Luận văn Lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thái Bình

Tài liệu Luận văn Lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thái Bình: LUẬN VĂN: Lễ hội chùa keo ở tỉnh nam định và thái bình Mở ĐầU 1.Tính cấp thiết của đề tài Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương” phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá trình phát triển của nhiều tộc người nói chung và làng xã người Việt nói riêng, nó phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế-xã hội, văn hóa của cộng đồng. Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng xã người Việt là giá trị văn hoá và liên kết cộng đồng qua tôn giáo, tín ngưỡng. Chính giá trị ấy là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho lễ hội có sức sống lâu bền, tồn tại với lịch sử của các cộng đồng làng xã cho đến hôm nay. Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hoá, con người đang lo lắng quan tâm hơn đến tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịc...

pdf108 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thái Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Lễ hội chùa keo ở tỉnh nam định và thái bình Mở ĐầU 1.Tính cấp thiết của đề tài Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương” phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá trình phát triển của nhiều tộc người nói chung và làng xã người Việt nói riêng, nó phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế-xã hội, văn hóa của cộng đồng. Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng xã người Việt là giá trị văn hoá và liên kết cộng đồng qua tôn giáo, tín ngưỡng. Chính giá trị ấy là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho lễ hội có sức sống lâu bền, tồn tại với lịch sử của các cộng đồng làng xã cho đến hôm nay. Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hoá, con người đang lo lắng quan tâm hơn đến tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng và tìm về nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại. Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh. Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt, cao cả- “chân thiện mỹ”, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý, đẹp đẽ nhất của mình qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học – kỹ thuật thế giới đang là cơ hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Nhưng một vấn đề đặt ra là muốn đa dạng văn hoá thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác để tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hoá riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VIII), đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản là: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” và “Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [17, tr.55]. Trong xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, Việt Nam cũng đang hoà nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên, chúng ta gặp phải một thách thức không nhỏ, khi mà bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế ngày càng rộng rãi như hiện nay. Vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc như thế nào là việc làm cần thiết, có lẽ chúng ta không cần nhắc lại tác hại của việc đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Điều quan trọng là phải tìm được những giải pháp giữ gìn và phát huy những yếu tố tích cực của bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Công cuộc đổi mới đất nước hơn hai mươi năm qua ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. ở lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng có những biến đổi căn bản, trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của công tác tôn giáo. Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá tâm linh gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật truyền thống và cũng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng thành viên, niềm hạnh phúc cho từng gia đình. Hệ thống các lễ hội đều phản ánh những ước mong, hoài bão về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, sự trường tồn của cộng đồng, dân tộc, trở thành phong tục, tập quán của nhân dân ta.Thông qua sinh hoạt lễ hội, với các nghi lễ, trò chơi, diễn xướng... tính cộng đồng, dân tộc được thắt chặt hơn, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” được nhấn mạnh. Đặc biệt những lễ hội về những anh hùng có công lập làng, dựng nước, giữ nước, đồng thời với việc ghi nhớ công ơn tổ tiên, là sự nêu cao khí phách hào hùng của dân tộc, góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hiện nay hoạt động lễ hội đang diễn ra khá phổ biến ở khắp các địa phương trong cả nước. Đó là một hoạt động góp phần gìn giữ phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống. Tuy nhiên trước hiện thực xâm nhập của văn hoá phương Tây, với qúa trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước dân chủ hoá đời sống xã hội. Cùng với sự phân hoá giàu nghèo, cộng với trình độ dân trí của một bộ phận dân cư còn thấp, các mặt tiêu cực trong xã hội xuất hiện… đã dẫn đến việc các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có chiều hướng gia tăng, các hoạt động lễ hội cũng dễ bị lợi dụng để gây ra những tác động tiêu cực như: kích thích mê tín dị đoan, gây nên sự tốn kém, lãng phí về thời gian, tiền bạc, hao tốn sức lực và tính mạng của nhân dân… Mặt khác trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và lễ hội nói riêng nhằm trục lợi cá nhân, gây mất ổn định xã hội… Đây là điều mà các cơ quan quản lý các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và tránh xa những hiện tượng tiêu cực này. Tại hai tỉnh Nam Định và Thái Bình hàng năm có rất nhiều lễ hội được nhân dân tiến hành tổ chức. Tuy nhiên có một điều khá đặc biệt là ở hai bên bờ sông Hồng đều có công trình kiến trúc Phật giáo từ lâu đời (thời Lý) đó là 2 ngôi chùa mang tên CHùA KEO. Hàng năm ngoài các sinh hoạt tôn giáo thông thường, tại hai ngôi chùa trên đều tổ chức “Lễ hội chùa Keo” vào dịp rằm tháng 9 âm lịch. Thời gian và nội dung diễn ra lễ hội của chùa Keo xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và chùa Keo tại xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân địa phương . Chính vì vậy, nhận thức đúng đắn về lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội chùa Keo nói riêng để tìm ra những giá trị tích cực cần giữ gìn và phát huy, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực không phù hợp đang là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm góp phần lành mạnh hoá các hoạt động của lễ hội, hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, xây dựng đất nước ta phát triển ngày càng bền vững. Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thỏi Bỡnh” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm vừa qua các công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội được quan tâm nhiều hơn những năm trước đổi mới.Trên nhiều bình diện khác nhau như tôn giáo học, khoa học xã hội, văn hóa dân gian, dân tộc học, chính trị học, quản lý nhà nước... vấn đề lễ hội và tôn giáo tín ngưỡng được đề cập ở những mức độ khác nhau. Có thể chia thành các nhóm sau đây: 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội – tôn giáo, tín ngưỡng - Lễ hội cổ truyền của Viện Văn hóa Dân gian, Nhà xuất bản (Nxb) Khoa học Xã hội (1992). Công trình đề cập đến các vấn đề lễ hội đời sống tinh thần, môi trường tự nhiên xã hội liên quan đến hình thành lễ hội, lịch sử lễ hội, cơ cấu, phân loại, các biểu hiện và giá trị của hội làng của người Việt đồng bằng Bắc Bộ. - 60 lễ hội truyền thống ở Việt Nam. Nxb KHXH (1992). Đề cập đến 60 lễ hội truyền thống ở Việt Nam trong đó có đề cập đến lễ hội chùa Keo ở tỉnh Thái Bình. - Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam của các giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng, Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc (1993). Công trình đề cập đến lễ cầu mùa của người Kinh, các dân tộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, Trường Sơn-Tây Nguyên. - Từ điển Hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết, Nxb Văn hóa-Thông tin (2000). Trong đó tác giả đã cố gắng sưu tầm, tập hợp, hệ thống, chỉnh lý và biên soạn tất cả hội lễ truyền thống đã từng diễn ra trên khắp lãnh thổ nước ta từ xưa đến nay, sắp xếp theo thứ tự A, B, C... tên riêng của từng hội lễ. - Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh của Lê Huy Trâm- Hoàng Anh Nhân, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội -2001. Các tác giả đã đưa quan điểm trong việc nhận thức và nghiên cứu lễ hội. Hai tác giả nhấn mạnh đến việc quan sát, tiếp cận Lễ hội trong sự tổng thể của nó, chứ không nên tách phần Lễ riêng và phần Hội riêng. - Đáng kể là công trình gần đây của GS.TS. Ngô Đức Thịnh “Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền" Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2007, là những chuyên luận đề cập đến các vấn đề “Tín ngưỡng dân gian” của người Việt, các dân tộc thiểu số với đa sắc diện ở các vùng của đất nước; đề cập đến “Đạo mẫu và Lên đồng” của người Việt, Tày, Chăm; đề cập đến “Lễ hội cổ truyền” với môi trường tự nhiên, xã hội, văn hóa, đến vai trò của “tín ngưỡng, môi trường nảy sinh, tích hợp baỏ tồn sinh hoạt văn hóa-nghệ thuật dân gian...” 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội - văn hoá, lịch sử - Văn hóa - lễ hội của các dân tộc ở Đông Nam á, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội (1992) của tập thể các giả do GS. Phan Hữu Dật chủ biên đề cập đến lễ hội các dân tộc ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Inđônêxia, Philippin, Singapor, Malayxia. - Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam của Hà Tiến Hùng, Nxb Văn hoá Thông tin (1997). - Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của Hồ Hoàng Hoa, Nxb KHXH (1998). - Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội của Nguyễn Quang Lê. H.2001. - Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam của Hoàng Lương. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội – 2002) đã dành riêng một chương (Chương 2) bàn về “Khái niệm chung về lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc” để bàn về “Khái niệm chung” tác giả đã đưa khái niệm Lễ nói chung và đối với các dân tộc thiểu số miền Bắc nước ta nói riêng. - Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và các lễ hội về anh hùng của Lê Văn Kỳ, Nxb Khoa học xã hội. - Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch của Dương Văn Sáu, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội, Hà Nội 2004. Tác giả đã xây dựng mô hình, cơ cấu tổng thể về hệ thống lễ hội nói chung, đề cập đến những vấn đề chung nhất, đồng thời cụ thể hoá những biện pháp, cách thức tiến hành, triển khai các nội dung của từng công việc trong một lễ hội. - Lễ hội cổ truyền ở Nam Định của Hồ Đức Thọ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2003. Công trình đề cập đến quá trình hình thành và phát triển lễ hội ở Nam Định, nhấn mạnh nội dung của 40 hội làng điển hình trong đó có lễ hội chùa Keo và lịch lễ hội cổ truyền ở Nam Định hàng năm. - Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2005. Trong đó đề cập đến các tín ngưỡng dân gian như tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ thần thành hoàng, tín ngưỡng phồn thực... Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước trong những năm gần đây về lễ hội cổ truyền, tác giả luận văn chưa có điều kiện liệt kê tất cả những danh mục viết về lễ hội hiện đang có ở nhiều tác phẩm và bài viết khác. Mặt khác, tác giả luận văn cũng chưa có cơ hội được đọc hết các luận văn nghiên cứu về lễ hội cổ truyền của các tác giả Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau. Tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu tầm, tích luỹ chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về lễ hội chùa Keo để nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm về lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thái Bình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * .Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu lễ hội diễn ra ở chùa Keo tỉnh Nam Định và tỉnh Thái Bình để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của lễ hội hiện nay ở nước ta. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: Làm rõ khái niệm, quá trình hình thành và cách phân loại lễ hội ở Việt Nam; Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng, từ đó nêu lên đặc điểm, ảnh hưởng của lễ hội chùa Keo tại tỉnh Nam Định và Thái Bình; Đề xuất giải pháp bảo tồn phát huy giá trị của lễ hội gắn với tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đề tài lấy Lễ hội chùa Keo làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định và lễ hội chùa Keo tại xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình làm đối tượng nghiên cứu, trong đó chú trọng nội dung tôn giáo, tín ngưỡng trong lễ hội. * Phạm vi nghiên cứu: - Về thời gian: Luận văn tiếp cận nghiên cứu những giá trị lễ hội chùa Keo từ năm 1990 đến nay, trên cơ sở đó tìm ra các giá trị truyền thống trong quá khứ để khẳng định các giá trị vốn có của nó. - Về không gian: Luận văn lấy lễ hội của chùa Keo tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định và lễ hội chùa Keo tại xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình để khảo sát nghiên cứu. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo, tín ngưỡng về văn hóa để nghiên cứu các tài liệu và sự kiện thực tế, rút ra những kết luận chính xác, có cơ sở khoa học, đáp ứng những đòi hỏi của nội dung luận văn * Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nhiệm vụ khoa học của đề tài đặt ra, luận văn áp dụng các phương pháp sau: - Sử dụng phương pháp điền dã khảo sát thực tế tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định và xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình để thu thập thông tin chính cho đề tài về lễ hội. - Phân tích tổng hợp và hệ thống hóa các tư liệu liên quan của các tài liệu tham khảo, dùng phương pháp so sánh, đối chiếu với các tài liệu điền dã thực địa, rút ra những kết luận của đề tài. - Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành như văn hoá học, văn học dân gian, văn sử địa, nghệ thuật học và nhiều phương pháp khoa học cần thiết khác phục vụ cho công trình nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Vận dụng cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và các phương pháp khoa học đã nêu trên, tiếp thu có bổ sung sáng tạo các tài liệu tra cứu, luận văn đã tiếp cận một cách toàn diện và tổng thể lễ hội chùa Keo tại hai tỉnh Thái Bình và Nam Định, từ đó có thể cung cấp nhiều tư liệu chính xác, cụ thể, tỷ mỷ và chi tiết cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, những người làm công tác văn hoá, tôn giáo quan tâm đến lĩnh vực này. Từ góc độ nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn tác giả luận văn bước đầu đưa ra những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đối với lễ hội chùa Keo ở hai tỉnh Thái Bình và Nam Định. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thông qua nội dung của luận văn, người đọc sẽ tìm hiểu được một vài nét cơ bản về lễ hội ở Việt Nam hiện nay, qua đó sẽ nắm được thực trạng, đặc điểm và ảnh hưởng của lễ hội chùa Keo tại 2 tỉnh Nam Định và Thái Bình. Luận văn sẽ cung cấp các tư liệu tham khảo cùng một số giải pháp và kiến nghị giúp các nhà chuyên môn, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách, công tác văn hoá nói chung và trên địa bàn hai tỉnh Nam Định và Thái Bình nói riêng có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác chuyên môn, góp phần hoạch định chính sách quản lý phù hợp, nhằm bảo lưu, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức, truyền thống của lễ hội chùa Keo. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 MộT Số VấN Đề Về Lễ HộI ở VIệT NAM 1.1. KHáI NIệM, QUá TRìNH HìNH THàNH Lễ HộI 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Các khái niệm cơ bản trình bày dưới đây gồm: Khái niệm về Lễ và Nghi lễ, khái niệm Hội và Lễ Hội.Trong quá trình tiếp cận các vấn đề Lễ hội những khái niệm trên là cần thiết giúp chúng ta nhận diện nội dung lễ hội một cách khoa học: * Khái niệm Lễ và Nghi lễ: Trong tiếng Hán -Việt, Lễ chính là những khuôn mẫu của người xưa đã quy định; các phép tắc buộc phải tôn trọng, tuân theo trong các mối quan hệ xã hội. Đó chính là rường mối, cơ tầng, nền tảng của mọi mối quan hệ giữa người với người trong bất kỳ một xã hội nào. Theo quan niệm của người xưa, lễ được coi là những phép tắc theo khuôn mẫu đã được hình thành và củng cố theo thời gian, được quy định một cách chặt chẽ từ “ quan - hôn- tang - tế” đến đi đứng, nói năng, cư xử hàng ngày của mọi người dân. Đây là những quy định, lễ nghi, phép tắc buộc mỗi con người phải tuân theo trong các mối quan hệ ứng xử của mình trong xã hội. Dưới thời phong kiến, các nhà Nho quan niệm rằng: Lễ nghĩa thiên chi tự. Theo họ, Lễ vốn là trật tự, là chữ đã định sẵn của Trời, cần phải có và không thể đảo ngược. Cuộc sống xã hội của con người cần có lễ để phân biệt, giữ gìn tôn ty trật tự trong mối quan hệ đa chiều luôn diễn ra trong đời sống xã hội. Lễ được coi là cơ sở của một xã hội có tổ chức và đã phát triển đến trình độ nào đó. Đối với mỗi người, lễ thể hiện sự tôn kính, thái độ ứng xử của con người đối với đồng loại. Lễ nhằm phòng ngừa những hành vi và tình cảm không chính đáng. Lễ không chỉ quy định chi tiết về thái độ, cử chỉ bên ngoài mà còn tạo điều kiện hình thành một trạng thái tinh thần tương ứng trong mỗi con người. Lễ cũng đồng thời trở thành phương tiện để tự sửa mình, điều chỉnh mình cho đúng mực, hoàn thiện hơn. Những biểu hiện của lễ bao giờ cũng tương xứng với tuổi tác, vị thế và vai trò, điều kiện của cá nhân nào đó trong các mối quan hệ gia đình và xã hội của con người đó. Trong chiều dài lịch sử phát triển, lễ còn được coi là “phong hoá” của quốc gia, dân tộc; là những biểu hiện trong thuần phong mỹ tục, những tập tục truyền thống, lối sống, nếp sống và tập quán sinh hoạt của một cộng đồng dân cư được hình thành và củng cố theo thời gian. Trong “Từ điển hội lễ Việt Nam” của Bùi Thiết, Nxb Văn hoá- Thông tin, Hà Nội 2000 thì Lễ được hiểu là các hoạt động đã đạt đến trình độ lễ nghi [48, tr.5]. Tác giả Lê Văn Kỳ, Viện Văn hoá dân gian cho rằng: Lễ trong lễ hội là một hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân làng đối với các thần linh, lực lượng siêu nhiên nói chung, với thần thành hoàng nói riêng. Đồng thời lễ cũng phản ánh những nguyện vọng ước mơ, chính đáng của con người trước cuộc sống đầy rẫy những khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng cải tạo [58, tr.67]. Tác giả Hoàng Lương trong công trình Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội -2002) đã dành riêng một chương (Chương 2) bàn về “Khái niệm chung về lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc” để bàn về “Khái niệm chung” tác giả đã đưa khái niệm Lễ nói chung và đối với các dân tộc thiểu số miền Bắc nước ta nói riêng. Tác giả kết luận: Đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung và ở miền bắc nói riêng, lễ được thực hiện chủ yếu liên quan đến việc cầu mùa, "người an, vật thịnh". Có thể nói, Lễ là phần đạo, phần tâm linh của cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, nhu cầu tín ngưỡng của mọi thành viên trong cộng đồng” [38, tr.35]. Lễ hay nghi lễ trong thờ cúng là những nghi thức được con người tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó với mục đích cảm tạ, tôn vinh về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu nhiên mà người ta thờ cúng. Dưới góc độ nào đó, lễ có thể được coi là “bức thông điệp” của hiện tại gửi quá khứ, là hoạt động biểu trưng của thế giới hiện thực gửi thế giới siêu hình. Nghi lễ là những sinh hoạt tinh thần của các cá nhân hay tập thể, là sinh hoạt của cả cộng đồng người trong đời sống tôn giáo – tín ngưỡng. Dương Văn Sáu trong cuốn “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” thì cho rằng nghi lễ là những ứng xử của các tầng lớp nhân dân dành cho thần, hướng về thần trong mối quan hệ “Người –Thần” vốn luôn tồn tại trong tâm thức và hành động của mọi người, mọi thời đại. Nghi lễ còn là hình thức, biện pháp tiến hành trong các hoạt động xã hội của con người nhằm đối ứng và tương thích với đối tượng thờ cúng, với vị thế xã hội, môi trường sống của những người tổ chức tiến hành hoạt động nghi lễ. Trong những hình thái như vậy, cần phải vượt ra ngoài những quan niệm thông tục coi lễ chỉ là lễ bái, cúng tế mà còn phải coi lễ, nghi lễ là rường mối kỷ cương, phép tắc, đạo lý, góp phần tôn vinh, củng cố và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của gia đình, xã hội [45, tr.27]. Như vậy với những cách định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu rằng Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ cúng. * Khái niệm Hội: Trong tiếng Việt, Hội là danh từ để chỉ sự tập hợp một số cá nhân vào trong một tổ chức nào đó, tồn tại trong một không gian và thời gian cụ thể. Tác giả Bùi Thiết quan niệm: Hội là các hoạt động lễ nghi đã phát triển đến mức cao hơn, có các hoạt động văn hoá truyền thống [48, tr.5]. Lê Văn Kỳ, Viện Văn hóa dân gian cho rằng “hội là một sinh hoạt văn hoá dân dã phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt trò tục hấp dẫn do mình chủ động tham gia...” [58, tr.83]. Đôi khi Hội chỉ sự liên kết giữa các cá nhân, tổ chức có chung mục đích hoặc các mục đích gần giống nhau. Hội còn được coi là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người đến dự theo phong tục tập quán, hay phong trào, trào lưu ở một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển xã hội. Đặc điểm cơ bản, xuyên suốt của hội (trong lễ hội) là có sự tham gia của đông người và trong hội người ta được vui chơi thoải mái. Hội bao giờ cũng mang tính chất công cộng cả về tư cách tổ chức lẫn mục đích cần đạt được của những người tổ chức và tham dự. Đồng thời đây chính là dịp người ta tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí cho đông đảo người tham dự. Các hoạt động này được diễn ra thường niên theo phong tục tập quán truyền thống của các địa phương, vùng miền hoặc tổ chức vào các dịp đặc biệt trong năm để hướng tới, tôn vinh với mong muốn đạt được những mục tiêu, giá trị cụ thể nào đó trong đời sống văn hoá cộng đồng. Như vậy, trong hội lưu giữ một phần kho tàng di sản văn hoá đặc sắc của địa phương và dân tộc. Trong các hoạt động của hội còn có thể bao gồm các chương trình vui chơi giải trí hiện đại mang sắc thái thời gian, phản ánh và thể hiện trình độ phát triển của cộng đồng dân cư của một địa phương hay toàn xã hội ở vào thời điểm mà nó ra đời và tồn tại. Dương Văn Sáu cho rằng: Những hoạt động diễn ra trong Hội là một phần bộ mặt xã hội, là chiếc “phong vũ biểu”, tấm gương phản chiếu khách quan, trung thực đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của một địa phương, của đất nước ở thời điểm diễn ra các hoạt động đó. Các hoạt động diễn ra trong hội bao gồm các trò chơi dân gian, các hình thức diễn xướng dân gian do người dân trực tiếp tham gia, các hoạt động văn hoá nghệ thuật truyền thống và cả các hoạt động mang tính hiện đại [45, tr.31]. Tác giả Hoàng Lương khi bàn đến hội, đã đề cập đến yếu tố “đông người” và có địa điểm để “vui chơi” thoải mái; đến tính chất “công cộng”, đến “nhiều trò vui” “bách hí”, đến mọi người được “cộng cảm, cộng mệnh”, “phần đời” bên cạnh phần tâm linh của phần lễ… Tác giả cũng đề cập đến “mối quan hệ giữa lễ và hội” và cho rằng hội là hình thức biểu hiện của lễ, hội là hình thức, lễ là nội dung.Quan hệ đó bện chặt, khăng khít trong nhau và tương hỗ lẫn nhau, tồn tại trong sự thống nhất [38, tr.38]. Trong hội, có thể tìm thấy những biểu tượng điển hình của sự thể hiện tâm lý cộng đồng; những đặc trưng của văn hoá dân tộc; những quan niệm, cách ứng xử đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của các cá nhân và cả cộng đồng người. Những hoạt động diễn ra trong hội phải luôn phản ánh và thể hiện một phần lịch sử địa phương, đất nước. Từ những quan niệm trên có thể hiểu: Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội của một cộng đồng dân cư nhất định; là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người dự theo phong tục truyền thống hoặc nhân những dịp đặc biệt. Những hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều kiện, khả năng và trình độ phát triển của địa phương, đất nước ở vào thời điểm diễn ra các sự kiện đó. * Khái niệm Lễ hội Trong những năm vừa qua đồng thời với việc nghiên cứu về Lễ hội thì các quan niệm về Lễ hội cũng được quan tâm nhất định. Tuy nhiên qua nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội thì việc bàn đến khái niệm lễ hội không nhiều. Lễ hội là một khái niệm được tiếp cận trên những góc độ khác nhau. Trong Từ điển tiếng Việt củaTrung tâm Từ điển học Vietlex, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển, 2008, tr.694 các tác giả Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa quan niệm lễ hội là: “cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống”. Bùi Thiết cho rằng: Hội lễ là cách gọi cô đọng nhằm để chỉ toàn bộ các hoạt động tinh thần và ứng xử, phản ánh những tập tục, vật hiến tế, lễ nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của một cộng đồng làng xã nhất định [48, tr.5]. Các tác giả trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội 2002, tr. 674) đưa quan niệm: “Lễ hội là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kinh của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khă năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh. Lễ hội là hoạt đông của một tập thể người liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo Do nhận thức, người xưa rất tin vào trời đất, sông núi, vì thế ở các làng xã ngoài miếu thờ thiên thần, thổ thần, thủy thần, sơn thần. Lễ hội cổ truyền đã phản ánh hiện tượng đó. Tôn giáo có ảnh hưởng đáng kể đối với lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội làm phương tiện phô trương thanh thế, ngược lại lễ hội thông qua tôn giáo để thần linh hóa những gì trần tục. Theo thư tịch cổ, lễ hội của người Việt xuất hiện từ thời nhà Lý (thế kỷ 11), nhưng có người cho rằng lễ hội của dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với lịch sử của dân tộc, của đất nước biểu hiện qua trống đồng Đông Sơn, mà tiêu biểu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ - cái nôi của dân tộc Việt, đó là Hội mùa, Hội làng… ngày hội cố kết cộng đồng biểu trưng những giá trị của đời sống tâm linh, đời sống xã hội và văn hóa của cộng đồng. Có những lễ hội mang tính toàn quốc như Hội đền Hùng, Hội đền Kiếp Bạc”. Có thể thấy quan niệm về Lễ hội trên đây trong Từ điển Bách khoa Việt Nam là quan niệm tương đối toàn diện so với nhiều quan niệm khác về lễ hội ở nước ta, thể hiện được nhiều góc độ phản ánh các vấn đề lịch sử, nội dung và những biêủ hiện cụ thể của nó gắn với tộc người chủ thể - người Việt ở nước ta. Các tác giả Lê Huy Trâm-Hoàng Anh Nhân trong công trình Lễ tục, Lễ hội truyền thống xứ Thanh (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội -2001, tr 11 -15) đã đưa quan điểm trong việc nhận thức và nghiên cứu lễ hội. Hai tác giả nhấn mạnh đến việc quan sát, tiếp cận Lễ hội trong sự tổng thể của nó, chứ không nên tách phần Lễ riêng và phần Hội riêng; Cho đến nay, chúng ta dễ nhất trí với nhau: Lễ không phải chỉ là một hiện tượng đơn thuần, hoạt động độc lập tách biệt chỉ là lễ và hội. Đã có lúc ta coi đó là văn nghệ hoặc văn hóa thuần túy và xem xét lễ hội như là “hoạt động văn hóa”, tách phần hội như là tiết mục trò diễn văn nghệ, có khi tách phần ngôn từ để để chỉ xem xét phần văn học của trò diễn.Việc tách biệt ra từng phần để nghiên cứu là cần thiết song một khi diện mạo của lễ hội chưa được khảo tả kỹ càng, đầy đủ và trung thực thì các phần nghiên cứu tách biệt về trò diễn, về văn bản lời ca, về lễ hội đơn thuần…dễ sa vào phiến diện, đại khái và suy diễn, không giúp cho chúng ta khái quát được con đường hình thành và phát triển của lễ hội truyền thống, không cát nghĩa đúng đắn và đầy đủ bản sắc dân tộc trọng các lễ hội [54, tr.11-12]. Hai tác giả trên còn đưa ra quan niệm: Hội làng tập trung tất cả ý chí, tài năng của cả làng trong lễ và hội, là điểm sáng văn hóa làng nổi bật nhất. Tất cả các nhân tố cấu thành Hội làng biểu hiện thành Lễ và Hội, có nhân tố nổi lên, hiện rõ dễ thấy, có nhân tố chìm, ẩn tàng sau lễ hội; tất cả đều có lý do tồn tại trong một mối quan hệ sinh động, ràng buộc, không thể thiếu.Thiếu đi một nhân tố, sơ suất trong một trường hợp dễ dẫn đến sự lủng củng xích mích trong lễ hội [54, tr.12-13]. Lễ hội của người Kinh và nhiều dân tộc thiểu số từng gắn với các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, với mùa Xuân… Khi nghiên cứu về Lễ hội Rija Nwgar của người Chăm, tác giả Ngô Văn Doanh quan niệm rằng: Lễ hội gắn với vòng đời người như cưới xin, một số nghi lễ tang ma như lễ nhập kút; một số lễ hội lớn tạ ơn thần linh được tổ chức lớn tại các đền tháp như lễ hội Katê; những lễ hội có nguồn gốc từ Hồi giáo của người Chăm Bani như tháng chay Ramưvan… Các lễ hội của người Chăm không chỉ phong phú , đa dạng mà còn có nguồn gốc từ những hệ thống tôn giáo và tín ngưỡng bản địa khác nhau. Có những lễ hội thuần túy chỉ là những lễ hội nông nhiệp như lễ cầu mưa (Yôr-yang), lễ khai mương đắp đập (Pơh băng yang).., có những lễ hội ít nhiều có liên quan với Bàlamôn giáo như Băng Katê…Và có những lễ hội có nguồn gốc Hồi giáo như lễ hội háng tháy Ramưvan… [13, tr.5]. GS.TS. Phạm Đức Dương trong Lời giới thiệu cuốn Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam á của tác giả Trần Bình Minh (Viện Văn hóa-Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2000) cũng cho rằng: Những tín ngưỡng dân gian của đời sống tâm linh nằm trong thế giới ý niệm được khách thể hóa, hiện thực hóa. Vì thế, lễ hội ở các nước Đông Nam á đều có chung một cấu trúc ban đầu gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ là để con người giao tiếp với thần linh, để cầu xin thần linh thông qua những trung gian thiêng ( thầy cúng, lời khấn, múa, nhạc cụ, lễ vật…) với các nghi lễ: tế, rước. ở đây mỗi vật , mỗi hành động đều có tính biểu tượng. Mối quan hệ giao cảm giữa con người và thần linh quyện lẫn trong hương khói, trong không gian thiêng… đưa con người vào thế giới ảo- thế giới tâm linh... Phần hội là những trò chơi nhằm xây dựng quan hệ cộng cảm trong cộng đồng với sự tham gia của thần linh.Vì thế không khí của ngày hội bao giờ cũng rộn ràng, kích động con người với những trò diễn xướng và trò chơi…[39, tr.5]. Như vậy, qua các công trình trên đây, các tác giả khi bàn về khái niệm lễ hội của người Kinh, lễ hội các dân tộc thiểu số hay các nước Đông Nam á đều có những quan niệm tương đồng về Lễ và Hội, mối quan hệ của các nội dung trên trong tổng thể lễ hội. Tuy nhiên ở mỗi cộng đồng tộc người, mỗi vùng quê cụ thể các hoạt động lễ hội gắn với đời sống tâm linh- tôn giáo, tín ngưỡng đều có những biểu hiện cụ thể khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan đến kinh tế-xã hội, sự bảo tồn và tương quan mạnh yếu giữa các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại… Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong những chu kỳ về không gian và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trưng về sự kiện nhân vật được thờ cúng. Những hoạt động này nhằm để tỏ rõ những ước vọng của con người, để vui chơi giải trí trong cộng đồng. Lễ hội là những hoạt động, những sinh hoạt văn hoá mà ở đó có sự gắn kết không thể tách rời của cả nội dung và hình thức của hai thành tố cơ bản là Lễ và Hội. Ngoài ra, trong hoạt động lễ hội còn bao gồm một số thành tố khác như: hệ thống các tục hèm, các trò diễn dân gian, hoạt động hội chợ triển lãm và văn hoá ẩm thực. Các thành tố này luôn có trục trung tâm là định hướng phát triển. Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục trung tâm đó để đạt được những mục tiêu nhất định, những mục tiêu này nhằm phục vụ lợi ích của cả cộng đồng, chứ không chỉ phục vụ lợi ích của riêng những người tổ chức hoạt động lễ hội. Từ tình hình trên đây chúng ta có thể nhận thấy một cách khái quát rằng: Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con ngưòi với thiên nhiên, thần thánh và con người trong xã hội. Khái niệm trên đã phản ánh bản chất và những nội dung của lễ hội truyền thống Việt Nam.Trước hết, lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng, bởi vì đây là hoạt động văn hoá của tập thể, thuộc về tập thể, do tập thể tổ chức. Dù ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời gian nào lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành. Chính họ là những người sáng tạo chân chính những giá trị bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời là người đánh giá, thẩm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hoá ấy. Không bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó trong xã hội. Không có đông người tham dự, không thành hội! người ta nói: “đông như hội” chính là vậy. Lễ hội là một hoạt động tập thể do quần chúng nhân dân tiến hành, bất cứ lễ hội nào cũng gắn với các địa bàn dân cư cụ thể, là hoạt động văn hoá của một địa phương đó. Về cơ bản, lễ hội truyền thống Việt Nam là những “lễ hội làng" nhưng cũng có nhiều lễ hội do nội dung và tính chất của nó nên được diễn ra trong một không gian rộng lớn hơn, có tính liên làng, liên vùng. Những hoạt động lễ hội này diễn ra không thường xuyên mà chỉ ở một vài thời điểm nhất định vào mùa xuân hay mùa thu trong năm. Đây là thời điểm chuyển giao thời tiết, cũng là thời điểm chuyển giao mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Vào thời điểm này, người ta tổ chức hoạt động lễ hội nhằm các mục đích khác nhau. Trước hết, những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm nhắc lại sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại đã diễn ra trong quá khứ. Đây chính là biểu hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thể hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, thần thánh, con người, thông qua các hoạt động trong lễ hội. Đó là những ứng xử của tập thể, của cộng đồng cư dân với cả hai đối tượng: siêu hình (thần thánh) và hữu hình (con người). Nó cũng phản ánh mối quan hệ, giao thoa giữa siêu và thực, giữa con người với con người trong những hoàn cảnh và hoạt động cụ thể. 1.1.2. Nguồn gốc, quá trình hình thành lễ hội ở Việt Nam Thông thường, ở Việt Nam những lễ hội có từ trước năm 1945 được gọi bằng các tên gọi “lễ hội cổ truyền”, “lễ hội dân gian”, “lễ hội truyền thống”, “ lễ hội dân gian truyền thống"... Mặc dù có những tên gọi khác nhau nhưng theo các nhà nghiên cứu thì có thể chia lịch sử lễ hội cổ truyền (trước 1945) của người Việt ở Bắc bộ thành bốn thời kỳ: 1. Lễ hội trong thời kỳ xây dựng nền văn hoá Đông Sơn (từ khoảng sáu, bảy thế kỷ trước Công nguyên đến một vài thế kỷ sau Công nguyên). Đó là những lễ hội của cư dân nông nghiệp, được mở vào mùa thu, là hình thức sinh hoạt văn hoá- xã hội tổng hợp, thể hiện một trình độ văn minh khá cao, bản sắc văn hoá độc đáo của người Việt cổ, thể hiện tập trung nhất tính chất nhân văn và tính chất nguyên Việt [58, tr. 47]. 2. Lễ hội trong thời kỳ Bắc thuộc. Lễ hội trong thời kỳ này có những đặc điểm cơ bản sau: - Hội được mở vào cả hai mùa xuân, thu trong đó hội mùa xuân nhiều hơn - Hội chùa xuất hiện, không chỉ phản ánh tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, mà còn thể hiện ý nghĩa Phật giáo đã được Việt hoá. - Mỗi dịp mở hội là một lần cư dân Việt sùng bái, tưởng niệm, diễn lại sự tích các anh hùng dân tộc. Các vị này đã trở thành thần thành hoàng của nhiều xóm làng cư dân Việt [58, tr.51]. 3. Lễ hội trong thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ (từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX). Trong giai đoạn này bên cạnh hội chùa còn xuất hiện thêm hội đình. Mặt khác trong một lễ hội, thường có sự pha trộn của nhiều tín ngưỡng: tín ngưỡng nguyên thuỷ, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng Đạo giáo, tín ngưỡng thành hoàng. Trong các sinh hoạt văn nghệ của các lễ hội, đã có sự phân biệt rạch ròi giữa cung đình, bác học với dân gian, quan nhạc (nhạc chính thức của Nhà nước) khác hẳn nhạc giáo phường (nhạc dân gian)…[58, tr.59]. 