Báo cáo Tốt nghiệp Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội

Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội: Trang 1 Báo cáo tốt nghiệp “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội”. Trang 2 Mục lục Báo cáo tốt nghiệp ......................................................................................... 1 LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 4 CHƯƠNG I ................................................................................................... 7 I. CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. ..................................................... 7 1. Nghiệp vụ nợ.............................................................................................. 9 1.1. Tiền gửi.................................................................................................... 9 1.2. Vay các ngân hàng khác ........................................................................ 10 1.3. Vốn của ngân hàng .......................

pdf88 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 Báo cáo tốt nghiệp “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội”. Trang 2 Mục lục Báo cáo tốt nghiệp ......................................................................................... 1 LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 4 CHƯƠNG I ................................................................................................... 7 I. CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. ..................................................... 7 1. Nghiệp vụ nợ.............................................................................................. 9 1.1. Tiền gửi.................................................................................................... 9 1.2. Vay các ngân hàng khác ........................................................................ 10 1.3. Vốn của ngân hàng ................................................................................ 10 2. Nghiệp vụ có ............................................................................................ 11 3. Nghiệp vụ trung gian (thanh toán) .......................................................... 12 3.1. Thanh toán bằng séc .............................................................................. 12 3.2. Uỷ nhiệm chi .......................................................................................... 13 3.3. Uỷ nhiệm thu .......................................................................................... 13 3.4. Thư tín dụng........................................................................................... 13 4. Mối quan hệ giữa các nghiệp vụ ngân hàng ........................................... 13 II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ..... 14 1. Khái niệm tín dụng .................................................................................. 14 2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ............................................................................................... 14 III. CÁC LOẠI HÌNH TÍN DỤNG CỦA NHTM ........................................... 17 1. Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng: ...................................................... 17 1.1. Căn cứ thời gian cấp tín dụng:.............................................................. 17 1.2. Căn cứ thành phần kinh tế: .................................................................... 18 1.3. Căn cứ mục đích sử dụng vốn: ............................................................... 18 1.4. Căn cứ tính chất bảo đảm: ..................................................................... 18 1.5. Căn cứ phương pháp hoàn trả: .............................................................. 18 1.6. Căn cứ nguồn phát sinh các khoản tín dụng: ......................................... 19 2. Căn cứ theo kỹ thuật cấp tín dụng: ........................................................ 19 2.1. Chiết khấu thương phiếu ........................................................................ 19 2.2. Tín dụng thấu chi (vượt chi, ứng chi) ..................................................... 20 2.3. Tín dụng thuê mua (leasing) ................................................................... 20 2.4. Tín dụng trả góp .................................................................................... 21 2.5. Tín dụng bảo lãnh .................................................................................. 21 2.6. Tín dụng vãng lai ................................................................................... 22 2.7. Tín dụng cầm đồ .................................................................................... 22 1. Khái niệm chất lượng tín dụng: .............................................................. 23 Trang 3 2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng .............................................. 23 2.1. Các chỉ tiêu định tính ............................................................................. 23 2.2. Các chỉ tiêu định lượng .......................................................................... 26 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ..................................... 28 3.1. Các yếu tố môi trường ........................................................................... 28 3.2. Các yếu tố thuộc về khách hàng ............................................................. 29 3.3. Các yếu tố thuộc về ngân hàng .............................................................. 31 CHƯƠNG II ................................................................................................ 34 1. Đôi nét về Ngân hàng TMCP Á Châu & Chi nhánh Hà Nội ................. 34 1.1 Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu (ACB). .......................................... 34 1.2. Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu - Chi nhánh Hà Nội. .................... 35 2. Tình hình kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội .............. 36 2.1. Tình hình huy động vốn .......................................................................... 37 Bảng 2. Tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội. 39 Đơn vị:triệu đồng .......................................................................................... 40 Đơn vị: triệu đồng ......................................................................................... 42 2.2. Tình hình sử dụng vốn ............................................................................ 44 Bảng 5. Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội... 45 II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU HÀ NỘI ........................................................................................ 50 Bảng 6. Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội... 50 Tcv ................................................................................................................. 50 Thđ................................................................................................................. 50 Bảng 7. Hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội ... 51 Biểu 8-a: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội .. 53 Bảng 9. Kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội ....... 53 2. Nhận xét về chất lượng tín dụng tại ngân hàng á Châu Hà Nội ............ 53 2.1. Những mặt đạt được .............................................................................. 53 Thứ tư: Thẩm định tín dụng ......................................................................... 54 Thứ năm: Công nợ ....................................................................................... 54 2.2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân .................................................. 55 CHƯƠNG III .............................................................................................. 60 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO .................................... 60 1. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước và ngân hàng cấp trên ............. 62 1.1. Các kiến nghị đối với Ngân Hàng Nhà Nước ........................................ 62 1.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Á Châu - Hội sở ....................................... 72 Thứ tám: Các kiến nghị về các vấn đề khác ................................................. 77 2. Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội ............................ 78 3. Kiến nghị đối với khách hàng ................................................................. 85 KẾT LUẬN ................................................................................................. 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 88 Trang 4 LỜI MỞ ĐẦU Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chiến lược phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, nhằm thực hiện mục tiên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Thực hiện chủ trương trên, từ sau đại hội 6 của Đảng (12/1986) đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính sách nhằm khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, cùng với các doanh nghiệp quốc doanh, các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh như các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần... đã phát triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và ngày càng thể hiện vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, các doanh nghiệp ở nước ta tuy có tốc độ phát triển tương đối khá nhưng gặp khó khăn về nhiều mặt: thiết bị và công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức và quản lý yếu kém, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập khẩu lậu cạnh tranh gay gắt... Khó khăn lớn nhất hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp là vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ... Thực trạng nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng các doanh nghiệp trong nước tích luỹ nội bộ thấp, vốn tự có ít nên hầu như đều trong tình trạng thiếu vốn, làm giảm khả năng cạnh tranh. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vốn trong nước, mặt khác, trong những năm từ 1996 đến nay, đầu tư nước ngoài đã bắt đầu chững lại. Nắm bắt được nhu cầu của thị trường, hệ thống ngân hàng đã tăng cường hoạt động của mình để góp phần cung cấp vốn cho nền kinh tế nhằm đem lại vốn cho các doanh nghiệp, đồng thời mang lại lợi nhuận cho mình. Trang 5 Hoà nhập chung với sự phát triển kinh tế đất nước, hoạt động của ngành ngân hàng đã có những bước chuyển biến tích cực. Hệ thống ngân hàng một cấp đã được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp, có sự phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tín dụng, tiền tệ, cung ứng và điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước với chức năng kinh doanh tín dụng, tiền tệ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ của Ngân hàng thương mại. Trong vài năm gần đây, các Ngân hàng thương mại đã cung cấp tín dụng, góp phần đáng kể vào tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa nhiều rủi ro nhất, ngay cả đối với những khoản cho vay có tài sản cầm cố, thế chấp, hệ số rủi ro cũng được xác định là 50% (theo Uỷ ban Bale quốc tế). Vì vậy, vấn đề chất lượng tín dụng không phải là điều mới mẻ, nhưng là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các Ngân hàng hiện nay. Đây là vấn đề đang được tranh luận, trao đổi và tìm biện pháp hữu hiệu để thực hiện. Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội (ACB Hà Nội) cũng không nằm ngoài tình hình này. Ngân hàng hoạt động trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, nơi nhiều doanh nghiệp lớn đặt trụ sở, mặc dù mới được thành lập nhưng ngân hàng á Châu Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công tác tín dụng, song bên cạnh đó ngân hàng cũng có nhiều khoản nợ quá hạn có nguy cơ không thu hồi được đầy đủ. Trong quá trình làm việc tại Phòng Tín dụng Ngân hàng á Châu Hà Nội, Tôi đã nhận thức được vấn đề chất lượng tín dụng có ý nghĩa thiết thực cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Do đó, Tôi đã quyết định đi sâu tìm hiểu nghiên cứu chất lượng công tác tín dụng. Trên cơ sở đó và các vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với ngân hàng, Tôi xin trình bày trong “Luận văn tốt nghiệp” của mình vấn đề: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội”. Đề tài gồm ngoài Lời nói đầu và Kết luận gồm 3 phần chính: Trang 6 Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội Trang 7 CHƯƠNG I NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ I. CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tổng số tài sản nợ của các NHTM bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản nợ của các ngân hàng khác và tổ chức tài chính phi ngân hàng. NHTM hoạt động theo định chế tổ chức tài chính mang tính tổng hợp hơn các tổ chức trung gian tài chính khác. Ngoài ra, NHTM còn là thành viên chủ yếu tham gia vào hoạt động của thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn. Luật Các Tổ chức Tín dụng được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua trong kỳ họp thứ 2, tháng 12 năm 1997, đã định nghĩa Ngân hàng nói chung, Ngân hàng thương mại nói riêng như sau: “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chát và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân khác.” Cũng theo Luật Ngân hàng, tại điều 20 khoản 10: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy Luật đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Trong đó có hai nghiệp vụ cơ bản: - Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước. - Sử dụng các khoản tiền gửi đó để cho vay các cá nhân, tổ chức, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và cung ứng các dịch vụ thanh toán... Từ năm 1989 trở về trước, khi Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp, lúc đó trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có Ngân hàng Nhà Nước Trang 8 Việt Nam (NHNN) và các chi nhánh của nó hoạt động. Khi đó NHNNVN vừa đóng vai trò của Ngân hàng Trung ương vừa đóng vai trò của Ngân hàng thương mại. NHNN vừa là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động ngân hàng, quản lý tiền tệ....; vừa trực tiếp kinh doanh tiền tệ như ngân hàng thương mại: hoạt động tín dụng, thanh toán.... Tháng 5/1990 Hội đồng Nhà nước đã thông qua và công bố hai Pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính, hiệu lực thi hành bắt đầu từ tháng 10 năm 1990. Định hướng cơ bản của các Pháp lệnh ngân hàng là tách bạch hai chức năng: Chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh trong ngành ngân hàng. NHNN là ngân hàng trung ương, có chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng; còn chức năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng thuộc về các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Từ đó: - Tạo lập một hệ thống NHTM và Tổ chức tín dụng được phép kinh doanh tiền tệ - tín dụng và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ của pháp luật Nhà nước. - Đa dạng hoá các loại hình: Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng. - Đa dạng hoá về sở hữu: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. - Tăng cường tính độc lập tự chủ trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng. - Từng bước tạo lập môi trường, điều kiện nhằm bảo vệ người gửi tiền, người cho vay, người vay tiền để sản xuất kinh doanh... , từ đó làm cho hoạt động của hệ thống ngân hàng được an toàn, tránh rủi ro. Với định hướng trên, trong những năm qua, hệ thống ngân hàng cấp II - cấp kinh doanh: ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, đã được thành lập và phát triển nhanh chóng. Hệ thống ngân hàng cấp kinh doanh đã, đang và sẽ tạo lập ra thị trường tiền tệ ngày càng lành mạnh, chấp nhận cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, với nhiều loại hình, nhiều loại sở hữu trong nước và nước ngoài. Theo báo cáo của NHNN, hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay gồm: Trang 9 - 4 NHTM quốc doanh: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Hệ thống các NHTM quốc doanh có hàng trăm chi nhánh, hàng ngàn phòng giao dịch đặt trụ sở trên phạm vi toàn quốc. - 53 NHTM cổ phần gồm: 38 ngân hàng cổ phần đô thị, 15 ngân hàng cổ phần nông thôn. - 2 công ty tài chính cổ phần. - 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài. - 19 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong hệ thống NHTM nhiều thành phần nói trên, sự hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó bốn NHTM và các công ty tài chính quốc doanh hiện nay vẫn giữ vai trò chủ đạo. Hoạt động của NHTM bao gồm ba nghiệp vụ chính sau: 1. Nghiệp vụ nợ Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này nhằm mục đích tạo nguồn vốn cho nghiệp vụ có. Thực chất nghiệp vụ này là việc ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nghiệp vụ này bao gồm: 1.1. Tiền gửi Tiền gửi là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ này là đặc trưng cơ bản trong nghiệp vụ nợ của ngân hàng. Tiền gửi bao gồm các loại: - Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn). Tiền gửi thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ và thực hiện các khoản chi khác. Đây không phải là tiền để dành mà là bộ phận tiền đang chờ thanh toán, vì vậy khách hàng có thể rút tiền ra hoặc sử dụng thanh toán bất cứ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản: + Tài khoản séc: Tài khoản này có số dư có, khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của mình. Trang 10 + Tài khoản vãng lai: Tài khoản này lúc có số dư nợ, lúc có số dư có. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng và số dư nợ thể hiện khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận thời gian rút tiền giữa ngân hàng và khách hàng. Như vậy, theo nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đã đến hạn thoả thuận, tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn nhưng không được hưởng lãi suất hoặc hưởng lãi suất thấp. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì vậy các ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này. Có các loại tiền gửi: ngắn hạn (dưới 12 tháng), trung hạn (1 - 5 năm), dài hạn (trên 5 năm). Mỗi kỳ hạn có một lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao. - Tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi, để dành của cá nhân, tổ chức được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Có hai loại tiền gửi là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. - Các hình thức huy động khác Ngoài huy động dưới hình thức tiền gửi, NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Chứng chỉ tiền gửi là loại phiếu nợ ngắn hạn (dưới 12 tháng), trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. 1.2. Vay các ngân hàng khác Ngoài tiền gửi và huy động tiền qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, NHTM còn vay vốn qua các NHTM khác hoặc NHTW. 1.3. Vốn của ngân hàng Vốn của ngân hàng bao gồm: vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, lợi nhuận giữ lại và các loại quỹ khác. - Vốn điều lệ Trang 11 Vốn điều lệ là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu tự nguyện đóng góp. Nếu là ngân hàng quốc doanh thì chủ sở hữu góp vốn là nhà nước, nếu là ngân hàng cổ phần thì là các cổ đông. Vốn điều lệ của ngân hàng được ghi trong giấy phép hoạt động và điều lệ ngân hàng (mức vốn này lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định - mức tối thiểu do nhà nước quy định cho mỗi loại hình ngân hàng). - Các quỹ dự trữ: + Quỹ dự trữ đặc biệt: là loại vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bù đắp các rủi ro trong quá trình hoạt động. Hàng năm ngân hàng phải trích 10% trên lợi nhuận ròng cho đến khi bằng vốn pháp định. + Quỹ dự trữ: là loại vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn pháp định. Theo Pháp lệnh ngân hàng Việt Nam, hàng năm ngân hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quỹ này, còn mức tối đa do NHNN quy định. Theo Pháp lệnh ngân hàng: NHTM có thể huy động tối đa bằng 20 lần vốn tự có của ngân hàng, như vậy vốn của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng tài sản có. Đối với các ngân hàng nhỏ và các ngân hàng mới thành lập, vốn này chủ yếu để xây dựng trụ sở làm việc và mua sắm trang bị kỹ thuật cho hoạt động của ngân hàng, chỉ có một phần vốn này được dùng vào hoạt động kinh doanh: đầu tư vào các doanh nghiệp khác hoặc cho vay. 2. Nghiệp vụ có Nghiệp vụ có là nghiệp vụ có nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng. Song nó cũng chính là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tài sản có của ngân hàng bao gồm 4 khoản mục chính: - Các khoản mục về ngân quỹ. - Tín dụng. - Đầu tư (chứng khoán). - Tài sản có khác. Trang 12 Nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng nhằm quản lý tốt tài sản có để đem lại lợi nhuận cao nhất, đồng thời rủi ro thấp nhất về phía ngân hàng. 2.1. Các khoản mục ngân quỹ, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại ngân hàng khác, các khoản ngân quỹ trong quá trình thu nhận. 2.2. Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Trong các khoản mục thuộc tài sản có, nghiệp vụ tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất, có thể lên đến 70 - 80% tổng tài sản có của ngân hàng. 2.3. Đầu tư, bao gồm: mua trái phiếu, tín phiếu của Chính Phủ hoặc của các doanh nghiệp khác. Đầu tư trực tiếp bằng cách mua cổ phiếu của các công ty... 2.4 Tài sản có khác, bao gồm: tài sản cố định của ngân hàng, các trang thiết bị khác. Tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất đồng thời cũng rủi ro nhất của ngân hàng. Trong phần sau Tôi xin trình bày rõ hơn về nghiệp vụ này. 3. Nghiệp vụ trung gian (thanh toán) Có hai hình thức thanh toán: dùng tiền mặt và không dùng tiền mặt (chi trả qua tài khoản ở ngân hàng, nghĩa là ngân hàng căn cứ vào các chứng từ để chuyển tiền từ tài khoản của doanh nghiệp này sang tài khoản của doanh nghiệp khác). Trong đó bao gồm các hình thức thanh toán sau: 3.1. Thanh toán bằng séc Séc nghĩa là lệnh chi tiền. Có nhiều cách phân loại séc, thông thường, người ta phân chia theo tiêu thức người phát hành, có hai loại: - Séc của ngân hàng đối với ngân hàng. - Séc của khách hàng ra lệnh cho ngân hàng chi tiền. Loại này được chia làm 2 loại: + Séc tiền mặt: là chứng từ để chủ tài khoản nhận tiền mặt từ ngân hàng về hoặc ra lệnh cho ngân hàng chi tiền mặt cho người thứ ba. + Séc chuyển khoản: là chứng từ sử dụng để chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác. Loại này bao gồm: Trang 13 ++ Séc chuyển khoản thông thường: là loại séc mà chủ tài khoản được quyền viết vào tờ séc giao trực tiếp cho người thụ hưởng mà không đòi hỏi một điều kiện ràng buộc nào. ++ Séc bảo chi: là loại séc chuyển khoản được ngân hàng bảo chi. Thường có hai loại là bảo chi từng tờ séc và bảo chi cả quyển séc. 3.2. Uỷ nhiệm chi Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản giao trực tiếp cho ngân hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá hoặc dịch vụ đã nhận. 3.3. Uỷ nhiệm thu Uỷ nhiệm thu là chứng từ người bán nhờ ngân hàng thu hộ tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung cấp cho người mua. 3.4. Thư tín dụng Thư tín dụng là hình thức thanh toán có sự bảo đảm của ngân hàng đối với cả người mua và người bán. Người bán nhận được tiền nếu cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo đúng hợp đồng. Người mua chỉ phải trả tiền khi nhận được hàng hoá theo đúng hợp đồng. Ở Việt Nam trước đây chủ yếu dùng séc bảo chi. Trong trường hợp thanh toán bằng séc thông thường (không phải là bảo chi) thì không có lợi cho người bán vì người bán không nắm được số dư trên tài khoản của người mua. Trường hợp người mua phát hành séc quá số dư thì người bán không nhận được tiền thanh toán. Trong thời gian gần đây, do quan hệ kinh tế ngày càng phát triển nên việc thanh toán sử dụng uỷ nhiệm chi và thư tín dụng cũng rất phát triển, đặc biệt trong quan hệ thanh toán quốc tế. 4. Mối quan hệ giữa các nghiệp vụ ngân hàng Các nghiệp vụ của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó nghiệp vụ tài sản nợ (huy động vốn) quyết định quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Nghiệp vụ tài sản có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nghiệp vụ tài sản