Tài liệu Luận văn Đảm bảo tín dụng của chính phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng hiện đại: Luận văn: Đảm bảo tín dụng của chính 
phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động 
ngân hàng hiện đại 
Lời nói đầu 
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội 
nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều 
khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 
Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là 
"đòn bảy kinh tế" thông qua hoạt động tín dụng. 
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự 
phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. 
Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. 
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. 
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương 
mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro 
tín d...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
86 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đảm bảo tín dụng của chính phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng hiện đại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Đảm bảo tín dụng của chính 
phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động 
ngân hàng hiện đại 
Lời nói đầu 
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội 
nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều 
khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 
Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là 
"đòn bảy kinh tế" thông qua hoạt động tín dụng. 
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự 
phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. 
Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. 
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. 
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương 
mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro 
tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm. 
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Công 
thương Đống Đa, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Một số giải pháp hạn chế rủi ro an 
toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống 
Đa". 
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là: 
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất của rủi ro 
tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động của nó tới bản 
thân Ngân hàng Thương mại và với nền kinh tế. 
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng công 
thương Đống Đa để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi 
nhánh. 
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong 
hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. 
Để giải quyết từng vấn đề trên, chuyên đề được thiết kế làm 3 chương: 
Chương 1: Tín dụng và rủi ro an toàn kinh tế ngoài quốc doanh trong hoạt động tín 
dụng của Ngân hàng Thương mại 
Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng an toàn kinh tế ngoài quốc 
doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. 
Chương 3: Một số giải phá hạn chế rủi ro tín dụng an toàn kinh tế ngoài quốc doanh 
đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. 
Chương 1: Tín dụng và rủi ro an toàn tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh trong hoạt 
động tín dụng của ngân hàng thương mại 
I. Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng 
1. Khái quát về ngân hàng thương mại 
1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại. 
Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại, các nhà kinh tế học đưa ra rất nhiều 
những quan niệm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng "NHTM là tổ chức tài 
chính nhận tiền gửi và cho vay tiền". Người khác lại nhận định: NHTM là trung 
gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài 
khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc…". Sở dĩ có tình trạng này 
là do hoạt động NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ Ngân hàng 
lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. 
Mặt khác, do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến 
những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế giới. 
Theo pháp lệnh: "Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính" ban hành 
ngày 24/5/1990:" NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và 
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng 
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh 
toán". 
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua 
các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp 
vụ tài chính khác. 
1.2. Các chức năng nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại. 
- Chức năng huy động vốn: Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của NHTM. Nó quyết 
định quy mô cũng như hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy 
động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức 
kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm 
và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM có thể huy động vốn qua 
các biện pháp chủ động như phát hành kì phiếu ngân hàng, phát hành các chứng chỉ 
tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác. 
Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có như một rằng buộc về 
trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng. Theo quy định 
của Việt Nam, các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có. 
- Chức năng cung cấp tín dụng và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh mang lại lợi 
nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ quan trọng là tạo tiền, trở thành 
nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản phẩm xã hội, mở 
rộng vốn đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. 
Có thể thấy hoạt động tín dụng làhoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó liên 
quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động lại 
chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy việc 
nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm. 
- Cung cấp các hoạt động dịch vụ: 
Ngoài các chức năng cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch vụ để 
đáp ứng mọi nhu cầu của khác hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời đem lại 
nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của NHTM gồm có: 
+ Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền 
+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán. 
+ Dịch vụ tư vấn đầu tư 
+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá. 
Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận được các khoản thu nhập dưới hình 
thức lệ phí hoặc hoa hồng. 
Có thể nói, các chức năng của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với 
nhau. Chức năng huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các hoạt động 
nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu nhập cho NHTM. Còn 
các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt 
động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM. 
2. Tín dụng Ngân hàng 
2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng 
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao 
tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên 
nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thụân. 
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế và 
cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, 
tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu… 
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động 
phức tạp nhất. Trong bài viết này tôi chỉ xin được đề cập đến khía cạnh cho vay của 
hoạt động tín dụng Ngân hàng. 
2.2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động của NHTM 
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh 
nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần ktnn mà còn tác động 
đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tín dụng thúc đẩy sự ra 
đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển của đất nước. 
Tín dụng Ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, 
ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách ly sự hỗ trợ của tín dụng 
ngân hàng. 
Với các ngành sản xuất, chế biến, khai thác…để đảm bảo sản xuất ổn định cần thết 
phải có vốn để dự trữ nguyên vật liệu, thành phẩm bù đắp các chi phí sản 
xuất…Đồng thời để không ngừng nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản 
phẩm, tìm kiếm lợi thế trông cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải thường xuyên 
cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ 
thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Tất cả những công việc đó sẽ không thể thực 
hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng. 
Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất đến 
người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần 
thiết trang trải các chi phí lưu thông, thuế…Hơn nữa, để mở rộng sản xuất kinh 
doanh, các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại 
phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu 
động. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp này cần đến sự hỗ trợ của 
tín dụng ngân hàng. 
Với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch…sẽ hoạt động ra sao 
khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng tang thiết bị vật 
chất, phương tiện vận tải…Khi bước vào kinh doanh trong lĩnh vực này đòi hỏi vốn 
đầu tư rất lớn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần đến tín dụng ngân hàng và xem 
nó như là một trong những nguồn vốn có thể huy động cho mục đích kinh doanh 
của doanh nghiệp. 
Nói chung, một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn lưu động và vốn 
cố định cho các chủ doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân hàng vì nếu chỉ dựa vào vốn 
tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị 
trường. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các dự án kinh 
doanh của doanh nghiệp mới. 
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, 
tín dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả kinh 
tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân hàng với 
chức năng huy động vốn, tập trung mọi nguồn vốn trong và ngoài nước đã phần nào 
đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh 
tế quan trọng nhất giúp các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện tái sản xuất mở rộng 
và ứng dụng công nghệ để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. 
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu 
nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự án mang tính 
xã hội khác. 
Muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết việc làm không thể chỉ 
dựa vào quỹ ngân sách Nhà nước hoặc trông chờ vào các khoản vay nước ngoài. 
Tín dụng ngân hàng thực sự giữ vai trò quan trọng trong viecẹd dầu tư cho các dự 
án có ý nghĩa kinh tế và xã hội để giải quyết những việc như vậy. 
Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở 
rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế. 
Các doanh nghiệp, các Công ty làm ăn có hiệu quả và uy tín được ngân hàng tập 
trung đầu tư vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ. Tín dụng 
ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho các 
doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước ngoài 
đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. 
Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các 
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách 
quản lý kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về 
tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho 
các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của 
Nhà nước. 
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một nhiệm vụ 
đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an toàn tín dụng và 
đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và của Chi 
nhánh NHCT Đống Đa nói riêng. 
II. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại 
1. Khái niệm rủi ro 
Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và hoạt 
động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường. Tuy 
nhiên, các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không 
mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được. 
Như vậy, trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng nói riêng 
thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế, các nhà quản trị không thể loại bỏ 
được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý. 
Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhà quản trị 
phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng 
ngừa chống đỡ tác hại của nó. 
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại 
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau. Do đặc 
điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi ro lớn. Có 
các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM. 
2.1. Rủi ro tín dụng 
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn 
chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại phần lớn lợi 
nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại làhoạt động có nhiều rủi ro 
nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan chặt chẽ đến mọi lĩnh vực của 
nền kinh tế. Mỗi rui ro trong các lĩnh vực này đều tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín 
dụng của NHTM. Trong hoạt động tín dụng, NHTM luôn đặt ra mục tiêu tối đa hoá 
lợi nhuận, đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi NHTM 
phải có những giải pháp thích hợp để quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng. 
2.2. Rủi ro lãi suất 
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức kinh tế, 
các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân. Người ta quan niệm lãi suất là chi phí để 
vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó. Trong cơ chế thị 
trường, lãi suất luôn biến động và điều này có thể gây ra rủi ro cho hoạt động của 
NHTM. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi suất cố 
định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trường tăng lên. 
Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, ngân hàng sẽ bị thiệt 
hại khi lãi suất thị trường giảm xuống. 
Rủi ro lãi suất là loại rui ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi suất nảy 
sinh trong những trường hợp sau: 
+ Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng làm chi phí của 
ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi 
lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay. 
+ Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngân hàng dùng 
tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn tăng, chi 
phí ngân hàng phải bỏ ra cũng sẽ tăng lên, trong khi thu nhập ở tài sản có dài hạn 
vẫn giữ nguyên, như vậy thu nhập của ngân hàng không đủ bù đắp chi phí kinh 
doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn. 
+ Ngoài ra, rủi ro lãi suất có thể xayra do trình độ thấp kém bị thua thiệt trong việc 
cạnh tranh lãi suất trên thị trường. Hoặc do yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi 
suất như cung, cầu, yếu tố thị trường…Khi Nhà nước có quyết định điều chỉnh lãi 
suất theo hướn giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả. Như vậy, 
lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi cho những khoản tiền gửi có kỳ 
hạn lại không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi suất. 
2.3. Rủi ro nguồn vốn 
a) Rủi ro do thừa vốn 
Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy động. Để 
huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số này bị ứ 
đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể sinh lời trong khi 
ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa là các thiệt hại của 
ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình này kéo dài ở mức độ lớn có thể dẫn đến 
thua lỗ trong kinh doanh. Giải quyết vấn đề này, NHTM cần phải tăng cường công 
tác kế hoạch hoá, đảm bảo cân đối giữa vốn huy động và vốn cho vay. 
b) Rủi do do thiếu vốn. 
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho vay và 
đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi đến hạn. Rủi ro 
này xuất phát từ chưc năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của 
ngân hàng, thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn các nguồn vốn, 
hoặc do mất lòng tin mà các hàng loạt khách hàng đến rút tiền, khiến cho ngân hàng 
không có đủ tiền để chi trả cùng một lúc. Trong bối cảnh đó, ngân hàng khó lòng 
huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó kinh doanh có thể bị thu hẹp và vỡ nợ rất 
có thể xảy ra. Rủi ro này còn có thể do ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác huy 
động vốn thể hiện ở việc không thu hút đủ vốn để cho vay hoặc do sự mất cân đối 
trong cơ cấu vốn huy động, thiếu các nguồn vốn trung dài hạn trong khi nhu cầu vay 
vốn trung dài hạn lại ở mức cao. Điều này đã làm cho Ngân hàng mất cơ hội đầu tư 
vào những dự án an toàn và có thể đem lại lợi nhuận cao. 
2.4. Rủi ro hối đoái: 
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái 
bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ. Sự thay 
đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể: 
+ Nếu ngân hàng có dư dật về ngoại tệ (vị thế thường - net long position): Nếu 
ngoại tệ đó lên giá thì ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngược lại ngân hàng sẽ 
lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. 
+ Nếu ngân hàng ở vị thế đoản (net short position) về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại 
tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi khi ngoại tệ đó xuống 
giá. 
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây ra tổn 
thất cho ngân hàng. Dư dật về ngoại tệ(vị thế trường) càng lớn thì rủi ro càng cao 
khi tỷ giá giảm, ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng không 
ít khi tỷ lệ tăng. 
Khi phân biệt tình hình lãi lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so sánh lỗ, lãi 
thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro 
so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái 
của một ngân hàng. 
2.5. Rủi ro trong thanh toán 
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán. 
Khả năng thanh toán tưc là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện đại, đột xuất 
khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi 
ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết một cách kịp thời 
có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh toán sẽ 
dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm. 
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau: 
+ Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn, 
trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy động 
ngắn hạn để cho tập trung dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán 
cuối cùng. 
+ Đến hạn các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm sút, 
người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của ngân 
hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về 
sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả những khía cạnh 
trên đều dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng. 
+ Loại rủi ro này còn có thể phát sinh trong quá trình thanh toán của ngân hàng, có 
thể do ngân hàng bị lợi dụng trong thanh toán điện tử,thanh toán séc chấp nhận 
thanh toán các chứng từ giả mạo hoặc do nhầm lẫn, sai sót trong hoạt động nghiệp 
vụ…dẫn đến sự thiệt hại của ngân hàng. 
2.6. Rủi ro thuần tuý 
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tại gây ra như: lụt lội, động đất, hoả hoạn 
hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng…làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản 
của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại không nhỏ cho 
ngân hàng. 
2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán 
Đây là loại rủi ro đặc trưng của NHTM liên quan đến sự sống còn của ngân hàng, 
nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên dẫn đến việc NHTM bị thua lỗ, 
không có đủ khả năng trả nợ cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc không có đủ tiền 
nhất thời để chi trả cho nhu cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại một thời điểm. Đây 
là loại rủi ro nghiêm trọng nhất, nó không những làm sụp đổ chính NHTM đó mà 
còn là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của hàng loạt các chưc năng, các tổ chức tín 
dụng khác có liên quan. 
Bài học thực tiễn của loại rủi ro này có thể kể đến như sự sụp đổ của hàng trăm tổ 
chức tín dụng ở Mỹ từ năm 1985 đến năm 1992 hay sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng 
nhân dân ở nước ta trong những năm cuối của thập kỷ 80. 
3. Rủi ro tín dụng 
3.1. Các hình thức của rủi ro tín dụng 
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng hạn, đầy 
đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín dụng 
thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro. 
3.1.1. Không thu được lãi đúng hạn: 
Cấp độ thấp nhất khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân hàng sẽ 
chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp 
vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng 
vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ 
của khách hàng. 
3.1.2. Không thu được vốn đúng hạn. 
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn, một 
phần do một lượng vốn vay lớn bị mất. Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang 
mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp 
đồng tín dụng. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát thực hiện của Ngân hàng 
vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã 
đề ra trình Ngân hàng. 
3.1.3. Không thu được đủ lãi. 
Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn. 
Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể 
trả đủ lãi cho Ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản 
mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách 
hàng. 
3.1.4. Không thu đủ vốn cho vay: 
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thuđủ vốn cho vay và lúc này 
Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này, Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào 
mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợp đồng 
tín dụng không có hiệu quả. 
Trên đây chủ yếu là bốn hình thức giúp cho NHTM phân biệt rủi ro tín dụng và có 
biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì Ngân hàng 
đều phải trải qua bốn trường hợp trên. Có trường hợp khách hàng đã trả lãi rất đầy 
đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không thể trả được nợ gốc cho Ngân hàng. Vì 
vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường 
hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá 
hạn phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có 
khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết 
hậu quả và ruít ra những bài học kinh nghiệm. 
3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. 
3.2.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh. 
a) Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường pháp lý trong nước: 
- Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh 
doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế 
đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả 
năng trả nợ cho Ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng bị suy 
thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt 
động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút,hàng hoá bị ứ đọng. 
Điều này đã làm cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đã ảnh hưởng đến khả 
năng trả nợ cho ngân hàng. 
Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng 
không nhỏ đến hoạt động của Ngân hàng. Chính phủ có thể gây khó khăn cho một 
số khách hàng của Ngân hàng khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đã làm 
tăng tỷ lệ lạm phát dẫn đến giá cả các loại nguyên vật liệu đầu vào tăng, giá thành 
sản phẩm tăng, hàng hoá khó tiêu thụ được. Hơn nữa, việc chính phủ cho phép nhập 
khẩu tràn lan những mặt hàng mà ở trong nước có thể sản xuất được, từ đó làm cho 
hàng hoá trong nước bị cạnh tranh, chậm tiêu thụ, sản xuất bị đình trệ… 
- Môi trường chính trị, xã hội: Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện 
cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp luôn phải đặt ra trong 
tình trạng chiến tranh cấm vận kinh tế, chính trị bất ổn, tệ nạn xã hội tràn lan…đều 
là những nguyên nhân dẫn đến việc kìm hãm sản xuất, từ đó gây ra rủi ro đối với 
các doanh nghiệp nói chung và đối với rủi ro tín dụng của ngân hàng nói riêng. 
- Môi trường pháp lý: Nếu nhà nước xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ và có 
hiệu lực sẽ làm mạnh hoá các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau 
cũng như giữa các tổ chức kinh tế đó với Ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp lý 
lỏng lẻo sẽ tạo ra nhiều kẽ hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt 
hại lẫn nhau; từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán đối với Ngân hàng, thậm chí 
trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của Ngân hàng, điển hình như vụ án Tamexco, 
Epco - Minh Phung…đã gây xôn xao dư luận. 
b) Môi trường quốc tế. 
Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay ảnh hưởng rất lớn đến 
kinh doanh kinh tế. Một mặt nó tạo điều kiện giao lưu kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế 
xã hội đất nước, nhưng mặt khác nó lại tao ra sức cạnh tranh khốc liệt. Nếu doanh 
nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả thì lập tức sẽ bị phá sản gây ảnh hưởng đến hoạt 
động tín dụng Ngân hàng. Quan hệ kinh tế mở rộng ra các nước đã tạo sự ràng buộc 
về kinh tế, tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống. Cuộc khủng hoảng tài chính 
tiền tệ trong khu vực vừa qua là một bằng chứng điển hình. Nó đã dẫn đến sự phá 
sản của hàng trăm ngân hàng của các nước mà hậu quả của nó vẫn còn dư âm đến 
tận hôm nay. 
3.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng: 
Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng xảy ra do các doanh nghiệp thực sự làm ăn 
thua lỗ không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng. Đây là nguyên nhân chủ yếu 
dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM. Ta có thể chia nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín 
dụng từ phía khách hàng làm hai trường hợp. Đó là trường hợp khách hàng gian lận 
và trường hợp khách hàng không gian lận. 
a) Khách hàng gian lận: 
Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng không thể tránh khỏi trường hợp khách hàng 
cố tình lừa gạt ngân hàng. Điều này được thể hiện qua một số hình thức sau: 
Nhiều doanh nghiệp do thiếu năng lực về khả năng quản lý tài chính lại không có tài 
sản thế chấp hợp lệ do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn cho việc vay vốn 
ngân hàng. Họ đã lập các số liệu, giấy tờ giả mạo hòng qua mắt ngân hàng và được 
ngân hàng cho vay vốn. Nếu ngân hàng không phát hiện ra thì khả năng rủi ro của 
khoản tín dụng này là rất lớn. 
Có trường hợp người vay lợi dụng ngân hàng không thể kiểm soát hết được hoạt 
động kinh doanh của mình nên các doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay của ngân hàng 
vào mục đích khách với hợp đồng đã cam kết. Như vậy, coi như toàn bộ giá trị thẩm 
định trước khi tiến hành cho vay của ngân hàng đa trở thành vô nghĩa và rủi ro tín 
dụng được đặt ở mức độ báo động. 
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp do kinh doanh kém hiệu quả hoặc do đạo đức kém đã 
cố tình chây ỳ, không trả nợ cho ngân hàng, thậm chí còn bỏ trốn để quỵt nợ. Trong 
trường hợp này ngân hàng hoàn tàon bị thua thiệt và chỉ còn trông chờ vào việc xử 
lý tài sản thế chấp. 
b) Khách hàng không gian lận. 
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt để 
tồn tại thì csc doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong nhữgn quan hệ phức tạp của 
xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn là điều không thể tránh khỏi. Như ở phần trước đã nói, 
nguồn thu chủ yếu của ngân hàng là từ các doanh nghiệp thông qua các hoạt động 
tín dụng. Chính vì vậy, hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt 
động của ngân hàng và rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh 
hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Rủi ro của doanh nghiệp xuất 
phát từ một số trường hợp sau: 
+ Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan như: Thiên tai, hoả hoạn, động đất, mất 
trộm…Đây là trường hợp ít khi xảy ra và khó có thể dự đoán trước. 
+ Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro. 
Trong nền kinh tế doanh nghiệp có rất nhiều mối quan hệ với các tổ chức kinh tế 
khác và cũng giống như ngân hàng doanh nghiệp cũng có thể bị rủi ro từ phía các 
đối tác của mình làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho 
ngân hàng. 
Trường hợp khác là rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém của bản thân doanh 
nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn đặt doanh nghiệp trong tình 
trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì một sự sai sót nào trong phương thức quản 
lý kinh tế cũng như quản lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ, phát sản doanh nghiệp 
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. 
3.2.3. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng. 
Ngoài những nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ chính bản thân 
Ngân hàng. Đó là do Ngân hàng yếu kém về trình độ chuyên môn, trình độ nắm bắt 
các thông tin trên thị trường, trình độ dự đoán và hiểu biết các lĩnh vực sản xuất 
kinh doanh hay vấn đề đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ tín dụng đã 
dẫn đến rủi ri tín dụng Ngân hàng. 
3.3. Dấu hiệu của rủi ro tín dụng 
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều 
hình thức khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng, các nhà ngân hàng 
đã rút ra một số dấu liệu cơ bản để giúp cho các cán bộ tín dụng nhận biết, phán 
đoán và sớm có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn những rủi ro thực sự có thể 
xảy ra. Có các dấu hiệu cơ bản sau: 
3.3.1. Nợ quá hạn. 
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi hạn do một 
số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. 
Là một trung gian tài chính giữa bên thừa vốn với bên thiếu vốn trong nền kinh tế, 
tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, nên tính ổn định và hiệu quả 
hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp 
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của 
Ngân hàng thì nợ quá hạn nhân tố rễ gây ra rủi ro cho Ngân hàng. Do vậy, để hạn 
chế rủi ro trong hoạt động tín dụng thhì Ngân hàng phải giữ cho tỉ lệ nợ quá hạn ở 
mức hợp lý, và có thể, không để phát sinh nợ quá hạn. 
Nợ quá hạn có nhiều loại, tuy nhiên, nếu dựa vào khả năng thu hồi thì ta có thể chia 
nợ quá hạn ra thành hai loại là nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không 
có khả năng thu hồi. 
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản nợ đến hạn thanh toán, vì nhiều lý 
do khác nhau khách hàng chưa có khả năng thanh toán, nhưng các phân tích chủ 
quan của Ngân hàng cho thấy có thể thu hồi được nợ. 
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là nợ quá hạn không thể thu hồi sau khi phân 
tích các khả năng thu hồi. Trong trường hợp này, các Ngân hàng được phép trích 
quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp. 
3.3.2. Lãi treo. 
Lãi treo là số tiền mà khác không trả được khi đến hạn thanh toán lãi. Lãi treo cũng 
là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín dụng, bởi vì việc thanh toán lãi 
không gắn với việc trả lại gốc và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào cuối 
tháng, khi doanh nghiệp không thanh toán được phần lãi của món vay cho thấy dấu 
hiệu doanh nghiệp gặp khó khăn đặc biệt về tài chính. 
Do vậy, khi xuất hiện lãi treo Ngân hàng phải tiến hành điều tra, phân tích kỹ tình 
hình tài chính doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tìm 
ra nguyên nhân tại sao doanh nghiệp không có khả năng thanh toán lãi theo đúng 
hạn. Dựa vào kết quả phân tích, Ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp phù hợp nhất để 
hạn chế những tổn thất cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp. 
3.3.3. Một số dấu hiệu khác. 
Rủi ro tín dụng thường ẩn chứa trong "khoản vay có vấn đề" được thể hiện bằng 
nhiều dấu hiệu, nhưng không có một mô hình nhất định nào có thể mô tả chính xác, 
đầy đủ những dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng sẽ xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, 
kiểm nghiệm trên thực tế hoạt động tín dụng, một số dấu hiệu sau thường có tác 
dụng cảnh báo với cán bộ tín dụng về khả năng trả nợ của người vay. 
- Việc trì hoãn nộ các báo cáo tài chính của người vay. 
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp Ngân hàng hiểu được tình hình tài 
chính của người vay, thông qua đó dự báo về khả năng trả nợ của họ. Việc trì hoãn 
có nhiều nguyên nhân nhưng chúng ta phải xem xét đến nguyên nhân chính đó là do 
tình hình hoạt động kinh doanh của người vay đã có những dấu hiệu không bình 
thường nên họ không muốn Ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang kém của 
họ. 
- Mối quan hệ giữa Ngân hàng và người vay thay đổi. 
Đó là sự chậm trễ trong việc sắp xếp các cuộc viếng thăm của Ngân hàng đối với 
doanh nghiệp, nhằm giúp cho Ngân hàng kiểm tra, giám sát những nghĩa vụ của 
người vay đối với khoản vay. Vấn đề này biểu hiện bởi sự giảm sút bầu không khí 
không tin cậy và hợp tác giữa cán bộ Ngân hàng và người vay vốn đã có từ lâu. 
- Hàng tồn kho tăng lên quá mức bình thường, các khoản công nợ cũng gia tăng. 
- Chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, khách hàng của họ 
không còn tín nhiệm như trước nữa dẫn đến phải bán hàng với thời hạn trả tiền lâu 
hơn, hoặc bán cả cho những khách hàng có khả năng yếu kém về tài chính, có khả 
năng thanh toán thấp. 
- Hoàn trả nợ vay không đúng hoặc lãi vay không thanh toán đúng kỳ hạn. 
- Thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh. 
Vấn đề này được biểu hiện qua một số hình thức như: thu hẹp qui mô sản xuất, 
chủng loại sản phẩm, công nhân nghỉ việc, bán bớt tài sản hoặc một số vụ việc như 
sa thải công nhân, cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp. 
- Các thảm hoạ về thiên như như bão lụt, hoả hoạn, cháy rừng… 
Khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có vấn đề được nhận ra, biện pháp đâu 
tiên mà các cán bộ tín dụng Ngân hàng phải làm là xác định tính nghiêm trọng của 
vấn đề. Dĩ nhiên để hoàn tất công việc này đòi hỏi phải có thêm lòng tin và sự cộng 
tác của người vay, thông tin thường lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động 
kinh doanh của người vay. Các biện pháp sau đó sẽ tuỳ thuộc vào sự nghiêm trọng 
của tình hình mà xử lý. 
3.4. Tác động của rủi ro tín dụng. 
3.4.1. Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận Ngân hàng. 
Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài 
chính khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm lợi nhuận Ngân hàng. 
Trong trường hợp Ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng làm Ngân 
hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án khả thi, có khả năng mang lại lợi nhuận. 
3.4.2. Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng: 
Rủi ro tín dụng đã khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của Ngân hàng gặp nhiều khó 
khăn. Các khoản đầu tư, cho vay bị thoất thoát hoặc chậm thu hồi trong khi Ngân 
hàng vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã 
làm hạn chế khả năng thanh toán của Ngân hàng. 
3.4.3. Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của Ngân hàng. 
Rủi ro tín dụng đã làm giảm uy tín của Ngân hàng và ảnh hưởng đến hoạt động 
kinh doanh của của Ngân hàng. NHTM gặp nhiều rủi ro là Ngân hàng hoạt động 
kém hiệu quả. Điều này đã làm cho uy tín của ngân hàng bị giảm sút. Đây là một 
vấn đề rất tệ hại, khách hàng mất lòng tin ở Ngân hàng, họ sẽ không gửi tiền vào 
Ngân hàng, thậm chí họ có thể còn rút lại những khoản tiền đã gửi. Điều đó đã gây 
khó khăn cho việc huy động vốn của Ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của 
Ngân hàng. NHTM gặp rủi ro cũng sẽ làm mất lòng tin đối với các Ngân hàng bạn, 
Ngân hàng nước ngoài nên rất khó có thể nhận được những khoản tín dụng từ phía 
họ khi cần thiết. Ngoài ra, Ngân hàng khó có thể có các quan hệ đại lý làm cầu nối 
trong thanh toán quốc tế, phát triển các dịch vụ của Ngân hàng. 
3.4.4. Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản Ngân hàng. 
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân 
chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu 
tư có lợi hơn ở một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá 
nhiều người đến rút tiền về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân hàng. 
Hậu quả của sự phá sản Ngân hàng không chỉ bản thân Ngân hàng phải gánh chịu 
mà nó còn liên quan đến các Ngân hàng bạn có quan hệ với ngân hàng. Điều này sẽ 
tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng khác 
ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu 
vực vừa qua bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống các NHTM đã làm cho nền kinh tế 
của các nước trong khu Vực bị điêu đúng. Chính điều này đã gây ta những rối loạn 
về an ninh, chính trị, xã hội... kéo theo hàng loạt những hậu quả khác như: Thất 
nghiệp, lạm phát, tệ nạn xã hội nảy sinh. Đây là những bài học thấm thía có nguồn 
gốc từ những rủi ro tín dụng của NHTM. 
3.5. Các chỉ tiêu đánh giá, đo lường rủi ro của ngân hàng thương mại. 
Rủi ro gây ra làm thiệt hại rất lớn cho bất cứ ai phải đương đầu với nó. Muốn tồn tại 
và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng cần 
phải để đoán được rủi ro để có những giải pháp quản lý và phòng chống rủi ro và 
chấp nhận rủi ro mức độ hợp lý. Không có công việc kinh doanh nào lại không có 
rủi ro, nhưng rủi o quá giới hạn cho phép thì kinh doanh sẽ lỗ, thậm chí phá sản. 
Cán bộ ngân hàng cần ý thức được rằng: các chiến lược kinh doanh vạch ra cho dù 
cẩn thận, tỷ mỷ đến đâu vẫn có thể gặp thất bại. Chiến lược kinh doanh càng táo 
bạo, cạnh tranh càng khốc liệt thì các nhà kinh doanh càng dễ thu lợi nhuận lớn 
song cũng dễ vướng phải tổn thất nặng nề. 
Rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu, nó có thể xuất hiện ở khâu này hay khâu 
khác dưới nhiều dáng thức khác nhau. Chỉ cần một sơ suất nhỏ hoặc một quyết định 
thiếu kịp thời: nên đầu tư hay rút vốn ra... cũng có thể đưa đến cho ngân hàng 
những bất trắc khó lường. Vì vậy trong kinh doanh ngân hàng cần thiết phải đo 
lường rủi ro. 
+ Kết cấu dư nợ tín dụng. 
Dựa vào kết cấu dư nợ tín dụng mà ta có thể xác định rủi ro tín dụng của ngân hàng 
cao hay thấp. Nếu kết cấu dư nợ quá tập trung vào một số doanh nghiệp hoặc thành 
phần kinh tế chuyên sản xuất kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định 
sẽ có rủi ro lớn do tập trung vốn cao. Chẳng hạn, tại Ngân hàng Công thương chi 
nhánh 3 Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ nợ quá hạn cao (28,4) trong tổng dư nợ là do 
Ngân hàng đã tập trung cho vay chủ yếu vào một vài doanh nghiệp chuyên sản xuất 
hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường các nước Đông Âu. Khi thị trường này bị 
biến động vào đầu những năm 1990, nhiều doanh nghiệp bị mất thị trường, không 
tiêu thụ được sản phẩm, phá sản khiến cho Ngân hàng không thu hồi được nợ. 
Như vậy, dựa vào kết cấu tín dụng (theo thành phần, đối tượng, ngành nghề, thời 
hạn) kết hợp với việc phân tích các yếu tố liên quan tới khách hàng, thị trường của 
Ngân hàng và của khách hàng ta có thể đánh giá rủi ro tín dụng là cao hay thấp. 
+ Tỷ lệ Nợ quá hạn / Dư nợ tín dụng. 
Hoạt động của Ngân hàng và doanh nghiệp đều tránh tình trạng nợ quá hạn. Về phía 
doanh nghiệp đi vay vốn, nếu quá hạn không trả được nợ sẽ mất uy tín, phải chịu 
một lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất trong hạn, đối với ngân hàng, nợ quá hạn sẽ 
làm tăng tỷ lệ quá hạn/ Dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy qui mô của các 
khoản vay có vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này quá lớn chứng tỏ chất lượng tín 
dụng của ngân hàng kém, ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các 
khoản cho vay của mình, đánh giá lại qui trình thủ tục cho vay, đặc biệt là xem xét 
lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay của mình, đánh giá lại qui trình thủ tục 
cho vay, đặc biệt là xem xét lại khả năng thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ tín 
dụng. 
Tuy nhiên, nợ quá hạn không phải là tổn thất của Ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu 
gián tiếp. Bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn này sẽ dẫn đến rủi ro. 
+ Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/ Dư nợ quá hạn. 
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/ Dư nợ quá hạn là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh 
rủi ro. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng bị tổn thất. 
Nói một cách khác, chỉ tiêu phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ của 
Ngân hàng. 
Nợ quá hạn có khả năng tổn thất thường bao gồm những khoản nợ quá hạn có thời 
gian qua hạn lớn (6 tháng trở lên). Đối với Ngân hàng, việc duy trì các chỉ tiêu này 
với tỷ lệ cao trong các báo cáo tài chính là điều khó chấp nhận. Ngân hàng luôn tìm 
cách giảm chỉ tiêu này xuống và biện pháp duy nhất là tích cực thu các khoản này. 
Những khoản nào thực sự không thu hồi được phải hạch toán vào chi phí hoạt động 
của Ngân hàng và lấy quĩ dự phòng rủi ro để bù đắp. 
4. Các phương thức quản lý giảm thiểu rủi ro do tín dụng. 
Vấn đề cấp bách hiện nay trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng 
là làm sao để đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao 
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Dưới đây xin nêu những 
phương thức quản lý tổng quát về đảm bảo an toàn cũng như các kỹ thuật thu nhập 
và xử lý thông tin có thể áp dụng cho các NHTM trong việc kiểm soát rủi ro tín 
dụng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM trong thời gian tới, 
thực hiện chiến lược đã đề ra. 
* Phương thức quản lý rủi ro tín dụng bằng cách nâng cao chất lượng tín dụng. 
Phương pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc phân tích thẩm định kỹ 
lưỡng các thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính của người nhận nợ và áp 
dụng thủ tục cấp tín dụng chặt chẽ trước khi đầu tư nhằm phân loại khoản vay và 
các đối tác vay vốn dựa vào mức độ rui ro tín dụng của nó để quản lý. 
* Phương thức quản lý rủi ro bằng cách trích lập dự phòng rủi ro 
Tổ chức tín dụng trích lập ra một khoản dự phòng ngằm bù đắp cho những rủi ro có 
thể xảy ra căn cứ vào mức độ rủi ro của các tài sản có. 
* Phương thức quản lý rủi ro bằng cách bảo hiểm rủi ro tín dụng. 
Thị trường trái khoán hoặc NHTM yêu cầu người nhận nợ phải có một khoản chi 
phí phụ thêm cho việc mua bảo hiểm nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp trong trường 
hợp phá sản. 
Chất lượng tín dụng càng cao thì tỷ lệ bảo hiểm rủi ro tín dụng càng thấp, khi rủi ro 
tín dụng của một doanh nghiệp tăng lên, các nhà đầu tư trái khoán và các NHTM sẽ 
yêu cầu tỷ lệ bảo hiểm tín dụng cao hơn. 
Việc tăng lên của các khoản bảo hiểm này là cần thiết để bù đắp cho mất mát dự 
kiến cao hơn về trái khoán hoặc khoản vay vì khả năng khoán vay sẽ không được 
hoàn trả. Kết quả là mức độ thấp về chất lượng tín dụng có thề làm tăng chi phí vay 
của nó. 
* Phương thức quản lý rủi ro bằng cách phân tán rủi ro. 
Nắm giữ nhiều tài sản có rủi ro thay vì tập trung nắm giữ một hay một số loại tài 
sản có rủi ro nhất định. Việc phân tán rủi ro tín dụng cho nhiều người vay cho phép 
các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư giảm rủi ro tín dụng đối với toàn bộ tài sản 
có. 
Tập hợp nhiều loại cho vay trong một tài sản cho phép tổ chức tín dụng giảm sự 
thay đổi về thu nhập của chúng. Thu nhập từ các khoản cho vay thành công sẽ bù 
đắp phần lỗ từ những khoản cho vay bị vỡ nợ. Do đó làm giảm khả năng tổ chức tín 
dụng đó sẽ bị thiệt hại. 
* Phương thức quản lý rủi ro bằng cách sử dụng thị trường bán nợ. 
Sau khi đầu tư hoặc cho các doanh nghiệp vay, tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư lập 
tức tập hợp các tài sản có rủi ro (trái phiếu những khoản nợ có rủi ro tín dụng) và 
bán cho các nhà đầu tư khác để chuyển đổi sở hữu khoản nợ nhằm quản lý và giảm 
thiểu rủi ro tín dụng. 
Theo quan điểm của các nhà đầu tư, việc mua các phần của gói nợ này là tương đối 
hấp dẫn vì việc mở rộng danh mục đầu tư thông qua 
Theo quan điểm của các nhà đầu tư, việc mua các phần của gói nợ này là tương đối 
hấp dẫn vì việc mở rộng danh mục đầu tư thông qua nhiều khoản vay sẽ làm giảm 
rủi ro tín dụng nói chung và làm tăng các khoản thu nhập từ gói nợ đã mua mà 
không nhất thiết phải nắm giữ các tài liệu có này. 
Như vậy, để quản lý rủi ro tín dụng, các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư có thể sử 
dụng các phương thức như nâng cao tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, bảo hiểm, 
phân tán rủi ro tín dụng tài sản của rủi ro tín dụng với các tài sản khác và bán các 
phần của nó cho các nhà đầu tư bên ngoài. Những phương thức như vậy có thể làm 
giảm rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư và những rủi ro tín 
dụng này có thể được chia sẻ cho nhiều người sở hữu mới. Tuy nhiên việc sử dụng 
các công cụ này có những hạn chế, cụ thể: 
Việc áp dụng những thủ tục cấp dụng quá chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng tín 
dụng làm người vay trở lên khó khăn hơn trong việc tiếp nhận vốn tín dụng, điều 
này sẽ làm mất cơ hội đầu tư của tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư. 
Việc trích lập dự phòng rủi ro thường đặt ra những yêu cầu về tài chính đối với các 
tổ chức tín dụng. Trong khi bảo hiểm rủi ro tín dụng lại đặt ra những yêu cầu về tài 
chính đối với người nhận nợ. Do vậy, cả hai phương thức hoặc làm giảm khả năng 
cân đối và điều hành vốn khả năng của tổ chức tín dụng hoặc làm tăng chi phí vay 
vốn của người vay, dẫn đến tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc mở rộng tín 
dụng và không thực hiện được chính sách khách hàng. 
* Phương thức quản lý rủi to tín dụng bằng cách thông qua dẫn xuất tín dụng. 
Dẫn xuất tín dụng là các hợp đồng tài chính được ký kết bởi các bên tham gia giao 
dịch dẫn xuất tín dụng (tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, nhà 
đầu tư.v.v…) nhằm đưa ra những bảo đảm chống lại sự chuyển dịch bất lợi về chất 
lượng tín dụng của các khoản đầu tư hoặc những tổn thất liên quan đến tín dụng. 
Nhưng hợp đồng này mang lại cho các nhà đầu tư, người nhận nợ và ngân hàng 
những kỹ thuật mới bổ sung cho các biện pháp bán nợ phân tán rủi ro và bảo hiểm 
nhằm quản lý rủi ro tín dụng. 
* Các cộng cụ dẫn xuất tín dụng chủ yếu hiện nay gồm: 
Hoán đổi tín dụng: là công cụ dẫn xuất làm giảm rủi ro tín dụng thông qua phân 
toán rủi ro. 
Thay cho việc phân tán rủi ro thông qua hoạt động cho vay ra cả bên ngoài địa 
phương, tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư có thể bán một số khoản nợ và mua một 
số khoản khác nhằm hoán đỏi các khoản thanh toán từ một hoạt động cho vay của 
nó với khoản thanh toán từ các tổ chức khác. Nghiệp vụ hoán đổi tín dụng chung 
nhất được gọi là hoán đổi thu nhập toàn bộ; trong giao dịch này, tổ chức quản lý rủi 
ro sẽ hoán đổi các khoản thanh toán đầu tư hoặc khoản cho vay có lãi suất cố định 
của tổ chức tín dụng này với khoản thanh toán đầu tư hoặc vay có lãi suất được điều 
chỉnh của các tổ chức tín dụng, nhà đầu tư hoặc công ty bảo hiểm khác. Hoán đổi 
tín dụng tạo ra hai điểm thuận lợi quan trọng. 
Nó cho phép các tổ chức tín dụng phân tán rủi ro tín dụng trong khi duy trì một cách 
trung thành các số dư tài chính của khách hàng. Trong giao dịch hoá đổi thu nhập 
toàn bộ, số dư của các doanh nghiệp vay vốn được duy trì với các tổ chức tín dụng 
ban đầu. Khi các khoản nợ được bán, số dư nợ của doanh nghiệp được chuyển đổi 
cho những người sở hữu mới của khoản nợ. 
Các khoản chi phí quản lý giao dịch hoán đổi có thể thấp hơn là chi phí của giao 
dịch bán nợ. Điều này đồng nghĩa với việc nó sẽ làm chi phí vay vốn của người 
nhận nợ giảm và có thể thực hiện phân tán rủi ro với mức chi phí thấp hơn. 
* Quyền chọn tín dụng 
Là loại dẫn xuất tín dụng cung cấp chức năng tương tự bảo hiểm. Các quyền chọn 
này cho phép các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư có thể lựa chọn mua hoặc bán các 
tài sản có rủi ro tại một mức giá cố định để bảo vệ cho họ đối với những biến động 
bất lợi về chất lượng tín dụng các tài sản tài chính hoặc khoản vay của tổ chức tín 
dụng trong trường hợp rủi to xảy ra. 
Quyền chọn tín dụng mang lại nhiều lợi ích hơn so với việc trích lập dự phòng của 
các tổ chức tín dụng vì nó không làm tăng chi phí của người vay và không làm giảm 
hiệu quả sử dụng vốn khả năng của tổ chức tín dụng do phải giữ lại các tài sản có 
dự phòng. Như vậy nó sẽ bảo vệ cho nhà đầu tư khỏi sự giảm giá của các tài sản có. 
* Các chứng chỉ liên quan đến tín dụng. 
Là một loại dẫn xuất tín dụng khác được sự bởi người phát hành trái phiếu nhằm 
tránh rủi rto tín dụng. Một chứng chỉ liên quan đến tín dụng bao gồm môi tập hợp 
trái phiếu và một hợp đồng quyền chọn tín dụng. Chứng chỉ này hứa sẽ thanh toán 
định kỳ lãi suất và thanh toán một lần giá trị như trái phiếu khi đến hạn. Quyền chọn 
tín dụng trên chứng chỉ này cho phép người phát hành giảm các thanh toán của giấy 
tờ nếu có sự biến động rõ ràng về tài chính khi giấy tờ giảm giá trị. 
Tổ chức tín dụng, nhà đầu tư có thể cân nhắc viẹc mua các chứng chỉ liên quan đến 
tín dụng vì nó có thể được một tỷ lệ doanh thu cao hơn trái phiếu thông thường của 
nhà phát hành nợ, bởi vì khi phát hành chứng chỉ, thông thường giá của chứng chỉ 
thấp hơn giá trị trái phiếu. Chi phí thấp hơn của tổ chức tín dụng, nhà đầu tư giá đối 
với thanh toán lãi suất sẽ cho họ có một doanh thu cao hơn. 
Trên đây là những cơ sở lý luận phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài, để 
xem xét một cách cụ thể hơn chúng ta cùng đi hiểu tình hình thực tế tại ngân hàng 
công thương Đống Đa. 
Chương 2: Thực trạng cho vay an toàn và rủi ro tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc 
doanh tại ngân hàng công thương Đống Đa hà nội 
I. Giới thiệu khái quát về Ngân hàng Công thương Đống Đa và sự phát triển của 
kinh tế ngoài quốc doanh trong khu vực 
1. Giới thiệu khái quát về ngân hàng công thương Đống Đa 
Đống Đa là một quận lớn của thành phố Hà Nội với số dân trên 38 vạn người, phân 
bổ trên diện tích 28km gồm 28 phòng, đây là nơi tập trung nhiều xí nghiệp lớn của 
trung ương và địa phương, với nhiều hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, các hộ tư 
nhân và nhiều điểm thương mại lớn. Do đó đã có sự cạnh tranh gay gắt giữa các 
thành phần kinh tế, các loại hình kinh tế với nhau để cùng tồn tại và phát triển. 
Ngân hàng Công thương Đống Đa ra đời trên cơ sở ngân hàng Nhà nước quận Đống 
Đa. Trước tháng 3/1990 tức là trước Nghị định 53/HĐBT về đổi mới hoạt động 
ngân hàng thì nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng công thương Đống Đa là vừa phục 
vụ, vừa thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng và thanh toán trên địa bàn quận. Ngân 
hàng hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp của Nhà nước. 
Sau Nghị định 53/HĐBT, ngành ngân hàng nước ta chuyển từ hệ thống ngân hàng 
một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp và từ đấy Ngân hàng Công Đống Đa là 
một ngân hàng thương mại trực thuộc hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. 
Là chi nhánh trực thuộc của ngân hàng Công thương Hà Nội. Từ 1988 đến 1990 là 
thời kỳ chuyển đổi khó khăn của hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng công 
thương Đống Đa nói riêng, cũng là thời kỳ hệ thống ngân hàng bắt đầu chuyển sang 
cơ chế thị trường. Giai đoạn này có rất nhiều quỹ tín dụng có nợ, còn các ngân hàng 
thì nợ quá hạn khó đòi tăng đến mức kỷ lục. Sự kiện này không phải do bản thân 
hoạt động của ngân hàng tạo ra, mà đấy chính là vòng xoáy của quá trình chuyển 
đổi nền kinh tế. Mà hệ thống ngân hàng như một tấm gương phản chiếu qua hoạt 
động của mình. Nguyên nhân chính do sự yếu kém của cơ chế quản lý tập trung 
quan liêu gây ra hoạt động ngân hàng thời kỳ này vừa tập trung bao cấp, nhưng vẫn 
có hoạt động kinh doanh. 
Sau một thời gian ngân hàng Công thương Đống Đa đã tự đổi mới để tồn tại và phát 
triển đứng vững trong cơ chế thị trường với địa thế nằm trên địa bàn rộng lớn, tập 
trung nhiều loại hình kinh tế nên khách hàng của ngân hàng rất đa dạng và phong 
phú. Mặt khác ngân hàng còn là một trong những đơn vị có hàng ngũ lãnh đạo có 
năng lực, năng động trong điều hành hoạt động kinh doanh, nội bộ đoàn kết thống 
nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng Công thương Đống Đa mở rộng quy 
mô kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán. Với mục tiêu: "kinh doanh 
phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý" đến nay Ngân hàng 
Công thương Đống Đa là motọ ngân hàng làm ăn có hiệu quả so với các ngân hàng 
khác. Chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Công thương Đống Đa là vẫn huy 
động tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế và dân cư để cho vay đối với tất cả các 
thành phần kinh tế. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện một số công tác thanh toán 
qua ngân hàng cho các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn quận. 
Để làm tốt chức năng và vai trò của mình. Cơ cấu quản lý của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa được tổ chức thành các bộ phận: 
- Ban giám đốc: bao gồm giám đốc và các phó giám đốc là bộ phận quản lý và điều 
hành chung mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chịu trách nhiệm trước ngân 
hàng công thương Việt Nam và cơ quan pháp luật. 
- Phòng nguồn vốn: có chức năng huy động vốn theo dõi các hình thức được ngân 
hàng công thương cho phép, theo dõi nguồn vốn ngân hàng huy động báo cáo với 
giám đốc và phòng kinh doanh lập kế hoạch huy động vốn và tư vấn cho giám đốc. 
- Phòng kinh doanh: thẩm định cho vay vốn theo các hình thức tín dụng được ngân 
hàng công thương cho phép, theo dõi tình hình sử dụng vốn của ngân hàng, lập kế 
hoạch cho vay và tư vấn cho giám đốc các biện pháp cho vay nhằm nâng cao hiệu 
quả sử dụng vốn. 
- Phòng kế toán: phản ánh các hoạt động cho vay và huy động vốn của ngân hàng, 
theo dõi sự biến động về nguồn vốn, hạch toán kinh tế theo pháp lệnh kế toán và 
thống kê, thực hiện các dịch vụ thanh toán với khách hàng, tư vấn cho giám đốc các 
biện pháp nâng cao hiệu quả công tác kế toán và chất lượng dịch vụ thanh toán. 
- Phòng kiểm soát: hướng dẫn kiểm tra các bộ phận như kinh doanh nguồn vốn và 
kế toán thực hiện theo đúng chế độ mà nhà nước và ngân hàng công thương Việt 
Nam ban hành. 
- Phòng kho quỹ: Có chức năng cơ bản là kiểm ngân, bảo quản tiền và thực hiện các 
hoạt động thu chi tiền mặt trực tiếp với khách hàng. 
- Phòng hành chính: Quản lý các hoạt động nội chính của ngân hàng như sắp xếp tổ 
chức cán bộ, bảo vệ tài sản, sửa chữa tài sản, tiếp khách… 
Mỗi bộ phận trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng được trao quyền hạn và nhiệm vụ 
rõ ràng như một mắt xích trong sợi dây xích, chúng hoạt động nhịp nhàng dưới sự 
điều hành của ban giám đốc ngân hàng nhưng bên cạnh đó thì ngân hàng gặp không 
ít những khó khăn. Đó là phần lớn các doanh nghiệp có vốn tự có quá thấp. Một số 
doanh nghiệp còn túng túng chưa tìm ra giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả 
sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng công thương Đống Đa là 
tự huy động vốn tự bù đắp chi phí trang trải vốn và làm nghĩa vụ đối với ngân sách 
nhà nước. Để khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, 
đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, ngân hàng đã chủ động mở rộng mạng 
lưới giao dịch, đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh tiền tệ tín dụng, thường xuyên 
tăng cường cả nguồn vốn lẫn sử dụng vốn. Kết quả kinh doanh tiền tệ năm sau cao 
hơn năm trước đóng góp cho ngân hàng nhà nước ngày càng lớn, tạo được uy tín 
với nhiều khách hàng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng được thể hiện ở các mặt 
chủ yếu sau: 
+ Hoạt động đầu tư tín dụng 
+ Huy động vốn 
+ Dịch vụ thanh toán 
+ Các hoạt động kinh doanh khác. 
Sơ đồ cấu trúc tổ chức của ngân hàng công thương Đống Đa 
Trong những năm qua, Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn chứng tỏ là một chi 
nhánh trong hệ thống NHCT Việt Nam đã tìm ra hướng đi đúng đắn, phát triển 
vững chắc, đạt hiệu quả kinh doanh cao. Những thành công mà Ngân hàng đã đạt 
được đặc biệt trong hoạt động tín dụng đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh 
tế thủ đô, nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn hệ thống NHCT Việt Nam. 
II. Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Trong hoạt động của NHTM thì việc huy động vốn và sử dụng vốn là hai hoạt động 
chủ yếu quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để có một cái 
nhìn tương đối khái quát về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương 
Đống Đa ta sẽ nghiên cứu tình hình huy động và sử dụng vốn của ngân hàng trong 
những năm gần đây. 
Có thể nói trong những năm qua nền kinh tế nước ta liên tục phải đối mặt với nhiều 
thử thách khó khăn. Cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực giữa năm 1997 đã để lại hậu 
quả nặng nề làm tốc độ tăng trưởng của một số ngành chậm lại, thị trường trầm 
lắng, sức mua giảm sút, xu hướng cung vượt cầu xuất hiện ở nhiều loại hàng hoá. 
Đất nước lại phải chịu nhiều thiên tai liên tiếp đặc biệt là trong năm 1999, hạn hạn 
lớn ở đầu năm và lũ lụt cuối năm ở các tỉnh miền Trung gây ra nhiều thiệt hại nặng 
nề trên lĩnh vực kinh tế xã hội. 
Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt 
động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng. Song dưới sự chỉ 
đạo sát sao của các cấp, các ngành, kết hợp với sự linh hoạt trong xử lý nghiệp vụ 
và có chiến lược kinh doanh thích hợp, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đạt 
được những kết quả đáng khích lệ, nguồn vốn tăng trưởng ổn định, dư nợ tín dụng 
lành mạnh ngày một tăng, các dịchvụ ngân hàng đều phát triển. 
1. Tình hình huy động vốn 
Hoạt động huy động vốn là tiền đề cho các hoạt động khác của NHTM. Vì vậy một 
trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng Công thương 
Đống Đa là đẩy mạnh công tác huy động vốn. Với những thế mạnh của mình như 
uy tín, mạng lưới rộng, thái độ phục vụ nhiệt tình nhanh gọn, chính xác, thủ tục 
thuận lợi, hình thức huy động phong phú… Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày 
càng thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch, kết quả nguồn vốn của Chi 
nhánh luôn tăng trưởng ổn định chẳng những đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư tín dụng 
mà còn thường xuyên nộp vốn thừa về Ngân hàng công thương Việt Nam để điều 
hoà toàn hệ thống. 
Bảng 1: Tình hình huy động vốn ở Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo 
tốc độ tăng trưởng 
Đơn vị: Triệu đồng 
Tổng vốn huy động 
Tiền gửi TCKT 
Tiền gửi dân cư 
Kỳ phiếu, trái phiếu 
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Số liệu bảng trên cho thấy tổng vốn huy động của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa mấy năm gần đây vẫn tăng trưởng ổn định với tốc độ cao bất chấp những ảnh 
hưởng tiêu cực của nền kinh tế. Năm 2002, ngân hàng vẫn thu hút được 622.089 
triệu đồng tăng 19% so với năm 2001. 
Có thể nói điều này đã khẳng định uy tín của Ngân hàng Công thương Đống Đa với 
khách hàng khẳng định chiến lược kinh doanh đúng hướng của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa trong tời kỳ kinh tế đất nước gặp khó khăn. 
Biểu đồ 1: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích 
tích theo hình thức huy động 
Trong số các nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Đống Đa nguồn 
tiền gửi của dân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng nhanh trong những năm gần 
đây, năm 2002 tăng 17%, năm 2003 tăng 4% và năm 2004 tăng 32%. Điều này là sự 
cụ thể hoá chủ trương của Ngân hàng Công thương Đống Đa khuyến khích người 
dân gửi tiền vào ngân hàng qua các chính sách lãi suất thực dương do đặc điểm 
quận Đống Đa có nhiều cơ quan đơn vị sản xuất kinh doanh đóng và mới thành lập, 
dân cư đông đúc nên lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn, triệt để khai thác nguồn vốn 
này là một chủ trương đúng đắn của NHCT Đống Đa nhằm phát huy lợi thế trên địa 
bàn hoạt động. 
Tiền gửi các tổ chức kinh tế cũng là một nguồn tiền chiếm tỷ trọng cao trong tổng 
vốn huy động, nó chủ yếu phục vụ nhu cầu thanh toán qua ngân hàng và biến động 
theo chiều hướng tăng trưởng của sản xuất kinh doanh. Để đánh giá tốc độ tăng bất 
thường của tiền gửi các tổ chứuc kinh tế (năm 2002 tăng 23%, năm 2003 tăng 8%, 
năm 2004 tăng lên 22%). 
Cùng với nguồn tiền gửi giao dịch của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm dân cư, 
Ngân hàng Công thương Đống Đa còn thực hiện nhiều hình thức huy động vốn 
khác như phát hành kỳ phiếu, tín phiếu bằng nội tệ và ngoại tệ. Tuy nhiên, nguồn 
này không lớn và chỉ là giải pháp tình thế nhằm thu hút vốn tức thời cho các mục 
đích nhất định. Năm 2002-2003, do nhu cầu thu hút tiền để phát triển kinh doanh, 
nguồn huy động này được phát huy, năm 2002 đạt 24.556 trđ tăng 42% so với năm 
2003 và năm 2003 đạt 29.689 trđ tăng 21% so với năm 2002, nhưng đến năm 2004, 
ngân hàng không có nhu cầu huy động vốn bất thường nên nguồn huy động chỉ đạt 
19.329trđ, bằng 65% so với năm 2003. 
Tóm lại, qua phân tích tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa có thể thấy sự 
linh hoạt trong điều hành hoạt động của Chi nhánh góp phần tăng trưởng nguồn vốn 
cung cấp đầy đủ và thuận lợi cho các nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. 
2. Tình hình sử dụng vốn 
Nhờ nguồn vốn huy động dồi dào, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã tiến hành 
đa dạng hoá các mặt nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng trong đó chủ yếu là 
hoạt động tín dụng, chiếm khoảng 90% tổng số vốn được sử dụng. Hoạt động tín 
dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân 
hàng, vì thế Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn đặt ra mục tiêu mở rộng tín 
dụng, đồng thời hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. 
Trong những năm qua, với quyết tâm cao, Chi nhánh đã vận dụng kịp thời, linh hoạt 
các chủ trương, chính sách của Nhà nước, của Ngành, bám sát từng đơn vị kinh tế 
và có những giải pháp tích cực nên kết quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa đạt được những kết quả tốt cả về tốc độ tăng trưởng lẫn chất lượng 
các khoản đầu tư. Ngân hàng đã thực hiện cho vay với các thành phần kinh tế khác 
nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó tăng cường đầu tư 
cho khu vực kinh tế quốc dân, các ngành kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn, sản 
xuất kinh doanh lớn như: thép, cà phê, dầu khí, công nghiệp, dịch vụ giao thông vận 
tải, ưu tiên đầu tư cho các dự án lớn, khả thi, có hiệu quả. Cùng với hoạt động kinh 
doanh tín dụng đơn thuần, Ngân hàng Công thương Đống Đa còn thực hiện các 
chương trình tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách như chương trình tín dụng tạo 
việc làm hay cho vay sinh viên… Các chương trình này đều thực hiện với lãi suất 
ưu đãi, tín dụng chính sách như chương trình tín dụng tạo việc làm hay cho vay sinh 
viên… Các chương trình này đều thực hiện với lãi suất ưu đãi, tuy số dư không 
nhiều nhưng nó mang ý nghĩa xã hội sâu sắc được mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ, 
nâng cao uy tín của ngân hàng. 
Bảng 2: Tình hình sử dụng ở Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Đơn vị: triệu đồng 
Huy động vốn 
Sử dụng vốn 
Hệ số sử dụng vốn 
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Bảng trên cho ta thấy tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
có nhiều tiến bộ. Ngoại trừ năm 2003 tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng giảm một 
chút (ở mức 1%) còn lại đều tăng, năm 2002 tăng 13% và đặc biệt là năm 2004 tăng 
tới 31%. Sự giảm sút dư nợ năm 2003 là do năm này hoạt động sản xuất kinh doanh 
gặp nhiều gặp khó khăn, sức mua giảm sút, môi trường kinh doanh không thuận lợi, 
các doanh nghiệp hạn chế mở rộng sản xuất nên nhu cầu vay vốn giảm. Sang năm 
2004, tình hình nền kinh tế phần nào được cải thiện, kết hợp với sự quyết tâm cao 
của cán bộ nhân viên đã làm dư nợ của NHCT Đống Đa tăng tới 31% so với năm 
2003. 
Hệ số sử dụng vốn ở mức 80-90% như vậy là cao đối với hệ thống NHCT Việt 
Nam, các ngân hàng khác hệ số sử dụng vốn chỉ ở mức 70-80%. Đây là một thành 
công lớn của cán bộ công nhân viên Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đạt được, 
điều này càng khẳng định sự hoạt động có hiệu quả ở Ngân hàng Công thương 
Đống Đa 
Biểu đồ 2: Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn 
của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Tuy nhiên, hệ số sử dụng vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa lại có chiều 
hướng không ổn định qua các năm. Năm 2002, hệ số sử dụng vốn là 89%, năm 
2003 giảm xuống còn 83,6% và năm 2004 là 86,7%. Đó là do tốc độ tăng trưởng 
vốn huy động của ngân hàng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng. 
Vấn đề này đòi hỏi nỗ lực cao hơn Ngân hàng Công thương Đống Đa để mở rộng 
dư nợ tín dụng tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và cho 
cả hệ thống NHCT Việt Nam nói chung. 
3. Tình hình dư nợ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Bảng 3: Tình hình dư nợ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Phân tích theo thành 
phần kinh tế 
Đơn vị: triệu đồng 
Tổng dư nợ 
Quốc doanh 
Ngoài quốc doanh 
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Số liệu bảng trên cho thấy mức dư nợ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn chiếm 
tỷ trọng áp đảo và ngày càng tăng trong tổng dư nợ tín dụng của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa. Năm 2002 tăng 17%, năm 2003 tăng một chút và năm 2004 tăng 
32%. 
Mức dư nợ tín dụng cao đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tình trạng 
chung của các NHTM Việt Nam và Ngân hàng Công thương Đống Đa không phải 
là một ngoại lệ. Đó là do hoạt động tín dụng của ngân hàng thực hiện theo định 
hướng của nhà nước, tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, 
khuyến khích sự phát triển lành mạnh của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 
Mặt khác, khu vực kinh tế quốc doanh có những lợi thế tuyệt đối so với khu vực 
kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế quốc doanh nắm giữ phần lớn những ngành kinh 
tế then chốt của nền kinh tế, số vốn hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh 
lớn, lợi thế quy mô đã làm doanh nghiệp quốc doanh làm ăn có hiệu quả và an toàn 
hơn. 
Tuy kém lợi thế so với khu vực kinh tế quốc doanh nhưng khu vực kinh tế ngoài 
quốc doanh vẫn là thị trường tiềm năng của ngân hàng. Song, do hiện nay khả năng 
quản lý của các doanh nghiệp tư nhân yếu, thị trường có nhiều biến động phức tạp, 
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân thấp nên mức độ rủi ro khi cho 
vay khu vực này là cao đ• hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, do số 
vốn tự có thấp, ít có tài sản thế chấp, lại thiếu phương án kinh doanh có hiệu quả… 
vì thế số doanh nghiệp tư nhân có đủ điều kiện vay vốn ngân hàng là rất ít. Xuất 
phát từ thực tế đó, hoạt động tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Ngân 
hàng Công thương Đống Đa hiện nay chỉ ở mức cầm chừng, Ngân hàng chỉ cho vay 
với những khách hàng quen thuộc, có uy tín và hoạt động có hiệu quả còn những 
khách hàng mới đến giao dịch phải có đủ điều kiện vay vốn theo quy định và phải 
qua những bước kiểm định chặt chẽ mới được xét duyệt cho vay. 
Bảng 4: Tình hình dư nợ Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo thời hạn 
tín dụng 
Đơn vị: triệu đồng 
Dư nợ 
NH 
TDH 
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Bảng trên cho thấy tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn luôn ở mức cao trong tổng dư 
nợ tín dụng, khoảng trên 80%. Có thể nói tín dụng ngắn hạ vẫn luôn là thế mạnh 
của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 
Xét về tỷ lệ tăng trưởng, tình hình có vẻ diễn biến phức tạp. Tín dụng trung dài hạn 
năm 2002 tăng 24%, năm 2003 cũng tăng nhưng ở mức thấp chỉ 8% và sang năm 
2003 giảm 12%. Tín dụng ngắn hạn năm 2002 tăng 11%, năm 2003 giảm một chút 
khoảng 3% nhưng sang năm 2004 lại tăng tới 42%. 
Tuy nhiên, có thể thấy mặc dù mức tăng giảm khác nhau nhưng diễn biến dư nợ tín 
dụng cả hai năm 2002-2003 gần như được duy trì và không có sự thay đổi đáng kể. 
Sự chuyển biến rõ rệt xảy ra vào năm 2004 khi dư nợ tín dụng ngắn hạn tăng tới 
42% trong khi dư nợ tín dụng trung dài hạn lại giảm 12%. 
Mức tăng trưởng tín dụng ngắn hạn năm 2004 đạt được do Ngân hàng Công thương 
Đống Đa đã áp dụng nhiều biện pháp chủ động, sáng tạo, triển khai kịp thời các chủ 
trương chỉ đạo của ngành, thái độ, phong cách giao dịch với tinh thần trách nhiệm 
cao; hoạt động tín dụng đảm bảo thông suốt, thuận tiện. Ngân hàng có quan hệ tốt 
với khách hàng và áp dụng chính sách khách hàng một cách linh hoạt, đặc biệt quan 
tâm đến các khách hàng truyền thống, những đơn vị có tình hình tài chính tốt, sản 
xuất kinh doanh có hiệu quả như Tổng công ty Thương mại và xây dựng, công ty 
quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất, công ty tư vấn xây dựng sông Đà, công ty liên 
doanh TNHH Quốc tế Hoàng Gia, Công ty may 40, công ty bánh kẹo Hải hà, công 
ty thương mại Thuốc lá, công ty lắp ráp máy điện tử… Ngoài ra, Ngân hàng luôn 
đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút thêm nhiều khách hàng mới đến giao dịch. 
Về tín dụng trung dài hạn năm 2001, số dự án không nhiều, vốn đầu tư không lớn 
nhưng Chi nhánh đã kịp thời đầu tư vốn cho một số dự án khả thi, đẩy mạnh cho 
vay các thành phần kinh tế, đặc biệt tiếp cận thẩm định các dự án lớn các chương 
trình trọng điểm của nhà nước như dự án cho vay đồng tài trợ mở rộng nhà máy 
Nhiệt Uông Bí với tổng số tiền sẽ giải ngân 600 tỷ đồng; cho vay cơ cấu lại nợ vay 
nước ngoài của liên doanh khách sạn Thống nhất Metropole trị giá hàng 5 triệu 
USD; cho vay các doanh nghiệp để mua sắm máy móc thiết bị thi công xây dựng trị 
giá hàng chục tỉ đồng như đối với Tổng công ty LICOGI, Công ty xây dựng số 6 
Thăng Long, công ty cơ giới xây lắp, công ty xây dựng số 19… Tuy nhiên, do tình 
hình của nền kinh tế, mọi hoạt động phát triển kinh doanh, sản xuất nói chung có xu 
hướng giảm tốc độ tăng trưởng nên việc cho vay đầu tư của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa cũng bị hạn chế. 
Bảng 5: Tình hình dư nợ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Phân tích theo nội 
tệ, ngoại tệ 
Đơn vị: triệu đồng 
Dư nợ 
Nội tệ 
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Bảng trên cho thấy, trong tổng dư nợ của Ngân hàng Công thương Đống Đa, dư nợ 
bằng nội tệ chiếm tỷ trọng cao trên 80%, trong khi đó dư nợ bằng ngoại tệ chiếm 
chưa tới 20%. Không những dư nợ nội tệ chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ so 
với dư nợ ngoại tệ mà còn đạt được mức tăng trưởng cao trong những năm gần đây. 
Năm 2002 tăng 12%, năm 2003 tăng 4% và đặc biệt năm 2004 tăng 32%. 
Góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng trong những năm qua, Ngân 
hàng Công thương Đống Đa đã thực hiện tốt công tác bảo lãnh, đến 31/12/2001 
tổng dư nợ bảo lãnh của Ngân hàng là 405,47 tỷ đồng, gồm các món bảo lãnh trong 
nước hay bảo lãnh mở L/C trả chậm trung hạn. Công tác bảo lãnh của Ngân hàng 
Công thương Đống Đa luôn tỏ ra có hiệu quả, trong vài năm gần đây ngân hàng 
chưa gặp phải một rủi ro nào trong công tác này và đem lại nguồn thu nhập lớn cho 
ngân hàng. 
Ngoài hoạt động tín dụng, Ngân hàng Công thương Đống Đa còn thực hiện các hoạt 
động kinh doanh ngoại tệ, các hoạt động dịch vụ khác như dịch vụ chi trả kiều hối, 
séc du lịch, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng dưới các hình thức sử dụng séc, L/C 
nhập, L/C xuất, nhờ thu đi, thanh toán nhờ thu hay thanh toán chuyển tiền điện 
(T/T)… Các hoạt động này đã góp phần nâng cao uy tín, thu hút khách hàng đến 
giao dịch đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. 
Cùng với việc mở rộng các hoạt động, Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn đặt 
ra mục tiêu an toàn và hiệu quả. Trong hoạt động của Ngân hàng Công thương 
Đống Đa có thể thấy tín dụng là hoạt động trọng tâm và cũng chứa đựng nhiều rủi 
ro nhất. Nghiên cứu rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Đống Đa sẽ giúp ta 
có cái nhìn tổng quát về thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng, tìm ra những 
nguyên nhân để từ đó đưa ra các giải pháp có tính thực tiễn nhằm ngăn ngừa và hạn 
chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. 
III. Đánh giá tình hình rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Công thương Đống Đa 
1. Thực trạng rủi ro tín dụng 
1.1. Tình hình lãi treo 
Bảng 6: Tình hình lãi treo ở Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Đơn vị: triệu đồng 
Lãi treo phát sinh 
Lãi treo thu được 
Chênh lệch 
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Số liệu bảng trên cho thấy, số lãi treo phát sinh qua các năm của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa hầu như không có sự thay đổi đáng kể. Năm 2003 số lãi treo phát 
sinh có giảm đi chút ít so với năm 2002 ở mức 15.135trđ giảm 54trđ, nhưng đến 
năm 2004 lại tăng lên 898trđ ở mức 16.033trđ. Tuy nhiên, số lãi treo thu được trong 
những năm gần đây ngày càng tăng với tốc độ nhanh. Năm 2002 số lãi treo thu 
được là 8.550trđ, sang năm 2003 con số này tăng 2.204 trđ đạt mức 10.754 trđ và 
năm 2004 lãi treo thu được ở mức 14.915trđ tăng 4.161trđ so với năm 2003. 
Biểu 3: Tình hình lãi treo của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Như vậy có thể nói tình hình lãi treo của Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có 
chuyển biến khả quan. Số lãi treo không thu được ngày càng giảm, năm 2002 số lãi 
treo thu được là 6637 trđ, đến năm 2003 con số này giảm xuống còn 4.381 trđ và 
năm 2004 chỉ còn 1118trđ. 
1.2. Thực trạng nợ quá hạn những năm gần đây tại Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn ở Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Đơn vị: triệu đồng 
1. NQH 
2. Tổng dư nợ 
3. Tỷ trọng (1/2) 
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
Số liệu bảng trên cho thấy tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa những năm gần đây có những chuyển biến tích cực, số nợ quá hạn của Ngân 
hàng Công thương Đống Đa giảm dần qua các năm. Năm 2002 số nợ quá hạn của 
ngân hàng là18.447 triệu đồng, năm 2003 giảm xuống còn 15.286 triệu đồng và 
năm 2004 chỉ còn 9.616 triệu đồng. Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ giảm dần 
qua các năm, năm 2002 tỷ trọng này là3,3%, năm 2003 giảm xuống còn 2,77%, 
năm 2004 là 1,31%. Những con số này càng có ý nghĩa nếu đem so sánh với tỷ lệ 
nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng Việt Nam trong những năm 
qua, năm 2002 tỷ lệnày của các tổ chức tín dụng Việt Nam là 4,5%, năm 2003 là 
5,8% và năm 2004 là 5,4%, điều này cho thấy số nợ quá hạn ở Ngân hàng Công 
thương Đống Đa được xử lý một cách rất hiệu quả. Đây là sự thành công lớn của 
Ngân hàng Công thương Đống Đa. 
Biểu 4: Tình hình nợ quá hạn so với tổng dư nợ của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Trong những năm gần đây số nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa 
biểu hiện qua những con số trên bao gồm cả những khoản nợ quá hạn tồn đọng lại 
từ những năm 99, 2000 là những năm có mức chuyển nợ quá hạn lớn chưa xử lý 
được. Trong những năm qua một mặt ngân hàng thực hiện việc xử lý các khoản nợ 
quá hạn phát sinh trong năm có hiệu quả, đồng thời tích cực giải quyết thu các 
khoản nợ quá hạn tồn đọng đã làm giảm đáng kể số nợ quá hạn của ngân hàng. Đó 
là điều đáng mừng trong công tác xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương 
Đống Đa. 
Bảng 9: Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa phân theo cơ 
cấu tín dụng 
Đơn vị: triệu đồng 
Chỉ tiêu 31/12/02 31/12/03 31/12/04 
Tổng số NQH 
1. NQH phân theo ngành kinh tế 
+ KTQD 
+ KTNQD 
2. NQH phân theo nội tệ, ngoại tệ 
+ Nội tệ 
+ Ngoại tệ 
3. NQH phân theo thời hạn tín dụng 
+ Ngắn hạn 
+ Trung, dài hạn 
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể nhận xét rằng tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng 
Công thương Đống Đa một cách cụ thể hơn. 
Có thể thấy số nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa phần lớn thuộc 
thành phần kinh tế quốc doanh, tỷ trọng nợ quá hạn của khu vực kinh tế quốc doanh 
luôn vào khoảng 80% tổng số nợ quá hạn. Tuy nhiên, nếu so tỷ lệ nợ quá hạn trên 
tổng dư nợ thì có thấy thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có mức độ rủi ro cao 
hơn nhiều so với thành phần kinh tế quốc doanh, mặc dù tỷ trọng nợ quá hạn của 
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ khoảng 20% nhưng số dư nợ của khu vực này 
chỉ là vài phần trăm trong tổng dư nợ. Thế nhưng nợ quá hạn của khu vực kinh tế 
ngoài quốc doanh là kinh tế quốc doanh đều có xu hướng giảnm dần qua các năm, 
đặc biệt là khu vực kinh tế quốc doanh. Nợ quá hạn khu vực kinh tế quốc doanh 
năm 2002 là 15.127 trđ. năm 2003 giảm xuống 12.053 trđ và năm 2004 còn 7.579 
trđ. 
Biểu 5: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo 
thành phần kinh tế 
Nợ quá hạn bằng nội tệ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nợ quá hạn của ngân 
hàng. Cả số nợ quá hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đều có xu hướng giảm trong những 
năm gần đây đặc biệt trong năm 2004, năm 2004 nợ quá hạn bằng nội tệ giảm 2.369 
trđ còn nợ quá hạn bằng ngoại tệ giảm 3.301trđ. 
Biểu 6: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo 
nội tệ, ngoại tệ 
Biểu 7: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo 
thời hạn tín dụng 
Qua các cách phân tích trên, chúng ta đã phần nào hiểu được thực trạng nợ quá hạn 
của Ngân hàng Công thương Đống Đa. Sau đây chúng ta cùng xem xét vấn đề này 
qua một cách phân loại khác - phân tích nợ quá hạn theo thời hạn cho vay và khả 
năng thu hồi. 
Bảng 8: Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo 
thành phần kinh tế, thời hạn tín dụng và phân theo nội, ngoại tệ 
Đơn vị: triệu đồng 
Chỉ tiêu 31/12/2003 31/12/2004 
Tổng số NQH 
1. NQH dưới 6 tháng 
+ Quốc doanh 
+ Ngoài quốc doanh 
2. NQH từ 6 -12 tháng 
+ Quốc doanh 
+ Ngoài quốc doanh 
3. NQH trên 12 tháng 
+ Quốc doanh 
+ Ngoài quốc doanh 
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống 
Đa 
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy số nợ quá hạn khó thu hồi của Ngân hàng Công 
thương Đống Đa rất cao, chiếm khoảng 80% tổng số nợ quá hạn. Số nợ quá hạn từ 
6-12 tháng rất ít chỉ khoảng 3%, còn lại là số nợ quá hạn dưới 6 tháng chiếm 
khoảng gần 20%. 
Vậy những con số này nói lên điều gì? Chúng cho ta thấy rằng số nợ quá hạn của 
Ngân hàng công thương Đống Đa chủ yếu là những khoản nợ quá hạn khó thu hồi 
tồn đọng từ những năm trước và trong năm qua Ngân hàng đã có nhiều biện pháp để 
thu hồi những khoản nợ này, năm 2004 ngân hàng đã thu hồi được gần 6 tỷ đồng nợ 
quá hạn khó đòi. Trong khi đó nợ quá hạn phát sinh trong năm luôn chỉ ở mức vài 
tỷ đồng và ngân hàng sẽ nhanh chóng tìm cách thu hồi các khoản nợ đó. Chính vì 
vậy mà số nợ quá hạn phát sinh kéo dài tới 6-12 tháng của NHCT Đống Đa rất ít. 
Biểu 8: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa phân tích theo 
cơ cấu tín dụng 
Như vậy, có thể nói tình hình nợ quá hạn của NHCT Đống Đa trong những năm vừa 
qua có chuyển biến khả quan, số nợ quá hạn phát sinh thấp và được giải quyết kịp 
thời trong năm, số nợ quá hạn tồn đọng cũng được giải quyết có hiệu quả. 
Để xem xét một cách cụ thể hơn chính xác hơn, sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu 
tình hình NQH có khả năng tổn thất tại ngân hàng. 
Qua tình hình NQH phân tích theo cơ cấu tín dụng, ta có: 
Bảng 10 : Tình hình NQH có khả năng tổn thất tại Ngân hàng Công thương Đống 
Đa. 
 Tổng dư nợ QH 
NQH có khả năng tổn thất (>6th) 
NQH<6th 1200 1736 
Như vậy qua bảng trên, ta thấy tổng số nợ quá hạn có khả năng tổn thất chiếm chủ 
yếu trong cơ cấu nợ quá hạn tại Ngân hàng công thương Đống Đa. Và tỷ lệ nợ quá 
hạn có khả năng tổn thất/ Dư nợ quá hạn = 0.92 (năm 2003), và =0.82 (năm 2004). 
Nghĩa là trong tổng số NQH l à 15286 triệu đồng thì có 14086 triệu đồng có khả 
năng gặp rủi ro (năm 2003), trong 9916 triệu đồng có 7880 triệu đồng (năm 2004). 
Do vậy, đây là khoản mà Ngân hàng cần sử lý nếu muốn giảm thiểu rủi ro tín dụng. 
 Sau đây chúng ta cùng xem xét nợ quá hạn của NHCT Đống Đa trong năm 
vừa qua, những nguyên nhân và những biện pháp mà NHCT Đống Đa đã áp dụng 
nhằm hạn chế rủi ro để từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu giảm thiểu rủi ro tín 
dụng của chi nhánh. 
1.3 Tình hình nợ quá hạn phát sinh của NHCT Đống Đa năm 2004. 
 Năm 2004 tổng số nợ quá hạn phát sinh của NHCT Đống Đa là 10752 triệu 
đồng trong đó thu được 8765 triệu đồng. Nợ quá hạn VNĐ phát sinh và thu hồi 
được ngay trong năm chủ yếu là của công ty xây dựng vay vốn ngắn hạn để mua 
nguyên vật liệu thi công công trình nhưng chưa trả được nợ cho Ngân hàng do 
công trình được thanh toán chậm so với kế hoạch như Tổng công ty thương mại và 
xây dựng, công ty Xây lắp... số nợ quá hạn ngoại tệ phát sinh và thu hồi ngay trong 
năm là của các doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ nhập nguyên vật liệu, máy móc, thiết 
bị nhưng do gặp khó khăn tạm thời trong khâu tiêu thụ nên chậm thu hồi vốn trả nợ 
cho Ngân hàng ví dụ như công ty may 40, công ty kẹo.... 
 Nợ quá hạn phát sinh năm 2004 và tồn đọng đến cuối năm chưa thu hồi được 
là 1987 triệu đồng bao gồm 58764 USD (tương đương 824 triệu đồng) và 1163 triệu 
VND. 
 Trong năm 2004 Ngân hàng không phải chịu một khoản rủi ro nào gây ra các 
khoản nợ khó đòi, số nợ khó đòi của Ngân hàng là do số nợ tồn đọng từ năm 2003 
chưa sử lý hết vào khoảng 7629 triệu đồng. 
 Như vậy, đến cuối năm 2004 tổng số nợ quá hạn của NHCT Đống Đa là 
9616 triệu đồng được phân chia theo khả năng thu hồi cụ thể như 
sau: 
+ Nợ quá hạn dưới 6 tháng gồm: 408 triệu đồng của công ty Đại Việt, công ty 
Hoàng Anh 690 triệu đồng và 638 triệu đồng của anh Nguyễn Văn Huy. 
+ Nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng gồm: hai khách hàng Phạm Quang Thiều vầ Cung 
Hồng Quân là 167 triệu đồng và 84 triệu đồng. 
+ Nợ quá hạn trên 12 tháng: đây là số nợ quá hạn khó đòi chiếm 79% tổng số nợ 
quá hạn của NHCT Đống Đa. Ngân hàng đã có nhiều biện pháp để thu khoản nợ 
này cần tiếp tục phát huy để giải quyết dứt điểm số nợ dây dưa lâu ngày. 
2. Phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro tại NHCT Đống Đa. 
Bảng 11: Tình hình nợ quá hạn của NHCT Đống Đa, phân tích theo nguyên nhân. 
Chỉ tiêu 31/12/2003 31/12/2004 
Tổng số nợ quá hạn 
1. Nguyên nhân chủ quan 
- Về phía Ngân hàng 
- Về phía khách hàng vay 
Trong đó: 
+ Do kinh doanh thua lỗ phá sản 
+Do hàng hoá chập tiêu thụ 
+ Do sử dụng vốn sai mục đích 
+ Do cố ý lừa đảo 
+ Do công nợ chưa thu được 
+ Do nguyên nhân khác 129 
2. Do nguyên nhân khách quan 
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của NHCT Đống Đa 
2.1 Nguyên nhân về phía khách hàng 
2.1.1 Do kinh doanh thua lỗ, phá sản, hàng hóa chậm tiêu thụ: 
 Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nợ quá hạn tại NHCT Đống 
Đa.Nguyên nhân này bắt nguồn từ việc khách hàng chọn kinh doanh những mặt 
hàng ít có nhu cầu, ít có sức cạnh tranh. Hơn nữa trong quá trình điều hành sản xuất 
kinh doanh tỏ ra yếu kém về năng lực quản lý, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu 
dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao không 
đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu, không đủ sức cạnh tranh với hàng 
ngoại nhập vừa phong phú về mẫu mã, chủng loại, chất lượng tốt, giá cả hợp lý, do 
vậy hàng hóa khó tiêu thụ và thua lỗ là tất yếu không có tiền trả nợ Ngân hàng. 
Ví dụ như Công ty Đại Việt, do công ty nhập thiết bị trạm khắc đá nhưng do không 
tiêu thụ được nên việc kinh doanh bị thua lỗ và bị phá sản, để lại món nợ Ngân 
hàng. Còn Công ty Hoàng Anh cũng vay vốn của Ngân hàng để nhập dây truyền sản 
xuất thi công công trình ở Đài Loan nhưng công nghệ lạc hậu, sản xuất và tiêu thụ 
gặp khó khăn ,các đại lý chưa thanh toán tiền nên chưa có tiền trả nợ Ngân hàng. 
2.1.2 Do công nợ chưa thu được. 
 Nợ quá hạn do nguyên nhân này cũng khá lớn trong tổng số nợ quá hạn của 
NHCT Đống Đa. Đây chính là hiện tượng nợ nần dây dưa chiếm dụng vốn lẫn nhau 
đang diễn ra khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gây khó khăn cho việc trả nợ 
Ngân hàng. 
Ví dụ như Anh Phạm Quang Thiều Và anh Cung Hồng Quân đã vay vốn để kinh 
doanh thiết bị máy vi tính, ti vi..... Nhưng do nhập hàng kém chất lượng, hàng hoá 
lại không tiêu thụ được nên việc kinh doanh bị thua lỗ, do đó Ngân hàng chưa thu 
được nợ. 
2.1.3 Do sử dụng sai mục đích. 
 Nợ quá hạn bắt nguồn từ nguyên nhân này chủ yếu là từ thành phần kinh tế 
ngoài quốc doanh. Trong thực tế, Ngân hàng quản lý vốn vay của khu vực kinh tế 
ngoài quốc doanh khó hơn nhiều so với kinh tế quốc doanh bởi vì mua bán kinh 
doanh của khu vực này đặc biệt là các cá nhân kinh doanh thường không có chứng 
từ sổ sách ghi chép khoa học, đầy đủ theo chế độ kế toán hiện hành.Nhận thức được 
điều này và do hám lợi họ đã không đầu tư vào phương án kinh doanh đã trình 
Ngân hàng mà đầu tư vào những lĩnh vực khác có khả năng thu lợi nhuận cao 
nhưng mức độ rủi do rất lớn , do đó khi thua lỗ họ không có khả năng trả nợ Ngân 
hàng đúng hạn. Như của anh Nguyễn Văn Cung đã sử dụng vốn của Ngân hàng sai 
mục đích, tự buôn bán bất động sản, làm ăn không tốt nay đã bị thất thu nặng do đó 
vẫn chưa trả được nợ cho Ngân hàng. 
2.1.4 Do cố ý lừa đảo: 
 Trường hợp này ít khi xảy ra đối với NHCT Đống Đa. Trong những trường 
hợp đó khách hàng đã cố tình gian lận, làm giả mạo giấy tờ để che dấu sự yếu kém 
về năng lực kinh doanh hay lập nhiều bộ hồ sơ giấy tờ tài sản thế chấp để vay vốn 
nhiều ngân hàng, khi kinh doanh thua lỗ không có tiền trả nợ ngân hàng. Thậm chí 
có trường hợp khách hàng cố tình lừa ngân hàng để được vay vốn rổi bỏ trốn, 
những món nợ này ngân hàng chuyển sang khoản mục chờ nợ chờ sử lý. 
2.1.5 Do nguyên nhân khác. 
 Đó là những trường hợp khách hàng bị rủi ro khách quan như bị mất cáp, bị 
lừa đảo. Trong những trường hợp đó ngân hàng sẽ tăng cường giám sát, đôn đốc thu 
nợ hoặc sử lý tài sản thế chấp nếu khách hàng không trả được nợ. 
2.2 Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: 
2.2.1 Ngân hàng quá tin tưởng ở tài sản thế chấp: 
 Mặc dù nguyên tắc cho vay là phải có tài sản thế chấp song cán bộ tín dụng 
cũng không nên cứng nhắc quá trong điều kiện này. Có đơn vị sản xuất kinh doanh 
tốt thì có thể không cần tài sản thế chấp vẫn có thể cho vay được. Ngược lại có 
những khách hàng vay với tài sản thế chấp lớn vẫn làm ăn thua lỗ dẫn đến ngân 
hàng phải phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Nhưng việc bác các tài sản thế 
chấp để thu hồi lại vốn cho vay là không dễ dàng chút nào. Trên thực tế không phải 
bất cứ nhà đất nào cũng có đủ các giấy tờ về quyền sử dụng và quyền sở hữu hợp lệ. 
Theo thống kê cho thấy hiện có tới 80% nhà, đất tại các thành phố lớn chưa có đầy 
đủ các giấy tờ hợp lệ. Đó là chưa kể đến khi nhà, đất có giấy tờ hợp lệ thì còn phải 
xem xét đến giá trị, khả năng chuyển nhượng cũng như vị trí địa lý,.....Ngân hàng 
thường gặp khó khăn về giấy tờ sở hữu tài sản, về giá cả tài sản, về thời hạn bán sản 
phẩm thế chấp, chậm trễ trong việc thu hồi vốn. Có những tài sản thế chấp khi định 
gía cho vay thì đang ở thời điểm giá cao, đến khi phát mại bán đi giá bị hạ gây thua 
lỗ cho ngân hàng. Ngân hàng cần phải lựa chọn khách hàng thật kỹ lưỡng, nhất là 
trong giai đoạn hiện nay khi khách hàng ngày càng có nhiều mánh khoé lừa đảo tinh 
vi hơn. Họ có thể dùng một tài sản thế chấp để đi vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng 
gây lên thất thoát lớn cho không chỉ một ngân hàng mà cho cả ngành ngân hàng. 
2.2.2 Thông tin tín dụng không đầy đủ: 
 Thông tin tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu khi quyết định cho vay. 
Nhưng thực tế trước khi giải quyết cho vay các NHTM chưa được cung cấp đầy đủ 
và chính xác các thông tin cần thiết. Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng 
Nhà nước (CIC) và trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHCT Việt Nam (TPR) đã 
được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao do khả năng lắm bắt 
các thông tin có giới hạn và phụ thuộc nhiều vào các tổ chức tín dụng nên lượng 
thông tin cung cấp không đầy đủ và kịp thời. Hơn nữa, số lượng về tình hình tài 
chính của khách hàng hầu như không có do các doanh nghiệp thường quyêt toán 
chậm và chưa phải áp dụng chế độ kiểm toán bắt buộc nên số liệu nhiều khi không 
phản ánh chính xác tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Trước khi quyết định cho 
vay ngân hàng chưa nắm được đầy đủ thông tin về tình hình dư nợ tại các tổ chức 
tín dụng, quan hệ vay trả và khả năng tài chính... về khách hàng của mình nên quyết 
định cho vay thiếu đúng đắn, nhiều trường hợp khách hàng vay ngân hàng này để 
trả nợ ngân hàng khác và cuối cùng không có khả năng trả nợ ngân hàng. 
2.2.3 Cán bộ tín dụng thiếu trình độ: 
 Trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế, phân tích, thẩm định dự án kém 
nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án. Hoặc do 
không phân tích đầy đủ khả năng quan lý kinh doanh, báo cáo tài chính một cách 
chính xác nên không biết năng lực thực sự của khách hàng, khi họ kinh doanh thua 
lỗ sẽ kéo ngân hàng vào cuộc cùng hứng chịu tổn thất. 
 Kiến thức về xã hội, về thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế cũng gây 
cho món vay có khả năng bị rủi ro, vì trong nhiều trường hợp khách hàng đã không 
nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng, không phân tích được cung, cầu của thị 
trường dẫn đến mặt hàng kinh doanh bị ứ đọng, cán bộ tín dụng là người có kiến 
thức, có kinh nghiệm sẽ phân tích tôt tình hình thị trường, giá cả, cung, cầu, hiểu 
biết và có kinh nghiệm sẽ tư vấn cho khách hàng tránh được thiệt hại trong kinh 
doanh, tiền vay của ngân hàng mới tránh được rủi ro. 
2.2.4 Cán bộ tín dụng làm sai quy trình tín dụng, thông đồng với khách hàng. 
 Đây là vấn đề về đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. 
Do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc có những quan hệ cá nhân mà các cán bộ tín 
dụng đã thông đồng với khách hàng, làm sai các công đoạn của quy trình tín dụng 
như: cho vay các dự án quá mạo hiểm, khách hàng không đủ điều kiện về tài sản thế 
chấp, khách hàng không đủ năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh vì 
thế khi các khoản tín dụng có biểu hiện tiêu cực thì không có biện pháp để thu hồi 
vốn. 
 Trong thời gian qua, những vụ việc như thế cũng xảy ra tại NHCT Đống Đa 
nhưng không nhiều và ban lãnh đạo đã có những biện pháp xử lý kịp thời để trấn 
chỉnh và nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ tín dụng trong đơn vị mình. 
2.3 Nguyên nhân do môi trường cho vay 
2.3.1 Môi trường kinh tế không ổn định: 
 Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường nền kinh tế Việt Nam nói chung và 
trên địa bàn Hà Nội nói riêng đã đạt được mức tăng trưởng khá, nhưng kết quả này 
chưa vững chắc còn chứa đụng nhiều yếu tố không ổn định: Khi khan hiếm hàng 
hoá dẫn đến những cơn sốt giá cả đột biến, lúc ứ động dẫn đến sản xuất kinh doanh 
đình đốn. 
 Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi 
mới và hoàn thiện nên chưa thật ổn định. Các doanh nghiệp phải chuyển hướng sản 
xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế chính sách vĩ mô. Từ đó 
dẫn đến kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng. 
 Lĩnh vực xuất nhập khẩu mặc dù được nhà nước chú trọng quản lý nhưng 
thực tế vẫn phức tạp, cán cân thương mại quốc tế thường xuyên bị thâm hụt, tình 
trạng nhập siêu kéo dài với mức độ ngày càng cao dẫn đến sản xuất trong nước gặp 
khó khăn, mất cân đối cung cầu, rối loạn giá cả. 
 Hầu hết các doanh nghiệp đều nghèo nàn về vốn, yếu kém về khả năng quản 
lý, điều hành, tầm suy nghĩ, cung cấp làm ăn còn mang nặng tư tưởng thời bao 
cấp,chưa đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu thị trường. Nạn hàng giả, hàng nhập 
lậu chưa được ngăn chặn tốt, gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất trong nước. 
 Sự ra đời hàng loạt các công ty TNHH , các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 
trong khi chưa có một sự quản lý, giám sát chặt chẽ nên nhiều doanh nghiệp là 
những công ty ma, kinh doanh buôn bán lòng vòng, hoạt động bất hợp pháp làm ảnh 
hưởng không tốt tới môi trường tín dụng của Ngân hàng. 
 Trong vài năm gần đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 
khu vực, tình hình kinh tế xã hội có nhiều diễn biến phức tạp.Hiện tượng thiểu phát 
diễn biến liên tục trong nhiều tháng liền, sức mua của thị trường giảm sút, khả năng 
tiêu thụ hàng hoá rất chậm, đặc biệt là tình hìn khan hiếm ngoại tệ và sự biến động 
của tỷ giá hối đoái đã làm cho sản xuất kinh doanh trong nước không ổn định ảnh 
hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và của bản thân Ngân hàng. 
2.3.2 Môi trường pháp lý không thuận lợi: 
 Hệ thống pháp luật được ban hành không đồng bộ và chưa phù hợp với yêu 
cầu của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật của nước ta tuy đã có nhiều chuyển biến 
tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, vừa 
thiêú lại vừa không đồng bộ, thậm chí còn có những điểm chồng chéo mâu thuẫn 
giữa các văn bản luật và dưới luật.Do điều kiện pháp lý như vậy, việc thực hiện quy 
chế tín dụng cũng có nhiều khó khăn, vướng mắc. 
+ Việc ban hành các văn bản tín dụng về cấp độ còn chưa phù hợp dẫn đến có sự 
chồng chéo trùng lặp nên hướng dẫn,tổ chức thực hiện gặp khó khăn. 
+ Các văn bản, chế độ tín dụng hiện tại đã được sửa đổi, bổ sung thường xuyên để 
tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng, nhưng điều kiện thực tế còn bất cập 
nên thực hiện còn gặp nhiều khó khăn. 
 Về quy định vốn cho vay của Ngân hàng chỉ là phần vốn bổ sung thêm, còn 
doanh nghiệp phải có một tỷ lệ vốn tự có để tham gia vào các hoạt động sản xuất 
kinh doanh nhưng thực tế vốn của doanh nghiệp thường rất ít ỏi, phần lớn vốn hoạt 
động là vốn vay Ngân hàng hoặc đi chiếm dụng trong quá trình sản xuất kinh 
doanh, có trường hợp Ngân hàng cho vay gấp nhiều lần vốn tự có của doanh nghiệp 
nên khả năng rủi ro rất cao khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh. 
 Về chế độ hạch toán thống kê: Việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê 
chưa nghiêm túc. Doanh nghiệp chưa phải thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc nên 
nhiều trường hợp số liệu quyết toán không phản ánh chính xác tình hình sản xuất 
kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc 
doanh như các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân thì hầu hết không ghi chép 
hoặc ghi chép theo kiểu sổ chợ không theo quy định của Nhà nước để trốn thuế gây 
ảnh hưởng không tốt tới kết quả thẩm định và quyết định đầu tư vốn của Ngân 
hàng. 
 Về tài sản thế chấp: Quy chế thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản vốn vay 
Ngân hàng ra đời là một thay đổi lớn giúp Ngân hàng có thêm một công cụ để đảm 
bảo tín dụng, nhưng quá trình thực hiện quá phức tạp, đặc biệt khi phải xử dụng tài 
sản thế chấp. 
 Quy định về cấp chứng thư sở hữu đối với bất động sản chưa thống nhất, có 
quá nhiều loại giấy tờ về quyền sở hữu đối với bất động sản. Trên địa bàn Hà Nội, 
có đến 80% các loại bất động sản chưa được cấp chứng thư sở hữu hoặc giấy tờ 
không đầy đủ mà chủ yếu là mua bán viết tay, có những tài sản lại được cấp tới mấy 
bản chứng thư sở hữu. 
 Nhà nước chưa ban hành quy chế về quyền sở hữu bất động sản và chưa có 
cơ quan nào có đầy đủ khả năng và thẩm quyền để nhận đăng ký tài sản thế chấp, 
phát mại tài sản. Thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp còn nhiều vướng mắc, đặc 
biệt thế chấp quyền sử dụng đất. 
 Việc thực hiện pháp luật của các chủ thể kinh doanh không nghiêm, cơ chế 
bảo đảm thực thi pháp luật kém hiệu lực. Tình trạng phổ biến hiện nay là các doanh 
nghiệp vi phạm pháp luật ở những mức độ khác nhau. Đặc biệt là pháp lệnh về hợp 
đồng kinh tế không được coi trọng , việc ký và thực hiện hợp đồng không nghiêm 
túc, có trường hợp ký hợp đồng giả để lừa đảo vay tiền Ngân hàng. Pháp lệnh về kế 
toán thống kê cũng không được thực hiện, nhiều doanh nghiệp mà chủ yếu là doanh 
nghiệp tư nhân không thực hiện chế độ báo cáo thống kê, số liệu hạch toán không 
trung thực, chính xác. 
 Thực tế đó đòi hỏi cơ chế vận hành pháp luật phải thực hiện đồng bộ và 
thống nhất từ việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thời gian qua, Nhà nước rất chú 
trọng ban hành các bộ luật nhưng việc thực hiện giám sát chưa đi vào cuộc sống vì 
chưa có một bộ máy đủ năng lực chuyên môn để thực hiện, thậm chí còn nhiều cán 
bộ thi hành pháp luật có biểu hiện thoái hoá, biến chất gây chậm chễ, rắc rối trong 
quá trình thực hiện làm mất lòng tin của nhân dân. 
3. Công tác xử lý rủi ro ở NHCT Đống Đa. 
 Khi nợ quá hạn phát sinh, căn cứ vào khả năng thu hồi ngân hàng tiến hành 
phân chia các khoản nợ này thành nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn 
không có khả năng thu hồi để có biện pháp xử lý thích hợp. 
3.1 Đối với các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi: 
 Ngân hàng đã thường xuyên chỉ đạo cán bộ tín dụng bám sát đơn vị để tìm 
hiều nguyên nhân, kịp thời cùng đơn vị tháo gỡ khó khăn. Nếu nợ quá hạn phát sinh 
do bên mua chậm thanh toán thì hướng giải quyết có thể từ phía đối tác của khách 
hàng.Nếu do nguyên nhân sản phẩm hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ thì yêu cầu 
đơn vị nên hạ giá bán sản phẩm,phát triển màng lưới tiêu thụ, tăng cường chiến dịch 
quảng cáo... Đồng thời phải nghiên cứu lại việc sản xuất để thay đổi mẫu mã,chất 
lượng, chủng loại hàng hoá, giảm giá thành sản phẩm. Nếu do công nợ chưa thu 
được thì ngân hàng cũng đôn đốc các đơn vị tìm biện pháp thu hồi nhanh chóng để 
trả nợ Ngân hàng.Ngân hàng cũng chú trọng tìm các nguồn trả nợ khác của doanh 
nghiệp như tiền cho thuê nhà, tiền đền bù đất... để có thể hoàn trả nợ nhanh 
nhất.Nếu do doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích thì có biện pháp thu hồi ngay 
vốn cho vay. 
 Ngân hàng cũng tích cực làm việc với Bộ tài chính và các Bộ chủ quảm khác 
để tìm các giải pháp giúp đỡ khách hàng có điều kiện trả nợ Ngân hàng nhanh nhất 
như:Xin giảm thuế, bổ sung vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp tiếp tục hoạt động kinh 
doanh, phục hồi sản xuất có khả năng trả nợ Ngân hàng. 
 Các biện pháp kịp thời của Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó 
khăn ban đầu về tài chính tiếp tục tập trung cho sản xuất kinh doanh để tạo trả nợ 
Ngân hàng. 
3.2 Đối với những món nợ không có khả năng thu hồi: 
 Những món nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không có khả 
năng thu hồi Ngân hàng đã gửi hồ sơ sang cơ quan pháp luật nhờ xử lý, đồng thời 
phố hợp với các nghành, các cấp có thẩm quyền để thu hồi các món nợ có tài sản 
thế chấp. Đối với những món nợ không có tài sản thế chấp của DNNN, Ngân hàng 
đưa vụ việc ra Toà án chờ xử lý. 
 Trong năm 2004, NHCT Đống Đa đã phối hợp với Toà án , UBND các cấp 
và cơ quan chức năng khác để xử lý các món nợ khó thu hồi thu được tổng số 4.986 
triệu đồng để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh. 
 Đồng thời, NHCT Đống Đa cũng chuyển các món nợ quá hạn có vấn đề sang 
khoản mục nợ khoanh, 1.957 triệu đồng là các khoản nợ chờ xử lý làm giảm số nợ 
quá hạn của Ngân hàng. 
 Thực hiện quyết định số 154/QĐ - HĐQT-NHCT4 ngày 27/11/98 của NHCT 
Việt Nam về việc ban hành quy chế miễn giảm lãi vay đối với khách hàng vay vốn 
NHCT theo đúng nguyên tắc ghi trong quy chế là chỉ xét miễn giảm cho những 
khách hàng có khó khăn về tài chính do nguyên nhân khách quan do các trường hợp 
bất khả kháng mà pháp luật quy định. Trong năm 2002, NHCT Đống Đa đã xét 
miễn giảm lãi cho 10 khách hàng với tổng số lãi miễn giảm là 670 triệu đồng. Số 
khách hàng này có các khoản nợ đã được khoanh và các khoản nợ trên 12 tháng mà 
đơn vị kinh doanh thua lỗ không còn khả năng trả nợ Ngân hàng. 
4. Một số biện pháp NHCT Đống Đa đã đang thực hiện nhằm hạn chế rủi ro tín 
dụng: 
4.1 Điều chỉnh phương hướng đầu tư tín dụng hợp lý 
 Từ năm 1993, với sự chuyển đổi mô hình từ ba cấp lên hai cấp của NHCT 
Việt Nam bỏ qua cấp trung gian là Ngân hàng Thành phố đã đem đến sự độc lập tự 
chủ trong kinh doanh, kích thích việc phát triển hoạt động tín dụng của các Chi 
nhánh. Song cùng với những tác động tích cực, sự mở rộng tín dụng một cách 
nhanh chóng trong khi Ngân hàng còn thiếu nhiều kinh nghiệm đã gây ra hậu quả là 
chất lượng tín dụng giảm sút, nợ quá hạn và lãi treo phát sinh tăng dần trong các 
năm sau, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trước tình hình đó, NHCT 
Đống Đa đã kịp thời điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư tín dụng, t
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Đảm bảo tín dụng của chính phủ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng hiện đại.pdf