4. Lễ hội trong thời kỳ đất nước dưới chế độ thực dân nửa phong kiến (từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1945). ở giai đoạn này hội vẫn được tổ chức vào hai mùa xuân, thu. Địa điểm diễn ra lễ hội là ở đình, đền, chùa. Lễ hội vẫn mang ý nghĩa là lễ hội nông nghiệp, bên cạnh những tư tưởng mê tín, dị đoan, những hủ tục nặng nề đã tồn tại những yếu tố dân chủ, bình đẳng… Đáng chú ý, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, những lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc, lễ hội nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn dân tộc vẫn được mở, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân nước Việt [ 58, tr.65]. Những lễ hội ra đời sau năm 1945 được gọi là “lễ hội hiện đại". Có thể nói, lễ hội đã kết tinh những nét đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, truyền thống đó thể hiện một phần ở những tinh hoa lắng đọng trong hoạt động lễ hội. Chính ở trong hoạt động văn hoá đặc sắc này, các tàn dư lạc hậu, không phù hợp với thời cuộc đã và sẽ được sàng lọc, loại bỏ theo thời gian. Khi nghiên cứu tổng thể về lễ hội cổ truyền và lễ hội hiện đại, thuật ngữ “lễ hội truyền thống” đề cập đầy đủ nhất về hai loại hình lễ hội này. Những lễ hội có từ trước năm 1945 nay còn tồn tại trong đời sống văn hoá ở các địa phương cùng những lễ hội ra đời từ sau năm 1945 đã và đang trở thành hoạt động văn hóa thường niên ở các cộng đồng dân cư. Cả hai loại hình lễ hội đó đều đã và đang trở thành truyền thống của dân tộc. Việc sử dụng tên gọi “lễ hội truyền thống” vừa thể hiện được đặc trưng của lễ hội dân gian, vừa làm rõ nội dung của các loại hình lễ hội hiện đại. Nghiên cứu lễ hội từ truyền thống đến hiện đại góp phần tìm hiểu ý nghĩa xã hội và văn hoá của nó trong tiến trình lịch sử. Hiện nay, trong kho tàng di sản văn hoá dân tộc, hệ thống lễ hội trở thành một thành tố văn hoá phi vật thể không thể thiếu trong đời sống văn hoá xã hội của đông đảo các tầng lớp nhân dân trên đất nước ta. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, lễ hội truyền thống Việt Nam hình thành rất sớm, từ khi chưa hình thành nhà nước, chưa có sự phân chia giai cấp. Tuy vậy, có thể cho rằng, lễ hội xuất hiện khi xã hội loài người đạt trình độ phát triển cao trong tổ chức đời sống xã hội. Cũng như các mặt hoạt động khác của đời sống con người, lễ hội từng bước hình thành, không ngừng biến đổi và hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của xã hội ở từng giai đoạn khác nhau của lịch sử. Từ thực tiễn cuộc sống, có thể thấy rằng lễ hội được hình thành từ các cơ sở được coi là nguồn gốc sau: - Do phong tục tập quán truyền thống của các địa phương truyền lại: Những phong tục tập quán được hình thành từ bao đời, chung đúc qua bao thế hệ và được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp, luôn thể hiện một phần đạo lý “uống nước nhớ nguồn - ăn quả nhớ kẻ trồng cây", đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các lễ hội truyền thống Việt Nam. Trong dân gian có câu: “Trống làng nào làng ấy đánh", " Thánh làng nào làng ấy thờ" điều này vừa phản ánh, thể hiện yếu tố bản địa, mang tính địa phương, vừa tạo ra sự phong phú đa dạng của bức tranh văn hoá dân tộc.Những lễ hội dân gian diễn ra ở các làng xã thường gắn với những kỷ niệm ngày sinh, ngày hoá của các Thần hoàng làng - vị thần bản mệnh của địa phương. Cho nên, lệ làng, phép nước đã góp phần hình thành các lễ hội truyền thống. Lễ hội bắt nguồn từ trong cuốc sống lao động sản xuất và chiến đấu của người nông dân, đồng thời thể hiện sự phong phú đa dạng trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng của một bộ phận dân cư trên địa bàn cụ thể. Phong tục tập quán của mỗi vùng, miền là yếu tố quyết định việc tồn tại và phát triển các lễ hội truyền thống ở các địa phương.Nó phản ánh và thể hiện nét đặc sắc của bản sắc văn hoá dân tộc của các địa phương vùng miền trong một lãnh thổ quốc gia thống nhất. Chính điều đó thể hiện văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá “thống nhất trong đa dạng", nó được hình thành bởi sự góp mặt của văn hoá 54 dân tộc anh em.Những phong tục tập quán của các địa phương, dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng, mang sắc thái riêng tạo nên nét bản sắc của văn hoá. Có thể nói, lễ hội ra đời trong lịch sử, tồn tại và vận hành cùng lịch sử, góp phần hình thành truyền thống, hình thành những thuần phong mỹ tục, tập quán, lối sống, nếp sống ở các địa bàn dân cư. - Do quy định của thể chế chính trị - xã hội đương thời: Là một hoạt động văn hoá, lễ hội ra đời, tồn tại và phát triển trong một môi trường xã hội nhất định. Trong từng thời điểm của lịch sử, môi trường xã hội nào cũng gắn với thể chế chính trị cầm quyền của giai đoạn đó. Do lễ hội là hoạt động văn hoá có tác động và ảnh hưởng sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân nên các chính thể cầm quyền đều sử dụng nó như một “công cụ văn hoá đa năng” để phục vụ những mục đích quản lý, duy trì và điều hành hoạt động của đất nước, xã hội.Vì thế, hoạt động lễ hội diễn ra trước hết phục vụ cho mục đích trên của chính thể cầm quyền. Bên cạnh những lễ hội dân gian truyền thống, nhiều lễ hội được tổ chức nhằm chúc mừng các sự kiện chính trị - quân sự - văn hoá xã hội nổi bật của từng giai đoạn, như các lễ hội chào mừng sự kiện lịch sử, đón nhận danh hiệu thi đua, lễ hội kỷ niệm, đánh dấu các mốc thời gian ra đời, các thành tựu đạt được của các cá nhân, tập thể của một cơ quan, đơn vị. - Do các mục tiêu phát triển kinh tế - văn hoá- xã hội đặt ra: Là một thành tố văn hoá có chứa đựng các nội dung và yếu tố văn hoá, kinh tế nên lễ hội được chính thể cầm quyền sử dụng, khai thác như là một tác động bổ trợ góp phần điều tiết và thúc đẩy xã hội theo những mục tiêu, định hướng phát triển của từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau. Căn cứ vào tình hình xã hội, đất nước, từ thực trạng của các ngành kinh tế, nhu cầu của xã hội, của cuộc sống đặt ra để tổ chức các cuộc triển lãm về thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật như các Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, các liên hoan du lịch làng nghề truyền thống của các địa phương. Mỗi một giai đoạn có một mục tiêu phát triển khác nhau, từ đó lễ hội cũng được khai thác thông qua các hình thức mang tính đặc thù để phát huy thế mạnh vốn có của các loại hình văn hoá xã hội này. - Do nhu cầu vui chơi giải trí của các tầng lớp nhân dân trong xã hội: Nhu cầu vui chơi giải trí luôn đặt ra với con người mỗi khi có thời gian nhàn rỗi như sau thời kỳ lao động sản xuất có liên quan đến mùa vụ, hoặc các nghề nghiệp sản xuất khác. Người dân sau một thời gian lao động sản xuất mệt nhọc, vất vả, căng thẳng muốn nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, bù đắp năng lượng thiếu hụt đều có mong muốn và nhu cầu bổ sung nguồn năng lượng tiêu hao, thiếu hụt thông qua việc tham gia các lễ hội. ở đó họ được bù đắp, khám phá những mới mẻ, hấp dẫn khác của đời sống văn hoá mà họ chưa có. Nhu cầu này thường xuyên, liên tục đối với mỗi con người, như là một tất yếu để giải toả những ức chế, mệt mỏi trong cuộc sống, thu nạp năng lượng để bước vào cuộc sống mới. Quá trình này chính là quá trình “tích nạp năng lượng”, là sự bổ sung điều chỉnh để tự hoàn thiện mình trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. 1.2. CáC LOạI HìNH Lễ HộI Như bất kỳ một hình thái văn hoá xã hội nào khác, hoạt động lễ hội luôn mang trong mình những nội dung và đặc điểm riêng của mình. Muốn hiểu đúng, đầy đủ hơn về nó để sử dụng, khai thác, phát huy giá trị kho tàng lễ hội trong đời sống đương đại chúng ta phải tiến hành phân loại lễ hội. Công việc này giúp cho những nhà quản lý văn hoá thống kê, nắm được số lượng, lịch trình các lễ hội diễn ra trên địa bàn mình quản lý.Từ đó có những biện pháp khai thác, sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương. Từ nhiều năm nay, giới nghiên cứu về lễ hội nước ta, từ nhiều góc độ khác nhau, cố gắng đưa ra một cách phân loại lễ hội sao cho thoả đáng nhất. Trước hết, người ta căn cứ vào nội dung phản ánh của lễ hội để chia đây là lễ hội nông nghiệp, kia là lễ hội anh hùng lịch sử, còn kia nữa là lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng… Căn cứ vào phạm vi to nhỏ để phân đâu là hội làng, hội vùng và hội của cả nước (quốc hội)…; rồi lại căn cứ vào thời gian mở hội để chia ra lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu hay nơi tổ chức ở chùa, đền hay đình… Cách phân chia nào cũng có mặt hợp lý, nhưng đều không tránh được những chồng chéo, bất hợp lý của nó. Điều trên thật dễ hiểu, bởi vì, trong số hàng trăm hàng ngàn lễ hội của người Việt ở Đồng bằng Bắc bộ, tuy to nhỏ khác nhau, nhưng gốc tích ban đầu đều từ hội làng, mang đậm tính chất là lễ hội nông nghiệp, nhưng trong qúa trình lịch sử lâu dài, lễ hội thu nhận vào mình những nội dung lịch sử, văn hoá, xã hội mới, tạo nên sự hoà quyện, đan xen giữa cái căn cỗi và những cái du nhập sau này, thậm trí về mặt thời gian của hội cũng chuyển dịch; các xu hướng huyền thoại hoá, lịch sử hoá, địa phương hoá cũng chi phối hình thức và nội dung lễ hội. Dựa vào các cách tiếp cận trên, có thể chia lễ hội thành các loại sau đây: 1.2.1. Phân loại lễ hội theo không gian lãnh thổ Đây là hình thức phân loại theo quy mô, mức độ và phạm vi ảnh hưởng, chi phối, tác động của các lễ hội. Không gian lễ hội là phạm vi không chỉ về mặt hành chính mà còn nằm trong không gian chịu tác động và ảnh hưởng của sự kiện văn hoá đó. Không gian lễ hội được quyết định bởi nội dung và hình thức biểu hiện, thể hiện những nội dung đó trong hoạt động thực tiễn của nó. Không gian sinh tồn của cộng đồng cư dân đồng thời là không gian lịch sử và không gian văn hoá, lễ hội cộng đồng đồng thời phản ánh lịch sử, lưu giữ và tưởng niệm lịch sử và là biểu trưng văn hoá tộc người sống trong không gian đó. Căn cứ vào không gian, có thể chia lễ hội theo các hình thức sau đây: Những lễ hội mang tính quốc tế: Là những lễ hội thường được du nhập từ bên ngoài vào trong đời sống chính trị, văn hoá, xã hội của người Việt Nam, được cả người Việt Nam và thế giới tổ chức. Những lễ hội này trước hết là các lễ hội của các tôn giáo như những lễ hội của Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành... Những lễ hội mang tính quốc gia: Những lễ hội mà nhân vật hoặc sự kiện được thờ cúng có liên quan ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới cả dân tộc trong quốc gia và đất nước (như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương...). Những lễ hội mang tính vùng miền: Là những lễ hội mà nhân vật hoặc sự kiện được thờ khá nổi tiếng. Khi tổ chức lễ hội được sự tham gia, có mặt của nhân dân trên một địa bàn của nhiều địa phương ở gần nhau nằm trên một vùng rộng lớn: Lễ hội Trường Yên- Hoa Lư (Ninh Bình); lễ hội Đền Nhân (Hà Nội). Lễ hội làng: Với người Việt, làng là một đơn vị cư dân sống tụ cư, mang tính cộng đồng cao trên một lãnh thổ xác định, có mối liên hệ huyết tộc và láng giềng chặt chẽ. Làng là một đơn vị hành chính thấp nhất được tổ chức tương đối chặt chẽ nhằm duy trì các hoạt động sản xuất, sinh hoạt, chống thiên tai địch hoạ, bảo vệ an ninh thôn xóm, đê điều; xây dựng các công trình công cộng phục vụ lợi ích cộng đồng. Làng là một cộng đồng kinh tế chung, về cơ bản, làng là một đơn vị kinh tế tự cung tự cấp với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp tự chủ tương đối so với các làng khác. Làng là một cộng đồng văn hoá khá hoàn chỉnh với các yếu tố văn hoá vật thể và văn hóa phi vật thể thuộc về làng xã và phục vụ làng xã. Lễ hội ở làng là hình thức phổ biến rộng rãi, với số lượng nhiều, có nội dung phong phú, đa dạng và sinh động nhất.Hội làng truyền thống đã góp phần tạo dựng và vun đắp lối sống, phong cách và văn hoá Việt. Lễ hội làng là lễ hội chủ đạo trong đời sống văn hoá của các tầng lớp dân cư. Đây trở thành hạt nhân, nền tảng cho kho tàng, lễ hội của dân tộc tồn tại, phát sinh, phát triển trong suốt tiến trình lịch sử. 1.2.2. Phân loại lễ hội theo thời gian, mùa vụ sản xuất Như nhiều quốc gia á đông khác, cư dân Việt Nam chủ yếu là cư dân nông nghiệp, cho đến nay khi đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì vẫn có đến hơn 70% dân số là nông dân. Trong quá khứ lịch sử, đại đa số cư dân sinh sống ở làng, vì vậy những lễ hội làng chủ yếu phản ánh cuộc sống nông nghiệp.Điều đó thể hiện qua thời gian mở hội thường gắn với mùa vụ sản xuất. Các lễ hội là một phần của cuộc sống, nó gắn bó mật thiết, chặt chẽ với cuộc sống lao động sản xuất của người nông dân. Tiến trình phát triển ở một cộng đồng cư dân nông nghiệp chính là quá trình gắn với khai hoang, canh tác đất đai, đi từ: quảng canh- thâm canh - chuyên canh- độc canh. Khi bắt đầu khai phá đất đai hay mùa vụ mới, người ta tổ chức lễ cầu xin cho gặp được đất tốt, khai phá an toàn. Bước vào mùa gieo cấy thì làm lễ khai canh động thổ, tổ chức “lễ xuống đồng” cầu cho mùa màng bội thu. Trong quá trình chăm bón lúa, cây màu, hoa trái lại cầu mưa thuận gió hoà cho cây cối đơm hoa kết trái. Đến khi thu hoạch thì tổ chức cúng cơm mới, cúng phần hoa quả đầu tiên. Sau đó tổ chức mở hội ăn mừng thành quả lao động, mời thần lúa về kho. Sau vụ thu hoạch, vào dịp nông nhàn thì mở hội vui chơi giải trí, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Mùa vụ truyền thống của người Việt thường bắt đầu và kết thúc vào dịp Xuân - Thu, do vậy lễ hội cũng thường diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu. Tạo ra hai hình thức lễ hội mùa Xuân và lễ hội mùa Thu, gọi là Xuân - Thu nhị kỳ. Mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở, con người như được tiếp thêm sức mạnh, bừng bừng sức xuân trong cuộc sống mới. Mùa Thu là mùa trăng thanh gió mát, thư thái an nhàn. Cả hai dịp ấy, người ta cùng mở hội để vui chơi và thưởng ngoạn.Như vậy những lễ hội làng, lễ hội mùa là những lễ hội thường mở vào hai mùa Xuân - Thu trong năm. Tuy nhiên, có một số lễ hội được mở lại không tuân theo mùa vụ thời gian xuân thu như thông lệ mà có thể được mở vào những thời gian bất kỳ trong năm. Những lễ hội như vậy thường gắn với ngày sinh, ngày hoá của các nhân vật có công với dân, với nước. Đó là các anh hùng dân tộc, danh nhân trên nhiều lĩnh vực, các vị tổ sư, tổ nghề, Thành hoàng làng... Người dân Việt Nam luôn quan niệm: “sinh có hạn, tử bất kỳ”. Thời điểm sinh - hoá của mỗi con người là thời điểm Thiêng, đặc biệt là đối với các vị thần, không ai có thể dự định được cho “ngày ra đi” của mình. Lễ hội thường được tổ chức vào đúng các dịp Thiêng đó, do vậy, đôi khi các lễ hội kỷ niệm ngày sinh, ngày hoá của Thần có thể rơi vào bất kỳ thời gian nào trong năm, không nhất thiết vào đúng mùa xuân hay mùa thu. Đó có thể được coi là những trường hợp đặc biệt: Lễ hội đình Chèm (Đông Ngạc - Từ Liêm - Hà Nội), thờ Lý Ông Trọng đi sứ sang Tàu thời Tần Thuỷ Hoàng (246 -210 TCN). Lễ hội tổ chức vào chính giữa mùa hè, vào ngày 15/5 âm lịch, là một lễ hội khá quy mô thể hiện qua câu ca: Thứ nhất là hội Cổ Loa Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm. Ngoài ra, các lễ hội kỷ niệm các sự kiện lịch sử cũng có thể được tổ chức vào một thời gian bất kỳ trong năm do tính chất bất quy luật của sự kiện.Người ta khó có thể định trước thời điểm vào mùa xuân hay mùa thu cho sự kiện xẩy ra, do đó lễ hội kỷ niệm về nó cũng không nhất thiết xảy ra theo hai thời điểm xuân – thu. 1.2.3. Phân loại lễ hội theo tôn giáo Lễ hội của các tôn giáo không giới hạn về không gian mà chỉ giới hạn về thời gian tổ chức lễ hội.Thời gian lễ hội diễn ra vào các dịp kỷ niệm, lễ trọng gắn với các mốc thời gian có liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của các Đấng Giáo chủ. Lễ hội tôn giáo diễn ra trong không gian cụ thể là các Thánh đường, những nơi thờ tự của các tôn giáo và phạm vi ảnh hưởng của nó. Không gian lễ hội tôn giáo thường diễn ra rất rộng, trên tất cả những nơi có hệ thống giáo đường của các tôn giáo. Ví dụ như trong Kitô giáo, lễ Giáng sinh Noel chỉ diễn ra vào ngày 24-25 tháng 12 nhưng khắp nơi trên trái đất. Lễ hội của các tôn giáo thường gắn với các mốc thời gian, các sự kiện có liên quan đến các bậc giáo chủ của các tôn giáo và các tông đô thân tín của Ngài. Lễ hội tôn giáo thường nặng về nghi thức hành lễ, phần hội diễn ra sau đó thường đơn giản. Dù với quy mô và hình thức như thế nào thì lễ hội tôn giáo đều có được lòng tin tuyệt đối của đội ngũ giáo dân, tín đồ khi tham dự. Lễ hội của Kitô giáo: Với Kitô giáo, những hình thức nghi lễ tôn giáo mang tính toàn cầu và được thực hiện nghiêm túc, thống nhất. Khi hành lễ, Linh mục là người thay mặt Chúa rao giảng kinh Phúc âm và làm các phép bí tích như rửa tội, giải tội, các tín đồ công giáo thì biểu hiện đức tin của mình bằng việc đọc kinh cầu nguyện, xưng tội, chịu lễ … Những lễ nghi tôn giáo chỉ là một trong những biểu hiện của sinh hoạt tôn giáo ở bất kỳ một giáo xứ nào. Kitô giáo lấy việc kính trọng và thờ phụng Đức Chúa trời trên hết mọi sự, do vậy những lễ nghi tôn giáo đều có liên quan đến Đức Kitô và các tông đồ của ngài. Những lễ trọng không theo mùa như lễ Giáng sinh 25/12 còn gọi là lễ Noel vào ngày 24 và 25/12 dương lịch hàng năm kỷ niệm ngày Chúa Jesus Chrits được Đức Mẹ Maria và Ông Giuses sinh ra.Đức Chúa Jesus Chrits được sinh ra bởi huyền năng của Mẹ đồng trinh Maria. - Lễ Phục sinh là lễ kỷ niệm việc chúa Jesus sống lại sau khi bị giết chết 3 ngày.Lễ Phục sinh thường cử hành vào ngày chủ nhật của tuần thứ 3 tháng 4 dương lịch. - Lễ Chúa thăng thiên: còn gọi là lễ Chúa Jesus lên trời, lễ được tổ chức sau lễ Phục sinh 40 ngày để kỷ niệm ngày Chúa về Trời sau khi Phục sinh. - Lễ Chúa hiển linh: còn gọi là lễ hiện xuống, lễ được tổ chức sau lễ Chúa thăng thiên 10 ngày để kỷ niệm ngày Chúa hiển linh nơi trần thế cùng với gió và lửa. Đây cũng gọi là lễ Chúa Ba ngôi. - Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời: tổ chức vào ngày 15/8 dương lịch để kỷ niệm ngày Đức Mẹ đồng trinh Maria lên thiên đàng. - Lễ Chúa nhật: đây là lễ thường niên của đồng bào theo Kitô giáo, theo quan niệm của các tín hữu Kitô, Chúa sáng tạo vũ trụ và vạn vật trong 6 ngày và nghỉ ngày chủ nhật, ngày đó được các tín đồ đi tới nhà thờ và làm lễ. - Lễ các Thánh tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 11 dương lịch, kỷ niệm ngày hiển linh của các vị được phong Thánh và làm lễ cho những tín đồ ngoan đạo đã tử vì đạo, lễ cho các trẻ em chẳng may bị chết sau khi đã chịu phép bí tích rửa tội cùng hết thảy những con chiên của Chúa đã sống thánh thiện. ở các xứ đạo còn có lễ Thánh Quan thày (cũng chính là lễ các Thánh) là những lễ tưởng nhớ đến các Thánh được coi như Thành Hoàng làng của người dân làng công giáo toàn tòng. Đó phần lớn là các Thánh tông đồ, Thánh tử vì đạo, hoặc các ông tổ của các dòng họ của người công giáo. Những Thánh tử vì đạo là những người được Giáo hội Công giáo xem là đã chết cho lý tưởng cao đẹp của đạo Công giáo. Lễ hội của Phật giáo. Là một tôn giáo có số giáo dân lớn nhất trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo là một tôn giáo du nhập sớm nhất vào Việt Nam và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong các tầng lớp dân chúng trong nước. Trong một năm, Phật giáo có khá nhiều lễ liên quan đến những mốc thời gian gắn với người sáng lập Phật giáo. - Lễ Đản sinh 15/4 âm lịch. Đây là ngày lễ chung của tất cả các chùa Việt Nam. Ngày Phật đản là lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức Thích Ca, người sáng lập ra đạo Phật. Nội dung của buổi lễ được tiến hành như sau: Từ khoảng 4 giờ sáng các sư tăng lên khoá lễ để mời các chư Phật và Bồ tát về minh chứng cho buổi lễ. Các tăng ni mài trầm hương, hoà cùng với nước mưa đem tắm cho tượng, vừa tắm vừa tụng kinh. Đến chiều thì khoá lễ chúc mừng Đức Phật ra đời, đồ lễ vật là hương hoa và trái cây. Sau khi kết thúc buổi lễ, chia lộc Phật như nước tắm tượng, khăn đỏ lau tượng được chia cho mỗi người thành một mảnh nhỏ gọi là của Phật để cho con cháu lấy khước khoẻ mạnh, bình yên. - Lễ Vu Lan 15/ 7 âm lịch. Đây là ngày hết sức quan trọng đối với các Phật tử trong năm vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, các Phật tử về chùa cúng lễ. Lễ Vu lan hay còn gọi là “giải đạo huyền” (tiếng Hán) có nghĩa là giải thoát cho cha mẹ chúng sinh khỏi tội lỗi hay cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh. Ngày này có ý nghĩa xã hội sâu sắc trong truyền thống, văn hoá của dân tộc. Giới Phật tử gọi đây là lễ xá tội vong nhân, vì lễ Vu lan không những mang tư tưởng bình đẳng từ bi, bác ái của đạo Phật mà còn thể hiện sự báo đáp công ơn của con cái đối với cha mẹ và mối liên hệ giữa đạo và đời. Với người Việt Nam, lễ Vu lan là dịp cho họ nhớ đến cội nguồn, nhớ đến tổ tiên ông bà, cha mẹ.Trong dân gian có câu ca dao “cúng quanh năm không bằng rằm tháng bảy” là vậy. Nhìn chung, lễ Vu lan thể hiện một khía cạch của nền tảng đạo đức truyền thống đền ơn đáp nghĩa, con cháu hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Ngoài ra trong Phật giáo còn có một số lễ quan trọng khác như lễ Phật xuất gia: mồng 8 tháng 2 âm lịch, lễ Phật thành đạo: mồng 8 tháng 12 âm lịch. Lễ Phật nhập Niết bàn: 15 tháng 2 âm lịch... Lễ kỷ niệm khai sáng Phật giáo Hoà Hảo: lễ hội tiến hành vào ngày 18 tháng 5 dương lịch hàng năm. Trong lễ hội này, người ta tổ chức các trạm cơm chay phục vụ hàng chục vạn tín đồ phật tử Hoà Hảo đi dự lễ hội không lấy tiền. Các tín đồ tổ chức tiến hành làm đèn, kết hoa theo các hình “tứ linh”, “tứ quý” cầm trên tay, treo trên nhà cửa, trên các phương tiện giao thông. Vào dịp hội, do đồng bằng Nam bộ có nhiều kênh rạch, các đoàn tàu, thuyền trở tín đồ đi lễ hội khai sáng Phật giáo Hoà Hảo đều phát tâm công đức, không lấy tiền chuyên chở. Lễ hội của Phật giáo Cao đài: Đạo Cao đài một năm có hai kỳ đại lễ:Lễ vía Đức Chí Tôn vào ngày mồng 9 tháng giêng âm lịch và ngày lễ Đức Bà (hội Yến Diêu Trì cung) ngày 15 tháng 8 âm lịch. Lễ hội của đạo Cao đài diễn ra tại các thánh thất của đạo, đặc biệt tại Toà thánh Tây Ninh, trung ương Giáo hội Cao đài Việt Nam. 1.2.4. Phân loại lễ hội theo tín ngưỡng Tín ngưỡng dân gian không có hệ thống giáo lý, tín điều quy chuẩn, cũng không có bậc giáo chủ chính thống, chưa có hệ thống cơ sở thờ tự thống nhất mà phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội của từng địa phương.Lễ vật thờ cúng trong tín ngưỡng dân gian thường được cúng đồ mặn, trong khi đó tôn giáo thường cúng đồ chay. Tôn giáo, tín ngưỡng là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của một bộ phận quần chúng nhân dân. Nó bao gồm rất nhiều tín ngưỡng khác nhau, có thể kể đến như: - Lễ hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Lễ hội thờ cúng tổ sư, tổ nghề, trong đó lễ hội Đền Hùng được coi là lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên lớn nhất của người Việt, tổ chức vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm. - Lễ hội của tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng làng: những lễ hội này phổ biến rộng khắp mọi miền đất nước, ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm và chiếm số lượng nhiều nhất trong tất cả các loại hình lễ hội. Đây không chỉ là sinh hoạt văn hoá mà còn là “ tài sản văn hoá” của các địa phương, góp phần vào sự phát triển của từng vùng. - Lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu: lễ hội thờ Mẫu Liễu Hạnh diễn ra ở các phủ điện thờ Mẫu như Phủ Tây Hồ ở Hà Nội vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, ở Phủ Giầy (Nam Định) vào các ngày đầu tháng 3 âm lịch hàng năm: Còn trời còn nước còn non, Mồng 5 rước Mẫu ta còn đi xem - Lễ hội của tín ngưỡng thờ cúng động vật: với quan niệm “vạn vật hữu linh”, người Việt thờ khá nhiều thần động vật như Ngư thần, Xà thần, Hổ thần, Mã thần… Việc thờ cúng này có ở nhiều nơi, đặc biệt là lễ hội thờ cúng cá Voi ( thường được gọi là cá Ông) của cư dân miền biển.Vì cá Voi có vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh của ngư dân vùng biển. - Lễ hội của tín ngưỡng thờ nhiên thần (các vị thần tự nhiên): thường diễn ra ở các nơi thờ tự các thần tự nhiên như Sơn tinh- Địa/ thổ thần- Thuỷ thần- Mộc thần- Thạch thần hoặc thờ các thần trong tự nhiên là các thần Mây- Mưa – Sấm – Chớp. Chúng ta gặp các lễ hội này ở các chùa của người Việt thờ Tứ Pháp: Pháp Vân- Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện. Đây là những lễ hội khá đặc biệt mà trong đó có sự kết hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa của cư dân nông nghiệp Việt Nam. - Lễ hội của tín ngưỡng phồn thực. Phồn thực: phồn là nhiều, phong phú, đa dạng.Thực là sinh sôi, naỷ nở, phát triển. Khao khát tình dục là bản năng sinh lý vốn có của con người và động vật nói chung. Khi đến tuổi trưởng thành, con người ta ai cũng muốn được yêu đương, thoả mãn, giải toả. Đó là những nhu cầu nhân văn của con người, là quy luật để sinh tồn và phát triển nòi giống. Hành vi tái tạo cuộc sống con người trước hết được con người hành xử như một cử chỉ bản năng, một nhu cầu tự nhiên. Những hành vi bản năng để thực thi một nhu cầu tự nhiên với sự phát triển, thăng tiến và hoàn thiện đời sống con người, có tính chất “người”, “xã hội”, “văn hoá” ngày càng tăng trưởng, chiếm ưu thế, giữ vai trò chính yếu so với vai trò của hành vi “tự nhiên”, “bản năng”.Tiến trình phát triển đó làm cho những hành vi tái tạo cuộc sống con người ban đầu vốn chỉ là hành vi “bản năng”, “tự nhiên”, thành hành vi văn hoá: chứa đựng ước vọng thiêng liêng của con người. Con người cụ thể, có giới hạn đã có thể trở thành con người xã hội, vĩnh hằng thông qua quá trình “tái sản xuất” ra chính bản thân con người. Nhu cầu duy trì đời sống con người được thực hành thông qua một loạt hành vi, dẫn đến sự sinh sản ra chính con người. Bình minh lịch sử của loài người sinh tồn chắc chắn với số lượng hết sức ít ỏi, trước thiên nhiên bao la vô tận thì nhu cầu “tái sản xuất mở rộng” con người trở thành nhu cầu thiết yếu và trước hết. Cái thu hút sự quan tâm của con người lúc đó không phải là đối tượng để con người khai thác, sử dụng, chinh phục và chính là con người để có thể khai thác, sử dụng chinh phục thiên nhiên bao la vô tận đang tồn tại quanh mình. Sự ngắn ngủi hữu hạn của đời sống con người (tuổi thọ của người cổ đại hết sức ngắn ngủi) trong hoàn cảnh còn đất rộng người thưa, khả năng hạn hẹp trong các phương tiện công cụ lao động tất yếu dẫn đến một tham vọng làm tăng sức mạnh của con người trong chinh phục tự nhiên là ở số đông, sự gia tăng dân số, là khuyến khích sinh sản. Sinh sản nhiều và nhiều hơn nữa đã trở thành niềm mong ước của con người, sự mong ước đó đã dẫn đến sự hình thành trong nhận thức của con người một quan niệm thiêng liêng hoá sinh sản. Thiêng liêng hoá sinh sản được cụ thể hoá thành những hành vi, nghi thức để vươn tới, để thực hiện ước vọng của con người đối với sự sinh sản. Và đó là cơ sở để hình thành tín ngưỡng tôn thờ sự sinh sản. Sự phát triển trên đây, thể hiện quá trình vận động những nhu cầu khát vọng của con người biến đổi thành niềm tin tín ngưỡng. Tín ngưỡng phồn thực ra đời từ đó và luôn hiện hữu trong đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động. Những biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực trong các lễ hội luôn có sức lôi cuốn, hấp dẫn đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân. Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng tôn thờ những hiện vật mang biểu trưng về sinh thực khí âm dương và những nghi lễ biểu đạt hành động tính giao để cầu mong sự sinh sôi nảy nở, no đủ và phát triển. Tín ngưỡng phồn thực được biểu hiện qua việc thờ cơ quan sinh dục nam và nữ (thông qua ngẫu nhiên hoặc biểu tượng Linga và Yoni). Sinh thực khí là công cụ để vạn vật sinh tồn, phát sinh phát triển.Việc thờ sinh thực khí mang biểu tượng tôn vinh năng lượng thiêng để sinh ra muôn loài, muôn vật. Cùng với việc thờ sinh thực khí là việc thờ hành vi giao phối của con người thông qua hệ thống các biểu tượng hoặc tả thực. Hành vi này của con người nhằm gây cảm ứng sang cho muôn vật, trước hết là cây trồng và vật nuôi, bởi con ngưòi là trung tâm vũ trụ, chủ thể sáng tạo, chúa tể của vạn vật. Trong hoạt động sống của mình, khi con người tác động tới tự nhiên và tác động đến xã hội sẽ góp phần hình thành nên vạn vật. Như vậy, lễ hội phồn thực là những lễ hội trong đó có tục thờ cúng các sinh thực khí, hoặc các hành động thị phạm mô tả các động tác tính giao với mục đích mong muốn con người và vạn vật sinh sôi nảy nở, phát sinh phát triển. 1.2.5. Phân loại theo tính chất của lễ hội Lễ hội phân theo tính chất của nó có thể kể đến các loại hình lễ hội như lễ hội nông nghiệp, lễ hội lịch sử - cách mạng, các lễ hội khác... Thứ nhất là loại hình lễ hội nông nghiệp, chúng thường là hội làng, diễn ra ở các vùng cư dân có lịch sử lâu đời, đây là những lễ tiết nông nghiệp rất cổ, gắn liền với thời kỳ mới bắt đầu xuất hiện những hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thuộc loại hình lễ hội này, có những trò diễn nghệ thuật tín ngưỡng, nhắc lại những hoạt động sản xuất như cày bừa, gieo hạt, cấy lúa, hoặc rước thờ những sản phẩm nông nghiệp như bông lúa, bánh trái, gia súc hoặc rước nước, vẩy nước cầu mưa làm mùa. Lễ hội nông nghiệp là các lễ hội có liên quan đến các nghi thức cầu cúng, tế lễ trong đó có sử dụng các nghi thức để cầu mùa, cầu mưa, cầu tạnh, tạ ơn… lễ hội nông nghiệp là những lễ hội mà nội dung và hình thức của nó chứa đựng những yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến diện mạo đời sống của cư dân nông nghiệp thông qua các hoạt động diễn ra trong đời sống xã hội như các hình thức và phương thức canh tác truyền thống, kinh nghiệm làm ăn, xử lý các hiện tượng biến đổi của thời tiết có tác động ảnh hưởng tới cây trồng, vật nuôi. Bản chất của hội mùa là cầu mong sự trợ giúp của các thế lực siêu nhiên để được mùa hơn trong hoạt động lao động sản xuất tuỳ theo nghề nghiệp của những nhóm cư dân khác nhau. Đồng thời là dịp bày tỏ và thể hiện sự biết ơn, cảm tạ của cộng đồng khi nhận được sự trợ giúp của Thánh Thần. Thứ hai là loại hình lễ hội phồn thực giao duyên, những lễ hội dạng này thường gắn liền với một thời kỳ rất cổ của quan niệm tín ngưỡng và quan hệ hôn nhân. ở những hội làng thuộc loại này, dân làng thờ cúng hoặc rước thờ những đồ vật được gọi là cái “giống” của nam nữ, hoặc những hình tượng nam nữ loã thể, làm động tác tính giao cho các hình tượng ấy; hoặc tổ chức tranh cướp các hình sinh thực khí hoặc biểu diễn những hình tượng tính giao hạn chế. Thứ ba là loại hình lễ hội lịch sử, có nguồn gốc từ cách dùng trò diễn để nhắc lại hoặc biểu dương một hành động, một sự tích trong cuộc sống thường ngày của xã hội cổ sơ, về sau xoay quanh tín ngưỡng thành hoàng về một nhân vật lịch sử liên quan đến cả cộng đồng, dân các làng mở loại hội này, dùng hình thức diễn xướng đề nhắc lại cuộc đời, sự tích của nhân vật ấy, và còn qua đấy, dung nạp, bảo lưu khá nhiều tiết mục cổ xưa của các loại hình hội làng khác nữa. 1.2.6. Phân loại lễ hội theo loại hình thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng Mọi lễ hội đều diễn ra trong một không gian nào đó, đó chính là những không gian văn hóa gắn với các cộng đồng dân cư ở làng xã Việt Nam. Không gian của lễ hội thường diễn ra trong hệ thống thiết chế tôn giáo tín ngưỡng, đó là những công trình di tích lịch sử văn hoá ở các địa phương, nơi lưu giữ và tôn vinh những giá trị văn hoá tinh thần của người dân ở địa phương hay của xã hội, được kết tinh qua các nhân vật và sự kiện đã hình thành trong lịch sử. Về cơ bản đây là những công trình công cộng của một cộng đồng dân cư, nơi diễn ra các hoạt động tinh thần của cá nhân và cộng đồng, trong đó có hoạt động lễ hội.Thông thường các lễ hội của các địa phương thường diễn ra các di tích lịch sử văn hoá, không gian văn hoá công cộng linh thiêng của làng xã.Dưới góc độ nào đó có thể coi di tích chính là cái “vỏ” trang nghiêm để chứa cái “hồn” lễ hội trong đó. Lễ hội ở đình làng đây là những lễ hội của các làng xã nông thôn Việt Nam thờ cúng chủ yếu là Thành hoàng làng – vị thần bản mệnh của làng xã. Những lễ hội diễn ra ở đình làng vẫn thường gọi là “hội làng” chiếm một số lượng nhiều nhất trong kho tàng lễ hội dân gian truyền thống Việt Nam. Đây là nơi diễn ra các hình thức thờ cúng, tế lễ vui chơi hội hè của cư dân làng xã. Đặc điểm của các lễ hội này thường do dân làng tổ chức với quy mô vừa và nhỏ, phục vụ cuộc sống của chính người dân sống trên địa bàn đó. Hơn nữa, các ngôi đình làng là công trình văn hoá công cộng trung tâm của làng xã nên lễ hội ở đó thường liên quan đến các lễ hội ở các di tích khác thuộc khuôn khổ làng xã như chùa, miếu, am điện... Lễ hội ở chùa đây là nơi diễn ra các lễ hội gắn với đạo Phật. Đặc điểm của những lễ hội diễn ra ở chùa chủ yếu là hệ thống nghi thức, nghi lễ, ít các hoạt động hội hè đình đám, vui chơi giải trí. Nếu như dưới thời Lý – Trần, Phật giáo có thể được coi là quốc giáo, hệ thống chùa chiền được chia thành 3 dạng đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam thì các ngôi chùa chủ yếu gắn với hoàng cung và triều đình. Do vậy lễ hội ở các di tích này thường được tổ chức với quy mô lớn với sự tham gia của các vị cao tăng cùng với các vua chúa, hoàng thân quốc thích trong triều. Dưới thời Trần, triều đình phong kiến nhiều lần tổ chức trấn áp, dẹp bỏ những nơi thờ các vị thần trong dân gian được triều đình coi là “dâm từ”. Các thời kỳ sau đó, khi Phật giáo phát triển mạnh mẽ về các vùng nông thôn thì lễ hội ở chùa gắn bó mật thiết với lễ hội ở đình, bởi đây là hai thiết chễ văn hoá chủ yếu của văn hoá nông thôn làng xã Việt Nam. ở Việt Nam, những ngôi cổ tự danh tiếng thường được xây dựng ở những nơi danh lam thắng cảnh đẹp của đất nước. Lễ hội gắn với những ngôi chùa này thường là những lễ hội nổi tiếng như lễ hội Chùa Hương (huyện Mỹ Đức – Hà Nội) mở hội ngày mồng 6/ 1, kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân; lễ hội khu di tích danh thắng Yên Tử (xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) mở hội ngày mồng 10/1, kéo dài trong các tháng xuân. Lễ hội ở đền, miếu, phủ, điện: Mỗi cộng đồng dân cư có nhiều loại di tích khác nhau, bên cạch những di tích chính ở làng như đình làng, chùa làng còn có các loại hình di tích khác như đền, phủ, miếu. Đây là những di tích gắn với tín ngưỡng dân gian, lễ hội diễn ra ở đó cũng được coi là những lễ hội dân gian gắn với một di tích, địa danh cụ thể nơi có các di tích đó tồn tại. Những lễ hội này thường với quy mô vừa và nhỏ gắn chặt với đời sống văn hoá làng xã, do người dân địa phương tự tổ chức. Lễ hội ở nhà thờ: Ngoài nhà thờ họ tộc của người Kinh, nhà thờ còn là di tích của các tôn giáo lớn như Công giáo, Tin lành. .. Đây cũng là nơi diễn ra những lễ hội quy mô tương đối lớn do Giáo hội các cấp tổ chức, có sự tham gia của đông đảo tín đồ. Đặc điểm của những lễ hội này nặng về nghi thức nghi lễ, ít có hoạt động vui chơi, giải trí… Lễ hội ở các khu quần thể di tích - danh thắng: là các lễ hội lịch sử cách mạng hoặc tôn giáo tín ngưỡng có sự phối kết hợp giữa các hình thức lễ hội truyền thống và hiện đại. Những lễ hội này thường diễn ra trong không gian và thời gian rộng lớn với nhiều hoạt động khác nhau, đón nhiều đối tượng khách tới hành hương, vãn cảnh... 1.2.7. Một số loại hình lễ hội khác Với một số lượng đồ sộ, các lễ hội trong đời sống văn hoá cộng đồng người Việt bao gồm nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Dù có nội dung khác nhau nhưng nhìn chung kho tàng hệ thống lễ hội Việt Nam ngoài ra còn được phân loại theo các tiêu chí sau: - Hệ thống lễ hội dân gian truyền thống: Đây là đại đa số những lễ hội đã hình thành, tồn tại và phát triển trong lịch sử. Đó là kho tàng di sản văn hoá đặc sắc của người Việt Nam, mang dấu ấn những giai đoạn phát triển của các địa phương và cả dân tộc trong tiến trình lịch sử. Kho tàng lễ hội dân gian truyền thống chủ yếu bao gồm các “lễ hội làng”, đây chính là những lễ hội nông nghiệp, gắn với cuộc sống lao động sản xuất của các tầng lớp cư dân ở các địa phương khác nhau.Về thời gian, những lễ hội này đã xuất hiện và tồn tại từ trước 1945.Với số lượng đồ sộ và nội dung vô cùng phong phú, tạo nên những giá trị lớn trong kho tàng văn hoá cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Kho tàng này đã và đang được khai thác có hiệu quả nhằm phục vụ các mục đích khác nhau của đất nước trong thời kỳ mới.Có thể nói, những lễ hội dân gian truyền thống là phần cốt lõi của kho tàng di sản văn hoá phi vật thể của dân tộc ta, cần tiếp tục phải đầu tư, nghiên cứu và khai thác đúng hướng, đạt hiệu quả cao. - Những lễ hội hiện đại: Ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nội dung và tính chất của lễ hội hiện đại chủ yếu gắn với các nhân vật và sự kiện lịch sử liên quan đến cách mạng va kháng chiến, với những chiến công do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ vĩ đại lãnh đạo. Lễ hội hiện đại còn là những hoạt động văn hoá mang giá trị kỷ niệm, tưởng niệm các danh nhân, các anh hùng dân tộc, các sự kiện chính trị - quân sự- văn hoá xã hội trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng đó có vai trò to lớn, mang tính quyết định trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Với những nội dung và sự tham gia của các thành tố hiện đại, lễ hội hiện đại luôn phản ánh trình độ phát triển của đất nước và xã hội ở vào các thời kỳ tổ chức lễ hội, đồng thời phản ánh xu hướng phát triển chung của thời đại. - Những lễ hội văn hoá thể thao - du lịch: Là những hình thức của lễ hội hiện đại, lễ hội văn hoá thể thao – du lịch xuất hiện trong quá trình đổi mới của đất nước, sau khi Đảng và Nhà nước tiến hành cải cách và mở cửa để phù hợp với tình hình mới. Đây là những hoạt động văn hoá xã hội mang nặng yếu tố kinh tế, phản ánh trình độ và khả năng cùng các yêu cầu đặt ra của nền kinh tế đất nước trong giai đoạn mới của qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lễ hội văn hoá- thể thao- du lịch còn có các tên gọi như “Liên hoan du lịch”, “lễ hội du lịch”, “ liên hoan du lịch làng nghề”, “Festival”.Những lễ hội hiện đại phản ánh nhu cầu và xu hướng của thời đại mới. Cùng với mục tiêu được thể hiện ra qua khẩu hiệu “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả bè bạn trên thế giới”, “Việt Nam- điểm đến thân thiện và an toàn của thiên nhiên kỷ mới”. Ngành Du lịch Việt Nam ngày càng tổ chức nhiều chương trình du lịch, mở rộng vòng tay bè bạn trong nước và quốc tế đến du lịch trên khắp mọi miền đất nước. Như vậy, với việc phân loại lễ hội như trên sẽ giúp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá về nội dung các lễ hội truyền thống, đặt nó trong tiến trình phát triển của lịch sử từ quá khứ đến hiện tại.Từ đó tìm ra những yếu tố tích cực và cả những yếu tố lỗi thời, lạc hậu để đưa ra những biện pháp khai thác, sử dụng, phát huy hơn nữa những mặt tích cực của lễ hội. Ngoài ra việc phân loại lễ hội còn giúp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về kho tàng di sản văn hoá phi vật thể cụ thể, có tính hệ thống, khách quan hơn. Thông qua đó có những biện pháp cụ thể, góp phần bảo tồn, chấn hưng và phát triển văn hoá dân tộc trong giai đoạn mới.Trong kho tàng di sản văn hoá dân tộc, lễ hội là một loại hình văn hoá phi vật thể vô cùng đặc sắc cả về nội dung và hình thức. Tóm lại,Việt Nam là quốc gia hình thành sớm có truyền thống văn hóa lâu đời phản ánh những giá trị lịch sử, kinh tế-xã hội mang dấu ấn của nhiều giai đoạn trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Cùng với lịch sử dựng nước, bảo vệ đất nước, đất nước ta có thể nói cũng là quê hương của nhiều loại hình và giá trị lễ hội. Lễ hội ở nước ta nói chung và của người Việt nói riêng là kho tàng di sản văn hóa rất phong phú và đa dạng. Qua các loại hình lễ hội trên đây như: Lễ hội gắn với từng vùng lãnh thổ, với thời gian và mùa vụ, với tôn giáo và tín ngưỡng, với nhiều tính chất mang đậm dấu ấn văn hóa dân gian của cư dân nông nghiệp lúa nước... đã nói lên đời sống tâm linh rất phong phú của cộng đồng các dân tộc nói chung và người Việt nói riêng. Các quan niệm về lễ hội và loại hình lễ hội là những cơ sở khoa học để chúng ta tiếp cận một hiện tượng, giá trị cụ thể của văn hóa Lễ hội chùa Keo trên địa bàn hai tỉnh Nam Định và Thái Bình. Chương 2 THựC TRạNG, ĐặC ĐIểM, ảNH HƯởNG CủA Lễ HộI CHùA KEO ở TỉNH NAM ĐịNH Và THáI BìNH 2.1. THựC TRạNG Lễ HộI CHùA KEO TỉNH NAM ĐịNH Và TỉNH THáI BìNH 2.1.1. Lịch sử hình thành lễ hội chùa Keo Giữa trung tâm vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng từ lâu nhân dân vẫn nhắc đến chùa Keo và một sự song trùng lịch sử khá thú vị khi đôi bên tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng có 2 ngôi chùa được tạo dựng cùng thời, cùng có tên Chùa Keo và đều thờ Thiền sư Không Lộ. Phía tả ngạn có chùa Keo thượng nằm ở làng Dũng Nhuệ nay là xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình. Bên hữu ngạn có chùa Keo hạ ở làng Hành Cung nay là làng Hành Thiện xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đến nay cả hai ngôi chùa Keo này tuy có quy mô và vị trí khác nhau nhưng xem khởi nguồn của nó lại đều bắt nguồn từ thượng lưu Sông Hồng vùng Quán Các (nay là xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Cách đây gần ngàn năm, dưới triều vua Lý Thánh Tông đã tiến hành xây dựng nhiều cung điện nguy nga lộng lẫy, nhiều đền chùa mọc lên. Chùa Nghiêm Quang được coi là danh thắng và có quy mô bề thế của nước Đại Việt bấy giờ. Chùa nằm trên đất Giao Thuỷ vì vậy nhân dân thường gọi là chùa Keo. Trải qua mấy trăm năm với sự phát triển huy hoàng của Phật giáo dưới triều đại Lý – Trần đã trở thành quốc giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân. Năm Tân Hợi (1611), một trận lũ lớn đã ập đến vùng này, cuốn trôi vĩnh viễn ngôi chùa Nghiêm Quang xưa và trang ấp này cũng có sự thay đổi khi hai làng Hành Cung và Dũng Nhuệ phải dời đi hai nơi: Dân Hành Cung rời về Đông Nam hữu ngạn sông Hồng đến đời Minh Mạng (1820 -1840) đổi thành Hành Thiện (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Dân Dũng Nhuệ chuyển cư sang phía Đông Bắc tả ngạn sông Hồng, đời Tự Đức (1848 – 1883) đổi thành làng Dũng Mỹ (nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Sau khi đã an cư, cả hai làng đều tiến hành xây dựng lại ngôi chùa. Chùa Keo bên tả ngạn sông Hồng được xây dựng từ tháng 8 năm Canh Ngọ (1630) đến tháng 11 năm Nhâm Thân (1632) Lịch sử chùa Keo được gắn liền với sự tích của Thiền sư Không lộ.Theo sách “Không lộ Thiền sư ký ngữ lục” thì Ngài họ Dương tên huý là Minh Nghiêm sinh ngày 14 tháng 9 năm Bính Thìn (1016) dưới triều vua Lý Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên năm thứ VII. Quê mẹ của Ngài ở làng Hán Lý phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, quê cha ở làng Giao Thuỷ (sau đổi là Hộ Xá) phủ Hải Thanh đến đời Trần đổi là phủ Thiên Trường. Gia đình Ngài sinh sống tại làng Giao Thuỷ chuyên nghề chài lưới ven sông. Thiền sư Không Lộ được dân gian suy tôn là Thánh tổ và được thờ phụng ở rất nhiều nơi trong cả nước.Tương truyền Không Lộ là người dị thường có nhiều tài năng xuất chúng, là một danh sư uyên thâm, một lương y nổi tiếng lại biết làm thơ, ngâm vịnh, hiểu biết nhiều và thường đi du ngoạn khắp nơi. Năm 1044, lúc đó ngài mới 29 tuổi, đã bỏ nghề chài lưới để theo học đạo thiền.Ngài đã thọ giáo thiền phái Vô Ngôn Không và đắc đạo trở thành tổ đời thứ 10 của thiền phái này. Đến năm 1057 Không Lộ lại thọ giáo phái Thảo Đường tức phái Thiền tông thứ 3 ở Việt Nam. Không Lộ Thiền sư về tu tại chùa Hà Trạch sau chuyển sang chùa Duyên Phúc (chùa này sau đổi tên là chùa Viên Quang) ở làng Hộ Xá. Năm 1062, Thiền sư Không Lộ cùng hai người bạn tu hành của Ngài là Giác Hải và Từ Đạo Hạnh đi sang Tây Trúc để cầu phép lạ. Khi ba vị đến nước Kim Xỉ gặp một ngã ba sông lớn nhưng không có thuyền để sang bờ. Sau có một chiếc thuyền nhỏ chở được 2 người. Đức Không Lộ và Giác Hải lên thuyền dặn Từ Đạo Hạnh ngồi chờ ở bến. Hai ngài đã được Phật tổ Như Lai truyền cho phép Phật và được giác ngộ nên đã về thẳng không qua chỗ Đạo Hạnh chờ, Từ Đạo Hạnh ngồi chờ mãi sau được biết 2 bạn về đã lâu rồi.Đạo Hạnh đã đựơc bà già chỉ cho phép rút ngắn đường vượt biển, vượt sông cho nên ngài đã đuổi kịp hai người.Ngài vào rừng biến thành hổ để thử tài hai ôngg rồi nhảy nhót gầm thét như muốn vồ lấy hai người. Không Lộ và Giác Hải biết đó là Đạo Hạnh hoá thân nên mới bảo rằng “đã muốn như thế, kiếp sau sẽ phải chịu”.Bấy giờ Đạo Hạnh lấy làm hổ thẹn rồi tạ lỗi hai người và nói rằng “nếu kiếp sau nghiệp chướng chưa trả xin cứu giúp cho”. Sau khi đi Tây Trúc về,Thiền sư Không Lộ trở về làng Giao Thuỷ dựng chùa Nghiêm Quang và tu tại đó. Truyền thuyết còn kể lại rằng: vua Lý Nhân Tông ở ngôi 56 năm (1072 – 1127) bị bệnh tâm thần chỉ nghe tiếng tắc kè kêu cũng sinh bệnh. Các danh y đã lo chữa bệnh cho nhà vua nhưng đều không khỏi. Quốc Mẫu, Hoàng Hậu và các bậc đại thần đều lo sợ. Nghe tiếng tăm của Thiền sư Không Lộ, Quốc Mẫu đích thân viết chiếu chỉ mời ngài vào cung chữa bệnh cho vua. Ngài đã dùng phép thuật chữa khỏi bệnh cho nhà vua, cả triều đình và thần dân đều mừng. Vua phong ngài làm Quốc sư và ban thưởng cho nhiều bổng lộc. Tục truyền Đức Thánh Không Lộ đã tạo đúc “Tứ đại khí” là 4 tác phẩm nghệ thuật lớn thời Lý đó là: Tháp chùa Báo Thiên (Hà Nội); Tượng Phật Adiđà ở chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều- Quảng Ninh); Vạc chùa Phổ Minh (Nam Định); Chuông chùa Phả Lại (Hải Dương). Người đời sau thường gọi là “Thiên nam tứ khí”. Để đúc được “Thiên nam tứ khí” Không Lộ đã khoác áo cà sa, tay cầm tích trượng, vai mang túi nhỏ đi chu du khắp thiên hạ để khuyến giáo. Một lần ngài chữa khỏi bệnh hiểm nghèo cho một vị vua Phương Bắc được nhà vua cho phép tự ý lựa chọn vật thưởng. Không Lộ chỉ xin nhà vua số đồng bỏ đầy tay nải của ngài. Vua cười và đồng ý ngay, nhưng rồi khi quân lính đã bỏ vào tay nải của ngài hết 10 kho đồng mà không thấy đầy, vua quan Phương Bắc thất sắc, ngài cười vác túi đồng lên vai và đi ra biển.Tất cả những chiếc thuyền lớn nhất của phương Bắc cũng không sao chở nổi nhà sư phương Nam và chiếc túi nhỏ. Vua tôi phương Bắc lại bó tay.Ngài cưỡi trên nón Tu Lờ vượt ra biển khơi về nước.Trên đường vượt biển ngài còn gặp phải rất nhiều khó khăn nguy hiểm nhưng nhờ có phép thuật đạp lên sóng dữ mà ngài đã chiến thắng rồi thong dong trở về nước thực hiện nguyện vọng của mình tạo đúc “tứ đại khí”. Khi đúc xong “Tứ đại khí” vẫn chưa hết đồng, Không Lộ đã đúc thêm quả chuông chùa Keo (Hành Cung) tương truyền tiếng vang của chuông vang ngân cách xa 7 dặm đường còn nghe thấy. Nhờ có tài đúc được “Thiên Nam tứ khí”, Thiền sư Không Lộ được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng ở Việt Nam. Trong dân gian còn truyền lại rất nhiều câu chuyện về tài đức uyên thâm của Đức Thiền sư Không Lộ. Ngài là người có công phò vua giúp nước, giảm sưu cao thuế nặng cho dân, góp phần giải phóng con người lao động khổ cực.Ngài còn là người chế ngự thiên nhiên, khai thác thuỷ hải sản, sản xuất lúa gạo, chinh phục sông nước, chiến thắng thuỷ tặc làm chủ biển khơi. Đặc biệt Thiền sư Không Lộ, ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam đã khôi phục và làm sống lại kỹ nghệ đúc đồng nước nhà mà một thời như bị mai một. Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1094) Đức Thánh Tổ Thiền sư Không Lộ hoá, Ngài thọ 79 tuổi. Ngày 10 tháng 8 năm 1095 Thiền Sư Giác Hải thu xá lỵ, lập tháp ở chùa Nghiêm Quang (năm 1167 đổi tên là Thần Quang, nay là chùa Keo Hành Thiện). Sau khi Ngài mất, hàng năm nhân dân đã tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Ngài. Hội mở từ ngày 13 tháng 9 tức 100 ngày sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời. Ngày 14 là ngày sinh của Người, hội mở thêm ngày rằm là lễ tiết hàng tháng của đạo Phật (tính theo âm lịch).Năm 1167, vua Lý Anh Tông đã đổi tên chùa Nghiêm Quang thành Thần Quang (Thần Quang tự). Hội Keo tháng chín đã mang đậm tính hội lịch sử, hội văn nghệ, gắn liền với cuộc đời của Thiền sư Không Lộ. Làng Hành Thiện thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, là làng vốn nổi tiếng văn hiến xưa nay. Lúc đầu làng có tên là Trang Hành Cung đến năm 1823 được đổi tên là Hành Thiện. Hành Thiện nổi tiếng là làng Nho học từ xưa, đã sản sinh rất nhiều người tài cao học rộng. Đất làng có hình “Lý Ngư”, ở tư thế sinh động như đang vẫy vùng trong nước. Đầu cá quay ra sông Ninh Cơ, còn đuôi quẫy về phía sông Hồng. Làng chia thành 14 dong ứng với 14 xóm. Các đường dong thông từ lối trước ra lối sau như chia hình cá ra làm 14 khúc. Dân cư sống tập trung 2 bên đường đông đúc.Hành Thiện trở thành khu dân cư sầm uất đông vui từ rất lâu đời. Để phân biệt với chùa Keo làng Dũng Nhuệ, nhân dân làng Hành Thiện thường gọi chùa làng mình là chùa Keo Hành Thiện (Keo Dưới). Từ lâu chùa Keo đã là niềm tự hào của người dân làng Hành Thiện, của nhân dân huyện Xuân Trường, là di tích danh thắng nổi tiếng của tỉnh Nam Định. Chùa có kiến trúc mang phong cách thời Hậu Lê cách đây 400 năm, chùa thờ Phật như bao ngôi chùa Việt khác, ngoài ra chùa còn thờ Đức Thánh Thiền sư Không Lộ.Di tích chùa Keo có kiến trúc phong phú đa dạng bởi nhiều tầng, nhiều lớp bề thế với 13 toà rộng, dãy dài trên 121 gian nối tiếp nhau. Công trình gồm tam quan, gác chuông, bái đường, đền thánh, nhà ký đồ, nhà oản, nhà tổ, đền mẫu và 2 dãy hành lang dài. Ngoài ra còn có giếng nước, hồ ao, nhiều cây lâu niên tạo nên khuôn viên chùa xanh mát, đẹp bề thế, trang nghiêm. Tam quan chùa có 3 gian, phía trước xây 4 trụ biểu trên đắp búp sen, quả găng lồng đèn, thân soi gờ 4 mặt. Tam quan xây theo kiểu mái đao chồng gường. Hai cạnh tam quan xây tường bao lượn cong cho đến đền Mẫu và cây đa Bà Chúa tạo thành không gian khép kín khu vực chùa. Phía trước chùa có hồ nước trong xanh soi bóng tháp chuông, chùa mái cong uy nghiêm thơ mộng, hồ này không những là nơi tiêu thụ nước cho sân chùa khi trời mưa mà còn là nơi bơi thuyền rồng (cò cốc) và diễn ra các trò chơi: bắt vịt, leo cầu ngô… trong những ngày mở hội càng làm tăng thêm vẻ đẹp của chùa. Gác chuông trước cửa chùa là hình ảnh kết hợp hài hoà của khối kiến trúc kiểu tam quan nội 5 gian làm theo kiểu chồng diêm. Tháp chuông cao 7m50, dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bẩy uốn lượn.Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên tảng đá chạm khắc hoa văn cánh sen nở. ở đây có tấm bia đá khắc chữ Hán. Phía trên gác chuông kết cấu theo kiểu chồng gường đỡ mái bố trí bên chuông, bên khánh. Những mảng cuốn ở các vì, các then ngang, đố dọc được bàn tay tài hoa của người thợ tạo dựng mang phong cách nghệ thuật Hậu Lê. Gác chuông được thiết kế theo hình thức phù hợp với cảnh quan và ứng với luật phong thuỷ theo kiểu “thượng gia, hạ trì” (trên là nhà gần cận kề hồ nước) càng tôn thêm cảnh đẹp của chốn thiền môn. Từ hai cửa tả, hữu của tam quan nhìn vào trong chùa ta thấy rõ hai bên đường kiệu lát gạch rồi 2 dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40 gian đều được kiến trúc bằng gỗ lợp ngói ta. Lớp kiến trúc phù hộ này được bố trí đăng đối theo trục thần đạo từ cụm trung tâm toả ra những trung điểm đối xứng của toàn bộ kiến trúc chùa tạo nên lối bố cục chặt chẽ hài hoà. Phần kiến trúc trung tâm của chùa là toà bái đường với 5 mái cong, toà đệ nhị 3 gian, toà thờ Phật được bài trí các tượng như bao chùa Việt khác, còn 3 toà sau thờ Thánh tổ Thiền sư Không Lộ. Toàn bộ kiến trúc của các toà đã được nghệ nhân dồn toàn bộ trí lực tài hoa để tạo dựng những mảng chạm khắc tinh vi trên các mảng đố lụa, khung bạo, con sơn kẻ bẩy của từng toà. 10 cánh cửa giữa đều được chạm khắc các đề tài phong phú, đặc biệt mặt tiền của 2 gian tiền đường với kỹ thuật chạm bong, kênh trong các mô tuýp: long cuốn thuỷ, phượng ngậm hoa, ly ngậm ngọc, tứ linh, tứ quý rồi nghê đội nóc đao, lá hoả, đao mác, vân mây uốn lượn cách điệu. Hình rồng ở đây cũng rất đa dạng có lúc ẩn, lúc hiện trong các trạng thái khác nhau cùng với những đường nét khắc hoạ tinh vi, sắc nét, sống động song cũng rất mềm mại chắc khoẻ theo phong cách dân gian. Sau toà thờ Phật là đền Thánh nơi thờ Thiền sư Không Lộ với 3 toà quy mô cấu trúc theo kiểu “thượng bò cuốn, hạ kẻ bẩy” và “kẻ nội đấu thuyền”. Đền hoành tráng hơn toà thờ Phật có nhiều mảng trạm trổ tinh vi, nhiều kỷ báu được lưu giữ nơi đây. Trong đền bày thuyền rồng dài 3m rất đẹp và cân đối về kiểu cách; trang trí màu sắc rất đẹp. Trong thuyền còn sinh động với việc bày các loại long đình, giáp chiêng, trống, súng thần công; bơi chèo… như những kỷ vật xưa của ngài khi làm nghề chài lưới. Thượng điện đặt 2 pho tượng thiền sư trong khám thờ (1 tượng đồng và 1 tượng gỗ trầm hương). Dưới ánh sáng huyền ảo càng làm tôn thêm vẻ uy nghiêm, siêu thoát của Đức Thánh. Sau đền Thánh là hai ngôi nhà tổ, nhà oản và nhà ký đồ nối liền với tường bao bọc góp phần tạo nên sự tôn nghiêm, thanh tịnh của chùa. Với lối kiến trúc nội công ngoại quốc, bố cục hài hoà trong các tầng lớp và cách phối thờ “tiền Phật hậu Thánh” mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê. Chùa Keo Hành Thiện đã để lại cho chúng ta nhiều cảm phục về những tài hoa của các nghệ nhân đã tạo nên những hình ảnh rất sinh động trong các mô tuýp rồng, mây, hoa lá cách điệu, ngoài vẻ đẹp kiến trúc nghệ thuật, chùa Keo còn lưu giữ và bảo tồn khá nhiều di vật cổ có giá trị của những năm thế kỷ XVII. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp, chuông khánh, văn bia cổ và nhiều bức hoành phi câu đối có giá trị về lịch sử và nghệ thuật. Kể từ ngày khởi công xây dựng chùa Keo Hành Thiện cho đến nay đã nhiều lần được sửa chữa. Theo văn bia gác chuông chùa thì năm Hoàng Định thứ 13 dưới triều Lê Kính Tông (1612) sửa chùa. Niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 triều Lê Thần Tông (1628) sửa lại chùa và hành lang. Năm Cảnh Trị thứ 9 triều Lê Huyền Tông (1671) sửa chùa. Năm Chính Hoà thứ 25 triều Lê Huy Tông (1675) tô tượng. Với những giá trị văn hoá và nghệ thuật của chùa, trong thời kỳ Pháp thuộc, chùa đã được liệt hạng cổ tự theo Nghị định ngày 16 tháng 5 năm 1925 của toàn quyền Đông Dương.Niềm vinh dự tự hào đối với chùa Keo Hành Thiện đã được khẳng định là di sản văn hoá của đất nước.Ngày 28/ 4/ 1962 chùa đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp Bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Cho đến nay, chùa Keo Hành Thiện vẫn luôn được giữ gìn tôn tạo và phát huy mọi giá trị, vẫn là niềm tự hào của người dân Hành Thiện, Xuân Trường nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung. Hàng năm chùa Keo Hành Thiện đã đón nhận hàng vạn người con quê hương và quý khách thập phương về chiêm bái di tích, cùng chung sức, chung lòng giữ gìn tôn tạo để chùa ngày càng khang trang sầm uất góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trên quê hương Nam Định. Chùa Keo ở Thái Bình hiện nay (Keo Trên) thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, một di tích kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng của Thái Bình được nhà nước công nhận từ năm 1957. Chùa được xây dựng năm 1630 với quy mô to lớn, chạm trổ gỗ tinh xảo, thể hiện phong cách thời Lê. Theo văn bia và địa bạ chùa Keo Thái Bình thì diện tích toàn khu kiến trúc rộng 28 mẫu(108.000m2). Bề ngang gần 500m. Chiều sâu (tính từ chân đê đến sát con ngòi thôn Bồng Tiên xã Vũ Thư) dài trên 200m. Nếu chỉ tính 154 gian của 21 công trình, chùa đã có diện tích 58.000m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc của chùa còn lại 17 công trình, gồm 128 gian. Từ dốc đê, qua một sân cỏ rộng gần một mẫu, khách đến thăm chùa sẽ được chiêm ngưỡng một tổng thể kiến trúc cổ truyền của Việt Nam. Đó là: Tam quan ngoại, tam quan nội, chùa Hộ, Chùa Phật, chùa Tam Bảo. Khu đền Thánh được nối tiếp với khu thờ Phật gồm toà Giá roi, toà Thiêu Hương, toà Phục quốc và thượng điện. Những công trình này nối tiếp với nhau tạo thành một kết cấu kiểu chữ công và sau khi xuyên suốt mỗi bên 33 gian hành lang đến hai toà tả vũ, hữu vũ, khách sẽ bắt gặp toà gác chuông ba tầng, cuối cùng là khu tăng xá... Một điều khác biệt so với các ngôi chùa cổ ở nước ta, gác chuông chùa Keo được xây dựng ở vị trí gần cuối cùng của khu di tích. Gác chuông có chiều cao 11,04m (tính từ nền tới bờ nóc) với ba tầng mái thiết kế theo kiểu cổ các chồng diêm. Toàn bộ sức nặng của gác chuông được đặt trên bốn cột lớn (mỗi cột có đường kính chân 0,55m, cao 5 m). Mỗi gác dựng một cột góc, hai cột hiên. Tất cả được liên kết với nhau bằng hệ xà ngang xà nách. Tầng một có bốn cột lớn đi thẳng lên sàn mái tầng hai.Tường sau lắp ngưỡng đơn, đố lụa, hai bên và mặt trước dựng bạo xoi. Trên ngưỡng tượng, mỗi chiều để một cửa nhỏ, hai bên dựng bạo, lắp trụ đấu con song. Hàng con song tiện tôn thêm vẻ đẹp...Tầng hai có bốn cột ăn thẳng sàn mái, hệ thống cột hiên thu rút vào tâm 0.4m, liên kết với tầng dưới qua hệ xà dầm.Tầng này được trang trí rất công phu. Mỗi mặt chia thành ba khoang, bạo ngang hai lớp uốn thành cửa võng. Ván dưới là những cánh sen cách điệu.Giữa văng lan can chạy con song tiện, trong lắp cánh cửa...Tầng ba lại thu nhỏ thêm, không có cột thông xuống thềm.Các dàn đấu ăn mộng thước thợ với dầm hai. Mộng đấu định vị mặt bằng tạo thế vững vàng cho khu kiến trúc. Cổ các tầng thượng được chia thành 12 ô, diềm dưới lắp một đài sen cánh vuông.Các khoang dựng bạo. Diềm trên chạm một hàng cánh sen nhỏ. Ván gió trổ hoa chìm thành các ô trám. Ô lớn đặt giữa, ô nhỏ đặt đối xứng nhau lùi về bốn góc, diềm hoa, cánh hoa đan quyện vào nhau. Mái tầng thượng trông có dáng như nhà rông. Bờ nóc xoi hai hàng chỉ thẳng bắt góc chỉ xoi bờ cánh. Hồi nóc xây khối kỷ hà đắp nổi văn triện. Góc chuyển bờ cánh nối bờ mềm không đắp nghê đặt đấu mà chỉ giáp chỉ xoi chuyển từ độ dốc rồi cong dần vút lên cuộn thành song loan mây cuốn. Đao tầng hai tầng ba cũng có phong cách này. Ba tầng gác chuông với 12 đao loan cuốn bay làm cho gác chuông trông thanh thoát, nhẹ nhàng… Có thể nói gác chuông chùa Keo đã đạt tới sự tuyệt mỹ trong tổng thể kiến trúc. Đó là sự kết hợp hài hoà trong tỷ lệ giữa bờ nóc, bờ thẳng, bờ mềm, độ vươn của bờ nóc góc cao. Sự tính toán chính xác giữa các tầng, khoảng cách giữa các cột đã tạo cho gác chuông có dáng đẹp và khoẻ về lực…Tất cả đã phản ánh trình độ cao của người thợ thủ công xưa kia. 2.1.2. Thực trạng lễ hội chùa Keo Lễ hội chùa Keo là lễ hội tôn giáo (Phật giáo) do đó không thể không có các hình thức lễ nghi. Nói đến lễ hội tôn giáo là nói đến một trình tự Lễ và Hội, lễ trước, hội sau. Trước khi vào hội là việc thực hiện các hình thức lễ nghi với thần linh, sau đó là hội với các hình thức diễn xướng... Lễ hội tôn giáo trước hết phải mang yếu tố thiêng bởi nó là sản phẩm của tôn giáo, bởi đối tượng mà lễ hội biểu đạt là thần linh (Thần, Thánh, Phật, Chúa...). Lễ hội tôn giáo là một hình thức sinh hoạt văn hoá của cộng đồng người, không có lễ hội tôn giáo nào chỉ thuộc về một cá nhân…Chính vì lẽ đó mà nó có sức lâu bền và tác động quan trọng đến tâm thức của cộng đồng, hướng thiện cho cộng đồng và tồn tại qua nhiều thế kỷ đến hôm nay. Hội chùa Keo thường mở từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 9 âm lịch hàng năm. Ngày 13 tháng 9 tức 100 ngày sau khi thiền sư Không Lộ qua đời, ngày 14 là ngày sinh của Người, hội mở thêm ngày rằm là lễ tiết hàng tháng của đạo Phật (tính theo âm lịch). Nếu hội xuân ở làng Keo vừa có tính chất thi tài, vừa là hội làng về phong tục thì hội Keo tháng 9 mang đậm tính hội lịch sử, hội văn nghệ, gắn liền với cuộc đời của thiền sư Không Lộ. Sử liệu, ngọc phả và truyền thuyết ghi nhận chùa Keo thờ Phật và thờ Quốc sư Không Lộ triều Lý, và do cùng phụng sự Quốc sư Không Lộ nên quan hệ Keo Dưới – Keo Trên khá mật thiết. Cung cách xây dựng chùa cảnh cũng tương tự như nhau. Lễ hội hàng năm cũng có tình tiết na ná như nhau, lại đều ghi đậm trong tâm thức dân gian câu ca: Dù cho cha đánh mẹ treo Cũng không bỏ hội chùa Keo hôm rằm. Dân gian còn nhắc nhở: Dù ai đi đâu về đâu Mười rằm tháng chín chọi trâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Mười rằm tháng chín phải về hội Ông Qua nghiên cứu, khảo sát lễ hội chùa Keo tỉnh Nam Định và lễ hội chùa Keo tỉnh Thái Bình thì thấy rằng mặc dù được tổ chức ở hai địa điểm khác nhau nhưng nội dung của hai lễ hội này có một số điểm chung giống nhau. Để chuẩn bị cho lễ hội thì công tác chuẩn bị phải được tiến hành trước đó hàng tháng về mặt thủ tục hành chính, nội dung, chương trình kế hoạch, nhân sự và an ninh… Theo quyết định của Bộ Văn hoá thông tin ban hành tháng 5 năm 1994 và tháng 8 năm 2001 về quy chế lễ hội thì lễ hội chùa Keo là lễ hội pha mầu sắc tôn giáo, được phép tổ chức định kỳ hàng năm nhưng phải báo cáo bằng văn bản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá, ít nhất 20 ngày trước khi khai hội. Nội dung báo cáo phải đủ các mục về thời gian, địa điểm, nội dung và danh sách Ban tổ chức lễ hội. Chủ hội không còn trực tiếp điều hành lễ hội như xưa, nay chỉ làm chủ tế nhưng là một chức vị danh dự nên chủ hội vẫn là niềm vinh dự lớn cho người đắc cử và gia đình. Nhiệm kỳ chủ hội một năm, nhưng công việc tập trung chủ yếu trong tháng lễ hội, không ai được làm chủ hội quá một nhiệm kỳ. Chủ hội do Ban quản lý di tích lịch sử văn hoá chùa Keo dự kiến trình Hội nghị liên tịch đại diện các xóm xem xét quyết định trên cơ sở các tiêu chí về tư cách đạo đức bản thân, gia đình và thanh cát (không có tang bụi).Việc lựa chọn chủ hội hiện nay đã bỏ qua tiêu chí xưa phải là quan viên, tuy nhiên lại nâng cao tiêu chí song toàn xưa thành song thọ (đã hưởng hương yến). Trang phục chủ hội vẫn như xưa là mũ cánh chuồn có hoa văn mặt nguyệt dát bạc lấp lánh phía trước, áo thụng mầu lam đính bối tử trước ngực, bối tử vuông nền đỏ viền vàng thêu hoa sen vàng ở giữa. Chủ hội giữ lệ xưa chay tịnh cả tuần lễ hội nhưng ở nhà riêng, không ở chùa như xưa. Từ sáng sớm ngày khai hội, chuông khánh lớn và trống cái hoà tấu từng hồi dài vang động khắp xóm làng.Sau lễ nhập tịnh mở cửa chùa, làng làm lễ thỉnh Phật, lễ tấu thánh, lễ dâng hương và dựng cờ khai hội...Suốt mấy ngày tế lễ, dâng hương tụng kinh niệm Phật, đọc kệ chầu Thánh Tổ Không Lộ. Lễ hội chùa Keo gồm có phần Lễ và phần Hội. Phần Lễ được tiến hành tuần tự như sau: Lễ rước nước: Sáng sớm ngày 13, sau khi làm lễ nhập tịch mở cửa chùa, làng làm lễ lấy nước từ giữa sông rước về chùa. Nước được đựng vào một chiếc bình sứ đã được lau chùi sạch sẽ. Nước phải được múc bằng gáo đồng đổ qua miếng vải đỏ ở miệng bình, sau đó nước được đưa lên kiệu rước về

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Lễ hội chùa keo ở tỉnh nam định và thái bình.pdf
Tài liệu liên quan