tiền lương trả trực tiếp cho cán bộ công nhân viên 
k : Hệ số mức độ hoàn thành kế hoạch k = 1 khi hoàn thành chỉ tiêu 
kế hoạch. 
Cách 2: Xác định theo đơn giá khoán gọn GTTSLSX tại công ty 
 Vcty = Vđg x Csx 
 44
Trong đó : 
 vđg : Đơn giá khoán gọn GTTSL sản xuất 270đ/1000đ = 27% 
Csx : Giá trị sản lượng sản xuất tại Công ty (tính theo giá bán) nhập 
kho tại Công ty 
II.2.4. Quy định trả lương đối với cán bộ công nhân viên trong công ty. 
II.2.4.1. Sản lượng đối với công nhân sản xuất 
* Đối với công nhân trực tiếp sản xuất trả lương sản phẩm theo kết quả số 
lượng, chất lượng làm ra, tiền lương thực hiện của cá nhân do phân xưởng trả 
lương, công thức tính trả lương như sau: Ti = Vđg . q . k 
Trong đó : Ti : Tiền lương được nhận của người công nhân thứ i 
Vđg : Đơn giá tiền lương nguyên công sản phẩm, đối với làm 
khoán gọn sản phẩm là tiền lương khoán gọn nguyên công 
 q : Số lượng sản phẩm làm ra 
 k : Hệ số chất lượng sản phẩm 
 k = 1 đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm 
 k = 0,9 chất lượng sản phẩm đoạt loại 2 
 k = 0 sản phẩm hỏng trong tỷ lệ sai hàng cho phép 
* Đối với nhóm công nhân trực tiếp sản xuất làm lương sản phẩm cách trả 
lương cho từng cá nhân như sau: 
Bước 1: Tính trả lương sản phẩm của nhóm Ti 
 Tsp = Vđg . q . k 
- Nội dung công thức này như trên 
Bước 2 : Tính trả lương cho từng người 
 45
- Trích 10% tiền lương sản phẩm, hoặc tiền lương khoán của nhóm trả 
lương trách nhiệm cho trưởng nhóm. 
- Số tiền lương còn lại 90% trả lương cho từng thành viên trong nhóm (kể 
cả trưởng nhóm), công thức tính trả lương như sau: 
 Toi = m
Tsp %90. đồng/người 
Trong đó : 
 Toi : Tiền lương được nhận của người thứ i 
 Tsp : Tiền lương sản phẩm của nhóm 
 m : Số lượng thành viên trong nhóm 
* Cách xác định đơn giá tiền lương nguyên công của sản phẩm. Đơn giá 
tiền lương sản phẩm và đơn giá tiền lương khoán gọn sản phẩm. 
a. Đơn giá tiền lương nguyên công của sản phẩm: 
 Vđgi = Vph x Tspi 
Trong đó : 
 Vđgi : Đơn giá tiền lương nguyên công thứ i (đồng/ĐVSP) 
 Tspi : Định mức thời gian nguyên công thứ i (phút/ĐVSP) 
 Vph : Tiền lương phút (đồng/phút) 
Tiền lương phút được tính bằng tiền lương cấp bậc công việc theo mức 
lương tối thiểu của Công ty quy định chia cho (26 ngày x 480 phút) 
 Vph + 480phótx26ngµy
minTLxH cb 
 Hcb : Hệ số tiền lương cấp bậc công việc theo nghị định số 26 
 TLmin : Mức lương tối thiểu của công ty 
 46
Mức lương tối thiểu của Công ty được lựa chọn trong khung lương tối 
thiểu quy định từ 210.000 đồng đến 456.000 đồng, phụ thuộc vào kết quả sản 
xuất - kinh doanh, chỉ tiêu nộp ngân sách, lợi nhuận của công ty hàng năm, được 
cơ quan quản lý đơn giá tiên lương xét duyệt. 
b. Đơn giá tiền lương sản phẩm : bằng tổng đơn giá tiền lương các nguyên 
công chế tạo sản phẩm, đơn giá tiền lương sản phẩm dùng để thanh toán tiền 
lương sản phẩm cuối cùng nhập kho Công ty của phân xưởng. 
 Vđgsp = Vđgci 
Trong đó : 
 Vđgsp : Đơn giá tiền lương sản phẩm (đồng/ĐVSP) 
 Vđgci : Đơn giá tiền lương nguyên công thứ i (đối với sản phẩm 
dụng cụ cắt tarô, hàn ren, mũi khoan, doa phay xoáy, ĐF đĩa mô đun sản xuất 
loại nhỏ dưới 100 cái đơn giá được tăng 1,2 lần đến 1,5 lần đơn giá tính theo 
định mức. 
c. Đơn giá tiền lương khoán gọn sản phẩm: Chỉ áp dụng trong trường hợp 
sản xuất sản phẩm lẻ, đơn chiếc, phức tạp, sản phẩm mới chưa thể áp dụng định 
mức lao động, do phó Giám đốc sản xuất quyết định trả lương khoán gọn bằng 
văn bản. Phương pháp xác định đơn giá tiền lương khoán gọn sản phẩm tính 
theo giá bán sản phẩm, cách xác định theo bảng sau: 
STT Vật tư chế tạo Đơn vị tính 
Đơn giá tiền lương khoán 
gọn (đồng/1000đ DT) 
1 Thép gió ĐVSP 100đ  120đ/1000đ 
2 Thép hợp kim đặc biệt X12M, XB1 nt 130đ  150đ/1000đ 
3 
Thép hợp kim thông dụng 9XL, 
IIIX15 
nt 160đ  180đ/1000đ 
 47
4 Thép dụng cụ các bon Y8A, Y12A nt 180đ  200đ/1000đ 
5 Thép kết cấu CT45, CT30, 20x nt 200đ  220đ/1000đ 
6 Thép các bon tháp CT3, CT5 nt 220đ  240đ/1000đ 
II.2.4.2. Trả lương đối với cán bộ, công nhân viên gián tiếp - phục vụ 
* Đối với cán bộ, công nhân viên gián tiếp - phục vụ phòng ban phân 
xưởng trả lương thời gian theo ngày công thực tế và hiệu quả công việc hoàn 
thành, tiền lương thực hiện của cá nhân do đơn vị trả lương, công thức tính trả 
lương như sau: 
 Ti = T1i + T2i 
Trong đó : 
 Ti : Tiền lương được nhận của người thứ i 
 T1i : Tiền lương cấp bậc được xếp theo NĐ26CP của người thứ i 
 T2i : Tiền lương bổ xung được nhận của người thứ i 
Tiền lương bổ sung của cá nhân được gắn với mức độ phức tạp, trách 
nhiệm của công việc đảm nhận, không phụ thuộc vào lương cấp bậc, công thức 
tính tiền lương bổ sung như sau: 
 T2i : 
n
i
bs
hi
V
1
 x hi 
Trong đó : 
Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung của đơn vị hoặc bộ phận gián tiếp 
phân xưởng. 
 n : Số thành viên trong đơn vị hoặc bộ phận gián tiếp phân xưởng 
hi : Hệ số tiền lương bổ sung thực tế của người thứ i do phụ trách 
đơn vị quyết định, công thức tính như sau: 
 48
 hi = Hcvi . k 
Trong đó : 
 Hcvi : Hệ số công việc được giao của người thứ i 
k : Hệ số mức độ hoàn thành công việc của người thứ i do đơn vị 
quyết định 
 . k = 1 hoàn thành nhiệm vụ, tiêu chuẩn xác định như sau: 
 - Đủ 26 ngày công/tháng 
 - Hoàn thành nhiệm vụ đúng tiến độ và chất lượng 
 - Không vi phạm kỷ luật lao động 
 . k = 1,05 - 1,2 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 
. k = 0 - 0,9 không hoàn thành nhiệm vụ và hoàn thành từng 
phần nhiệm vụ được giao. 
II.2.5. Quy định trả lương đối với đơn vị phòng ban phân xưởng 
II.2.5.1. Trả lương đối với phân xưởng sản xuất 
* Quỹ tiền lương thực hiện của phân xưởng căn cứ vào kết quả sản xuất 
sản phẩm cuối cùng nhập kho của Công ty, quỹ tiền lương thực hiện của phân 
xưởng do Công ty thanh toán trả lương hàng tháng, công thức tính trả lương như 
sau: 
 Vpx = Vđg + Vcđ + Vtg 
Trong đó : 
 Vpx : Quỹ tiền lương thực hiện của phân xưởng 
 Vđg : Quỹ tiền lương theo đơn giá 
 Vcđ : Quỹ tiền lương chế độ 
 Vtg : Quỹ tiền lương thời gian phát sinh 
 49
* Cách xác định trả quỹ tiền lương theo đơn giá sản phẩm Vđg: 
 Vđg = TLsp + TKkg 
Trong đó : 
- TLsp : Tiền lương sản phẩm trả cho công nhân (TLcn) và nhân viên quản 
lý phục vụ phân xưởng (TLgt), công thức tính trả như sau: 
  TLsp = TLcn + TLgđ trong đó 
 * TLcn = Vđgi . qi . k . 1,05 
 . Vđgi : Đơn giá tiền lương sản phẩm thứ i 
 . qi : Số lượng sản phẩm nhập kho 
 . k : Hệ số chất lượng sản phẩm nhập kho 
 . 1,05 : hệ số bù đắp sửa chữa sản phẩm trong sản xuất 
 * TLgt = TLcn . Kgt 
 Kgt = 
cnsx
gt
QL
QL
 trong đó 
 QLgt : Quỹ tiền lương cấp bậc theo NĐ26 của bộ phận 
gián tiếp - phục vụ PX định biên 
 QLcnsx : Quỹ tiềnlương cấp bậc theo NĐ26 của công nhân 
sản xuất phân xưởng. 
Tạm thời áp dụng hệ số gián tiếp định biên cho các phân xưởng kgt = 0,3 
 TLkg : Tiền lương khoán gọn sản phẩm tính theo đơn giá khoán 
gọn sản phẩm để trả cho công nhân sản xuất và nhân viên 
gián tiếp phục vụ của phân xưởng công thức tính như sau : 
 * TLkg = Vđgkg . qi . ki 
 . Vđgkg : Đơn giá tiền lương khoán gọn sản phẩm 
 50
 . qi : Số lượng sản phẩm nhập kho 
 . ki : Hệ số chất lượng sản phẩm 
Các phân phối trả lương khoán gọn sản phẩm cho công nhân và nhân viên 
gián tiếp phục vụ phân xưởng như sau: 
 - Trả cho công nhân = 70% TLkg 
 - Còn lại trả cho nhân viên quản lý và nhập quỹ phân xưởng 
* Cách tính trả quỹ tiền lương chế độ cho phân xưởng Vcđ: 
 Vcđ = QLsx x Kcđ 
Trong đó : 
- QLsx : Quỹ tiền lương cấp bậc theo NĐ26CP của cán bộ công 
nhân viên phân xưởng. 
 - Kcđ : Hệ số tiền lương chế độ, xác định như sau: 
 Kcđ = kf + kcb 
 . kf : Hệ số nghỉ phép năm bình quân 
 kf = 
 ngµy312
 ngµy15 = 0,05 
 . kcb = 
 ngµy312
 ngµy12 = 0,05 
  kcb Là hệ số chuẩn bị sản xuất về vật tư trang bị công nghệ 
 kcb = 0,05 + 0,04 = 0,09 
* Cách tính trả quỹ lương thời gian cho phân xưởng: 
Quỹ tiền lương thời gian của phân xưởng bằng tổng tiền lương thời gian 
trả cho cán bộ công nhân viên gồm: phụ cấp trách nhiệm, vượt khung, trợ cấp 
BHXH, trả lương cho các công việc phát sinh (nghỉ lễ tết, nghỉ việc riêng có 
lương…) 
 51
II.2.5.2. Trả lương đối với đơn vị phòng ban 
* Quỹ tiền lương thực hiện của khối phòng ban gắn với quỹ tiền lương 
thực hiện của khối phân xưởng và Công ty công thức tính trả quỹ tiền lương 
thực hiện của khối phòng ban như sau: 
 Vpb = Vcty - Vpx 
Trong đó : 
- Vcty : Quỹ tiền lương thực hiện của Công ty (bằng 27% nhân với 
giá trị sản lượng sản xuất tại Công ty) 
- Vpx : Quỹ tiền lương thực hiện của khối phân xưởng, xác định 
theo Vpx = Vđg + Vcđ + Vtg (như trên). 
* Quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị phòng ban phụ thuộc vào quỹ tiền 
lương thực hiện của khối phòng ban và quỹ hệ số tiền lương định mức và hệ số 
hoàn thành của đơn vị, công thức tính như sau: 
 Vđv = (QHđm x TLmin) ki + Vtg 
Trong đó : 
 Vđv : Quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị thứ i 
 QHđm : Quỹ hệ số tiền lương định mức của đơn vị thứ i 
TLmin : Mức tiền lương tối thiểu thực hiện của khối phòng ban cách 
xác định như sau: 
 TLmin = 
n
i
idm
pb
kxQH
V
1
Trong đó : 
 Vpb : Quỹ tiền lương thực hiện của khối phòng ban 
 QHđm : Quỹ hệ số tiền lương định mức của đơn vị thứ i 
 52
 n : Hệ số đơn vị phòng ban 
ki : Hệ số hoàn thành công việc của đơn vị (do ban giám đốc quyết 
định) 
 k = 1 hoàn thành công việc 
 k = 1,05 - 1,2 hoàn thành xuất sắc 
 k = 0,7 - 0,95 không hoàn thành nhiệm vụ 
 Vtg : tiền lương thêm giờ, phụ cấp trách nhiệm, phát sinh khác 
* Cách xác định quỹ tiền lương bổ sung của đơn vị: 
- Quỹ tiền lương bổ sung của đơn vị chỉ có khi quỹ tiền lương thực hiện 
(đã trừ Vtg) lớn hơn quỹ tiền lương cấp bậc theo NĐ26CP của đơn vị, công thứ 
tính như sau: 
 Vbs = Vđv - QLđv 
Trong đó : 
 Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung đơn vị 
 Vđv : Quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị 
 QLđv : Quĩ tiền lương cấp bậc theo NĐ26CP của đơn vị. 
- Trường hợp đơn vị không có quĩ tiền lương bổ sung thì cán bộ, nhân 
viên trong đơn vị cũng không có khoản tiền lương bổ sung. Tiền lương thực tế 
của cá nhân bằng tiền lương cấp bậc được xếp theo NĐ số 26 CP. 
II.2.5.3. Trả lương đối với đơn vị kinh doanh - dịch vụ 
Quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị kinh doanh - dịch vụ (gọi tắt KD - 
DV), phụ thuộc vào kết quả doanh số bán sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, quỹ 
tiền lương thực hiện của đơn vị do đơn vị tự trả lương, công thức tính như sau: 
 Vkd = DT x Dgi 
 53
Trong đó : 
 Vkd : Quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị 
 DT : Doanh thu bán sản phẩm hàng hoá - dịch vụ 
 Đgi : Đơn giá tiền lương về kinh doanh - dịch vụ 
 Đơn giá tiền lương về kinh doanh dịch vụ do Công ty giao cho đơn vị 
theo đơn giá tiền lương kinh doanh dịch vụ được coư quan quản lý đơn giá tiền 
lương phê duyệt hàng năm. 
* Đơn giá tiền lương về KD - DV xác định theo phương pháp tính trên 
doanh thu, công thức xác định đơn giá tiền lương như sau: 
 Đgi = 
kh
kh
DT
V
Trong đó : 
 Đgi : Đơn giá tiền lương về kinh doanh - dịch vụ 
 Vkh : Quĩ tiền lương kế hoạch năm tính theo lao động định liên 
 DTkh : Doanh thu kinh doanh dịch vụ theo kế hoạch năm. 
II.2.5.4. Trả lương đối với cơ quan ban giám Đốc Công ty 
* Quỹ tiền lương thực hiện của ban Gám đốc Công ty căn cứ vào kết quả 
sản xuất - kinh doanh của Công ty. Tiền lương thực hiện của Giám đốc Công ty 
gắn với tiền lương bình quân của toàn thể cán bộ Công nhân viên Công ty, công 
thức tính trả tiền lương thực hiện của Giám đốc Công ty như sau: 
 Tgđ = Tbq x h 
Trong đó : 
 Tgđ : Tiền lương được nhận của Giám đốc Công ty 
Tbq : Tiền lương bình quân của cán bộ công nhân viên có mặt làm 
việc tại Công ty, cách xác định tiền lương bình quân như sau: 
 54
 Tbq = m
Vcty 
 Vcty : Tổng quỹ tiền lương thực hiện của Công ty 
 m : Tổng số cán bộ công nhân viên có mặt làm việc 
 h : Hệ số tiền lương của Giám đốc công ty = 3 
. Tiền lương thực hiện của phó Giám đốc và kế toán Trưởng bằng 0,85% 
tiền lương thực hiện của Giám đốc Công ty. 
. Thư ký ban giám đốc làm việc theo chế độ kiêm nhiệm hưởng phụ cấp 
trách nhiệm hàng tháng bằng 0,3 mức lương tối thiểu của công ty. 
II.2.6. Tiền lương làm thêm giờ và các khoản khấu trừ lương 
- Trong Công ty áp dụng tiền lương làm thêm giờ được nhân hệ số 1,5; 
ban đêm nhân hệ số 1,5. 
- Tình hình khấu trừ lương của người lao động : không . 
 55
CHƯƠNG III. 
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 
TIỀN LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP NÓI CHUNG VÀ 
TẠI CÔNG TY DỤNG CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ NÓI RIÊNG. 
III.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TIỀN LƯƠNG NÓI 
CHUNG VÀ TẠI CÔNG TY DỤNG CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG COƯ KHÍ NÓI RIÊNG. 
III.1.1. Nhận xét chung. 
Trong những năm qua tại Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí mặc dù 
còn rất nhiều khó khăn nhất là trong tiêu thụ hàng hoá. Song thu nhập bình quân 
của cán bộ công nhân viên trong Công ty không ngừng tăng, đảm bảo được đời 
sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên ngày càng cao. Có được 
kết qủa đó là nhờ sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong 
Công ty đặc biệt là sự quan tâm của cán bộ lãnh đạo Công ty và của cơ quan chủ 
quản. 
Đời sống của cán bộ công nhân viên được tăng cao là điều kiện quan 
trọng để tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, khuyến khích được 
người lao động tham gia các phong trào thi đua trong Công ty như phong trào thi 
đua sản xuất giỏi, lập thành tích trong sản xuất và kinh doanh, thi đua để nâng 
cao tay nghề. 
III.1.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật tiền lương nói chung và tại 
công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí nói riêng. 
Từ khi bộ luật lao động có hiệu lực pháp luật, chế định tiền lương được 
các doanh nghiệp nói chung chú trọng áp dụng vào thực tế doanh nghiệp và 
được người lao động hưởng ứng còn đối với Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ 
khí là một doanh nghiệp Nhà nước ngoài thực hiện những quy định chung về 
pháp luật tiền lương tại Bộ luật lao động là các Nghị định hướng dẫn thi hành 
 56
còn phải thực hiện những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng được áp 
dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước như Nghị định số 28 CP của Chính 
phủ về đổi mới quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp và các 
quyết định của cơ quan chủ quản về việc giao chỉ tiêu tiền lương hàng năm, trên 
tinh thần những văn bản quy phạm pháp luật về tiền lương có liên quan doanh 
nghiệp luôn luôn quán triệt để thực hiện triệt để. Cụ thể được biểu hiện ở các 
hoạt động sau: 
. Công ty đã thống nhất quản lý về lao động và tiền lương trong toàn Công ty 
. Phòng tổ chức lao động đã thực hiện tốt chức năng quản lý về lao động 
- Hàng năm phòng tổ chức lao động đã có trách nhiệm xây dựng kế hoạch 
lao động tiền lương năm căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh năm được cấp 
trên giao; báo cáo Giám đốc Công ty xét duyệt để ký trình cơ quan quản lý cấp 
trên phê duyệt quỹ tiền lương kế hoạch và đơn giá tiền lương sản phẩm, dịch vụ 
hàng năm của Công ty. 
- Phòng tổ chức lao động đã phối hợp chặt chẽ với phòng tài vụ để giám 
sát kiểm tra việc thực hiện kế hoạch lao động - tiền lương năm đã được cấp trên 
phê duyệt. Quản lý nguồn quỹ tiền lương đúng nguyên tắc là : Quỹ tiền lương 
chi trả phải gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Kết thúc 6 
tháng đầu năm và năm kế hoạch báo cáo phân tích trước ban Giám đốc Công ty 
về tình hình quản lý lao động và chi trả tiền lương trong toàn Công ty. 
Hàng tháng phòng tổ chức lao động đã tổng hợp kết quả thực hiện về lao 
động tiền lương tháng của Công ty. Báo cáo gửi ban lãnh đạo Công ty theo các 
quy định. 
. Người lao động được nhận trực tiếp các khoản tiền của đơn vị tại phòng 
tài vụ là nhân viên lao động tiền lương của đơn vị . 
. Phòng tổ chức lao động đã phối hợp tốt với phòng tài vụ thực hiện quyết 
toán quỹ lương thực hiện hàng năm, căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh và 
 57
đơn giá tiền lương cho cơ quan cấp trên giao cho Công ty. Báo cáo kịp thời, 
chính xác kết quả quỹ tiền lương thực hiện năm gửi cho cơ quan quản lý cấp 
trên cơ quan quản lý có liên quan vào các thời gian quy định hiện hành của Nhà 
nước. 
. Phòng tổ chức lao động đã thực hiện tốt chức năng tham mưu và giúp 
Giám đốc thực hiện tốt các nhiệm vụ thường xuyên của công tác tổ chức lao 
động tiền lương đã đảm bảo giải quyết kịp thời và để thực hiện tốt những quy 
định pháp luật mới về tiền lương. 
III.1.3.Những giải pháp nhằm thực hiện tốt pháp luật tiền lương tại Công ty 
Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí . 
Để thực hiện tốt hơn nữa những quy định của pháp luật về tiền lương thì 
không phải muốn thực hiện là thực hiện được mà cần phải có các điều kiện để 
thực hiện, đó là các điều kiện về vật chất, không những nó cho biết có khả năng 
thực hiện được những quy định của pháp luật về tiền lương hay không, mà nó 
còn cho biết việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền lương đến mức 
nào .Bởi lẽ đành rằng quy định của pháp luật về tiền lương đòi hỏi các doanh 
nghiệp phải có nghĩa vụ thực hiện còn thực hiện đến đâu lại tuỳ thuộc vaò tình 
hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp sản xuất kinh 
doanh thuận lợi và đạt kết quả tốt thì từ đó các quy định của pháp luật về tiền 
lương sẽ dễ dàng được thực hiện còn khi còn đảm bảo tốt hơn những quy định 
của pháp luật đối với người lao động. Ngược lại nếu tình hình sản xuất kinh 
doanh gặp khó khăn thì các quy định của pháp luật về tiền lương khó mà thực 
hiện được như vậy thì giải pháp nhằm thực hiện tốt pháp luật về tiền lương tại 
Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cũng chính là giải pháp nhằm hoạt động sản 
xuất kinh doanh của Công ty có hiệu quả là những biện pháp thuần tuý mang 
tính kinh tế. Làm thế nào để sản xuất kinh doanh có hiệu quả đây là vấn đề quá 
khó, nó động chạm đến rất nhiều vấn đề, còn những giải pháp đưa ra chỉ mang 
 58
tính tham khảo, còn thực hiện được đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của các cán bộ 
công nhân viên trong Công ty 
III.1.3.1.Tăng cường công tác tiêu thụ hàng hoá . 
Trong cơ chế thị trường tiêu thụ hàng hoá có vai trò cực kỳ quan trọng, nó có ý 
nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp .Trong cơ chế bao cấp sản xuất bao nhiêu, 
bán cho ai đều do chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước doanh nghiệp ở trong cơ chế 
bao cấp tương đối lâu cho nên tất yếu có sức ỳ do ảnh hưởng của cơ chế cũ trong 
công tác tiêu thụ để tăng cường công tác tiêu thụ đòi hỏi Công ty phải năng động 
linh hoạt trong hoạt động tìm kiếm thị trường và giới thiệu sản phẩm với ý nghĩa 
như vậy công tác tiêu thụ luôn phải được doanh nghiệp coi trong hàng đầu. Thực 
tế những năm vừa qua công tác tiêu thụ chưa được chú ý đến mức cần thiết cho 
nên sản phẩm sản xuất ra bị tồn kho rất nhiều dẫn đến Nhà nước phải lấy thuế để 
bù đắp vào số hàng tồn kho đó. 
III.1.3.2. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất sản phẩm mới. 
Để đạt được kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty không chỉ 
mãi sản xuất những sản phẩm truyền thống mà phải tìm hiểu nhu cầu thị trường 
dể có chiến lược phát triển sản phẩm mới. Việc nghiên cứu chế tạo sản phẩm 
mới là cần thiết bởi vì mỗi loại sản phẩm đều có một vòng đời nhất định từ phát 
triển chín muồi rồi suy thoái . Hơn nữa khi nền kinh tế Đất nước phát triển các 
nhu cầu ngày càng cao và đa dạng, để đáp ứng được nhu cầu đó doanh nghiệp 
phải tìm hiểu nhu cầu thị trường để đưa vào nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới 
 III.1.3.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm. 
Nâng cao chất lượng sản phẩm là một nội dung quan trọng được tất cả các Công 
ty quan tâm, bởi vì trong cơ chế thị trường chất lượng sản phẩm cũng là một yếu 
tố cạnh tranh nếu hai doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm có giá bán 
như nhau thì sản phẩm của doanh nghiệp nào tốt hơn sẽ cạnh tranh tốt hơn. Để 
nâng cao chất lượng sản phẩm doanh nghiệp phải có hệ thống kiểm tra chất 
 59
lượng đảm bảo. Trong những năm qua tại Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ 
khí sản phẩm làm ra có chất lượng rất kém nhiều khi đã tiiêu thụ rồi lại bị khách 
hàng trả lại điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của Công ty, vậy Công ty 
cần phải xem xét kịp thời tìm ra nguyên nhân tại sao để có biện pháp khắc phục 
ngay, nếu không tình thị trạng này kéo dài xẽ rất nguy hiểm đối với tiêu thụ 
hàng hoá của Công ty. 
III.1.3.4. Sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực. 
Hàng năm Công ty phải dùng rất nhiều các loại nguyên liệu để chế tạo sản 
phẩm, nếu tổ chức sản xuất tốt thì xẽ tiết kiệm nguyên nhiên liệu làm cho giá 
thành sản phẩm giảm xuống tạo cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh bằng giá 
. 
Sử dụng hiệu quả các nguồn lực còn thể hiện ở chổ biết tận dụng ngững phế liệu 
thu hồi để làm cho nó có giá trị . Việc tiết kiệm nguyên vật liệu liên quan rất lớn 
đến khâu tính định mức nguyên vật liệu, nếu tính định mức nguyên vật liệu 
chính xác không những tiết kiệm được nguyên vật liệu mà còn làm tăng chất 
lượng sản phẩm và làm giảm sự hao mòn máy móc thiết bị làm ra sản phẩm đó. 
Muốn sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu phải có nguyên liệu phù hợp để sản xuất 
sản phẩm ,sản phẩm loại nào phải có nguyên vật liệu loại đó , chứ không được 
lấy nguyên vật liệu không phù hợp, không tương ứng với chất lượng và khối 
lượng sản phẩm để sản xuất, không nên sản xuất những sản phẩm đáp ứng 
những nhu cầu thấp mà lại lấy nguyên vật liệu tốt để sản xuất sản phẩm đó. 
III.1.3.5. Giảm bớt các nhân viên trong khối các phòng ban gián tiếp sản 
xuất. 
Trong Công ty Dụng cụ cặt và Đo lường cơ khí hiên nay trong các khối phòng 
ban, đơn vị gián tiếp sản xuất chiếm rất nhiều người trong khi đó công việc 
không cần thiết phải nhiều ngươì như vậy đẫn đến năng suất rất thấp, thời gian 
nhàn rỗi nhiều trọng khi đó tỷ lệ quỹ lương dành cho khối này lại tương đối lớn 
làm cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả. 
 60
III.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG 
Nền kinh tế Việt nam đang trong quá trình chuyển đổi, đổi mới sâu rộng 
và mạnh mẽ diễn ra ở tất cả các ngành và các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực quản 
lý Nhà nước về kinh tế. Nhà nước đang từng bước để các doanh nghiệp hoạt 
động tự chủ không can thiệp sâu vào các quá trình kinh tế mà chỉ quản lý thông 
qua pháp luật chỉ đặt ra hành lang pháp lý mang tính định hướng bắt buộc các 
chủ thể phải tuân thủ. Chính trong quá trình đổi mới đó mà mọi mặt đời sống 
kinh tế xã hội thay đổi nhanh chóng cần phaỉ kịp thời có những văn bản quy 
phạm pháp luật mới ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh 
cho phù hợp để tránh nãy sinh tiêu cực và gây cản trở nền kinh tế xã hội phát 
triển, vây với ý nghĩa đó chế độ pháp luật về tiền lương với vai trò rất quan 
trọng đặc biệt chế độ tiền lương trong các doanh nghiệp cũng cần phải rà soát, 
hệ thống lại sao cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội mới. 
Theo em trong điều kiện hiện nay pháp luật tiền lương cần ban hành mới 
theo hướng tạo chủ động hơn cho ngươì sử dụng lao động trong việc tuyển 
dụng và người lao động tìm việc làm đặc biệt đối với doanh nghiệp Nhà nước 
cần bỏ chế độ giao đơn giá tiền lương và đăng ký định mức lao động làm như 
thế sẽ mang tính hình thức, chủ quan giáo điều mà chỉ nên có chính sách khuyến 
khích, định hướng trên những căn cứ thực tế để nâng cao thu nhập cho người lao 
động, kế hoạch quỹ lương đặt ra phải trên cơ sở hiệu quả sản xuất kinh doanh. 
Thực tế cho ta thấy hiện nay trong các doanh nghiệp Nhà nước việc giao đơn giá 
tiền lương và việc đăng ký định mức lao động vô hình chung đã loại bỏ yếu tố 
thị trường làm đẩy giá thành sản phẩm lên cao do chi phí về lao động thường 
chiếm tỷ trọng sản phẩm lớn của doanh nghiệp sẽ không có khả năng cạnh tranh 
trên thị trường để tồn tại doanh nghiệp thường phải dựa vào những ưu đãi bao 
cấp của Nhà nước về đất đai, vốn để giảm tỉ trọng các chi phí khác thấp xuống 
mới có thể bán được vậy thì rõ ràng thu nhập cuả người lao động trong các 
doanh nghiệp Nhà nước được đảm bảo là do những ưu đãi của Nhà nước chứ 
 61
không phải do kết quả hoạt động kinh doanh được cải thiện sẽ là phiếm diện nếu 
nói tình trạng đó là do chế độ tiền lươngkhông hợp lý bởi vì nó liên quan chạt 
chẽ có khi là hệ quả của vấn đề sở hữu chưa được rõ ràng ,tài sản Nhà nước 
dường như vừa có chủ dường như vừa vô chủ, không có trách nhiệm pháp lý rõ 
ràng thuộc về ai đối với tài sán của Nhà nước vậy để giải quyết được triệt để 
các quan hệ khác trong doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là quan hệ về tiền lương 
cần có những cơ chế chính sách mang tính chất tiền đề cần phải có quyền lợi và 
nghĩa vụ của chủ thể cụ thể đối với tài sản của Nhà nước. 
Tóm lại đã chọn phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường chúng ta phải 
chấp nhận những quy luật vốn có của nó không thể chủ quan níu kéo những cái 
gì cho là tốt đẹp, ngược lại chúng ta phải trả giá đắt cho sự học đòi. 
Trước mắt Nhà nước cần nghiên căn cứu chính sách về tiền lương tối 
thiểu là vấn đề phức tạp khi xây dựng mức lương tối thiểu phải có sự tham khảo 
ý kiến của nhiều ban ngành chức năng đặc biệt loà bên đại diện người sử dụng 
lao động và bên đaị diện người lao động. mức lương tối thiểu là cơ sở để tính 
tiền lương cơ bản và các chế độ khác cho người lao động cho nên cần xây dựng 
mức lương tối thiểu như thế nào cho phù hợp với từng ngành từng vùng từng 
doanh nghiệp . 
Khi xây dựng được mức lương tối thiểu phù hợp sẽ tạo cho thị trường lao 
động diễn ra được trôi chảy hơn, tạo ra sự năng động linh hoạt trong việc tuyển 
dụng và thuê mướn lao động đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi cho người lao 
động. 
Hiện nay đang trong quá trình xắp sếp lại và đổi mới doanh nghiệp Nhà 
nước, mức lương tối thiểu hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới và 
sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, mức lương tối thiểu được áp dụng cụ 
thể trong các doanh nghiệp phải tạo điều kiện để thực hiện chế độ tiền lương 
mới để sẵn sàng chuyển đổi doanh nghiệp cho nhanh chóng khi có quyết định. 
Mặt khác mức lương tối thiểu còn là công cụ quan trọng để điều tiết và quản lý 
lao động và tiền lương trong nền kinh tế, mức lương tối thiểu khác nhau sẽ dẫn 
 62
đến tỷ lệ thất nghiệp khác nhau, hiện tượng đó thường diễn ra theo xu hướng là: 
Khi mức lương tối thiểu quá cao sẽ dẫn đến người sử dụng lao động sẽ có nhu 
cầu sử dụng sức lao động ít đi. Vậy dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng, ngược lại nếu 
quy định mức tiền lương tối thiểu quá thấp người sử dụng lao động sẽ có nhu 
cầu sử dụng nhiều lao động hơn do vậy tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống nhưng 
nếu quy định mức lương tối thiểu quá thấp sẽ làm cho người sử dụng lao động 
lợi dụng sức lao động để bóc lột quá đáng người lao động dẫn đến việc sử dụng 
lao động trong nền kinh tế quốc dân sẽ không có hiệu quả, vậy thì mức lương tối 
thiểu như thế nào thì phù hợp, đảm bảo mục tiêu quản lý lao động và tiền lương 
trong nền kinh tế,muốn xây dựng được mức lương tối thiểu phù hợp phải dựa 
trên tổng hợp các căn cứ làm cơ sở cho việc xây dựng mức lương tối thiểu, phải 
thường xuyên xem xét để thay đổi mức lương tối thiểu kịp thời. Khi các căn cứ 
làm cơ sở xây dựng mức lương tối thiểu thường thấy như năng suất lao động xã 
hội giá cả trên thị trường, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp. . 
Hiện nay hệ thống thang lương, bảng lương có nhiều phức tạp và bất hợp 
lý gây nên việc khó khăn và nhiều tranh cãi trong việc tính lương, không phát 
huy được tối đa nguồn lực sức lao động, gây bất công bằng giữa các ngành và 
các vùng.... 
Trong quá trình sản xuất người lao động sử dụng cơ bắp và trí não tác 
động vào đối tượng lao động, trong quá trình đó diễn ra đồng thời hai loại hao 
phí là hao phí trí lực và hao phí sức lực, có được nhờ sự phát triển của các cơ 
báp, trí lực,để đáp ứng được yêu cầu công việc nào đó thì cần phải học hỏi 
. Trí lực ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, người 
lao động đòi hỏi cần phải có trình độ, tay nghề hơn và có nhiều kỹ năng, kỹ sảo 
trong sản xuất, căn cứ vào mức hao phí sức lực và trí lực trong quá trình sản 
xuất của các loại công việc để người ta xây dựng hệ thống thang bảng lương là 
sự thể hiện của sự lượng hoá hao phí lao động trong quá trình sản xuất. Vậy lấy 
cái cụ thể để đo cái trìu tượng thì thật là khó chính xác và hoàn toàn mang tính 
tương đòi đòi hỏi mất nhiều thời gian công sức để tính toán, việc xác định thang 
 63
lương, bảng lương phức tạp như vậy nếu không cẩn thận sẽ dẫn đến sailệch lớn 
mà nếu có chính xác đi chăng nữa thì cũng chỉ được trong một thời kỳ nhất định, 
như vậy thang lương bảng lương sẽ mang tính cứng nhắc mặt khác việc xác định 
thang lương, bảng lương dù có phản ánh chính xác mức hao phí lao động trong 
quá trình sản xuất đi trăng nữa nhưng trong thực tế thị trường lại không chấp 
nhận như vậy vì hiếm khi có sự hoàn hảo trong cơ cấu các ngành nghề .Ví dụ 
:Nếu một công việc náo đó có hao phí sức lao động cả về chí lực và thể lực 
nhiều để làm ra một sản phẩm nhất định nhưng sản phẩm đó lại không được 
người tiêu dùng chấp nhận tương ứng với mức độ hao phí với sức lao động đó 
dẫn đến việc hao phí sức lao động là không có hiệu quả và lãng phí trong khi 
Nhà nước quy định thang lương bảng lương thì người lao động này không hề gì 
họ vẫn có thể yên tâm làm việc không có hiệu quả đó vì vẫn được đảm bảo tiền 
lương dẫn đến lao động xã hội là không có hiệu quả mất cân đối giữa các ngành 
nghề, vùng trên Nhà nước không xây dựng thang bảng lương mà để cho tự thị 
trường quyết định thì người lao động này sẽ tự động thôi không làm việc này 
nữa, đi tìm công việc khác để làm có hiệu quả hơn, dẫn đến lao động xã hội tự 
động điều chỉnh đến cơ cấu hợp lý và có hiệu quả. Vậy vấn đề cuối cùng đặt ra 
là có nên có hệ thống thang lương bảng lương hay kkhông, câu trả lời là có 
nhưng chỉ nên có ở các ngành, lĩnh vực như: nghiên cứu khoa học, giáo dục đào 
toạ, y tế, quản lý hành chính.... còn không nên quy định hệ thống thang lương 
bảng lương trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà để tự thị trường điều 
chỉnh và tự người sử dụng lao động, và người lao động thoả thuận . 
-Cuối cùng khâu tổ chức thực hiện. Để đảm bảo pháp luật tiền lương được 
thực hiện một cách nghiêm chỉnh thì cần tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất 
và có sự giá sát kiểm tra để chỉ đạo kịp thời khi có mắc mứu sảy ra, tránh tình 
trạng chủ trương chính sách đưa ra thì đúng, đến khi thực hiện thì sai hoặc cố 
tình thực hiện sai. Khâu xây dựng văn bản pháp luật đã đành là quan trọng 
nhưng việc tổ chức thực hiện để đưa văn bản pháp luật vào thực tế cuộc sống lại 
càng quan trọng hơn, việc tổ chức thực hiện tốt sẽ có những thông tin phản hồi 
 64
quý báu, ngược trở lại đối với việc xây dựng văn bản pháp luật. Hiện nay việc tổ 
chức thực hiên của ta để đưa chủ trương chính sách vào thực tế cuộc sống còn 
rất yếu trong khi đó bộ phân có chức năng này không phải là nhỏ do đó cần phải 
tìm hiểu nguyên nhân tại sao là do coi thường pháp luật hay do nhận thức còn 
yếu kém hay do không có cơ chế pháp lý gắn trách nhiêm cho các đối tượng cụ 
thể ...Tất cả các nguyên nhân đó cần phải xêm xết đến để có biện phấp khắc 
phục ngay . 
-Vấn đề con người cũng có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng ban 
hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền lương cũng như trong việc qỷan lý lao 
động về tiền lương. Các nhà làm luật cần tham khảo tìm hiểu pháp luật tiền 
lương của các nước đồng thời phân tích, tìm hiểu kỹ tình hình kinh tế xã hội của 
đất nước để ban hành pháp luật tiền lương cho phù hợp ở từng thời kỳ.Việc xây 
dựng pháp luật tiền lương phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý 
lao động và tiền lươnh ngược lai có quản lý tốt lao động và tiền lương mới đánh 
gia hết được tính hiệu quả và phù hợp của pháp luật, muốn vậy cần phải chủ 
đông, có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn để quản lý lao 
động và tiền lương. 
 KẾT LUẬN 
Dưới góc độ phân phối thu nhập quốc dân tiền công tiền lương là bộ phận 
cấu thành quan trọng trong thu nhập quốc dân vì nó chiếm một tỷ trọng lớn 
trong thu nhập quốc dân nhận thức được vấn đề đó để có chính sách thích hợp 
về lao động và tiền lương, từ đó huy động được tối đa nguồn lực con người vào 
ht kinh tế xã hội, có chính sách, chế độ về lao động và tiền lương hợp lý sẽ khơi 
đậy được những tiềm năng lao động, sẽ khuyến khích người lao động tham gia 
tích cực vào hoạt động lao động. Đó chính là một trong những biện pháp nhằm 
tăg trưởng và phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững nhất vì nó lấy tăng mức 
 65
sống cho người lao động làm tiền đề, mặt khác khi nguồn lực lao động được huy 
động vào sản xuất sẽ giải quyết được những vấn đề xã hội bức xúc như thất 
nghiệp, mại dâm… 
Hiện nay, tại các doanh nghiệp nhà nước nói chung và tại công ty dụng cụ 
cắt và đo lường cơ khí nói riêng nhà nước có các chính sách để tăng thu nhập 
cho người lao động nhưng chưa thực sự xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh 
doanh. Đây là một vấn đề lớn nó liên quan đến sắp xếp lại và đổi mới các doanh 
nghiệp nhà nước, nhà nước coi đổi mới quản lý tiền lương là tiền đề để sắp xếp 
lại doanh nghiệp nhà nước. Song có lẽ khó xác định được liệu nó nhất thiết có 
phải là tiền đề hay không hay trong chừng mực nào đó nó đan xen và cải thiện 
lẫn nhau. 
Tiến tới tiếp tục thực hiện chủ trương mạnh mẽ về sắp xếp và đổi mới lại 
các doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách mạnh mẽ 
và đồng bộ trong đó tiền lương là công cụ hữu hiệu để thực hiện thành công nếu 
biết sử dụng một cách hợp lý. 
Cuối cùng chúng ta tin tưởng rằng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và 
Nhà nước giám đi thẳng vào những vấn đề vốn có để có những chủ trương, 
chính sách đúng đắn thì thành phần kinh tế nhà nước cụ thể là những doanh 
nghiệp nhà nước sẽ giữ được vai trò chủ đạo để đỡ đần dẫn dắt các thành phần 
kinh tế khác theo định hướng XHCN. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ luật lao động - Nước CHXHCNVN 
 66
2. Nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ về đổi mới 
quản lý quỹ tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp nhà nước. 
3. Nghị định số 26/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm 
thời chế độ tiền lương mới trong các doanh nghiệp 
4. Giáo trình luật lao động - Khoa Luật trường Đại học khoa học Xã 
hội và nhân văn. 
5. Giáo trình kinh tế lao động 
6. Nghị định số 197/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về 
tiền lương. 
7. Thông tư số 10 - LĐTBXH/TT ngày 19/4/1995 hướng dẫn thực 
hiện một số điều của NĐ số 197 ngày 31/12/1999 của Chính phủ 
về tiền lương. 
 67
MỤC LỤC 
Trang 
LỜI NÓI ĐẦU. ..................................................................................................................... 1 
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TIỀN LƯƠNG................. 4 
I.1 Khái niệm và ý nghĩa của tiền lương ......................................................... 4 
I.1.1. Khái niệm tiền lương ......................................................................... 4 
I.1.2. Ý nghĩa pháp lý của tiền lương .......................................................... 7 
I.2. Một số nguyên tắc cơ bản điều chỉnh pháp luật tiền lương : ..................... 8 
I.3. Chế độ tiền lương theo pháp luật hiện hành : .......................................... 11 
1.3.1. Lương cơ bản. ................................................................................. 11 
I.3.2. Lương tối thiểu : ............................................................................. 11 
I.3.3 Thang lương, Bảng lương ................................................................. 15 
I.3.4. Hình thức trả lương : ....................................................................... 17 
I.3.5. Chế độ tiền thưởng : ........................................................................ 20 
I.3.6. Chế độ phụ cấp : .............................................................................. 22 
I.3.7. Chế độ trả lương trong một số trường hợp khác : ............................ 24 
I.4 Tiền lương trong doanh nghiệp ...................................
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp nói chung và tại Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí nói riêng.pdf