Luận văn Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: LUẬN VĂN: Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Đặt vấn đề. Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả. Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là lực lượng đảm bảo cho mục tiêu XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những biểu hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện phát triển vượt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ cải cách tiến hành chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vướng mắc chưa được tháo bỏ triệt để, tàn dư của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề n...

pdf58 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1086 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Đặt vấn đề. Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả. Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là lực lượng đảm bảo cho mục tiêu XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những biểu hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện phát triển vượt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ cải cách tiến hành chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vướng mắc chưa được tháo bỏ triệt để, tàn dư của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề nợ đọng, lao động dôi dư chưa được giải quyết thoả đáng, còn những tranh cãi về mặt lí luận, nhiều ý kiến khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn kết luận. Phát triển KTNN là đòi hỏi sống còn với nền kinh tế và định hướng XHCN ở Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh sự cần thiết “ tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân” ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2001, Tr 189); Nghị quyết Hội nghị lần thức 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 3) đã đề ra các giải pháp cơ bản về vấn đề này theo hướng tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Để có thể thành công còn rất nhiều những khó khăn cần giải quyết. Đây là một vấn đề nghiên cứu rộng và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước. Xuất phát từ những thực tiễn trên, tác giả của đề án đã chọn đề tài “Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu với hy vọng tìm hiểu sâu hơn về KTNN và đưa ra các kiến giải của nhiều nhà kinh tế giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về vấn đề này, đồng thời trong khả năng có thể đưa một vài tham luận của cá nhân đóng góp vào các giải pháp phát triển KTNN hiện nay. Đề án tập trung giải quyết những vấn đề sau : - Làm rõ khái niệm KTNN, cơ sở lý luận, sự cần thiết của vai trò chủ đạo của KTNN. - Mô tả thực trạng của KTNN, thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân. - Đưa ra và phân tích các giải pháp, đóng góp ý kiến nhằm phát triển KTNN. Phần thứ nhất: Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. I. Khái quát lí luận về thời kì quá độ, Sự tồn tại khách quan nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những nguyên tắc cơ bản của xã hội XHCN được thực hiện. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử bởi vì CNXH – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong lòng xã hội cũ. Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa đòi hỏi một thời kỳ lâu dài. Khái niệm quá độ lên chủ nghĩa xã hội được vận dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, tập quán trong xã hội. Trong đó, về kinh tế trong thời kỳ quá độ, theo Lê-nin, là nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh các thành phần kinh tế XHCN, còn có những thành phần kinh tế khác như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể v.v; về chính trị, đó là sự lãnh đạo của Nhà nước chuyên chính vô sản. - Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ là một tất yếu khách quan. V.I . Lê-nin chỉ ra: danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Thực vậy, đối với mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong thời kì quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một thể thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Điều này phản ánh đúng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trên thực tế, cách mạng vô sản đã thành công ở những nước tư bản trung bình và những nước kém phát triển (trong đó có Việt Nam). Để xây dựng xã hội XHCN với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phải có thời gian tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới. Việc áp dụng những quan hệ sản xuất XHCN, khi sự phát triển của lực lượng sản xuất chưa theo kịp, nóng vội cải tạo các quan hệ sở hữu như trước đây ở các nước XHCN là phi lịch sử. Chỉ có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mới tạo động lực phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát triển, từ đó mà xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. - Sự lãnh đạo của Nhà nước chuyên chính vô sản sẽ đảm bảo dẫn dắt xã hội phát triển tiến lên CNXH. Trong hệ thống chuyên chính vô sản bộ phận quan trọng nhất là Nhà nước. Giai cấp vô sản phải nắm lấy chính quyền, từng bước cải tạo xã hội, chống các thế lực thù địch dù đã mất đi vị thế chính trị song vẫn còn rất mạnh, từng bước xây dựng xã hội mới. Xét theo khía cạnh kinh tế, tầm quan trọng của Nhà nước trong hệ thống chuyên chính vô sản biểu hiện ở vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước. Trong xã hội tư bản, vai trò của Nhà nước không chỉ dừng lại ở thuế khoá (nhằm nuôi sống bộ máy cai trị ), với sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho nhà nước bắt đầu can thiệp vào quá trình sản xuất. Một mình thị trường không làm nổi chức năng điều tiết nền kinh tế, cần phải có bàn tay của Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc (Lí thuyết “hai bàn tay”của P.Samuelson ). Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước xã hội XHCN được Lê- nin phát triển và áp dụng trong công cuộc xây dựng nhà nước Xô-viết. Lê-nin cho rằng Nhà nước có chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt trong hệ thống chuyên chính vô sản hiện nay Nhà nước có vai trò bà đỡ-vai trò tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vậy, ta có thể tóm tắt công thức của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của Nhà nước vô sản. Sản xuất hàng hoá là tất yếu nó không đối lập với tính kế hoạch XHCN, vấn đề là phải áp dụng tính trội của mỗi tính về mặt tích cực mà xã hội mong muốn. Sản xuất hàng hoá và tính hàng hoá với tư cách là kiểu sản xuất tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau không những nhông mất đi mà còn cần phát triển cùng với tính kế hoạch định hướng phát triển từ thấp đến cao. Hay có thể gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang phát triển hiện nay. Trong đó để thực hiện, nhất thiết phải có vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước. Bởi sự cải biến kinh tế – xã hội trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải gắn vói sự cải biến về chính trị. Không thể cải biến kinh tế – xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo Mác và Ănghen, sự ra đời của vai trò kinh tế của nhà nước thúc đẩy các điều kiện kinh tế – xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Đó chính là khởi nguyên của tư tưởng về vai trò chủ đạo của KTNN. Xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta nhỏ bé và lạc hậu việc áp dụng một nền kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình kinh tế chỉ huy như vừa qua là chưa phù hợp. Để tiến lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kì quá độ với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chúng ta quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội song tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế và KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Đó chính là những nội dung cơ bản mà Việt Nam đã phát triển tư chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng vào thời kì đổi mới. II. Quan niệm về KTNN KTNN là một thuật ngữ bao hàm một nội dung khá rộng, được xác định theo ý nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu. ở Việt Nam, thuật ngữ KTNN được sử dụng rộng rãi từ sau Đại hội VIII thay cho thuật ngữ kinh tế quốc doanh. Theo cách hiểu chung nhất hiện nay, KTNN là thuật ngữ chỉ phần tài sản thuộc sỏ hữu Nhà nước. Phần tài sản đó bao gồm : 1. Tài nguyên khoáng sản, đất đai, .v.v. là tài sản quốc gia do Nhà nước làm chủ sở hữu. 2. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do Nhà nước đảm nhiệm và các quỹ dự trữ quốc gia. 3. Ngân hàng Nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước. 4. Các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. 5. Phần vốn Nhà nước đầu tư vào các thành phần kinh tế khác dưới dạng công ty cổ phần. Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, KTNN giữ vai trò chủ đạo. Về hình thức thể hiện KTNN bao gồm hai hệ thống: hệ thống doanh nghiệp và hệ thống phi doanh nghiệp. Hệ thống doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp công ích. Hệ thống phi doanh nghiệp bao gồm ngân sách Nhà nước, các quỹ quốc gia, tài nguyên thuộc sở hữu nhà nước, v.v… III. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Vận dụng lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, ta có thể khái quát đặc điểm của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của nhà nước chuyên chính vô sản hay có thể nói đó là nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Trong hệ thống này đặc biệt nổi lên vai trò kinh tế của Nhà nước. Mọi người đều biết rằng sự cải biến kinh tế – xã hội trong thời kì quá độ lên CNXH, tất yếu phải gắn với cải biến về chính trị. hay không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhà nước bằng những công cụ, chíng sách kinh tế vĩ mô điều tiết hạn chế những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường. Nhà nước XHCN không đứng ở bên ngoài mà trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất với tư cách là thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuát của hình thái xã hội tương lai. Muốn vậy, KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Thực vậy, nếu KTNN không có ảnh hưởng chi phối được các thành phần kinh tế khác, không làm cho các mối quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất XHCN thì việc xây dựng CNXH chỉ là ảo tưởng. - Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ phù hợp với xu thế xã hội hoá của lực lượng sản xuất. - Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định - Thứ ba, KTNN là lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế: là lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. - Thứ tư, KTNN có thể tác động các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua các thể chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN. - Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng. - Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn nhưng lại ít ai giám đầu tư vì nó đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu hồi vốn chậm. Nghị quyết đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt; đi đầu tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Phần thứ hai: Thực trạng phát triển và đổi mới KTNN I. Tổng quan sự phát triển của KTNN trong 15 năm đổi mới, phát triển. Trong 15 năm qua, KTNN đã có những chuyển biến đáng kể: KTNN giữ vai trò chủ đạo, DNNN giữ những vị trí then chốt nắm trong tay những nguồn lực cơ bản của xã hội, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Trong đó nổi bật có những nét đáng chú ý sau: - Chúng ta đã chuyển đổi thành công từ chế độ quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. - Tiến hành sắp xếp, đổi mới DNNN và đã thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. - Tốc độ tăng trưởng của KTNN khá đều đặn, hàng năm đóng góp từ 40-46% cho GDP. Bên cạnh đó, KTNN vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như : chưa được củng cố tương xứng vai trò chủ đạo, chưa có những chuyển biến đáng kể trong sắp xếp và đổi mới DNNN… và còn nhiều vấn đề phức tạp mà bài viết sẽ đề cập cụ thể trong các phần sau. 1. Thực trạng phát triển. Trong những năm vừa qua, hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân; nơi tập trung chủ yếu giai cấp công nhân và cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý của đất nước, nơi đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5280 DNNN với tổng số vốn gần 116 ngàn tỉ đồng. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% trong tỉ trọng GDP của cả nước. Các DNNN là lực lượng chủ yếu nắm hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của Nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung lực lượng DNNN đang chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Đây là một chủ trương lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn đến, người viết xin đề cập chi tiết trong những phần sau. Nhìn chung, hiện nay các DNNN vẫn làm ăn thua lỗ, hiệu quả kinh tế đạt thấp, tồn tại nhiều bất cập, mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Theo báo cáo của tổng cục quản lí vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có 37% số DNNN làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài chính tại Quốc hội thì cuối năm 1999 chỉ có 20% số DNNN kinh doanh có hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN giảm dần năm 1996: 11,2%, 1997: 9,7%, 1998: 9,1%, 1999: 9,2%. Con số trên chứng tỏ khả năng sinh lợi của các DNNN thấp và có xu hướng ngày càng giảm. ở các DNNN tình trạng phổ biến là ứ đọng hàng hoá, khả năng mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ để sản xuất ra các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu hơn rất ít. Sản phẩm giá thành còn cao, giá xuất xưởng của nhiều loại sản phẩm chủ yếu của ta cao hơn hẳn giá sản phẩm nhập khẩu. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN sau một thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1999đã giảm xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995: 1 đồng vốn tạo ra được 3,16 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra được 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Nợ nần trong các doanh nghiệp còn rất cao, năm 1996 tổng số nợ của các DNNN là 174.797 tỉ đồng, năm 1999 đã lên tới 199.060 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại rất thấp. Trong khu vực công nghiệp hoạt động của các DNNN cũng đem lại hiệu quả thấp; Năm 1997 (không kể các ngành khai khoáng là than và dầu khí) tỷ trong xuất khẩu trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp của: DNNN là 17,2%, đầu tư nước ngoài 46,2%, ngoài quốc donah 46,6%. 5 tháng đầu năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14,3% so với cùng kỳ năm 1999, trong đó khu vực DNNN tăng 12,5% (Trung ương quản lý tăng 11,8%, đại phương quản lý tăng 13,9%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%. Những số liệu trên đây cho thấy hiệu quả hoạt động của khu vực quốc doanh thấp hơn nhiều so với khu vực liên doanh và ngoài quốc doanh. Từ hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước của các DNNN cũng ít hơn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn nghành, nhưng chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng giá trị sản xuất và đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách toàn ngành. Đặc biệt tổng giá trị sản xuất của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn ngành công nghiệp vốn đã chậm dần. Theo số liệu của Bộ tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2000 ước tính đạt 41,2% dự toán cả năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu từ khu vực KTNN chiếm 20,8% tổng số thu, đạt 40,2% và giảm 9,0%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28,7% đạt 46,9% và tăng 68,7%. 2. Thực trạng đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã đề xuất chủ trương thực hiện đổi mới sắp xếp lại DNNN như là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. Từ đó đến nay qua các thời kì chủ trương này lại được bổ xung và phát triển. 2.1. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Cải cách DNNN là quá trình tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đặt ra ở trong nước cũng như trên thế giới. Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đây là một cơ hội giúp chúng ta phát triển, đồng thời nó cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mặt tiêu cực như sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều này đặt ra cho chúng ta những yêu cầu và thách thức phải đổi mới để hội nhập. Muốn vậy phải cải cách nền kinh tế, tăng cường nội lực, để phát triển đón nhận những thời cơ mà thời đại đem lại. Mà một trong những việc phải làm đầu tiên là cải cách hệ thống DNNN làm cho nó thích nghi một cách toàn vện với cơ chế mới, tạo đòn bẩy cho sự tăng trưởng. Điều này khẳng định tính tiên phong của thành phần kinh tế XHCN. Thời đại ngày nay ghi nhận những phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật và công nghệ mà những ứng dụng của chúng đem lại những biến đổi lớn lao trong đời sống xã hội. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế trí thức. Việt Nam cũng chuyển mình đón nhận những thành tựu do khoa học kĩ thuật đem lại. Hệ thống các DNNN phải đi đầu cải tiến, đổi mới sản xuất, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, là tấm gương tiêu biểu trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, việc áp dụng quá lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp đã gây ra sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế – xã hội. Suốt mộ thời gian dài Nhà nước là người đứng ra quyết định tất cả các vấn đề về sản xuất cũng như tiêu thụ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ thụ động sản xuất theo kế hoạch đề ra, chúng chỉ như những phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân. Lối quản lý này làm sơ cứng nền kinh tế, mất đi động lực phát triển, phí phạm tài nguyên và các vấn đề lợi ích khác không được giải quyết thoả đáng. Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, chuyển đổi cơ chế quan liêu bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường. Cùng với nó là quá trình cải tổ sâu sắc trong hệ thống DNNN đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới thời kỳ mới. Cơ chế quản lý không phù hợp, cùng với những nguyên nhân khách quan như chiến tranh cấm vận để lại di chứng rất nặng nề cho nền kinh tế. Đó là tình trạng yếu kém của hầu hết cácDNNN, sản xuất đình trệ. Hiện tại, các doanh nghiệp có những khó khăn chủ yếu sau trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, máy móc nhà xưởng cũ kỹ, năng kực đội ngũ cán bộ không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, sử dụng vốn kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất gây gánh nặng cho nền kinh tế. Cải cách DNNN làm cho chúng phát triển là một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra trong hiện tại cũng như tương lai. Việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải theo hướng tập trung nắm giữ những đầu mối chính, tạo sự năng động tự chủ của các doanh nghệp. Nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực chủ chốt làm tăng tính hiệu quả của hoạt động Nhà nước. Điều này không hề làm giảm sút sức mạnh của KTNN mà còn tạo cho Nhà nước một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Từ đó mà định hướng XHCN ngày càng được xác lập 2.2. Phương hướng chung, đường lối chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc Trên tinh thần Đại hội IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và ra nghị quyết TW3 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quảDNNN. Nghị quyết nêu rõ : * Quan điểm chỉ đạo. - KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiên vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chinh trị, xã hội; trong đó, lấy lãi suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm kết quả chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích. - Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đói với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trong lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN, cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Qua 3 đợt, DNNN đã giảm từ 12 300 doanh nghiệp còn 5 571 ( giảm 55% về số lượng, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và do địa phương quản lý ). Cơ cấu DNNN bắt đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999 ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng tăng tương ứng, từ 10% lên 20% ; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỉ đồng. Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, Nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động. Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nước ( TCTNN ) nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước vào các ngành then chốt mà Nhà nước cần chi phối… Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty. Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý 77 tổng công ty 90. Các TCTNN có 1 534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 27,5% tổng số doanh nghiệp cả nước, 61% về lao động ( riêng 17 tổng công ty 91 có 491 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN, 35% lao động ). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọngđể Nhà nước điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ,tăng nhanh năng suất lao động, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh ( năm 1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung thêm nguồn vốn 15 850 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi nhuận tăng 23%, nộp ngân sách tăng 29% ). Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Tính đến hết tháng 11/2001, cả nước đã có 771 doanh nghiệp được cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu (trong đó có 698 doanh nghiệp được cổ phần hoá, 41 doanh nghiệp được giao và 32 doanh nghiệp được bán), bằng 13% số doanh nghiệp hiện có, với số vốn gần 3.000tỷ đồng, bằng hơn 2% tổng vốn nhà nước trong DNNN. Sau khi cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp đã huy động được thêm hơn 2.000 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân, đồng thời thông qua bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu thêm hơn 1150 tỷ đồng để đầu tư và giải quyết chính sách cho người lao động. Bên cạnh đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi không mất đi mà lại tăng thêm từ 10 – 15% so với giá trị trên sổ sách. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số DNNN đầu tư một phần vốn thành lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 18-5-2000, DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy : 267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn. Năm là, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động. Theo báo cáo chưa đầy đủ, đến ngày 31/1/2001, số DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê theo Nghị định 103/1999/NĐ-CP là 105 doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp sau khi chuyển đổi chủ yếu là công ty cổ phần, cổ đông chủ yếu là số lao động làm việc tại doanh nghiệp, ngoài ra cũng có một số trường hợp bán cho người ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các địa phương và doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao và bán (chuyển đổi sở hữu), chiếm tương ứng 37% và 47,5%; thực hiện thuê và khoán kinh doanh (chuyển đổi phương tức quản lý) chỉ chiếm tương ứng 2% và 15,2%. Đánh giá một cách tổng quát, sau khi chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp đã ổn định tổ chức, vốn kinh doanh có xu thế tăng, doanh thu và lợi nhuận tăng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Cụ thể, so với trước khi chuyển đổi, vốn kinh doanh tăng 67,3 %; doanh thu tăng 42,5%; nộp ngân sách Nhà nước tăng 44,5%; số lao động tăng 12,8%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 38,7% ( từ 280.000 lên 388.000 đồng/người/tháng)… Từ đó cho thấy việc thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nước; khắc phục được tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của DNNN được phát huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vốn trong dân. Trong các nội dung trên, cổ phần hoá các DNNN và đổi mới cơ chế chính sách là hai xu thế chủ đạo của tiến trình này người viết xin đề cập chi tiết trong những phần sau. *Về mặt thành tựu, có thể khái quát mặt được của DNNN sau quá trình sắp xếp đổi mới như sau : - Hầu hết các DNNN đều có những chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy mô bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn; thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm; vốn tích luỹ, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng vốn sản suất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bước tăng lên. - DNNN đã góp phần rất quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và lĩnh vực then chốt; thực sự là nòng cốt tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô; là lượng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội. - Số DNNN giảm mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN vẫn duy trì mức khá cao, bình quân tăng 11%/năm trong 10 năm (1991 –1999). Năm 2000 các DNNN đóng góp 39 % GDP. II. Vấn đề đặt ra. Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu phần nào về thực trạng của các DNNN, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại và vướng mắc cần giải quyết. Trong phạm vi bài viết chỉ xin đưa ra những vấn đề cơ bản nhất: Thứ nhất, về mặt nhận thức quan điểm, chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của KTNN và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Từ đó dẫn đến cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998 số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% doanh nghiệp kinh doanh chưa hiệu quả khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn nhà nước của DNNN không cao và có xu hướng giảm dần (Năm 1996 là 11,2 %, năm 1997 là 9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%). Không ít doanh nghiệp xây dựng dư án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn. Thứ ba, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ khoa học và công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực ( sản xuất thiết bị đo điện, sản xuất điện tử, sản xuất sợi dệt …) còn lại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp của ta lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí tự động hoá dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng…có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường thô cao hơn 70% - 80%. Đến tháng 10/2000 cả nước mới có 236 doanhy nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN. Thứ tư, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5771 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng 116 000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN tập trung vào những ngành những lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối. Thứ năm, lao dộng thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng là khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của bộ Lao động Thương binh - Xã hội, hiện nay, số lao độnh không có việc làm thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%. Đây là một thực trạng bức xúc mà người viết xin đề cậpcụ thể trong những phần sau. Thứ sáu, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường. Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại vướng mắc cần tháo gỡ. - Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để DNNN tự chủ tự tạo trách nhiệm, năng độnh trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt vốn trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh , tạo điều kiện cho tích luỹ vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắnchặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi chẳng hạn như : Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp), tiền thu sử dụng vốn… - Về đầu tư , việc phân cấp giao quyền quyết định cho doanh nghiệp chưa rõ ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư. - Về quản lý Nhà nước, chưa phân định rõ các loại quyền như :quyền quản lý của Nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu ; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp với doanh nghiệp ; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ; còn quá nhiều văn bản pháp qui chồng chéo, thiếu khả thi ; cơ chế phá sản của doanh nghiệp còn chưa được thực hiện theo luật phá sản doanh nghiệp (Đại diện ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công nhân viên chức sơ không giải quyết được chế độ với công nhân; lãnh đạo doanh nghiệp sợ mất quyền lợi và truy cứu trách nhiệm). * Những khó khăn gặp phải trong quá trình cải cách doanh nghiệp. Cải cách doanh nghiệp là một chủ trương lớn hiện nay nó có tính chất quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Song hiện nay tiến trình này vẫn chưa phát huy hiệu quả. Vấn đề là do đâu? Bài viết xin đề cập đến những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình này với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp. + Đầu tiên, xin đề cập tới việc thành lập các tổng công ty 90, 91 . Qua thực trạng hoạt động cho thấy ở không ít tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên còn rời rạc, chưa tạo lập được thực thể kinh tế thống nhất bằng cơ chế tổ chức và điều hành. Mặc dù có nhiều lợi thế, song một số tổng công ty chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo đảm cân đối kịp thời nhu cầu về một số mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và đời sống. Một số tổng công ty tổ chức bộ máy cán bộ quá công kềnh, chưa có chính sách phù hợp, cơ chế quyết định nhân sự hiện hành chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của tổng giám đốc. Tổng giám đốc không có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên, giám đốc có quyền tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng không có quyền sa thải; tổng giám đốc, giám đốc, hội đồng quản trị không được chủ động bố trí bộ máy doanh nghiệp. Việc quy định chức năng và nhiệm vụ của tổng giám đốc và của hội đồng quản trị chưa rõ ràng; mối quan hệ của nhiều công ty với các đơn vị thành viên vẫn là hành chính, chưa dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi; quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học. Một số tổng công ty vin vào độc quyền để bắt nghẹt người tiêu dùng. Nhiều tổng công ty chưa làm tốt chức năng thị trường, phó mặc cho các đơn vị thành viên. + Thứ hai, quá trình cổ phần hoá hiện nay còn nhiều vướng mắc. Trước hết, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, phưong pháp xác định chưa thể hiện rõ xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn bỏ sót yếu tố cấu thành quan trọng là quyền sử dụng đất. Việc đánh giá còn mang tính cảm quan, thoả hiệp giữa hội đồng doanh nghiệp và doanh nghiệp được định giá. Thủ tục còn rườm rà, phức tạp. Khi tiến hành cổ phần hoá, vẫn chưa tách bạch được người đại diện chủ sở hữu và người quản lý trực tiếp phần vốn tại doanh nghiệp cổ phần hoá, nên xảy ra tình trạng doanh nghiệp vừa là người mua vừa là người bán, vừa tham gia định giá, vừa tổ chức bán cổ phần của Nhà nước… dẫn đến tình trạng chỉ bán nội bộ, hoặc cố tình không bán ra ngoài để giảm giá hoặc trì hoãn thực hiện cổ phần hoá. Chưa có cơ chế xử lý những công nợ dây dưa và tài sản không cần dùng ở các doanh nghiệp cổ phần hoá nên đã làm chậm tiến trình gây tổn thất cho Nhà nước. Một vấn đề nữa là chính sách đối với người lao động chưa bình đẳng khi thực hiện khống chế tỷ lệ giá trị ưu đãi trên vốn Nhà nước nên gây thiệt thòi cho người lao động có ít vốn nhà nước . NGoài ra, việc giải quyết chính sách lao độnh mất việc, thôi việc còn mang nặng tính bao cấp, dồn hết gánh nặng cho ngân sách nhà nước. CHủ trương là tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp thông qua mua cổ phiếu nhưng đa số hội đồng quản trị không có thành viên nào là đại diện của người lao động. + Thứ ba là vấn đề xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DNNN. Theo kết quả kiểm kê đến ngày 1/1/2000, tổng số nợ tồn đọng ở các DNNN lên tới 31.935 tỷ đồng. Trong đó, nợ phải thu quá hạn là 21.218 tỷ đồng và nợ quá hạn là 10.717 tỷ đồng. Với tình trạng trên, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào tình trạng “lãi không đủ trả nợ”. Đó là chưa kể đến tổng giá trị tài sản không cần dùng, chờ thanh lý ở các DNNN hiện lên tới 3285 tỷ đồng, và trên 300 tỷ đồng nợ khó đòi và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý đã được loại trừ khi thực hiẹn chuyên đổi sở hữu hơn 700 doanh nghiệp và bộ phận DNNN chưa được xử lý triệt để đang giao cho các công ty cổ phần giữ hộ. Tình trạng trên khiến cho một khối lượng không nhỏ của cải vật chất của xã hội không được khai thác, sử dụng là nguy cơ tiềm ẩn cho nền kinh tế. + Cuối cùng là vấn đề lao động dôi dư trong sắp xếp DNNN. Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 100.000 lao động dôi dư từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, nhưng không thể bố trí được việc làm, cũng như vẫn chưa được hưởng theo chế độ quy định hiện hành. Hiện nay số lao động trong các DNNN là 1,7 triệu người xấp xỉ bằng con số của năm 1991 (trong khi số lượng DNNN đã giảm hơn một nửa). Theo lộ trình sắp xếp DNNN từ nay đến năm 2003, số lao động bố trí được việc làm là khoảng 150.000 người. Đó là chưa kể số lao động dư thừa còn khoảng 200.000 ở các doanh nghiệp vẫn giữ 100% vốn Nhà nước. Đây là một gánh nặng cho sự phát triển cả trong hiện tại lẫn tương lai. III. Nguyên nhân. Để phân tích nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN hiện nay chúng ta phải nhìn nhận toàn diện. Về đại thể có thể chia làm hai nhóm nguyên nhân: 1. Nguyên nhân khách quan - Sự kìm hãm của những di sản lịch sử. Các DNNN của nước ta hiện nay, trừ phần nhỏ được thành lập mới trong giai đoạn cải cách, đa phần là doanh nghiệp cũ dế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu không có nguồn thay thế. Theo thống kê của bộ công nghiệp thì thiết bị của DNNN hiện nay có 26% của Liên Xô (cũ), 24% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là của các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%; nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách Nhà nước những năm trước; lao động vừa thiếu ( thiếu lao động lành nghề) vừa thừa ( lao động không đáp ứng yêu cầu của công việc) song chưa có cơ chế giải quyết; cơ cấu DNNN không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề v.v. Gánh nặng lịch sử đó không phải chúng ta có thể khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thoát ra khỏi tình thế quẫn bách đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trong cậy vào đây. Chúng ta chỉ có thể gỡ rối dần dần, vừa cải tổ vừa giữ ổn định kinh tế và xã hội. Chính vì thế hiệu quả của hệ thống DNNN chưa thể cải thiện nhanh. 2. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm : - Về mặt quan điểm nhận thức, chưa có sự thống nhất trong nhận thức về những chủ trương đường lối của Đảng dẫn đến khi thực hiện hiệu quả còn thấp, đặc biệt là tình trạng trên thông nhưng dưới không thông. Nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau đang gây tranh cãi. - Liên quan đến mức độ chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý DNNN. Những cải tổ cơ chế quản lý DNNN từ năm 1981 đến nay có thể coi là một bước cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế-xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân sang vai trò một pháp nhân có quyền tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở mốt số điểm như cơ chế thực thi sở hữu Nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia( như duyệt dự án đầu tư mới , bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản v.v.) đồng thời lại buộc phải thừa nhần quyền tư chủ khá rộng rãi của doanh ghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý Nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào công việc của doang nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là vụ việc của Công ty dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai nguyên tắc tài chính của dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả. Song cả 26 dự án náy đều được Bộ Công nghiệp ký duyệt; các cơ quan quản lý Nhà nước có chức năng kiểm tra thanh tra vừa phân tán, vừa chồng chéo (do các văn bản pháp quy mới cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàn lọc) nhưng đồng thời lại không có một cơ quan Nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự còn mất của tài sản Nhà nước , cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng nữa, đều đại diện cho một lợi ích độc lập , đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu Nhà nước không kiểm soát tốt (mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách nhiệm của những người liên quan. Chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn v.v. là hậu quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu Nhà nước chưa tìm được hình thức hợp lý. - Liên quan đến những thách thức chung của nền kinh tế nước ta. Tình trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là kém hiêu quả và sức cạnh tranh thấp . Tại sao? Bởi vì tiềm năng tư đổi nới công nghệ của nước ta rất thấp. Phần GDP giành cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi dùng cho những lĩnh vực lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến lược chuyển giao công nghệ chưa được nhận thức đúng để vạch ra và thực hiện một cách kiên quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể hiện khá nhiều sai lầm (như xi măng lò đứng, nhà máy sản xuất đường, sản xuất gạch tuy nen v.v) Nền kinh tế chưa hình thành, các ngành mũi nhọn đủ sức nâng các doanh nghiệp nói riêng, và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra các giám đốc DNNN.cũng như mọi người dân Việt Nam khác còn rất bỡ ngỡ với cung cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liết do vậy nhiều khi còn bị lường gạt, Ngoài ra tệ nạm tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trong nền kinh tế cũng là những căn nguyên làm giảm thiệu quả DNNN. - Ngoài ra còn một nhóm các nguyên nhân cũng ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình cải cách doanh nghiệp. Thứ nhất, chưa có người chủ thực sự tư liệu sản xuất. Chính phủ ở xa, giám đốc trên danh nghĩa được nhà nước bổ nhiệm thay mặt Chính phủ để điều hành quản lý sản xuất kinh doanh song chưa thực sự là ông chủ, còn công nhân thực chất vẫn không phải là chủ. Thực chất không có ai chăm lo bảo tồn và phát triển nguồn vốn không có ai chịu trách nhiệm khi mất mát thua lỗ. Hai là, Nhà nước ít vốn song đầu tư còn dàn trải, chủ yếu đủ để giữ cho các doanh nghiệp tồn tại chứ không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong thị trường sôi động. Ba là, tình trạng phân phối trong các doanh nghiệp không phù hợp với kết quả sản xuất kinh doanh, không khuyến khích được sản xuất, chưa khơi dậy được lòng tin trong quần chúng , để họ tự giác gắn bó và cùng chịu trách nhiệm. Bốn là, cán bộ quản lý chưa thực sự có đủ tiêu chuẩn trí tuệ tâm huyết với nhà nước chưa thực sự dũng cảm tự chịu trách nhiệm. Tóm lại, chúng ta cần nhìn nhận thực trạng yếu kém hiện nay của DNNN một cách thẳng thắn, khách quan, toàn diện có như vậy những giải pháp chúng ta đặt ra mới thiết thực và có khả năng đi vào cuộc sống. Nên tránh cách nhìn quá bi quan quy mọi sai lầm yếu kém về cho doanh nghiệp. Cũng không buông trôi coi hiệu quả thấp như căn bệnh cố hữu của DNNN để từ đó không tích cực tìm giải pháp khắc phục. Đây là yêu cầu việc phát huy vai trò chủ đạo của KTNN cũng như của công cuộc đổi mới hiện nay. Phần thứ ba: Những giải pháp nhăm tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN. Hiện nay, để củng cố, phát huy vai trò chủ đạo của KTNN không còn cách nào hơn là phải thực hiện cải cách triệt để DNNN. Sau đây, người viết xin trình bày những giải pháp cơ bản nhất đã và đang được đề ra cho tiến trình sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN. I. Về quan điểm nhận thức Để phát triển KTNN làm cho nó trở nên vững mạnh không còn cách nào hơn là phải sắp xếp, đổi mới phát triển DNNN. Tiến trình cải DNNN đã được thực hiện hơn 10 năm qua song vẫn còn rất chậm. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là chưa có sự nhận thức sâu sắc của không ít cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý doanh nghiệp và người lao động về các chủ trương, chính sách đổi mới DNNN; chưa có sự thống nhất trong nhận thức, nhiều vấn đề gây chưa được thực tiễn tổng kết chứng minh. Vì vậy bài viết xin đưa ra một số ý kiến về mặt lý luận nhằm làm sáng tỏ, giải thích rõ hơn về những chủ trương chính sách của Đảng. Thông qua các nghị quyết của Đảng và chính phủ có thể tóm gọn chủ trương sắp xếp cải cách DNNN thành những điểm cơ bản sau: Nhà nước giảm sự quản lý hành chính với các DNNN, thu gọn đầu mối quản lý, chỉ nắm giữ những ngành những lĩnh vực then chốt bằng việc thành lập và tập trung nguồn lực vàp các tổng công ty nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Những chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn, chúng mang tính tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc thành lập các tổng công ty là nhằm nắm giữ những ngành những lĩnh vực then chốt và tạo ra vai trò chủ đạo của KTNN. Thực vậy, kinh nghiệm của tiến trình lịch sử cho thấy, vai trò chủ đạo của một thành phần kinh tế nào đó không phải ở chỗ quy mô của nó to hay nhỏ, lực lượng của nó nhiều hay ít, mà là ở chỗ nó có chi phối được các thành phần kinh tế khác hay không, có làm cho các mối quan hệ kinh tễ diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất thống trị hay không. Nhà nước chỉ nắm giữ nhũng đầu mối chủ chốt góp phần làm gọn nhẹ bộ máy hành chính, làm giảm gánh nặng cho Nhà nước, từ đó khả năng quản lý điều tiết nền kinh tế có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cầu của KTTT.Việc giao, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá thực chất là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu một bộ phận các DNNN cỡ vừa và nhỏ không nắm vai trò chủ đạo, để cho những doanh nghiệp đó trở về đúng vị trí và phát huy được những vai trò vốn có của nó. Hay thực chất đó là quá trình phi quốc hữu hoá những doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở đây, phi quốc hữu hoá không có nghĩa là tư hữu hoá. Mục đích của phi quốc hữu hoá là tìm ra những hình thức thực hiện mới cho chế độ công hữu, hình thức mới này không còn là hình thức thực hiện chế độ công hữu như chế độ quốc hữu nữa mà là hình thức thực hiện chế độ công hữu khác phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mô hình đầu của tiến trình này là cổ phần hoá để cho người lao động chi phối tài sản của xí nghiệp tương tư như mô hình “khoán ruộng đất cho nông dân” . Một trong những nguyên nhân làm cho cải cách DNNN không tiến triển được là chủ thể lợi ích của cải cách không rõ ràng, cải cách bị thiếu động lực thúc đẩy. Cải cách ở nông thôn có chủ thể rất rõ ràng, nông dân tích cực yêu cầu cải cách và nông dân là người được lợi trong cải cách. Cải cách xí nghiệp phải dựa vào đông đảo công nhân viên chức của xí nghiệp, nhưng tính tích cực của công nhân viên chức không cao. Bởi vì trong thể chế cũ công nhân vẫn được bao cấp ổn định và là người chủ trên danh nghĩa, trong thể chế cũ, người công nhân có nhiều lợi ích hơn so với nông dân. Sau khi chuyển đổi cơ chế, xoá bỏ chế độ bao cấp, người công nhân phải chịu thiệt rủi ro hơn. Phải làm cho công nhân trở thầnh người được lợi trong cải cách, làm cho họ thấy cải cách sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn nữa. Nếu như cải cách ở nông thôn thực hiện “người cầy có ruộng” thì cải cách ở thành thị phải thực hiện “người lao động có cổ phần”. Bán cổ phần cho công nhân, công nhân trở thành những cổ đông. Làm như thế có phải là tư hữu hoá không? Câu trả lời là không, vì: Một là, tư hữu hoá có nghĩa là đem tất cả quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền chi phối quy vào một chủ thể. Điều này không thích ứng với quá trình xã hội hoá sản xuất. Sự ra đời của nền sản xuất xã hội tạo điều kiện cho việc huỷ bỏ chế độ tư hữu hoá. Để giải quyết vấn đề tập trung vốn và tư liệu sản xuất ngày càng mở rộng mang tính xã hội hoá. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ chế độ nghiệp chủ sang chế độ hợp tác hoá và cuối cùng là chế độ cổ phần, đây chính là quá trình xã hội hoá phương thức chiếm hữu tư liệu sản xuất mà Mác đã từng nói. Sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội hoá đã làm cho nhân tố XHCN trong lòng của chủ nghĩa tư bản ngày càng nhiều lên. Hai là, việc đông đảo nhân viên cùng chi phối tài sản doanh nghiệp chứng tỏ đây là quá trình xã hội hoá chứ không phải là tư hữu hoá. Trước đây chúng ta coi chế độ quốc hữu là sở hữu toàn dân, trên danh nghĩa thì đó là sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế giữa tư liệu sản xuất và người lao động không hề có mối liên hệ nào cả. Loại sở hữu toàn dân này thực chất là một hình thức sở hữu ngành mang tính đóng kín, bị chia cắt thành nhiều mảnh và chỉ một số ít người có tiến nói quyết định. Việc giao tài sản doanh nghiệp cho công nhân viên chức sẽ làm cho mối quan hệ giữa công nhân viên chức và tài sản doanh nghiệp từ chỗ danh nghĩa chuyển sang thực chất. Đây là sự tiến bộ của quá trình xã hội hoá sản xuất chứ không phải quá trình tư hữu hoá. Ba là, Người lao động có tài sản không phải là tư hữu hoá, bởi vì trong chế độ cổ phần, quyền sở hữu và quyền tài sản pháp nhân doanh nghiệp đã được tách ra. Sau khi tài sản được đưa vào doanh nghiệp thì nó biến thành tài sản chung của tập thể. Bất luận đầu tư vào đâu nó cũng biến thành tài sản đã được xã hội hoá do mọi người cùng chiếm hưũ, cùng chi phối, cùng sử dụng, cùng hưởng lợi nhuận và cùng phải chịu rủi ro. Cho nên trong doanh nghiệp hiện đại việc cá nhân có tài sản không có nghĩa là tư hữu hoá. Vậy chủ trương cải cách hiện nay không đi ngược lại với quan điểm của Mác khi ông cho rằng phải xoá bỏ tư hữu “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất là: ” xoá bỏ chế độ tư hữu”. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp chính là tìm một hướng đi mới phù hợp với trình độ của lượng sản xuất, một con đường mới tiến lên CNXH. Chính Các Mác cho rằng sự chuyển dịch biến đổi từ sở hữu tư nhân sang sở hữu xã hội, sở hữu hỗn hợp là sở hữu theo nghĩa các tư liệu sản xuất được sử dụng có tính xã hội, hoặc ở mức cao hơn là tư liệu sản xuất thuộc về xã hội. Những biến đổi đó phải được coi là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định. II. Những giải pháp cụ thể . 1. Sửa đổi, bổ xung cơ chế, chính sách . 1.1. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh . Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Ban hành Luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật chung. Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát DNNN. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp. - Về vốn: doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để phát triển kinh doanh, được chủ động giải quyết các tài sản dư thừa, vật tư hàng hoá ứ đọng. Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001-2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp. Không thu tiền sử dụng vốn ngân sách đi đôi với việc chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm thành lập công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện đầu tư và quản lí vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban hành Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong quyết định đầu tư trên cơ sở đầu tư chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt. - Về đổi mới, hiện đại hoá công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp; chi phí này được hạch toán vaò giá thành sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ đoanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. - Về lao động, tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp; được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. - Về cán bộ quản lí doanh nghiệp: doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan Nhà nước và tổ chức có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. Nhà nước có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp . -Về thanh tra, kiểm tra: hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán, kết quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải có trương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra kiểm tra. 1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích. Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước ra quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích. Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lương sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước giao hoặc đặt hàng. Doanh nghiệp công ích cũng phải thực hiện hạch toán. 1.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được. - Bổ xung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại DNNN. Doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lượng lao động cần thiết. Lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ Luật Lao Động. Bổ sung sửa đổi một số chính sách cụ thể đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi. Chính phủ bố trí nguồn kinh phí để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động theo hướng cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao động dôi dư tại thời điểm giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN. Khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp. - Xin xử lý nợ không thanh toán được . Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toán cuả doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát. Thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp. 2. Tiếp tục thực hiện các hình thức đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Trong thời gian trước mắt cần tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá và sáp nhập, khoán, cho thuê, giao, bán, giải thể, phá sản, các DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ, đổi mới nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý doanh nghiệp. Hai giải pháp về cổ phần hoá và đổi mới quản lý doanh nghiệp là hai giải pháp lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn luận nên sẽ đề cập chi tiết ở những phần sau. Trong phần này chỉ xin bàn đến việc phát triển các tổng công ty Nhà nước và việc sáp nhập, khoán, cho thuê, giao bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp: 2.1. Về thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản DNNN. Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng,Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao,bán khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán, được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sát nhập, giải thể, phá sản những DNNN hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình thức nói trên . Sửa đổi, bổ sung Luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản . Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn bộ xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh , cho thuê, giải thể, phá sản DNNN. 2.2. Về việc thực hiện đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty Nhà nước ; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. - Tổng công ty Nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn (tối thiểu là 500 tỷ VNĐ), có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn Nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản suất, tài chính, thị trường...: có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến,năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Để quá trình sắp xếp diễn ra đúng định hướng, cần rà soát lại các quá trình tổng công ty hiện có. Xác định ngành nào lĩnh vực nào cần có tổng công ty Nhà nước thì tập trung kiện toàn và phát triển; những ngành, những lĩnh vực không cần có tổng công ty Nhà nước hoặc tổng công ty không hội đủ những điều kiện về quy mô trình độ công nghệ quản lý, sức cạnh tranh của sản phẩm thì nên sáp nhập. Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty Nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần tổ chức tổng công ty nhà nước: khai thác, chế biến , cung ứng than, các khoáng sản quan trọng; luyện kim; cơ khí chế tạo; sản xuất xi măng; bưu chính; viễn thông; điện tử; hàng không; hàng hải; đường sắt; hoá chất và phân hoá học; sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng; hoá dược; xây dựng; kinh doanh bán buôn lương thực; ngân hàng; bảo hiểm.... Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sự điều chỉnh phù hợp. Những tổng công ty đang hoạt động không có đủ các yêu cầutrên sẽ được sắp xếp lại. Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ -công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty trách nhiệm hưũ hạn một chủ (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối. Công ty con được công ty mẹ đầu tư vốn, chịu sự ràng buộc của công ty mẹ tuỳ theo tỷ lệ đầu tư vốn, tài sản, vị thế của công ty mẹ thông qua Điều lệ Tổ chức và Hoạt động và Quy chế Tài chính. Thực hiện hạch toán kinh tế ở hai cấp, ở mỗi cấp hạch toán, doanh nghiệp đều có pháp nhân đầy đủ. Ngoài ra, tổng công ty có thể đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Tổng công ty 100% vốn nhà nước phải có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại tổng công ty, nhận và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị: Trình Thủ tướng Chính phủ (hoặc bộ trưởng , chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) xem xét quyết định: chủ trương thành lập , chia tách, sát nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể đơn vị thành viên; ban hành điều lệ mẫu; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, uỷ viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc; phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn của tổng công ty, các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền Chính phủ phê duyệt . Quyết định bổ nhiệm phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, thông qua việc bổ nhiệm giám đốc thành viên để tổng giám đóc ra quyết định; quyết định và chịu trách nhiệm về các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo chiến lược, quy hoạch , kế hoạch đã được phê duyệt và các phương án tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh , biên chế bộ máy quản lý tổng công ty; quyết định kinh doanh, biên chế bộ máy quản lý tổng công ty; quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế . Kiểm tra, giám sát tổng giám đốc, giám đốc đơn vị thành viên trong việc sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và thực hiện nghị quyết của hội đồng quản trị.Ban Đổi mới và phát triển Doanh nghiệp đã đề nghị Chính phủ thí điểm cơ chế tổng giám đốc do hội đồng quản trị tuyển chọn và ký hợp đồng với sự cáp thuận của cơ quan hành chính có thẩm quyền. Nếu tổng công ty hoạt động không có hiệu quả sau hai năm, thì tổng giám đốc sẽ bị miễn nhiệm và phải chịu trách nhiệm, về vật chất và pháp luật nếu có quyết định sai trái. Chính phủ quy định tiền lương, chế độ tiền thưởng cho hội đồng quản trị gắn với hiệu quả hoạt động của công ty. - Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế ,kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn vốn, hoạt đông cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cac và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh . Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong mọt số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng ... 3. Đổi mới các phương pháp tổ chức thực hiện Từ thực tiễn cải cách DNNN ở các địa phương, bài viết xin đưa một số kinh nghiệm về phương pháp thực hiện trong thực tiễn đã áp dụng và đem lại hiệu quả : - Khi tiến hành sắp xếp phải quán triệt đầy đủ chủ trương của TW, cộng với đó là sự quyết tâm của cấp uỷ và chính quyền các cấp trong việc triển khai thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá DNNN. Thực tế, ở một số nơi như : thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định, Thanh Hoá,… cho thấy sau khi quán triệt đầy đủ, nhất trí cao và có quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới và sắp xếp DNNN, các cơ quan Đảng và Nhà nước của địa phương đã ban hành những văn bản cụ thể chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Tỉnh đề ra yêu cầu là phải làm cho các cấp, các ngành từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân viên phải thực sự chuyển biến nhận thức về vị trí, ý nghĩa, nội dung cuả kinh tế nhà nước; đánh giá đúng thực trạng doanh nghiệp nhà nước để từ đó phân loại và có cách sử lý đúng đối với từng loại. Đồng thời cần kiểm tra các doanh nghiệp đã và đang sắp xếp và cổ phần hoá để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo chung. Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của tỉnh, các bộ phận chức năng hướng dẫn cụ thể cách làm cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Thí dụ, Nam Định đã đưa ra mục tiêu cụ thể rõ ràng là thông qua sắp xếp, trong đó chủ yếu là cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu mà làm cho DNNN mạnh lên cả về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất nâng hiệu quả kinh tế và góp phần ổn định chính trị và xã hội. Đồng thời việc thực hiện phải khẩn trương, tích cực nhưng phải vững chắc, không nóng vội, kiên trì và kiên quyết, vừa giáo dục vừa thuyết phục, vừa áp dụng biện pháp hành chính, đảm bảo ổn định để phát triển và phát triển trong thế ổn định. Ngược lại, ở một số bộ, ngành, địa phương, do chưa nhận thức đúng và thống nhất về vị trí và vai trò của DNNN trong giai đoạn hiện nay, chưa quán triệt đầy đủ chủ trương sắp xếp và đổi mới DNNN nên kết quả còn rất hạn chế. Hai là, công tác tổ chức học tập, tuyên truyền, giải thích, vận động thực hiẹn chủ trương chính sách sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được coi trọng ngay từ đầu và suốt trong quá trình tổ chức thực hiện phương án. Các cấp uỷ Đảng, Liên đoàn lao động, Ban tuyên giáo tỉnh uỷ đã tổ chức học tập và giới thiệu các văn bản của nhà nước về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp. Đài phát thanh, truyền hình, báo địa phương đã bám sát chủ đề này để tuyên truyền, giải thích, vận động, biểu dương. Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở đến từng doanh nghiệp để giảng giải về cơ chế chính sách và giới thiệu kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá, về sự thay đổi tác phong người thợ làm công ăn lương sang người chủ thực sự có cổ phần trong công ty để cán bộ doanh nghiệp và công nhân yên tâm và quyết tâm đi vào cổ phần hoá . Ba là, khi xây dựng phương án tổ chức thực hiện phương án sắp xếp đổi mới DNNN phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ từ cơ sở cho đến các sở, ngành, huyện, huyện thành phố, tỉnh . Việc phát huy dân chủ sẽ tạo ra sự thống nhất giữa cấp dưới và cấp trên, phát huy được trí tuệ tập thể người lao động trong doanh nghiệp cho việc đổi mới chính doanh nghiệp họ. Sau khi được phổ biến quán triệt chỉ thị số 20/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ, các doanh nghiệp, sở chuyên ngành phải tự mình phân tích, đánh giá tình hình, tự phân loại và xếp hạng loại. Chỉ sau đó Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh mới tiến hành tổng hợp. Trước khi trình uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã tiến hành các cuộc hội thảo tranh thủ sự đóng góp của các ngành các cấp để hoàn chỉnh phương án. Sau khi uỷ ban nhân dân tỉnh cho ý kiến, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh một lần nữa hoàn chỉnh lại phương án và trình ban thường vụ tỉnh uỷ phê duyệt. Thực tế một số doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá ở Nam Định, Hà Nội, cho thấy do có sự bàn bạc thống nhất với tập thể cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp nên quá trình tiến hành đã diễn ra suôn sẻ, nhanh chóng, những vướng mắc phát sinh đều được xử lý tốt và kịp thời. ở Tuyên Quang có doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá chỉ trong 78 ngày. Đồng thời với việc tuân thủ nguyên tắc dân chủ, phải thực hiện tập trung. Những vấn đề còn ý kiến khác nhau, nhất là khi xác địng giá trị DNNN để cổ phần hoá thì chủ tịch tỉnh sẽ là người quyết định cuối cùng. DNNN là do nhà nước đầu tư thành lập, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của Nhà nước, do đó việc sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN là do Nhà nước (gồm cả trung ương và địa phương) quyết định. Trong nhiều địa phưong, một số giám đốc không thực hiện kế hoạch đã giao thì người quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ bãi miễn giám đốc và cử người khác lên thay. Bốn là, thực hiện đúng chính sách và giải quyết việc làm đối với người lao động trong doanh nghiệp thực hiện tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá, để người lao động yên tâm phấn khởi. Quyền lợi ưu đãi, công nhân nghèo mua cổ phần trả chậm đã được công khai, thảo luận dân chủ. Nguồn vốn chủ yếu để giải quyết quyền lợi cho số lao động dôi dư này là quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN và một phần ngân sách của tỉnh. Năm là, tính sáng tạo và phát huy tối đa sáng kiến của địa phương trên cái nền chính sách chung của Nhà nước mà cụ thể hoá cách làm cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Thí dụ, tình hình chung của Nam Định là đại đa số công nhân còn nghèo, thu nhập thấp nên khi tiến hành cổ phần hoá DNNN đã áp dụng giải pháp bán cổ phần làm nhiều đợt để đạt được tỷ lệ đã duyệt trong phương án cổ phần hoá. Công ty Dệt kim Thắng Lợi vốn Nhà nước trên 7 tỷ đồng trước khi đi vào đại hội cổ đông, vốn nhà nước mới bán được 24%, đến tháng 12-1999, bán được trên 55% và 6 tháng đầu năm 2000 đạt tỷ lệ cô ng nhân 70% vốn Nhà nước chỉ còn đúng 30% đúng như phương án cổ phần hoá đã được duyệt; Công ty Vận tải ôtô cũng tương tự như vậy. Sáu là, các địa phương đạt kết quả cao trong sắp xếp và cổ phần hoá DNNN còn là do đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp quyết tâm thực hiện chủ trương cổ phần hoá. Đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý DNNN có vai trò rất quan trọng trong việc sắp xếp và cổ phần hoá DNNN, quyết định sự thành bại của công tác này. Tại nhiều nơi có tình hình trì trệ trong công tác sắp xếp và cổ phần hoá DNNN mà một trong những nguyên nhân quan trọng là sự không hưỏng ứng tích cực, sự níu kéo trì hoãn với mọi lý do và biện minh của đội ngũ này. Nhưng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định thì không phải vậy. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của DNNN đều đi đầu trong sắp xếp và cổ phần hoá DNNN, đóng góp rất nhiều công sức, từ việc ngiên cứu, học tập các chỉ thị, Nghị quyết thông tư để vận dụngvào hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để xây dựng phương án cổ pàn hoá, điều lệ công ty, đến việc tổ chức cho công nhân học tập thảo luận. Do đó ở Nam Định hầu hết giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của 22 doanh nghiệp đã được cổ phân hoá đều được đại hội cổ đông sáng suốt lựa chọn bầu vào hội đồng quản trị và đa số trong số đó được cử làm giám đốc công ty cổ phần Bảy là, một yếu tố không kém phần quan trọng khi thực hiện cần lưu ý đến vai trò của Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh và việc chọn các cán bộ có tâm huyết, có trí thức và nhiệt tình cho công tác này. Trong quá trình thực hiện sắp xếp đổi mới DNNN, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh chỉ đạo sâu sát thường xuyên, phối kết hợp chặt chẽ, hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành. Thêm vào đó, về phía doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệp, tỉnh cũng phải yêu cầu thành lập các Ban Đổi mới doanh nghiệp ở sở, ngành, quận huyện do một đồng chí lãnh đạo làm trưởng ban, doanh nghiệp có giám đốc làm trưởng ban. Như vậy, công tác cổ phần hoá đã được triển khai cả bề rộng lẫn chiều sâu, hầu như không có cơ quan nào đứng ngoài cuộc. Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh thực hiện chức năng tham mưu, tư vấn cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, đôn đốc, kiểm tra, thúc đẩy các doanh nghiệp các sở các ngành tổ chức thực hiện phương án đã duyệt, kế hoạch đã giao. Với chế độ giao ban định kỳ hàng tuần. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh kịp thời giải quyết, xử lý các khó khăn, vướng mắc cho từng doanh nghiệp; kiểm tra đôn đốc tiến độ của từng cấp từng ngành kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh uỷ và các cơ quan Trung ương đốivới các vấn đề vượt quá thẩm quyền giải quyết. Bộ máy tổ chức thực hiện cổ phần hoá thuộc ban Đổi Mới quản lý doanh nghiệp tỉnh là một tổ chức tổng lực bao gồm tất cả các sở, ban, ngành có liên quan đến việc giải quyết, xử lý các vấn đề về tổ chức, lao động, tài sản, tài chính… của doanh nghiệp. Các nhóm chuyên viên hoạt động đồng bộ, chuẩn bị đầy đủ nội dung về sắp xếp và cổ phần hoá để lãnh đạo phê duyệt. 4. Giải pháp cổ phần hoá. 4.1. Sự cần thiết phải cổ phần, đường lối chỉ đạo * Sự cần thiết Cổ phần hoá DNNN là xu thế chủ đạo trong quá trình sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN và còn gây nhiều tranh cãi bất đồng quan điểm.Vì vậy phần này sẽ đi sâu vào vấn đề này. Có thể đưa ra nhiều lý do cho thấy cổ phần hoá các DNNN là tất yếu song ở đây chỉ xin nêu tóm tắt và khái quát : - Đây là chủ trương sắp xếp và cải cách doanh nghiệp, làm giảm gánh nặng cho Nhà nước, tạo sự năng động cho DNNN, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. - Đáp ứng đòi hởi của kinh tế thị trường. Trả các doanh nghiệp về đúng vị trí của nó, phát huy tối đa khả năng, giải quyết thích đáng về lợi ích thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. * Đường lối chỉ đạo Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm : tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không được biến thành tư nhân hoá DNNN. 4.2. Giải pháp Về vấn đề cổ phần hoá DNNN, Nghị quyết TW3 của ban chấp hành TW Đảng đã có những chỉ dẫn cụ thể sau : Đối tượng cổ phần hoá là những DNNN hiện có mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào trực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển DNNN và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức tháp, hoặc Nhà nước không giữ cổ phần. Hình thức cổ phần hoá bao gồm : giữ nguyên giá trị koanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông; cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có quy định để gười lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định . Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp; dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn của doanh nghiệp để hình thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút cổ phần này khỏi doanh nghiệp. Mở rộng việc bán cổ phần của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông,lâm, thuỷ sản cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Có chính sách khuyên khích doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng nhiều lao động và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn góp cổ phần. Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường; nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thí điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian. Nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hoá với số lượng cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của công ty cổ phần. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền thu được từ bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao động và để Nhà nưóc tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa và ngân sách để chi thướng xuyên. Nhà nước ban hành có chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp khi cổ phần hoá có khó khăn. Chỉ đạo chặt chẽ DNNN đầu tư một phần vốn để lập mới công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết. 5. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh 5.1. Tại sao phải nâng cao sức cạnh tranh. Hiện nay, trên thế giới xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế trên. Thực tiễn đang đặt các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng ngày càng phải tăng cường nội lực chủ động tham ra hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của sản xuất quốc tế nhờ tăng cường chuyên môn hoá đạt được quy mô kinh tế tối ưu, tăng cường cạnh tranh và kích thích đầu tư. Đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế đem lại cho chúng ta nhiều thuận lợi như tranh thủ được công nghê tiên tiến, mở rộng thị trường khuyến khích đầu tư, v.v.. Tuy nhiên hội nhập kinh tế cũng đặt ra hàng loạt thử thách như cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, các nước đang, chậm phát triển (như Việt Nam) sẽ có ít cơ hội để bảo vệ các ngành kinh tế non trẻ của mình. Một thực trạng không thể phủ nhận trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam và DNNN nói riêng là sức cạnh tranh kém. Để có thể hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế quốc tế không có yêu cầu thiết thân nào hơn là phải nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Đảng ta chủ trương phải chủ động hội nhập quốc tế và khu vực trên tinh thần phát huy tối đa nội lực, từ đó ngày càng nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ, định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải cạnh tranh. Điều này đảm bảo cho các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả nhưng cũng đặt các DNNN trước một thách thức lớn. Nhiều năm liền quen với cung cách làm ăn bao cấp nay phải bắt đầu thích nghi với cơ chế mới. Song chúng ta không còn cách nào hơn là phải tự cải tổ, tích cực phát huy nội lực để đổi mới. Nâng cao sức cạnh tranh không chỉ là yêu cầu sống còn với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, mà còn yêu cầu của việc phát huy vai trò chủ đạo của KTNN và quyết định sự tồn tại định hướng XHCN. Yêu cầu này đặt ra cấp bách hàng ngày hàng giờ với các doanh nghiệp. 5.2. Nguyên nhân của sức cạnh tranh kém của KTNN * Về chủ quan Thực trạng yếu kém của DNNN thể hiện ở: công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu; trình độ chuyên môn trình độ nghiệp vụ quản lý còn yếu; năng suất lao động thấp; chất lượng sản phẩm chưa cao và giá thành sản phẩm chưa hợp lý; thị trường đầu ra chưa ổn định thiếu bền vững. Tàn dư của chế độ quản lý quan liêu bao cấp còn hết sức nặng nề. Nó ảnh hưởng rất lớn tới tác phong lao động, kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là DNNN. Lối làm ăn buông thả, thua lỗ phó mặc cho nhà nước là một cản trở rất lớn cho quá trình phát triển. * Về mặt khách quan Có thể chỉ ra rằng, đó là do hậu quả của hai cuộc chiến tranh còn tác động rất nặng nề lên các mặt của đời sống. Phải lo giành, bảo vệ nền độc lập dân tộc, chúng ta đã mất đi nhiều thời gian quý báu để xây dựng đất nước. Chúng ta là một nước đi sau về kinh nghiệm còn thua kém nhiều nước là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên điều này có thể khắc phục bằng việc không ngừng học hỏi, phát huy tinh thần tự lực tự cường phát triển đất nước. 5.3. Giải pháp Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp, người viết nghĩ cần thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Một số giải pháp chính có thể áp dụng là : Thứ nhất phải tạp lập môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng. Một số chính sách kinh tế của ta còn thiếu tính rõ ràng và hệ thông pháp luật hay thay đổi, do vậy cần hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế theo hướng minh bạch, ổn định, phù hợp dần với thông lệ khu vực và quốc tế, đồng thời chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện tránh tình trạng “trên thông, giữa thắt, dưới bóp” nhằm tạo môi trường cho tự do kinh doanh trên một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trước hết, phải kiên quyết chống lạm dụng độc quyền và bán phá giá. Chính sách lãi suất, tỉ giá hối đoái, chính sách giá, chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế…phải bình đẳng. Cần tách biệt giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội theo hướng nhà nước dùng các công cụ kinh tế là chủ yếu để điều tiết kinh tế, thu nhập từ đó phục vụ cho chính sách xã hội của Nhà nước … Thứ hai, xoá bỏ sự mặc cảm của xã hội và sự kỳ thị của một số công chức trong bộ máy công quyền đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Một số nhà hoạch định chính sách cũng như triển khai thực hiện vẫn còn nhìn phiến diện đối các doanh nghiệp dân doanh. Trên thực tế các DNNN vẫn có nhưng ưu thế hơn hẳn về đất đai và tín dụng… so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thời gian tới , cần xác định rõ doanh nghiệp công ích và các sản phẩm, dịch vụ công ích để có cơ chế hoạt động, quản lý riêng. Tiến tới các doanh nghiệp kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều hoạt động theo một luật chung nhằm phát huy triệt để lợi thế so sánh và nội lực của mỗi thành phần kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Đây cũng là thách thức nhưng cũng là yếu tố thúc đẩy các DNNN ngày càng vươn lên khẳng định mình trong nền kinh tế thị trường sôi động. Các DNNN phải làm điển hình về sản xuất kinh doanh, trong cạnh tranh, làm ăn quốc tế. Xây dựng cơ chế kinh tế hợp lý theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của quốc gia, đi đôi với đổi mới và hoàn thiện cớ chế quản lí kinh tế theo cơ chế thị trường. Đồng thời tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng các công cụ kinh tế nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của cơ chế thị trường để tiến tới hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Thứ ba, cần tiếp tục đẩy nhanh thực hiện vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận DNNN, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và tiến hành cải tổ hợp nhất sáp nhập các doanh nghiệp nhằm nâng cac hiệu quả hoạt động của chúng và giảm thâm hụt của ngân sách Nhà nước. DNNN tập trung chủ yếu vào những ngành (lĩnh vực) then chốt, đòi hỏi hàm lượng vốn và kỹ thuật công nghệ cao, có tính chất dẫn dắt, mở đường, cho nền kinh tế phát triển. Các DNNN cần cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện cân đối chính sách phân phối, giảm các khoản nợ dây dưa, thu và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả; đẩy nhanh sự phát triển hiệu quả của thị trường chứng khoán. Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Mười lăm năm đổi mới, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý … của người lao động đã được nâng lên một bước, song vẫn còn rất hạn chế, chưa ngang tầm với đòi hỏi của phát triển nền kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Theo bộ tài chính thì ngay đội ngũ giám đốc các DNNN (năm 2000) có tới 67% không biết đọc bản báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp, vậy làm sao để họ có thể quản lý và sử dụng đồng vốn có hiệu quả được; hơn nữa đa số lại được đào tạo từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp nên không ít giám đốc vẫn còn tư tưởng dựa dẫm vào “bầu sữa “ của nNà nước. Vậy, cần phải cải tiến quy trình và tiêu chuẩn bổ nhiệm giám đốc DNNN, cần xác định rằng giám đốc doanh nghiệp không chỉ là một chức, mà còn là một nghề phải có trình độ chuyên môn sâu và năng lực tổ chức tốt. Cùng với việc đổi mới hệ thống giáo dục-đào tạo và với chính sách hỗ trợ tích cực cho đào tạo nguồn nhân lực của Nhà nước, các DNNN cần phải có chiến lược đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động, làm cho việc học tập, nhất là tự học là công việc suốt đời của mọi người để có tri thức thực sự mà trước hết phải làm chủ được công việc thuộc lĩnh vực công tác được giao. Các Mác đã chỉ ra rằng con người là nhân tố đông nhất, cách mạng nhất trong lực lưọng sản xuất và suy cho cùng mọi thành công hay thất bại đều do con người tạo ra. Hiện nay, Các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cũng đánh giá cao nhân tố con người, trên cơ sở nghiên cứu về mọi loại hình doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giáo sư Cô- pen –man, giảng dạy ở trường quản lý kinh doanh Newyork, đã kết luận sự thành công của mọi loại hình doanh nghiệp dựa trên ba yếu tố chính là : 1/ Sự thoả mãn của người lao động trong doanh nghiệp về vật chất, tinh thần như tiền lương và nhu cầu phát triển nghề nghiệp; 2/ Sự thoả mãn của khách hàng khi mua hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệ; 3/ Hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực khác của doanh nghiệp. Mô hình quản lý này được đánh giá ở các nước phát triển, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng vào quản lý và mang lại hiệu quả thiết thực. Theo họ, khi doanh nghiệp đối xử với người lao động như thế nào thì người lao động sẽ đối sử với khách hàng như vậy. Do đó, công tác quản trị nhân sự của DNNN có tốt thì mới thu hút được nhân tài, người lao động mới tận tâm, tận lực với doanh nghiệp của mình. Nó là động lực bên trong sức mạnh nội lực thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ tư, DNNN phải xây dựng dược chiến lược sản xuất – kinh doanh thích hợp như : chiến lược phát triển khoa học - công