nợ. Nghiệp vụ trung gian sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển các nghiệp Trang 14 vụ tài sản nợ và có. Nói cách khác, nghiệp vụ trung gian là nghiệp vụ tiền đề, là điều kiện để duy trì và phát triển các nghiệp vụ khác. Tuy nhiên, trong các nghiệp vụ của ngân hàng, đặc biệt là đối với các ngân hàng Việt Nam thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Vì thế nó đóng vai trò quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là hoạt động mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn tiến hành cung cấp các dịch vụ khác để tăng lợi nhuận cho ngân hàng như: dịch vụ bảo quản các giấy tờ có giá, dịch vụ uỷ thác đầu tư, dịch vụ tư vấn, mối giới cho khách hàng... II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1. Khái niệm tín dụng Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Nhìn chung, trong các khoản mục thuộc tài sản có, nghiệp vụ tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất (có thể lên tới 70% - 80% tài sản có), đây cũng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Tín dụng là một khái niệm chỉ những quan hệ kinh tế giữa ngân hàng, các tổ chức tài chính với các nhà doanh nghiệp và tư nhân. Nói cách khác, nó thể hiện quan hệ vay mượn có hoàn trả giữa người vay và người cho vay cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, kèm theo các điều kiện đảm bảo, theo thoả thuận giữa hai bên. 2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Trong quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường, xuất hiện rất nhiều các thành phần, các chủ thể kinh tế. Hàng loạt các công ty ra đời, các cá nhân tự do buôn bán cũng xuất hiện rất nhiều. Trong số họ, không phải ai cũng có đủ vốn để sản xuất, kinh doanh vì thế nhu cầu vay vốn của ngân hàng ngày càng tăng. Tín dụng của các NHTM có một số vai trò chủ yếu như sau: 2.1. Tín dụng ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của tất cả các thành phần kinh tế, trên cơ sở đó cho các doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trang 15 Để thực hiện nghiệp vụ tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội, các ngân hàng cần phải tìm kiếm nguồn vốn. Vốn ngân hàng bao gồm vốn huy động từ các thành phần kinh tế và vốn tự có của ngân hàng. Việc tìm kiếm nguồn vốn là một thực tế khách quan. Trong quá trình hoạt động, kinh doanh có nhiều đơn vị, tổ chức kinh tế, tổ chức văn hoá xã hội, các tầng lớp dân cư trong và ngoài nước, Chính phủ... có tiền nhàn rỗi chưa dùng đến, họ đem tiền gửi vào ngân hàng vừa được hưởng lãi vừa không phải mất chi phí cất giữ, đồng thời lại thuận tiện trong việc thanh toán với các đối tác khác thông qua ngân hàng. Như vậy, ngân hàng là một trung gian tài chính có vai trò rất quan trọng trong việc điều chuyển vốn từ nơi nhàn rỗi sang nơi cần vốn. 2.2. NHTM cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn chủ yếu nhằm bổ sung phần vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc làm dịch vụ của doanh nghiệp. Trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp luôn phát sinh những khoản mua chịu, bán chịu. Vì thế, phần vốn lưu động còn thiếu này phát sinh do có sự không ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi. Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp đã làm cho một số doanh nghiệp bị lúng túng như khi cần mua vật tư, nguyên liệu, thiết bị, phụ tùng... thì không có tiền để mua, do đó khi có điều kiện bán được hàng thì lại không có hàng để mà bán. Đặc biệt do cạnh tranh trên thương trường ngày càng ác liệt, các doanh nghiệp luôn phải chứng tỏ được ưu thế vượt trội về khả năng chiếm lĩnh thị trường và khách hàng nên các doanh nghiệp càng cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường. 2.3. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Muốn khai thác tốt nhất lao động tài nguyên, ngành nghề trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng cơ sở thì phải tiến hành phân công lại lao động, phân bố lại dân cư, tổ chức lại sản xuất, đổi mới quản lý. Tất cả những việc đó chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là phải có nguồn vốn tương ứng. Trang 16 Giải quyết vốn cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, có nhiều nguồn, nhiều kênh. Nhưng do bản chất của tín dụng ngân hàng là vay bảo đảm hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay, nên nó có thể huy động được một khối lượng vốn nhàn rỗi rất lớn. Ưu thế nổi bật của hoạt động tín dụng ngân hàng là không làm tăng khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Với chức năng đi vay, tín dụng ngân hàng “hút” lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Với chức năng cho vay, tín dụng ngân hàng “đẩy” tiền ra lưu thông khi tiền trong lưu thông thiếu. Như vậy, tín dụng ngân hàng góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, làm cho quan hệ tiền - hàng cân đối. Vì thế, tín dụng cũng là một công cụ để chống lạm phát, ổn định tiền tệ, giá cả, góp phần tạo điều kiện ổn định, thuận lợi trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp, đồng thời còn có lợi cho người tiêu dùng. 2.4. Chính sách lãi suất tín dụng áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, triệt để khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.5. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu. Thực hiện yêu cầu ấy, nếu chỉ dựa vào sự tích luỹ của chính bản thân doanh nghiệp thì không đủ ngay cả đối với những doanh nghiệp lớn. Nhưng nếu thông qua sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng thì việc đó có thể thực hiện một cách nhanh chóng. Ở nước ta hiện nay, tuy đã qua mười năm đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vẫn còn trong quá trình tổ chức và tổ chức lại. Nhiều doanh nghiệp rất cần vốn để đầu tư máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu, năng lượng và lao động hoặc đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ thuật và từng bước hiện đại hoá. Nhiều doanh nghiệp mới hình thành đang rất cần vốn hoạt động. NHTM đã cung cấp vốn phục vụ những nhu cầu đó của các doanh nghiệp. Mặt khác, trong thời gian quan, NHTM còn phải tập trung một lượng vốn lớn đầu tư cho các công trình trọng điểm của nhà nước. Trang 17 2.6. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. Trong cơ chế thị trường, việc sản xuất kinh doanh vì động cơ lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành kinh doanh sản xuất khác nhau. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành, sản xuất ra cùng một loại hàng hoá. Mục đích của cạnh tranh là giành ưu thế trong sản xuất để có ưu thế trong tiêu thụ, nhằm thu hút lợi nhuận siêu ngạch. Điều kiện để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này là doanh nghiệp phải có vốn khá lớn để đổi mới kỹ thuật và công nghệ, cải tiến tổ chức và quản lý, nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá do doanh nghiệp của mình sản xuất ra thấp hơn giá thị trường. Thực hiện yêu cầu này, các doanh nghiệp cần có vốn hỗ trợ của các ngân hàng. Việc tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong lĩnh vực khác có ý nghĩa nhiều mặt. Một mặt, đó là việc tín dụng ngân hàng với chức năng phân phối thực hiện sự phân phối lại vốn giữa các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế quốc dân một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mặt khác, đó là việc tín dụng ngân hàng góp phần vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành trong nền kinh tế một cách hợp lý. III. CÁC LOẠI HÌNH TÍN DỤNG CỦA NHTM Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau thì việc phân loại nghiệp vụ tín dụng cũng khác nhau. Sau đây Tôi xin liệt kê các tiêu thức , căn cứ vào đó người ta phân loại các loại hình tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các khách hàng của mình. 1. Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng: 1.1. Căn cứ thời gian cấp tín dụng: - Tín dụng có kỳ hạn: là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ: Trang 18 + Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu nhằm bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân. + Tín dụng trung và dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng, mục đích chính nhằm bổ sung vốn cố định cho các doanh nghiệp và cá nhân. - Tín dụng không kỳ hạn: là loại tín dụng được ứng dụng đối với các khoản vay không xác định rõ thời hạn trả nợ. 1.2. Căn cứ thành phần kinh tế: - Tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh. - Tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 1.3. Căn cứ mục đích sử dụng vốn: - Tín dụng công nghiệp. - Tín dụng thương mại. - Tín dụng nông nghiệp. - Tín dụng tiêu dùng. - Tín dụng kinh doanh bất động sản. - Tín dụng kinh doanh chứng khoán. - Tín dụng đối với các đối tượng khác: các đối tượng chính sách, sinh viên, người nghèo... 1.4. Căn cứ tính chất bảo đảm: - Tín dụng có bảo đảm: là những khoản cho vay mà ngân hàng nắm giữ các tài sản thế chấp, cầm cố như: bất động sản, các tài sản có giá, sổ tiết kiệm, chứng khoán,... - Tín dụng không có bảo đảm: là khoản mà ngân hàng cho vay không cần nắm giữ tài sản thể chấp, cầm cố. 1.5. Căn cứ phương pháp hoàn trả: - Trả gốc gọn một lần, lãi trả đều kỳ. Trang 19 - Hoàn trả theo định kỳ hoặc trả góp... 1.6. Căn cứ nguồn phát sinh các khoản tín dụng: - Tín dụng trực tiếp: trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay... - Tín dụng gián tiếp: ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không có liên hệ gì với người vay như: cho vay hợp vốn với ngân hàng khác, chiết khấu, mua chứng khoán... Việc phân loại có ý nghĩa giúp ngân hàng đánh giá lựa chọn cách thức cho vay cũng như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể lệ và chính sách tín dụng thích hợp. Trong thực tế kinh doanh ngân hàng chúng ta thường xem xét chủ yếu các loại hình tín dụng ngắn hạn là chủ yếu. Khi phân chia các loại hình tín dụng ngắn hạn, người ta thường nhìn dưới giác độ các “sản phẩm tín dụng” hay còn gọi là kỹ thuật cấp tín dụng. 2. Căn cứ theo kỹ thuật cấp tín dụng: NHTM cấp tín dụng ngắn hạn dưới các hình thức sau đây: 2.1. Chiết khấu thương phiếu Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng cổ điển, nhưng mãi đến ngày nay vẫn được coi là một trong những kỹ thuật cấp tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng. Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ ít gặp rủi ro và không làm “đóng băng” tín dụng của ngân hàng. Trên thế giới, luật lưu thông thương phiếu đều qui định thống nhất và ghi trên thương phiếu thanh toán: “Tất cả những ai ký tên trên chứng từ này đều có nghĩa vụ thanh toán” và các thông tin về doanh nghiệp phát hành thương phiếu đều được lưu trữ tại Trung tâm phòng ngừa rủi ro. Do đó, ngân hàng có nhiều khả năng để thu hồi nợ. Đồng thời chiết khấu còn tạo điều kiện cho NHTM xin tái cấp vốn ở NHTW (theo hình thức tái chiết khấu thương phiếu) để Trang 20 củng cố năng lực thanh toán, cũng như mở rộng qui mô tín dụng trong những trường hợp cần thiết. Thông thường, chứng từ mà các ngân hàng sử dụng để chiết khấu là các thương phiếu. Đối với hối phiếu, ngân hàng chỉ chấp nhận khi người mua ký chấp nhận trả tiền. 2.2. Tín dụng thấu chi (vượt chi, ứng chi) Mỗi khách hàng đều có một tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được sử dụng số tiền đã gửi trên tài khoản. Do nhu cầu kinh doanh, khách hàng thường có nhu cầu chi quá số tiền gửi trên tài khoản. Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một số tiền lớn hơn số tiền gửi mà khách hàng hiện có. Những khách hàng có nhu cầu đối với hình thức tín dụng thấu chi là những doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu thường xuyên và thường xuyên có thu nhập bằng tiền nộp vào tài khoản của ngân hàng, thường là các đơn vị thương mại mới thường xuyên có nguồn tiền ra, vào. Thấu chi là một hình thức tín dụng giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ động và tiện lợi, tuy nhiên cũng gặp nhiều rủi ro, vì vậy chỉ áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh, có uy tín, là khách hàng quen của ngân hàng. 2.3. Tín dụng thuê mua (leasing) Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê mua rất phát triển. Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê bất động sản và động sản như: nhà cửa, máy móc thiết bị, xe vận tải, xe chuyên dùng, thiết bị văn phòng... Các chủ thuê có thể là: các ngân hàng trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức tín dụng thuê mua. Khách hàng thuê tiến hành trả dần giá trị tài sản theo hợp đồng đã thoả thuận với ngân hàng. Khi giá trị tài sản đã trả xong, khách hàng được quyền sở hữu tài sản đó. Trong thời gian chưa trả hết nợ, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Trang 21 Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí, các loại thuế và lãi kinh doanh. Tuỳ từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính với giá khác nhau. Thời hạn thuê mua có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Tuy nhiên thời hạn trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn thường ít. 2.4. Tín dụng trả góp Tín dụng trả góp là hình thức cấp tín dụng mà khách hàng được trả dần số tiền vay gồm cả gốc và lãi theo định kỳ. Tín dụng trả góp có quan hệ chặt chẽ với việc mua bán hàng hoá (tài sản), trong đó chủ yếu ngân hàng cho vay để mua hàng hoá của các công ty thương mại. Việc cấp tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoả thuận của ba bên có liên quan: khách hàng mua - người đi vay, công ty bán hàng và ngân hàng. Tín dụng trả góp khác về cơ bản với tín dụng thuê mua là tài sản sau khi bán đã thuộc quyền sở hữu của người mua và họ có quyền định đoạt. Trong trường hợp tài sản thuộc đối tượng của tín dụng là bất động sản thì có thể dùng làm thế chấp cho ngân hàng, khi khách không trả được nợ thì ngân hàng được phát mại tài sản thế chấp và chỉ được thu phần nợ còn thiếu. Tín dụng trả góp có ưu điểm là nó không những phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay mà còn kích thích được tiêu thụ hàng hoá, mở rộng sản xuất và tiêu dùng. Mặt khác, người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả, từ đó lập được kế hoạch trả nợ. 2.5. Tín dụng bảo lãnh Tín dụng bảo lãnh là loại tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua không có khả năng thanh toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Hình thức bảo lãnh của ngân hàng cũng rất phong phú và đa dạng: bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh cung cấp hàng hoá... Tín dụng bảo lãnh phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi tiêu của các nhà sản xuất kinh doanh trong các hoạt động kinh tế tiêu dùng và xã hội. Trang 22 2.6. Tín dụng vãng lai Tín dụng vãng lai là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng và ngân hàng với nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của hình thức tín dụng này là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều ghi vào bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi bên nợ tài khoản. Khi không còn số dư có, khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không khống chế số dư có. Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản, tín phiếu... Điều kiện để được vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Ngoài ra trong một số trường hợp, người vay có uy tín cao thì có thể vay tín chấp. Thời hạn vay thường từ 3 - 6 hoặc 12 tháng. Trên lý thuyết, tín dụng vãng lai được xem là tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều ngân hàng cho vay với thời hạn 2 - 3 năm nên tín dụng vãng lai trở thành hình thức tín dụng trung và dài hạn. 2.7. Tín dụng cầm đồ Tín dụng cầm đồ là loại tín dụng có thế chấp bằng động sản - tài sản cầm đồ, tài sản này phải được ngân hàng cất giữ, trường hợp cá biệt có thể để ở kho chuyên dùng hoặc giao cho người vay giữ. Tài sản cầm đồ được đánh giá không phải bằng toàn bộ giá trị của nó mà được đánh giá thấp hơn để khi có rủi ro có thể bán được ngay, nhằm thu hồi đủ nợ gốc và lãi. Tín dụng cầm đồ cho vay với thời hạn mang tính chất thời vụ. Các động sản dùng để cầm đồ rất đa dạng: tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, cổ phiếu, sổ tiết kiệm, kim đá quý... Đối với các loại hàng hoá thì nó phải có giá trị, dễ bảo quản, có chứng từ bảo hiểm cần thiết. Mức tín dụng cầm đồ phụ thuộc vào tài sản đem ra cầm, tỷ lệ này tuỳ theo từng loại tài sản nhưng giao động từ 50 - 90% giá trị tài sản trừ đi lãi suất trong thời gian cầm đồ để lại ngân hàng. Tín dụng cầm đồ là loại tín dụng rất phù hợp với đặc điểm nhu cầu sử dụng vốn đa dạng của kinh tế thị trường. Loại tín dụng này ngày càng được mở rộng và Trang 23 góp phần làm đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay, tạo điều kiện cho những cá nhân, hoặc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có bất động sản thế chấp vay vốn tại ngân hàng có khả năng tăng vốn phục vụ cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cá nhân hoặc các nhu cầu khác. IV. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG 1. Khái niệm chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chất lượng tín dụng phản ánh đầy đủ cả về mặt chất và mặt lượng các hoạt động của ngân hàng. Chất lượng tín dụng là vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi, trang trải chi phí khác và có lợi nhuận đồng thời góp phần phát triển nền kinh tế. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển của đồng vốn (T - H - T), ngân hàng sẽ thu hồi được gốc và lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả sẽ mang lại lợi ích cho bản thân, đồng thời quá trình sử dụng vốn ấy cũng đem lại hiệu quả cho nền kinh tế. Không phải ngân hàng cho khách hàng vay mà không xem xét cân nhắc, để cuối cùng phải thu nợ bằng phát mại tài sản thế chấp của khách hàng. Khi cho vay ngân hàng phải xem xét tính khả thi của dự án. Khi thấy dự án có khả năng đem lại lợi nhuận cho khách hàng, từ đó khách hàng có thể trả được nợ cả gốc và lãi, đồng thời đem lại lợi ích chung cho nền kinh tế thì mới được xét duyệt cho vay. Chất lượng tín dụng càng cao phản ánh trình độ tổ chức quản lý của ngân hàng càng cao và ngược lại chất lượng tín dụng thấp phản ánh trình độ tổ chức quản lý của ngân hàng không hiệu quả. Chất lượng tín dụng phản ánh ở kết quả kinh doanh tín dụng của ngân hàng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng khi sử dụng vốn vay và hiệu quả mà khách hàng đem lại cho nền kinh tế. 2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Các ngân hàng thường đưa ra một số chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng như sau: 2.1. Các chỉ tiêu định tính Trang 24 * Bảo đảm nguyên tắc cho vay: Các nguyên tắc cho vay bao gồm 3 nguyên tắc sau đây - Nguyên tắc 1: Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi theo đúng hạn đã cam kết. Nguyên tắc này nhằm nâng cao trách nhiệm của người đi vay, đòi hỏi họ phải cân nhắc, tính toán kĩ khi vay vốn cũng như quá trình sử dụng vốn vay. Họ phải tìm mọi biện pháp tiết kiệm, để làm vốn vay hỗ trợ một cách tốt nhất cho sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận cao. Về phía ngân hàng nguyên tắc này nhằm bảo toàn vốn cho ngân hàng. - Nguyên tắc 2: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích như đã cam kết, có hiệu quả kinh tế. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo rằng doanh nghiệp sử dụng vốn vào những hoạt động kinh doanh đúng mục đích và lành mạnh, chống thất thoát vốn, để đồng vốn có thể được phát huy hiệu quả. Để thực hiện công tác này đòi hỏi ngân hàng phải có công tác thẩm định thật chính xác, đầy đủ về phương án sử dụng vốn vay trước khi quyết định cho vay và công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay cuả doanh nghiệp sau khi đã được vay. - Nguyên tắc 3: Vốn vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh đảm bảo nợ vay hay vật tư tương đương làm đảm bảo. Nguyên tắc này nhằm hạn chế những khả năng rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm vốn được thu hồi đầy đủ, bảo toàn vốn kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngân hàng chỉ cho vay với giá trị thấp hơn giá trị của tài sản bảo đảm. * Cho vay bảo đảm các điều kiện Khi các khách hàng muốn vay vốn ngân hàng thì phải có đầy đủ các điều kiện sau: - Có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt nam. - Sản xuất kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn. - Có vốn tự có theo qui định Trang 25 - Tổ chức hạch toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh kế toán và thống kê, sẵn sàng cung cấp các tài liệu cần thiết khi Ngân hàng có yêu cầu. - Phải có phương án sử dụng vốn vay nêu được mục đích, hiệu quả, tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn vay. - Thừa nhận và chấp hành thể lệ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và các quy định của ngân hàng nơi vay vốn. Riêng đối với doanh nghiệp tư nhân ngoài những qui định trên còn phải có: - Trụ sở doanh nghiệp được đặt cùng địa bàn với ngân hàng. * Quá trình thẩm định tín dụng Việc thẩm định tín dụng được tiến hành sau khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ xin vay của khách hàng, nó có vài trò quyết định đến chất lượng công tác tín dụng, giúp ngân hàng tránh được rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Việc thẩm định gồm các bước chính sau: - Đánh giá chung về khách hàng, bao gồm: + Lĩnh vực hoạt động SX - KD, thị trường của sản phẩm, thị phần, uy tín, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, phát triển của khách hàng,... + Đánh giá tổng quát về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. + Bộ máy điều hành, lý lịch của từng người điều hành. Cơ cấu tổ chức, chất lượng của lao động... + Cơ chế quản lý điều hành SX - KD. + Các đối tác của khách hàng: bạn hàng, đối thủ cạnh tranh.... + Khả năng phát triển, nguy cơ tiềm ẩn, các thuận lợi và khó khăn khác.... - Đánh giá tình hình tài chính, tình hình công nợ của khách hàng, bao gồm: + Các cơ chế quản lý, điều hành tài chính. + Tập hợp, đánh giá các chỉ tiêu tài chính thông qua các báo cáo tài chính 03 năm gần nhất; Xác định trên cơ sở các số liệu trên về khả năng tài chính Trang 26 của khách hàng, xác định nhu cầu vốn của khách hàng (vốn cố định và vốn lưu động cho quá trình SX - KD) + Các quan hệ kinh doanh và vay vốn, trả nợ của khách hàng. + Tình hình công nợ: tình hình vay vốn, bảo lãnh, công nợ khác, các khoản phải trả (lưu ý nợ quá hạn)... + Khả năng trả nợ của khách hàng đối với các nghĩa vụ tài chính đã cam kết. - Thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng. Bao gồm thẩm định về: + Hiệu quả kinh tế của dự án: điểm hoà vốn, thời gian hoàn vốn, tỷ suất sinh lời... + Cơ cấu vốn đầu tư (vốn tự có, vốn vay...) + Xác định khả năng hoàn trả vốn vay của dự án. + Rủi ro của dự án. - Thẩm định về tài sản thế chấp cầm cố: + Xác minh tính chất hợp pháp của TSTC. + Đánh giá giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của khách hàng. + Rủi ro của TSTC, cầm cố. 2.2. Các chỉ tiêu định lượng * Tổng doanh số cho vay Tổng doanh số cho vay phản ảnh qui mô hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có doanh số cho vay lớn chứng tỏ ngân hàng có uy tín, có mối quan hệ với nhiều khách hàng hoặc có quan hệ tốt với những khách hàng lớn. * Tổng doanh số thu nợ Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với doanh số thu nợ lớn. Nếu ngân hàng có doanh số cho vay lớn nhưng doanh số thu nợ thấp chứng tỏ dư nợ quá hạn của ngân hàng cao, chất lượng tín dụng thấp. Trang 27 * Dư nợ quá hạn Như ta đã biết, quá trình kinh doanh của ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro vì khác với các loại hình doanh nghiệp khác, kinh doanh của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ. Kinh doanh của ngân hàng có thể chấp nhận rủi ro nhưng rủi ro ở mức chấp nhận được. Dư nợ quá hạn của ngân hàng lớn nghĩa là chất lượng tín dụng thấp, dễ dàng dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh hoặc dẫn đến phá sản. * Lợi nhuận Lợi nhuận của ngân hàng là thước đo của việc ngân hàng kinh doanh có tốt hay không. Lợi nhuận cao, dư nợ quá hạn thấp chứng tỏ ngân hàng đã huy động được nguồn vốn với giá rẻ, cho vay thu hồi được gốc và lãi lớn. Như vậy chất lượng kinh doanh tín dụng của ngân hàng cao. * Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng Ngân hàng có chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn càng cao thì hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng được tính theo công thức: Tv Thđ Trong đó: H - là hiệu suất sử dụng vốn (%). Tv - là tổng dư nợ (đơn vị tính là đồng) Thđ - là tổng nguồn vốn huy động (đơn vị tính là đồng) * Các chỉ tiêu định lượng khác: Ngoài ra, khi đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng người ta còn dùng một số chỉ tiêu khác như: - Tổng dư nợ quá hạn trên tổng doanh số cho vay của ngân hàng - Tổng dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng - Nợ khó đòi trên tổng dư nợ của ngân hàng - Nợ khó đòi trên tổng doanh số cho vay của ngân hàng v.v... x 100% H = Trang 28 Tất cả các chỉ tiêu trên nhằm tính toán mức độ chất lượng tín dụng của ngân hàng, tính xem trong 1 đồng vốn cho vay hoặc một đồng dư nợ tín dụng có bao nhiêu đồng là nợ quá hạn hay nợ khó đòi. Từ đó, ngân hàng có những biện pháp làm giảm những tỉ lệ này xuống, nâng cao chất lượng tín dụng cho chính mình. Các chỉ tiêu khác như: tổng lợi nhuận trên tổng tài sản có, tổng lợi nhuận trên vốn tự có của ngân hàng để đo lường khả năng sinh lợi của ngân hàng. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Có một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại như sau: 3.1. Các yếu tố môi trường Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, nên hoạt động kinh doanh và chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng cũng chịu sự tác động của môi trường xung quanh. Trong đó có thể kể đến các môi trường sau: * Thứ nhất là môi trường kinh tế - xã hội Nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường đã được hơn 10 năm song sự hiểu biết về kinh tế thị trường còn hạn chế. Điều này đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, ngân hàng cũng không nằm ngoài tình trạng này. Trong giai đoạn hiện nay, môi trường pháp lý nói chung, môi trường pháp lý cho nghành ngân hàng nói riêng còn nhiều vấn đề. Các văn bản pháp lý của chúng ta còn có kẽ hở, chưa chặt chẽ và thiếu tính đồng bộ. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách thường phải điều chỉnh là điều không tránh khỏi, những điều chỉnh đó đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. * Thứ hai là môi trường Chính trị - Pháp lý Việt Nam có ưu thế là chỉ có Đảng cộng sản lãnh đạo, chính trị trong nước ổn định, song như trên đã nêu, một trong những hạn chế của ta là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện và đồng bộ gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Luật pháp càng đầy đủ, chặt chẽ bao nhiêu thì càng tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các Trang 29 doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả bấy nhiêu. Từ đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới được thuận lợi và chất lượng kinh doanh được nâng cao. * Thứ ba là môi trường công nghệ Môi trường công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và với ngân hàng nói riêng. Trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ càng hiện đại, hiệu quả kinh doanh càng cao. Sử dụng hệ thống máy móc hiện đại phục vụ hoạt động ngân hàng sẽ góp phần giảm chi phí nhân công của ngân hàng, mang lại sự thuận tiện cho khách hàng, đồng thời giúp nhân viên ngân hàng truy cập được thông tin nhanh, chính xác, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. * Thứ tư là môi trường tự nhiên Đây là yếu tố gián tiến ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai, hoả hoạn, lụt lội, bệnh dịch... xảy ra thường xuyên. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành, đặc biệt là những ngành có liên quan đến nông nghiệp, thuỷ sản, hàng hải... Vì thế, việc đầu tư vào những ngành này có thể dẫn đến những rủi ro do môi trường tự nhiên gây ra, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 3.2. Các yếu tố thuộc về khách hàng Ta có thể kể đến một số nhân tố sau ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng: * Thứ nhất là do trình độ công nghệ và trình độ sản xuất của doanh nghiệp - Về trình độ công nghệ: Hiện nay, trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp nước ta còn lạc hậu, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhìn chung, máy móc thiết bị của các doanh nghiệp nước ta lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 2 - 4 thế hệ, có nhiều xí nghiệp công nghiệp địa phương còn sử dụng các thiết bị chế tạo từ những năm 1940 - 1945. Với trình độ công nghệ như vậy, sản phẩm của doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh được trên thị trường, nhất là thị trường quốc tế. - Về trình độ sản xuất: Hiện nay, có những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh kém, thị trường hạn hẹp, chưa tạo được thế đứng ổn định vì chất lượng sản phẩm thấp; mẫu mã, hình thức chủng loại sản phẩm kém phong phú, không hợp với thị hiếu người tiêu dùng lại bị sản phẩm nhập lậu cạnh tranh về giá cả. Từ đó dẫn đến Trang 30 sản phẩm không bán được trên thị trường, ứ đọng sản phẩm, ứ đọng vốn dẫn đến việc không hoàn trả được nợ vay của ngân hàng, làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. * Thứ hai là do trình độ quản lý trong doanh nghiệp Trong nhiều doanh nghiệp, trình độ của đội ngũ giám đốc, chủ doanh nghiệp, kế toán trưởng và các cán bộ quản lý còn thấp, trình độ chuyên môn cũng không cao, chưa qua các lớp bồi dưỡng về quản trị kinh doanh, nghiệp vụ quản lý. Từ đó dẫn đến việc quản lý tồi, gây thua lỗ trong kinh doanh, không có nguồn để trả nợ ngân hàng. Những doanh nghiệp mà đội ngũ lãnh đạo có trình độ quản lý tốt, công việc sản xuất, kinh doanh tiến triển tốt đẹp, doanh thu cao, lợi nhuận cao, hoàn trả được nợ vay ngân hàng thì các doanh nghiệp đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. * Thứ ba là tình trạng nợ nần dây dưa, bị chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí cả lừa đảo giữa các doanh nghiệp, kể cả vốn vay từ ngân hàng hiện nay xảy ra nhiều trong nền kinh tế nước ta. * Thứ tư là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích Nhiều doanh nghiệp dùng tiền vay của ngân hàng để quay vòng không đúng với đối tượng kinh doanh, không đúng với mục đích, phương án đã được trình khi xin vay nên đã không trả được nợ đúng hạn. Có những người cố tình không trả nợ ngân hàng, dùng bất động sản thế chấp khi vay vốn, khi giá bất động sản giảm giá đã đẩy phần rủi ro về phía ngân hàng. * Thứ năm là do sự kém hiểu biết của khách hàng Có những khách hàng kém hiểu biết về thị trường, không có khả năng kinh doanh nhưng thấy người khác kinh doanh được cũng đứng ra thành lập doanh nghiệp, vay vốn ngân hàng để kinh doanh dẫn thua lỗ. Hoặc có những khách hàng do trình độ dân trí thấp, nghĩ rằng việc vay được tiền của ngân hàng như “của trời cho”, dẫn đến việc sử dụng tiền vay sai mục đích hoặc lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng. * Thứ sáu là do hiện nay do Pháp lệnh kế toán và thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê kế toán chính xác, kịp thời. Trang 31 Hiện nay, đa phần các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện được chế độ kiểm toán bắt buộc nên số liệu không phản ánh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy ngân hàng không thể đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp khi xét duyệt cho vay. Thậm chí có những doanh nghiệp còn cố tình đưa số liệu sai lệch với sự thật như lỗ lại nói là lãi. Những món vay trên cơ sở thông tin sai sự thật như vậy sẽ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho ngân hàng. * Thứ bảy là do khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng rồi tìm cách trốn chạy. Tuy nhiên ngân hàng cũng có thể ngăn ngừa được tình trạng này bằng cách thẩm định khách hàng kỹ lưỡng trước khi cho vay. Trên đây là các nguyên nhân từ phía khách hàng gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Về phía ngân hàng cũng có thể tự mình hạn chế các nguyên nhân đó để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình. 3.3. Các yếu tố thuộc về ngân hàng * Thứ nhất là chính sách tín dụng của ngân hàng. Chúng ta biết rằng nền kinh tế nước ta đang trong thời kì chuyển đổi nên cơ chế chính sách của ta cũng dần thay đổi và hoàn thiện. Chính sách tín dụng, cơ chế nghiệp vụ tín dụng trong thời gian qua đã có những đổi mới cơ bản theo cơ chế thị trường nên đã góp phần quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ - tín dụng của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát có kết quả. Song thực tế hiện nay có một số chính sách, thể lệ và cơ chế nghiệp vụ tín dụng còn chưa phù hợp, chưa chặt chẽ gây cản trở trong việc mở rộng đầu tư đối với nền kinh tế. Các quy chế, chính sách, quy định... về tín dụng nói riêng về ngân hàng nói chung, còn chồng chéo thiếu thống nhất, hay thay đổi, gây khó khăn cho việc thực hiện. Về cho vay doanh nghiệp Nhà nước không qui định rõ ràng về việc thế chấp, cầm cố tài sản. Việc qui định theo dõi kiểm tra sau khi cho vay chưa rõ ràng, do vậy những cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm rất khó theo dõi kiểm tra việc sử dụng tiền vay của khách hàng nên có những trường hợp bị một số kẻ lừa đảo, lợi dụng sơ hở về thể chế tín dụng để chiếm dụng một số tiền lớn. Trang 32 * Thứ hai là do việc chấp hành, qui định, thể lệ tín dụng còn chưa nghiêm túc. Có một thực tế, nhiều ngân hàng xem xét hồ sơ, điều tra khách hàng không kĩ trong quá trình xét duyệt cho vay. Thí dụ khách hàng vay ở nhiều ngân hàng, có dư nợ quá hạn, nợ khoanh đang bị kẹt mà vẫn được vay ở ngân hàng mới khác và rõ ràng món vay đó khó tránh được rủi ro. Bên cạnh đó, việc đánh giá tài sản thế chấp không chính xác, hồ sơ tài sản thế chấp không được lập và bảo quản đúng qui định, như vậy khi khách hàng không trả được nợ, việc phát mại tài sản thế chấp cũng không trả đủ vốn vay cho ngân hàng. Có cả những trường hợp ngân hàng cho khách hàng vay để đảo nợ nhằm giảm dư nợ quá hạn của ngân hàng làm cho khách hàng không thấy rõ trách nhiệm phải tìm mọi cách hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. * Thứ ba là cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn đối với một số doanh nghiệp mà vốn tự có của họ quá ít, trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro dễ dẫn đến việc không thu hồi được nợ. * Thứ tư là do việc kiểm tra sau khi cho vay của ngân hàng chưa chặt chẽ. Thực tế thời gian qua, có những trường hợp khách hàng vay vốn ngân hàng để đầu tư và tài sản cố định, bất động sản. Những trường hợp này khi đến hạn sẽ khó trả được nợ ngân hàng. Hoặc khi giá cả của bất động sản biến đổi theo chiều hướng giảm cũng dẫn đến việc khách hàng không trả được nợ ngân hàng, dẫn đến tình trạng nợ dây dưa kéo dài. Hoặc có trường hợp ngân hàng để khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích, làm ăn theo kiểu chiếm đoạt, buôn bán lòng vòng... dẫn đến tình trạng gia tăng dư nợ quá hạn cho ngân hàng trong thời gian gần đây. * Thứ năm là trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Do đó không có khả năng phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, không thẩm định được dự án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc không phân tích được báo cáo tài chính một cách chính xác, hay không đánh giá được khả năng của người lãnh đạo doanh nghiệp, không biết năng lực thực sự của khách hàng. Kiến thức về kinh tế xã hội, thị trường của cán bộ tín dụng bị hạn chế cũng gây nên rủi ro cho món vay. Vì có những trường hợp, doanh nghiệp không xác định đúng nhu cầu của thị trường, không nắm bắt đúng thị hiếu người tiêu dùng... dẫn đến mặt hàng kinh doanh bị ứ đọng, doanh nghiệp bị ứ Trang 33 đọng vốn. Nếu cán bộ tín dụng có hiểu biết rộng, biết phân tích thị trường, có khả năng phán đoán biến động của thị trường thì có thể sẽ tránh được những tổn thất trên. * Thứ sáu là công tác kiểm tra kiểm soát trong ngân hàng chưa kịp thời và thường xuyên. Bên cạnh công tác tôn trọng các qui trình tín dụng cần phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát mới đảm bảo an toàn tín dụng. Nhưng trong thời gian qua, việc làm này còn chưa chủ động vì chỉ khi nào phát sinh vụ việc thì lúc đó mới biết cử đoàn xuống kiểm tra. Do vậy chức năng ngăn ngừa là không thực hiện được mà kết quả các cuộc kiểm tra chỉ là để kiểm nghiệm hoặc rút kinh nghiệm một cách qua loa vì nó đã qua. Việc thường xuyên thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những người có liên quan nhằm hạn chế thiệt hại trong công tác tín dụng là cần thiết song cũng nên tránh tình trạng kiểm tra nhiều quá gây mệt mỏi, tạo căng thẳng cho bộ phận bị kiểm tra. * Thứ bảy là do công tác tổ chức, nhân sự trong ngân hàng Nếu ngân hàng sắp xếp những cán bộ không có năng lực trong lĩnh vực tín dụng làm công tác tín dụng sẽ dễ dàng dẫn đến việc gây ra những rủi ro trong các khoản tín dụng của ngân hàng. Nếu xét thấy họ không đủ khả năng làm công tác tín dụng thì lập tức phải điều họ sang làm những công việc khác thích hợp và điều những cán bộ có năng lực vào vị trí của họ. Công tác tổ chức, nhân sự trong ngân hàng tốt sẽ hạn chế được rủi ro tín dụng và phát huy được năng lực của từng nhân viên trong ngân hàng. * Thứ tám là do hệ thống thông tin ngân hàng Đối với ngân hàng, thông tin rất quan trọng trong việc quyết định có cho vay hay không? Hoặc biết thời điểm doanh nghiệp có thua lỗ để thu nợ... Hiện nay, Việt Nam đã có trung tâm thông tin tín dụng song các thông tin tại đó được cập nhật chưa đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Ngoài thông tin tại CIC, các ngân hàng còn phải tìm kiếm thông tin về khách hàng qua các nguồn khác, chủ yếu tìm hiểu qua các bạn hàng, đối thủ cạnh tranh hoặc trên sách báo... Việc thu thập được thông tin đầy đủ và chính xác về khách hàng là rất quan trọng trong việc giảm được các rủi ro nghiệp vụ cho vay của ngân hàng. Trang 34 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU - HÀ NỘI I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU HÀ NỘI 1. Đôi nét về Ngân hàng TMCP Á Châu & Chi nhánh Hà Nội 1.1 Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu (ACB). Ngân hàng TMCP Á Châu (Tên giao dịch quốc tế là Asia Commercial Bank - viết tắt là ACB) được thành lập ngày 13 tháng 5 năm 1993 và bắt đầu hoạt động kinh doanh từ 4 tháng 6 năm 1993 theo Giấy phép hoạt động số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 4 năm 1993. Ngân hàng TMCP á Châu là một trong những Ngân hàng TMCP được thành lập mới sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng của Việt Nam ra đời. Hội sở chính của Ngân hàng TMCP á Châu được đặt tại 442 - Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 3 - TP Hồ Chí Minh. Vốn điều lệ tại thời điểm thành lập ngân hàng là 20 tỷ VNĐ, thuộc sở hữu của 27 cổ đông. Đến nay, sau 3 lần tăng vốn ACB đã có vốn điều lệ là 353,711 tỷ VNĐ trong tổng số vốn tự có của ngân hàng là 404,311 tỷ VND, là góp vốn của 533 cổ đồng trong đó có 4 cổ đông nước ngoài là các tập đoàn kinh tế và các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt nam (vốn của các cổ đông nước ngoài chiếm 25,4% tổng số vốn điều lệ). Như vậy, hiện nay Ngân hàng á Châu có vốn điều lệ cao nhất trong hệ thống NHTMCP tại Việt Nam. Hoạt động chính của ACB bao gồm việc nhận tiền gửi, cung cấp tín dụng bằng tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ, thanh toán chuyển tiền và nhờ thu, phát hành thư bảo lãnh Ngân hàng, tín dụng chứng từ và đầu tư vào các dự án... Ngân hàng Á Châu là Ngân hàng hoạt động sớm trong các lĩnh vực tạo ra những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng mới như: Phát hành thẻ tín dụng ACB-Master Card và ACB- VISA; huy động và cho vay bằng vàng, cho vay trả góp để mua nhà- đất, xây dựng - sửa chữa nhà, các hình thức cho vay trả góp khác để phục vụ nhu cầu của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trang 35 Hiện nay, Ngân hàng Á Châu đã có 8 chi nhánh và 4 phòng giao dịch và 2 trung tâm: Trung tâm thẻ và Trung tâm vàng. Các chi nhánh ACB được trải rộng trên toàn quốc: Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, An Giang và Cà Mau. Nhờ có mạng lưới rộng khắp này, hoạt động kinh doanh của ACB đã gặp nhiều thuận lợi hơn. ACB đã thiết lập được hơn 1200 đại lý thanh toán thẻ tín dụng và chi trả chuyển tiền nhanh Western Union trong phạm vi cả nước. Trong năm 1998, ACB có kế hoạch mở thêm từ 2 đến 3 chi nhánh tại Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu long. 1.2. Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu - Chi nhánh Hà Nội. Ngân hàng TMCP Á Châu - chi nhánh Hà Nội là một trong 8 Chi nhánh của Ngân hàng TMCP Á Châu trên toàn quốc. Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội được phép hoạt động kinh doanh theo Giấy chấp thuận số 0016/GTC ngày 31 tháng 12 năm 1993 và đặt trụ sở tại 16 - 18 Phan Chu Trinh - Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội. Ngân hàng TMCP Á Châu Hà nội hoạt động trên địa bàn Quận Hòan Kiếm, một quận trung tâm ở Thành phố Hà nội và là khu vực buôn bán nhộn nhịp, nơi nhiều doanh nghiệp đặt trụ sở nên phần nào Ngân hàng cũng có những thuận lợi trong các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Trong những năm trước, do mới được thành lập với số vốn hoạt động ban đầu còn nhỏ (chỉ có 20 tỷ), phạm vi kinh doanh hẹp, cùng với việc chưa có kinh nhiệm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nên ngân hàng khó có khả năng thu hút các khách hàng lớn, có uy tín. Các tổng công ty lớn của Việt Nam với đặc điểm: quy mô hoạt động lớn, có truyền thống kinh doanh lâu,... nên trong quan hệ với các ngân hàng thường hoạt động với những ngân hàng quốc doanh và không muốn chuyển sang quan hệ với những ngân hàng mới. Do đó, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội gặp khó khăn trong việc thu hút các khách hàng lớn. Chính vì thế khách hàng của ngân hàng trong giai đoạn ban đầu chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân kinh doanh. Từ năm 1997 đến nay, cùng với sự lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã trở thành một trong những ngân hàng có uy tín, vì thế hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp lớn cũng được mở rộng. Trong chính sách tín dụng của ngân hàng đã có bước chuyển biến tích cực, thị Trang 36 trường tín dụng đã chuyển mạnh mẽ từ việc phục vụ các khách hàng vừa và nhỏ sang phục vụ các khách hàng lớn là các Tổng công ty 90, 91 của nhà nước. Tuy nhiên, do nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng còn nhiều hạn chế cả về số lượng và thời hạn huy động nên khả năng đáp ứng nhu cầu vốn với số lượng lớn và thời hạn dài của các khách hàng lớn vẫn còn nhiều hạn chế. Do chính sách đổi mới của Nhà nước trong việc phát triển tất cả các thành phần kinh tế, bằng chính sách lãi suất công bằng đối với tất cả các thành phần kinh tế, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã tích cực mở rộng chính sách đầu tư đối với các thành phần kinh tế. Trước đây, khách hàng của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cá nhân; nhờ thành tích kinh doanh của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Á Châu trong năm 1996 và làm tốt công tác tiếp thị, đến năm 1997 - 1998, ngân hàng đã mở rộng kinh doanh đối với một số khách hàng lớn là doanh nghiệp Nhà nước như: Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, Tổng công ty Cơ khí xây dựng, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, Tổng công ty xi măng Việt Nam v.v... Mặt khác, do nằm trong địa bàn là nơi tập trung hoạt động của nhiều ngân hàng như: Ngân hàng TMCP Kỹ thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam... nên hoạt động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đòi hỏi nhiều tính cạnh tranh. Tóm lại, với những yếu tố khách quan cũng như chủ quan Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đang cố gắng vươn lên, hoạt động có hiệu quả, khắc phục những khó khăn trước mắt, không ngừng mở rộng mạng lưới kinh doanh, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu thu lợi nhuận và nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. 2. Tình hình kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Nói đến tình hình kinh doanh của ngân hàng, người ta thường đề cập đến hai vấn đề chính là tình hình huy động vốn và tình hình sử dụng vốn. Huy động vốn là nhiệm vụ tiên quyết tạo đầu vào cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có huy động được vốn thì ngân hàng mới có thể thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình. Mặt khác, tình hình huy động vốn phải phù hợp với nhu cầu tín dụng. Nếu nguồn vốn huy động không được sử dụng tối đa thì doanh thu và lợi nhuận ngân hàng giảm Trang 37 có thể dẫn đến tình trạng thua lỗ. Như vậy, trong quá trình kinh doanh của ngân hàng, huy động vốn và sử dụng vốn là hai vấn đề không thể tách rời, có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu cả hai hoạt động đều phát triển thì việc kinh doanh của ngân hàng mới đạt hiệu quả cao. 2.1. Tình hình huy động vốn Như đã trình bày, công tác huy động vốn của ngân hàng là một nhiệm vụ tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều muốn mở rộng hoạt động kinh doanh. Muốn mở rộng hoạt động tín dụng của mình thì ngân hàng cần phải mở rộng hoạt động huy động vốn, vì thế bất kỳ ngân hàng nào cũng rất chú trọng đến hoạt động này. Vấn đề đặt ra là phải huy động được nguồn vốn đa dạng với giá rẻ để đảm bảo tính cạnh tranh của ngân hàng. Trên thực tế đối với Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội cũng vậy. Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội tuy mới được thành lập song được sự chỉ đạo kịp thời của Ban Tổng giám đốc, Ban giám đốc chi nhánh và sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên nên ngân hàng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong những năm gần đây. Xem xét tình hình huy động vốn của ACB Hà Nội dưới giác độ quy mô huy động qua các thời kỳ và đối tượng huy động vốn, ta có số liệu thống kê qua Bảng 1 như sau: Bảng 1. Tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội qua các thời kỳ Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/1996 31/12/1997 31/3/1998 Tổng số 116.577 122.763 120.779 1. Phân theo đối tượng - Từ dân cư - Từ các tổ chức kinh tế 104.937 11.640 102.411 20.352 107.117 13.662 2. Phân theo nguyên tệ Trang 38 - VND - USD 72.608 43.969 60.823 61.940 44.517 76.262 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Qua số liệu ở bảng 1 ta thấy trong năm 1996, 1997, quý I năm 1998, tổng nguồn vốn huy động (đã quy đổi) để phục vụ cho kinh doanh ngân hàng qua các thời kỳ khá ổn định. Trong giai đoạn cuối năm 1997 đến đầu năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Châu á, đồng tiền Việt Nam đã bị mất giá, tỷ giá đồng Việt Nam với đồng USD liên tục tăng, đồng thời lãi suất tiết kiệm có những thay đổi song nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội vẫn giữ được ổn định. Từ ngày 1/1/1996, NHNN Việt Nam chấm dứt việc quy định cụ thể, chi tiết các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, thay vào đó là việc quy định trần lãi suất cho vay và chênh lệch lãi suất 0,35%, nên Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội cũng đã chủ động hơn trong việc huy động vốn. Năm 1996, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội là 116.577 triệu đồng, trong đó từ dân cư là 104.937 triệu đồng chiếm 90%, từ các tổ chức kinh tế là 11.640 triệu đồng chiếm 10% tổng nguồn vốn huy động. Trong đó nguồn huy động là VND là 72.608 triệu đồng (chiếm 62,3%), USD qui ra VND là 43.969 triệu đồng (chiếm 37,7% tổng nguồn vốn huy động). Sang năm 1997, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội là 122.763 triệu đồng, tăng 5,31% so với năm 1996. Trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư là 102.411 triệu đồng chiếm 83,4%, nguồn từ các tổ chức kinh tế là 20.352 triệu đồng chiếm 16.6%. So với năm 1996, nguồn vốn huy động từ dân cư đã giảm 2,41% trong khi nguồn từ các tổ chức kinh tế tăng 74,85% và đây cũng chính là nguồn làm tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Cuối quí I năm 1998, số dư tiền gửi của khách hàng là 120.779 triệu đồng, giảm 1,62% so với cuối năm 1997. Trong đó số dư tiền gửi tiết kiệm của dân cư là 120.779 triệu đồng tăng 4,6%, từ các tổ chức kinh tế là 13.662 triệu đồng giảm 32,9% so với năm cuối năm 1997. Như trên đã phân tích, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu á, trong giai đoạn từ cuối 1997 đến nay, đa số tầng Trang 39 lớp dân cư chuyển đổi số tiền tiết kiệm từ tiết kiệm bằng VND sang tiết kiệm bằng USD. Điều đó cũng ảnh hưởng mạnh đến cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng và chắc chắn ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn của ngân hàng (sẽ được phân tích cụ thể ở phần sử dụng vốn). Xem xét tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội dưới giác độ thời hạn huy động và nguồn hình thành vốn huy động, ta có được số liệu thống kê qua bảng 2 như sau: Bảng 2. Tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1996 1997 Q I - 1998 I. Tiền gửi của khách hàng 14.642,2 22.475,2 12.761,3 1. Tiền gửi không kỳ hạn 14.254,4 21.536,1 10.972,5 2. Tiền gửi có kỳ hạn 387,4 939,2 1.788,8 3. Tiền gửi của các tổ chức nước ngoài 0,4 0,0 0,0 II. Tiền gửi tiết kiệm 99.533,7 96.440,9 107.117,1 1. Tiền gửi tiết kiện không kỳ hạn 1.913,5 3.256,1 3.857,1 2. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 97.640,3 93.184,8 103.260,0 III. Tiền quản lý và giữ hộ 1,0 828,2 791,3 IV.Tiền gửi thanh toán của khách hàng 1.415,2 3.018,7 109,6 Tổng 116.577 122.763 120.779,4 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Nói chung, trong năm các 1996, 1997 và quý I năm 1998, nguồn vốn huy động của ngân hàng được hình thành từ các nguồn vốn sau đây: - Tiền gửi của khách hàng Trang 40 - Tiền gửi tiết kiệm - Tiền gửi thanh toán của cá nhân và các tổ chức kinh tế - Tiền quản lý và giữ hộ Qua số liệu thống kê ở bảng 2, nguồn vốn huy động của ngân hàng qua các năm chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm: năm 1996 tổng nguồn vốn huy động là 116.577 triệu đồng, trong đó tiền gửi tiết kiệm là 99.533,7 triệu đồng chiếm 85,38%. Năm 1997, tổng số vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm là 96.440,9 triệu đồng giảm 3.092,8 triệu đồng so với năm 1996, chiếm 78,56% tổng nguồn vốn huy động năm 1997. Quí I năm 1998 là 107.117,1 triệu đồng tăng 10.672,2 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 7.584,1 triệu đồng so với năm 1996, chiếm 88,69% tổng nguồn vốn huy động quí I năm 1998. Tiền gửi tiết kiệm trong năm 1997 thấp hơn so với năm 1996 là do trong những tháng cuối năm có biến động về giá ngoại tệ và giá vàng nên dân chúng đã rút tiền tiết kiệm để mua vàng và USD để tự bảo toàn vốn. Đến cuối quí I - 1998, nguồn tiền tiết kiệm tăng 10.672,2 triệu đồng so với cuối năm 1997, nghĩa là tăng 8,7% và tăng 6,5% so với năm 1996. Tiền gửi tiết kiệm được hình thành từ hai nguồn: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn; số liệu được thống kê qua bảng sau: Bảng 3. Tình hình huy động tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội qua các năm 1996, 1997, quí I - 1998 Đơn vị:triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/96 31/12/97 31/3/98 Chênh lệch 97/96 Chêch lệch QI-98/97 Tiết kiệm không kì hạn 1.913,5 3.256,1 3.857,1 + 1.342,6 +1.943,6 T/K có kì hạn 97.640,3 93.184,8 103.260,0 - 4.455,5 + 5.619,7 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Trang 41 Biểu 3-a: Tình hình huy động tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội qua các năm 1996, 1997, quí I - 1998 Như vậy qua các năm, nguồn tiền huy động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội chủ yếu từ tiết kiệm có kì hạn. Cuối năm 1996, số dư nguồn tiết kiệm có kỳ hạn là 97.640,3 triệu đồng gấp 51 lần nguồn tiết kiệm không kỳ hạn. Cuối năm 1997, số dư nguồn tiết kiệm có kì hạn là 93.184,8 triệu đồng giảm 4,56% so với cuối năm 1996. Cuối quí I năm 1998, số dư nguồn tiết kiệm có kì hạn là 103.260,0 triệu đồng gấp 26,8 lần nguồn tiết kiệm không kì hạn và tăng 10,8% so với cuối năm 1997. Nguồn tiền gửi tiết kiệm không kì hạn tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng biến đổi theo chiều hướng gia tăng: 1.913 triệu đồng năm 1996, 3.256,1 triệu đồng năm 1997, 1.342,6 triệu đồng quí I năm 1998. Để hiểu rõ hơn về tình hình huy động tiền gửi kiết kiệm của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội, tôi xin đưa ra một ví dụ chi tiết về số dư tài khoản tiết kiệm trong năm 1997, năm mà Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã đạt được một số thành công nhất định. 31/12/96 31/12/97 31/3/98 1 10 100 1000 10000 100000 1000000 TiÕt kiÖm kh«ng kú h¹n TiÕt kiÖm cã kú h¹n Trang 42 Bảng 4: Báo cáo số dư tài khoản tiết kiệm Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội - năm 1997 Đơn vị: triệu đồng Tài khoản VND USD Tổng 1. Tiết kiệm không kỳ hạn 771,3 2.484,8 3.256,1 2. Tiết kiệm có kỳ hạn - 3 tháng - 6 tháng - 9 tháng - 12 tháng - 13 tháng - 24 tháng - 36 tháng 34.186,5 11.987,0 10.553,4 13,0 169,9 11.012,0 442,0 9,2 50.823,5 12.538,4 17.094,6 113,1 951,6 20.125,8 85.010,0 24.525,4 27.648,0 126,1 1.121,5 31.137,8 442,0 9,2 3. Tiết kiệm có thưởng - 3 tháng - 6 tháng - 12 tháng 3.806,3 3.806,3 7.895,2 5.189,4 1.483,4 1.221,3 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Nhìn chung, tiền tiết kiệm có kỳ hạn chủ yếu là nguồn tiền tiết kiệm ngắn hạn chiếm 65,88%, tiết kiệm trung hạn chiếm 34,12%. Như vậy, nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội năm 1997 và quí I năm 1998 đều cao hơn so với năm 1996. Sở dĩ có kết quả trên là do ngân hàng đã tích cực có các hình thức quảng cáo, có nhiều hình thức huy động hấp dẫn, mạng lưới phục vụ thuận tiện, phong cách thái độ của nhân viên phục vụ văn minh, lịch sự Trang 43 tạo nên sự gần gũi, tin tưởng cho khách hàng. Mặt khác, trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển tốt, tốc độ tăng trưởng đạt ở mức cao, đồng tiền tương đối ổn định; đời sống của các tầng lớp dân cư nói chung ổn định hơn, dân chúng đã bắt đầu có khả năng tích luỹ, vì thế Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã huy động được một nguồn đáng kể từ tiết kiệm của dân cư. Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong năm 1997 và quí I năm 1998 đều cao hơn so với năm 1996. Đó là do ngân hàng đã làm tốt công tác tiếp thị nên Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội một mặt vẫn duy trì quan hệ với khách hàng cũ, mặt khác đã thu hút được một số khách hàng lớn như: Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama), Tổng công ty Cơ khí xây dựng (Coma), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ (Vinashin) v.v... đã chuyển một phần thanh toán về hoạt động tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội. Tuy nhiên, so với nguồn vốn huy động từ dân cư thì nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế còn thấp đó là do ngân hàng chưa thiết lập được quan hệ đồng thời chưa có khả năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng và rất lớn của các tổ chức kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh có nhu cầu cao về hoạt động nói chung, thanh toán nói riêng qua ngân hàng. Cuối năm 1997, tiền gửi của dân cư giảm chủ yếu do biến động của giá USD và giá vàng trên thị trường nên khách hàng đã tập trung rút VND để mua vàng và ngoại tệ nhằm tự bảo toàn vốn. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP Á Châu đã kịp thời huy động tiền gửi dưới nhiều hình thức đa dạng hơn như: hình thức bảo đảm bằng vàng, huy động bằng ngoại tệ... nên nguồn vốn huy động vẫn tương đối ổn định. Nếu phân theo nguyên tệ thì nguồn vốn huy động từ VND năm 1996 chiếm tỷ trọng lớn hơn USD. Nhưng sang năm 1997 và quí I năm 1998, nguồn vốn huy động từ USD lại lớn hơn VND. Cụ thể trong năm 1996, nguồn vốn huy động là USD chiếm 37,72%, năm 1997 chiếm 50,45%, quí I năm 1998 chiếm 36,14% tổng nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động bằng USD tăng như vậy là do cuối năm 1997 và đầu quí I năm 1998, tình hình tỷ giá ngoại tệ biến động mạnh nên khách hàng tự bảo toàn tiền gửi của mình bằng cách rút tiền VND và mua USD gửi lại vào ngân hàng. Trang 44 Tóm lại, mặc dù có những khó khăn khách quan và chủ quan, nhưng nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội vẫn khá ổn định qua các năm. Chênh lệch số số dư tổng nguồn vốn huy động giữa năm 1996, 1997 và quí I năm 1998 không lớn. Cho dù ngân hàng có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn nhưng nguồn vốn huy động chủ yếu vẫn là tiền gửi tiết kiệm từ dân cư. Đây chính là điểm yếu của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội vì bình quân lãi suất huy động đầu vào cao, đồng thời ngân hàng luôn phải chịu sức ép về dự trữ thanh khoản do VND bị mất giá lớn so với USD. Tuy nhiên, đây là bước đi tất yếu trên con đường hội nhập mà Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đang tìm cách tháo gỡ. 2.2. Tình hình sử dụng vốn Hiện nay, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội nói riêng. Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội được thống kê cụ thể qua bảng 5. Trang 45 Bảng 5. Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Khoản mục 3 1 / 1 2 / 9 6 3 1 / 1 2 / 9 7 3 1 / 3 / 9 8 I. Cho vay 1. Doanh số cho vay 1 9 4 . 6 5 6 , 0 1 3 2 . 0 5 0 , 0 2 2 . 3 9 2 , 0 2. Doanh số thu nợ 1 9 2 . 2 2 5 , 0 1 0 0 . 2 7 5 , 0 2 9 . 7 9 2 , 0 Trang 46 3. Tổng dư nợ 5 8 . 7 8 2 , 0 9 7 . 3 6 3 , 0 9 2 . 9 4 4 , 0 * Phân theo thời hạn: + Ngắn hạn + Trung và dài hạn 5 8 . 7 8 2 , 0 5 8 . 7 8 2 , 0 0 , 0 9 7 . 3 6 3 , 0 5 0 . 1 5 2 , 0 4 7 . 2 1 1 , 9 2 . 9 4 4 , 0 4 2 . 1 9 8 , 0 5 0 . 7 4 6 , Trang 47 0 0 * Phân theo loại tiền + VND + USD 58.782,0 50.038,0 8.744,0 97.363,0 39.271,0 58.092,0 92.944,0 33.720,0 59.224,0 * Phân theo thành phần kinh tế + Doanh nghiệp nhà nước + Các thành phần kinh tế khác 58.782,0 41.346,0 17.436,0 97.363,0 76.232,0 21.131,0 92.944,0 70.958,0 21.986,0 4. Nợ quá hạn + Ngắn hạn 2.206,3 9.066,6 13.161,5 II. Đầu tư khác + Mua cổ phần, góp vốn liên doanh 64 0 0 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Nếu so sánh giữa năm 1996 và 1997 thì tổng doanh số cho vay trong năm 1997 là 132.050 triệu đồng, thấp hơn so với năm 1996 là 62.606 triệu đồng. Doanh số thu nợ trong năm 1997 cũng thấp hơn so với năm 1996 là 91.950 triệu đồng. Tỷ lệ doanh số thu nợ trên doanh số cho vay năm 1996 là 98,75%, năm 1997 là 75,94%. Như vậy tính đến thời điểm cuối năm 1996, cứ cho vay 100 đồng thì ngân hàng thu nợ được 98,75 đồng; năm 1997 cứ 100 đồng cho vay thì ngân hàng thu về được 75,94 đồng. Nhìn chung, hoạt động của ngân hàng năm 1997 không hiệu quả bằng năm 1996. Để đánh giá một cách toàn diện công tác sử dụng vốn, ta xét đến chỉ tiêu dư nợ. Dư nợ tín dụng tính đến ngày 31.12.1996 là 58.782 triệu đồng. 31.12.1997 dư nợ tín dụng là 97.363 triệu đồng tăng 65,63% so với cuối năm 1996. Cuối quí I năm 1998 dư nợ tín dụng là 92.944 triệu đồng; tăng so với cuối năm 1996 là 58,11%, giảm so với cuối năm 1997 là 4,54%. Như vậy, so với năm 1996 hoạt động tín dụng Trang 48 của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội trong năm 1997 và quí I năm 1998 đã tiến triển rất nhiều. Nếu xét theo loại tiền thì trong năm 1996, tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội hầu hết bằng VND: 50.038 triệu đồng chiếm 85,12%, tín dụng USD là 8.744 triệu đồng chiếm 14,88% tổng dư nợ tín dụng. Trong năm 1997 và đầu năm 1998, do tỷ giá có những thay đổi lớn nên Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội thực hiện cho vay đảm bảo bằng USD là chủ yếu. Dư nợ tín dụng USD trong năm 1997 là 58.092 triệu đồng chiếm 59,67% tổng dư nợ tín dụng trong khi dư nợ VND là 39.271 triệu đồng chiếm 40,33% tổng dư nợ. Dư nợ tín dụng USD đầu quí I năm 1998 là 59.224 triệu đồng chiếm 63,72% tăng so với cuối năm 1997 là 1.132 triệu đồng, dư nợ tín dụng VND chiếm 36,28% tổng dư nợ và giảm so với năm 1997 là 5.551 triệu đồng hay 14,14%. Nếu xét theo thành phần kinh tế, trong năm 1996, tổng dư nợ đối với doanh nghiệp Nhà nước là 41.346 triệu đồng chiếm 70,34% tổng dư nợ; năm 1997 là 76.232 triệu đồng chiếm 78,30% tổng dư nợ; quí I - 1998 là 70.958 triệu đồng chiếm 76,34% tổng dư nợ. Như vậy, những khách hàng vay vốn lớn nhất của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội là các doanh nghiệp quốc doanh. Các thành phần kinh tế khác bao gồm các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh với nước ngoài và các đối tượng khác chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng dư nợ. Cụ thể, năm 1996 dư nợ đối với các thành phần kinh tế khác là 17.436 triệu đồng chiếm 29,66%. Sang năm 1997, cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên 21.131 triệu đồng chiếm 21,7% tổng dư nợ. Mặc dù tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong tổng dư nợ giảm song về số lượng tuyệt đối thì năm 1997 tăng so với năm 1996 là 3.695 triệu đồng. Tổng dư nợ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh đầu quí I năm 1998 cũng đạt 21.986 triệu đồng, tăng so với năm cuối năm 1997 là 855 triệu đồng, chiếm 23,65% tổng dư nợ cuối quí I năm 1998. Như vậy, dư nợ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh chiếm từ 20 - 30% tổng dư nợ cuối năm của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội trong giai đoạn gần đây. Xét theo thời hạn cho vay thì năm 1996, cho vay ngắn hạn là 58.782 triệu đồng chiếm 100% tổng dư nợ tín dụng. Năm 1997 dư nợ ngắn hạn giảm đi so với năm 1996 là 8.630 triệu đồng nhưng trong năm này, ngân hàng đã tích cực mở rộng tín dụng trung và dài hạn, dư nợ trung và dài hạn cuối năm là 47.211 triệu đồng, Trang 49 chiếm 48,49% tổng dư nợ. Đầu quí I năm 1998, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội vẫn tiếp tục duy trì việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đầu quí I năm 1998 là 50.746 triệu đồng, chiếm 54,6% tổng dư nợ cuối quí. Như vậy, dư nợ trung và dài hạn đang có xu hướng tăng lên trong năm 1998. Việc dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng là do trong năm 1997, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là những khách hàng lớn là các “Tổng công ty 90 và 91” có uy tín như: Tổng công ty xi măng Việt Nam, Công ty gốm Đại Thanh, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty tàu thuỷ Việt Nam... Hiện nay một số dự án đã đi vào hoạt động và đạt hiệu quả kinh tế. Mặc dù tình hình tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội trong thời gian gần đây có nhiều tiến triển, dư nợ tín dụng năm 1997 và đầu năm 1998 tăng nhiều so với năm 1996 nhưng dư nợ quá hạn cũng tăng. Năm 1996, dư nợ quá hạn là 2.260,3 triệu đồng thì năm 1997, dư nợ quá hạn đã tăng lên 9.066,6 triệu đồng, bằng 401,12% năm 1996. Quí I năm 1998, dư nợ quá hạn là 13.161,5 triệu đồng, bằng 145,16% năm 1997. Tình hình nợ quá hạn sẽ được trình bày chi tiết ở phần sau. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công tác tín dụng đối với toàn hệ thống ngân hàng nói chung đã phát triển nhiều. Riêng với Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội, do mới đi vào hoạt động, chưa tạo được nhiều mối quan hệ lâu năm với khách hàng, mặt khác lại phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng trên cùng địa bàn nên doanh số cho vay cũng còn hạn chế. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội cho tới nay vẫn chưa phát triển mạnh về bề rộng và đa dạng hoá các loại hình. Mặc dù trong điều kiện khó khăn như vậy, song được sự chỉ đạo kịp thời của hội sở và sự nỗ lực của đội ngũ nhân viên tín dụng, ngoài việc duy trì những khách hàng cũ là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thời gian gần đây, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã mở rộng được quan hệ đối với các thành phần kinh tế quốc doanh. Đặc biệt, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã chú trọng duy trì kinh doanh đối với những khách hàng cũ kinh doanh có hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh, trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn. Ngoài ra, Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng phục vụ và bước đầu có những cố gắng trong việc điều chỉnh và nâng cao chất lượng tín dụng phục Trang 50 vụ, thay đổi chính sách thị trường đối với khách hàng lớn là các “tổng công ty 90 và 91”. II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU HÀ NỘI 1. Thực trạng chất lượng tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội qua những con số Bảng 6. Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Khoản mục 31/12/96 31/12/97 31/3/98 1. Doanh số cho vay 194.656,0 132.050,0 22.392,0 2. Doanh số thu nợ 192.225,0 100.275,0 29.792,0 3. Tổng dư nợ 58.782,0 97.363,0 92.944,0 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc cơ bản là huy động vốn để cho vay. Vì thế, muốn xem xét tình hình kinh doanh của ngân hàng thì phải xét đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng có chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn càng cao thì hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. Đối với những ngân hàng lấy nghiệp vụ tín dụng làm nghiệp vụ sinh lời chủ yếu thì chỉ tiêu hiệu quả tín dụng càng đánh giá chính xác tình hình hoạt động của ngân hàng. Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng được tính theo công thức: Tcv H = x 100 (%) Thđ Trong đó: H - là hiệu suất sử dụng vốn Tv - là tổng dư nợ (đơn vị tính: triệu đồng) Trang 51 Thđ - là tổng nguồn vốn huy động (đơn vị tính: triệu đồng) Hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội được thống kê qua bảng 7. Bảng 7. Hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/1996 31/12/1997 31/3/1998 Tổng nguồn vốn huy động 116.577 122.763 120.779 Tổng dư nợ tín dụng 58.782 97.363 92.944 Hiệu suất sử dụng vốn (%) 50,42 79,31 76,95 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu hiệu suất tín dụng cũng chỉ là về mặt lượng của chất lượng tín dụng. Để nghiên cứu về mặt chất, đòi hỏi phải nghiên cứu về khả năng thu hồi cả gốc và lãi, tránh các rủi ro có thể xảy ra. Chỉ có như vậy, hoạt động của ngân hàng mới thực sự đem lại hiệu quả, tránh sử dụng vốn một cách tràn lan. Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội được thống kê qua bảng 8. Bảng 8. Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/1996 31/12/1997 31/3/1998 1. Nợ quá hạn đến 180 ngày 1.515,9 4.352,5 4.795,6 - Doanh nghiệp Nhà nước 219,0 0,0 0,0 - Công ty cổ phần và TNHH Việt Nam 40,0 1.416,0 1.726,6 Trang 52 - Đối tượng khác 1.256,9 2.936,5 0,0 2. Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày 738,4 3.893,7 4.848,8 - Doanh nghiệp Nhà nước 0,0 0,0 0,0 - Công ty cổ phần và TNHH Việt Nam 380,0 716,8 1.632,8 - Đối tượng khác 388,4 3176,9 3.216,0 3. Nợ khó đòi 6,0 820,4 3.517,1 - Doanh nghiệp Nhà nước 0,0 131,0 70,0 - Công ty cổ phần và TNHH Việt Nam 0,0 150,0 610,0 - Đối tượng khác 6,0 539,4 2.837,1 Tổng 2.260,3 9.066,6 13.161,5 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội 31/12/96 31/12/97 31/3/98 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000 Nî qu¸ h¹n ®Õn 180 ngµy Nî qu¸ h¹n tõ 181 ®Õn 360 ngµy Nî khã ®ßi Trang 53 Biểu 8-a: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Bảng 9. Kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/96 31/12/97 Chênh lệch 97/96 Chênh lệch 97/96 (%) 1. Tổng thu nhập - Thu lãi cho vay - Thu lãi tiền gửi - Thu dịch vụ ngân hàng 18.975 9.349 5.138 719 10.919 5.946 4.221 534 - 8.506 - 3.403 - 1.097 - 185 - 44,83 - 36,40 - 20,63 - 25,73 2. Tổng chi phí - Chi trả lãi tiền gửi - Chi nộp thuế - Chi phí quản lý khác 12.941 10.408 62 2.411 8.837 6.269 157 2.471 - 4.104 - 4.139 + 95 - 60 - 31,71 - 39,76 + 153,22 - 2,49 3. Tổng lợi nhuận của ngân hàng 6.034 2.082 - 3.952 - 65,49 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội 2. Nhận xét về chất lượng tín dụng tại ngân hàng á Châu Hà Nội 2.1. Những mặt đạt được Trong thời gian gần đây, tình hình kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã có nhiều tiến triển so với trước đây. So với năm 1996, số dư trên các tài khoản huy động vốn cuối năm 1997 và cuối quí I năm 1998 đã tăng tương ứng là 5,31% và 3,62%; số dư trên các tài khoản cho vay tăng tương ứng là 65,63% và 58,12% so với cuối năm 1996. Thứ nhất: Tổng dư nợ của ngân hàng tăng. Trang 54 Qua số liệu ở bảng 5 ta thấy, trong thời gian qua Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đã mở rộng kinh doanh đối với những khách hàng lớn, có uy tín, bước đầu tạo được những thành công thể hiện qua sự gia tăng của dư nợ tín dụng. Tổng dư nợ năm 1997 là 97.363 triệu đồng tăng 65,63% so với năm 1996, tổng dư nợ cuối quí I năm 1998 là 92.944 triệu đồng tăng 58,11% so với tổng dư nợ cuối năm 1996. Năm 1996 ngân hàng không cho vay trung và dài hạn, sang năm 1997 cho vay trung và dài hạn đã chiếm 48,49% tổng dư nợ tín dụng và quí I năm 1998 tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm 54,60% tổng dư nợ tín dụng. Thứ hai: Hiệu suất sử dụng vốn Hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội trong năm 1996 là chưa cao (50,42%). Sang năm 1997 và đầu năm 1998, hiệu suất sử dụng vốn đã tăng lên 79,31% và 76,95%. Đây là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu của ngân hàng trong năm vừa qua. Có được kết quả này là do được sự chỉ đạo kịp thời của ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Á Châu và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội vẫn còn thấp hơn so với một số ngân hàng khác, đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực hơn trong việc tìm kiếm đối tác. Thứ ba: Các hợp đồng tín dụng của ngân hàng hiện nay đã chặt chẽ hơn, các biện pháp bảo đảm cũng được chú trọng. Nhìn chung, các hợp đồng tín dụng của ngân hàng được thực hiện có hiệu quả. Các biện pháp đảm bảo tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng thu hồi và bảo toàn vốn, nhằm thực hiện đầu tư tín dụng tiếp theo. Thứ tư: Thẩm định tín dụng Trong năm qua, quá trình thẩm định tín dụng được ngân hàng hướng dẫn chi tiết cho cán bộ tín dụng. Ban lãnh đạo ngân hàng thường xuyên đôn đốc, theo dõi quá trình thẩm định các khách hàng cũng như các phương án vay vốn cùng với cán bộ tín dụng. Sau khi giải ngân, các cán bộ tín dụng cũng thường xuyên theo dõi quá trình kinh doanh của khách hàng và đôn đốc khách hàng trả nợ khi đến hạn. Thứ năm: Công nợ Trang 55 Các cán bộ phòng công nợ của ngân hàng cũng thường xuyên theo dõi, tích cực đôn đốc khách hàng trả các khoản nợ quá hạn. Với những khách hàng còn có khả năng duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh thì các bộ ngân hàng tích cực theo dõi, góp ý nhằm đưa ra định hướng tốt giúp khách hàng tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh. Với những khách hàng không có khả năng duy trì sản xuất kinh doanh thì ngân hàng động viên khách hàng tìm cách trả nợ ngân hàng hoặc phải dùng biện pháp phát mại tài sản. 2.2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân Thứ nhất: Doanh số cho vay và doanh số thu nợ đều giảm. Năm 1996, doanh số cho vay là 194.656 triệu đồng, năm 1997 doanh số cho vay là 132.050 triệu đồng giảm 62.606 triệu đồng (hay giảm 32,16%) so với năm 1996. Doanh số thu nợ năm 1996 là 192.225 triệu đồng chiếm 98,75% tổng doanh số cho vay. Năm 1997, doanh số thu nợ là 100.275 triệu đồng, chiếm 75,94% doanh số cho vay. Như vậy, so với năm 1996 thì cả doanh số cho vay và doanh số thu nợ của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội đều giảm. Thứ hai: Nợ quá hạn tăng cả về tương đối và tuyệt đối. So với năm 1996, dư nợ tín dụng và hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội trong năm 1997 và đầu năm 1998 tăng mạnh: hiệu suất sử dụng vốn năm 1997 và quí I năm 1998 tăng tương ứng là 28,89% và 26,53% so với năm 1996, nhưng bên cạnh đó là nợ quá hạn của ngân hàng cũng tăng cao. Như bảng 8 đã trình bày, dư nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội tính đến cuối năm 1996 là 2.260,3 triệu đồng thì đến cuối năm 1997 đã tăng lên 9.066,6 triệu đồng và cuối quí I năm 1998 tăng lên 13.161,5 triệu đồng. Như vậy, nợ quá hạn năm 1997 đã tăng 301,12% so với năm 1996, cuối quí I năm 1998, dư nợ quá hạn tăng 45,16% so với năm 1997 và tăng 496,54% so với năm 1996. Năm 1996 là năm ngân hàng có dư nợ quá hạn tương đối thấp. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 3,84%, nợ khó đòi trên tổng dư nợ là 0,01%. Nghĩa là trong 100 đồng dư nợ thì có 3,84 đồng nợ quá hạn, trong đó 0,01 đồng là nợ khó đòi. So với toàn hệ thống ngân hàng nói chung thì tỉ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội trong năm 1996 là thấp. Nợ quá hạn phần lớn là nợ quá hạn dưới 180 ngày (chiếm 67,07% tổng dư nợ quá hạn) và chủ yếu là thành phần kinh tế ngoài Trang 56 quốc doanh (chiếm 91,64%). Nợ khó đòi là 6 triệu đồng thuộc về kinh tế ngoài quốc doanh. Năm 1997, dư nợ quá hạn là 9.066,6 triệu đồng chiếm 9,3% tổng dư nợ. Trong 9.066,6 triệu đồng nợ quá hạn thì nợ quá hạn dưới 180 ngày chiếm 48%, trong đó 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBáo cáo tốt nghiệp- Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội..pdf
Tài liệu liên quan