nghệ, chiến lược mặy hàng chiến lược môi trường… trong điều kiện có sự cạnh tranh của các đối thủ khác trên thương trường. Từ đó có ảnh hưởng đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hoá một cách tối ưu, tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm… Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư khoa học - công nghệ, tại điều 38, Luật Khoa học và Công nghệ đã được kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá X thông qua ngày 9-6-2000 đã nêu rõ: ” Doang ghiệp được đầu tư phát triển khoa học và công nghệ nhằm đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của doanh ghiệp được tính vào giá thành sản phẩm; doanh gnhiệp được lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; doanh nghệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên trọng điểm của Nhà nước được xét tài trợ một phần kinh phí nghiên cứu” và được vay vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ. Đây là lần đầu tiên, hoạt động khoa học công nghệ được thể chế hoá cao. Do vậy, cần phải triển khai thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ để luật này đi sâu vào cuộc sống góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp mà trước hết là các doanh nghiệp lớn, mũi nhọn sẽ có cơ sở để đổi mới công nghệ, rút ngắn đần khoảng cách so với các nước phát triển tạo điều kiên tăng khả năng cạnh tranh và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với công nghệ hiện đại cộng với đội ngũ lao động làm chủ được công nghệ đó và có cơ chế quản lý thích ứng nhất định các doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh . Đồng thời đây cũng là điều kiện hình thành và hoạt động thị trương khoa học công nghệ ở nước ta. Thứ năm, phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu thập và cung cấp thông tin tìm kiếm và mở rộng thị trường mới cho doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo hướng xuyên quốc gia. Tăng cường sự liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp đã có tiếng nói trên thương trường, hạn chế bị các đối tác nước ngoài ép cấp,ép giá. Khuyến khích các hiệp hội doanh nghiệp thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro theo ngành hàng… Trên đây chỉ là những giải pháp rất cơ bản , hơn nữa Việt Nam còn là một thành viên mới mẻ trong nền kinh tế toàn cầu, còn cần nhiều quá trình tổng kết rút kinh nghiệm. Hy vọng trong những dịp sau người viết có thể đóng góp những ý kiến cụ thể và thiết thực hơn nữa. 6. Đổi mới về quản lý, tổ chức DNNN 6.1. Sự cần thiết Các vướng mắc trong cải cách cơ chế quản lý, tổ chức doanh nghiệp hiện nay đang là rào cản rất lớn làm chậm quá trình sắp xếp, đổi mới, quản lý DNNN. Tính cấp thiết của việc giải quyết vấn đề này là không phải bàn cãi. Bài viết sẽ đi sâu vào các giải pháp tháo gỡ thực trạng trên. 6.2. Giải pháp Giải pháp cơ bản hiện nay vẫn là tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và của cơ quan chủ sở hữu đối với DNNN bao gồm : *Xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với DNNN. Chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN là: xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích; xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho DNNN; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật , chế độ, quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp. Kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp trực tiếp, cụ thể vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ quyền quản lý hành chính kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ quan quản lý Nhà nước căn cứ vào quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý mà ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp quy để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNNN. *Phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN. Chính phủ thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN. Chủ sở hữu có quyền: thành lập, sáp nhập, chia tách, chuyển đổi sở hữu, giải thể doanh nghiệp; ban hành điều lệ mẫu tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức danh quản lý chủ chốt. Quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển và kế hoạch trung, dài hạn của doanh nghiệp. Phê duyệt các dự án đầu tư. Quy định nguyên tắc phân phối lợi nhuận sau thuế. Kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Chính phủ uỷ quyền cho các bộ, phân cấp cụ thể cho uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu của Nhà nước phù hợp với các loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước, bảo đảm ở đâu có vốn của Nhà nước thì phải có tổ chức hoặc cá nhân được giap quyền đại diện Nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp với nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước do Trung ương hay địa phương quản lý. *Đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý DNNN. Chính phủ quy dịnh tiêu chuẩn cán bộ quản lý chủ cốt của doanh nghiệp nhà nước; chỉ đạo xây dựng hệ thống đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giám đốc doanh nghiệp. Chính phủ quy định chế độ đãi ngộ và chế độ trách nhiệm đối với những cán bộ quản lý DNNN theo hướng khuyến khích thoả đáng về vật chất và tinh thần căn cứ mức độ đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp; đồng thời có chế tài phù hợp với từng loại hình DNNN để xử lý những cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả do nguyên nhân chủ quan. *Tổ chức đội ngũ lao động trong DNNN. Để DNNN chứng tỏ tính ưu việt của mình, nhằm dần trở thành nền tảng của chế độ kinh tế mới, ngoài yếu tố cán bộ quản lý phải khơi dậy được sức mạnh của người lao động không phải theo ý nghĩa chỗ làm việc an toàn mà bằng cách gắn lợi ích của từng người lao động vào doanh nghiệp cũng như khuyến kích các tổ chức xã hội độc lập của họ như hội ngành nghề tổ chức Đảng, thanh niên, phụ nữ, công đoàn .v.v. Đây là một lĩnh vực rất phức tạp. Bởi nếu không phát huy được khả năng lao động sáng tạo của người lao động thì tính XHCN trong các DNNN bằng không. Vì vậy, để những người lao động làm việc theo tư thế của người XHCN cần phải cải tổ hoạt động của các đoàn thể xã hội, Công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ. Làm cho người lao động có tác phong của những người cộng sản chính là góp phần thực hiện định hướng XHCN trong xã hôị hiện nay. * Công ty hoá DNNN Ngày 14/9/2001, Chính phủ đã ban hành nghị định 63/2001/NĐ-CP về việc chuyển đổi doanh nghiệp của Nhà nước, của tổ chức chính trị, của tổ chức chính trị- xã hội thành công ty TNHH một thành viên (công ty hoá). Có thể giải thích đơn giản đây là việc chuyển các DNNN sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, khiến cho các doanh nghiệp này trở thành các thực thể pháp lý độc lập, chịu trách về hoạt động của mình trong giới hạn vốn điều lệ của công ty. Đồng thời, Nghị định quy định rõ về phân công, phân cấp trong quan hệ quản lý nhằm xác định quyền và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu, của hội đồng quản trị và tổng giám đốc công ty. Doanh nghiệp sau khi chuyển đổi chỉ có một tổ chức là chủ sở hữu hoặc được uỷ quyền là đại diện chủ sở hữu. Chủ sở hữu và tổ chức được uỷ quyền là đại diện chủ sở hữu có quyền và nghĩa vụ được giảm thiểu tối đa so với cơ quan chủ quản theo kiểu cũ, không can thiệp sâu vào quản lý kinh doanh, tách bạch giữa chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp. Việc phân cấp trên đã mở rộng quyền cho các công ty, tạo ra sự năng động, tự chủ, sáng tạo cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. 7. Kinh nghiệm cải cách DNNN của một số nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay. Trên phạn vi toàn thế giới, cải cách DNNN đã được tiến hành một cách sâu rộng từ đầu những năm 1980, đặc biệt ở các nước đi theo XHCN trước đây. Điều kiện về chính trị, kinh tế ở các nước này có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Những kinh nghiệm trong cải cách DNNN của họ rất đáng để chúng ta xem xét. Có rất nhiều phương pháp cải cách khác nhau nhưng nhìn chung có hai xu hướng : sử dụng phương pháp sốc, tiến hành nhanh, tư nhân hoá hoàn toàn (ở các nước Trung và Đông Âu) và phương pháp tiến hành nhiều bước, có bổ sung tổng kết kinh nghiệm qua các giai đoạn (“dò đá qua sông “ ở Trung Quốc) . Vì điều kiện thời gian, bài viết chỉ nêu khái quát về từng loại hình, ưu nhược điểm và rút ra bài học cho Việt Nam. 7.1. Trường hợp các nước Trung và Đông Âu Cùng với sự chuyển đổi về chính trị, cải cách DNNN được tiến hành mạnh mẽ. Về cơ bản, các nước tiến hành theo phương pháp sốc, tức là tư nhân hoá hoàn toàn các DNNN trong một thời gian ngắn. Thông thường, các nước tiến hành tư nhân hoá bằng cách phát cổ phiếu cho nhân dân. Điều này ứng với quan điểm cho rằng của cải của nhà nước là của toàn dân. Các DNNN được định giá và mỗi người dân sẽ nhận được một số điểm đầu tư nhất định. Các điểm có thể sử dụng để mua trực tiếp cổ phần hay thông qua các quỹ đầu tư thu gom điểm của nhiều cá nhân. Các cổ phần sẽ được định giá theo điểm dựa vào giá trị kế toán của doanh nghiệp. Ưu điểm của phương pháp này là tiến hành nhanh nó giúp cho Nhà nước có thể tập trung cải cách nền kinh tế trong một thời gian ngắn. Đây là biện pháp hữu hiệu nhằm chuyển nhượng tài sản của nền kinh tế bằng những khoản tiền tiết kiệm hạn chế mà vẫn đảm bảo được sự ủng hộ rộng rãi và tránh sự chỉ trích rằng tư nhân hoá chỉ mang lại lợi ích cho một số cá nhân thay cho đa số. Tuy nhiên, mặt trái của nó là tiến hành nhanh “sốc”, gắn liền với sự thay đổi về chính trị nên tất yếu gây nhiều bất ổn trong đời sống kinh tế – xã hội, có thể dẫn đến khủng hoảng làm hạn chế sự phát triển. Mặc dù vậy, thực chất của các cuộc cải cách này là tư nhân hoá, từ bỏ mục tiêu CNXH, bối cảnh cải cách có nhiều phức tạp khác biệt với cải cách ở nước ta và kết quả còn nhiều điều bàn cãi. Song nó rất đáng để chúng ta xem xét, lưu tâm. 7.2. Trường hợp Trung Quốc Có thể tóm lược những chủ trương cải cách của Trung Quốc như sau : - Về phương châm : đó là “dò đá qua sông“ theo hướng “nắm to thả nhỏ” tức là Nhà nước nắm những xí nghiệp lớn, then chốt, thả hết các xí nghiệp vừa và nhỏ không giữ vai trò chủ đạo. - Các hình thức cải cách DNNN bao gồm : + Sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN. + Cổ phần hoá DNNN. + Bán, khoán kinh doanh DNNN . + Công ty hoá DNNN. Dễ dàng nhận thấy rằng cải cách DNNN ở Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Nó đã và đang đem lại những kết quả đáng chú ý (minh chứng rõ nhất là hiện nay Ttung Quốc là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới). Mặc dù tiến hành chậm song nó đã đạt được nhiều mục tiêu như : về xã hội đảm bảo lợi ích của người lao động, của toàn xã hội theo, không gây bất ổn về chính trị, đảm bảo mục tiêu XHCN, thúc đẩy nền kinh tế ngày một phát triển. Việt Nam có thể áp dụng một số kinh nghiệm của Trung Quốc cho các giải pháp đang thực hiện và sắp thực hiện tới đây của mình như: - Việc đánh giá doanh nghiệp cổ phần hoá giao cho do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan